Nhà Nước Và Pháp Luật Việt Nam - Pháp luật đại cương | Đại học Tôn Đức Thắng

Trong quá trình hình thành và phát triển của mỗi quốc gia đều có sự tồn tại của Nhà nước và pháp luật. Nhà nước và pháp luật xuất hiện, tồn tại vàcó tác động qua lại, có mối quan hệ gắn bó với nhau không tách rời. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Li M Đu V Nh Nưc V Php Lut
Vit Nam
Trong quá trình hình thành và phát triển của mỗi quốc gia đều có sự tồn
tại của Nhà nước và pháp luật. Nhà nước và pháp luật xuất hiện, tồn tại và
có tác động qua lại, có mối quan hệ gắn bó với nhau không tách rời. Có
thể nói, Nhà nước không thể tồn tại nếu không có pháp luật và ngược lại,
pháp luật được ra đời cùng với sự ra đời của chế độ tư hữu và cuộc đấu
tranh giai cấp ở mức độ không thể điều hòa được. Trên cơ sở đó pháp luật
ra đời là kết quả của sự thừa nhận các quy phạm xã hội, các tiền lệ cũng
như việc ban hành các quy tắc xử sự mới.
Trải qua quá trình đấu tranh của dân tộc với nhiều cuộc cách mạng, nước
ta đã quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Từ
một nhà nước thuộc địa nửa phong kiến, với nền nông nghiệp lạc hậu, lực
lượng sản xuất thấp, cũng như những hậu quả nặng nề để lại bởi hàng
chục năm chiến tranh. Ngoài ra, với những tàn dư để lại hết sức nặng nề
của chế độ thực dân, phong kiến, cũng như các thế lực thù địch thường
xuyên tìm cách xâm chiếm nhằm mục đích phá hoại chế độ xã hội chủ
nghĩa và nền độc lập dân tộc của Tổ quốc. Vì vậy, xác định đúng vị trí, vai
trò cũng như sự ảnh hưởng của Nhà nước và pháp luật đối với công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay là
hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, làm động lực thúc đẩy xã hội
phát triển, xây dựng và hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa, cũng
như thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của Nhà nước đã đề ra.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả của quá trình xây dựng Nhà nước và
pháp luật mang lại; trong những năm qua quá trình xây dựng, phát triển
nhà nước và pháp luật của nước ta cũng gặp phải những khó khăn, thách
thức nhất định như việc một bộ phận nhân dân chưa nắm rõ vai trò, vị trí,
tầm quan trọng của Nhà nước và pháp luật; một số chính sách trong quá
trình đổi mới áp dụng vẫn còn chưa phù hợp. Mặt khác, sự tấn công chống
phá của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ dân tộc, làm suy yếu khối đại
đoàn kết toàn dân cũng ít nhiều ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng Nhà
nước và pháp luật ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, để góp phần nâng cao
nhận thức hành động của mỗi người dân, cũng như nhằm mục đích hiểu rõ
hơn về sự ra đời, xây dựng và phát triển của Nhà nước và pháp luật ở nước
ta; qua đó thấy được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của quá trình xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng làm cơ sở
góp phần hoàn thiện các chính sách của nhà nước và pháp luật, từ đó đưa
ra những phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng, phát triển Nhà nước
và pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Với những lý do nêu trên,
em chọn đề tài: “Nh nưc v php lut Vit Nam giai đoạn từ năm
1945 đến năm 1986” làm tiểu luận kết thúc môn học pháp luật đại
cương của mình.
Chương 1 : Cơ S L0 Lun V Nh Nưc
V Php Lut
Nhận thức chung về Nhà nước
Khái niệm Nhà nước
Ngay từ thời kỳ cổ đại, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những luận điểm
khác nhau về khái niệm nhà nước. Trong thời kì cổ đại nhà tư tưởng
Aristote cho rằng nhà nước thực chất là sự kết hợp của các gia đình. Sau
đó nhiều nhà tư tưởng khác cũng đưa ra các quan điểm khi cho rằng nhà
nước là sự liên kết của nhiều người phục tùng pháp luật. Khi nghiên cứu
nguồn gốc của nhà nước Ăngghen đã đưa ra một số quan niệm, theo Ông
nhà nước là sản phẩm của sự phát triển khi xã hội đó đã phát triển đến
một giai đoạn nhất định, có sự phân chia thành các giai cấp và mâu thuẫn
giai cấp là không thể điều hoà được, nhà nước được ra đời và nảy sinh từ
xã hội có nhiệm vụ trong việc làm dịu bớt sự xung đột và đảm bảo cho sự
xung đột đó trong trật tự nhất định. Trên cơ sở quan điểm của Ăngghen,
Lênin nghiên cứu và đưa ra quan điểm nhấn mạnh vai trò của nhà nước
trong việc duy trì sự thống trị giai cấp, theo Lênin Nhà nước thực chất là
bộ máy được tách ra từ xã hội bao gồm một nhóm người chuyên làm công
việc cai trị, nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp
khác.
Qua đó có thể thấy rằng, thực tiễn đã đưa ra nhiều cách tiếp cận khác
nhau về khái niệm nhà nước, trong mỗi cách tiếp cận đều xây dựng nên
một khái niệm nhà nước với ý nghĩa riêng của nó, nhằm đáp ứng các yêu
cầu, nhiệm vụ, cũng như phục vụ mục tiêu nghiên cứu riêng. Điều này cho
thấy khái niệm nhà nước là một phạm trù đa dạng, phức tạp, có nội hàm
phong phú, mang tính thực tiễn cao. Nhà nước là một bộ phận của xã hội,
là một hình thức tổ chức của con người cho nên nhà nước không đồng
nhất với xã hội. Nhà nước được tạo ra để quản lí, điều hành mọi hoạt động
của xã hội trong đó bao gồm những người không trực tiếp tham gia vào
hoạt động sản xuất. Chính vì vậy để nhằm mục đích duy trì nền an ninh
trật tự của đất nước, bảo vệ người dân trước thiên tai dịch bệnh, phòng
chống ngoại xâm, bảo vệ các lợi ích chung của xã hội cộng đồng sự ra đời,
tồn tại và phát triển của nhà nước trong xã hội là tất yếu.
Mặt khác, trên thực tế Nhà nước cũng không hoàn toàn đồng nhất với
quốc gia, mà chỉ là một trong ba yếu tố cấu thành của một quốc gia.
Chính vì vậy nhà nước hoàn toàn độc lập trong quá trình hoạt động của
mình, nhưng có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm điều chỉnh các thiết chế
của một quốc gia. Theo giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật, khái
niệm về Nhà nước được hiểu như sau: “Nhà nước là một tổ chức đặc biệt
của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và
thực hiện chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện
mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp”.
Các kiểu Nhà nước
Trên thực tế Nhà nước ra đời cũng kéo theo các kiểu Nhà nước khác nhau
hình thành, mỗi nhà nước thường tương ứng với một kiểu nhà nước cụ thể.
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng kiểu nhà nước bao gồm
những đặc điểm riêng cơ bản, mang tính đặc trưng của nhà nước, được
thể hiện rõ nhất ở bản chất giai cấp cũng như những điều kiện tồn tại và
phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Các hình thái kinh tế xã hội ra đời trong lịch sử xã hội có giai cấp, kéo theo
đó là sự tồn tại bốn hình thái kinh tế xã hội bao gồm hình thái chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Tương ứng với
bốn hình thái này là bốn kiểu nhà nước đó là kiểu nhà nước chủ nô, kiểu
nhà nước phong kiến, kiểu nhà nước tư sản và kiểu nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Trong đó, ba kiểu nhà nước (chủ nô, phong kiến, tư sản) có những
đặc điểm chung đó là xây dựng nhằm mục đích bóc lột về tư liệu sản xuất
của chế độ tư hữu, nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp bóc lột đối với
đại bộ phận quần chúng nhân dân là giai cấp bị bóc lột. Riêng Nhà nước
xã hội chủ nghĩa về bản chất có đặc điểm khác với ba kiểu nhà nước trước
đó. Nhiệm vụ chính của nhà nước xã hội chủ nghĩa là việc thực hiện công
bằng xã hội, phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến
tới xây dựng xã hội dân chủ và văn minh.
Như vậy có thể thấy Nhà nước mới ra đời trên cơ sở kế thừa những thành
quả của nhà nước cũ nhưng đồng thời thể hiện rõ những ưu việt của mình
trong quá trình hình thành và phát triển, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cũng
như phù hợp với quy luật thực tiễn đặt ra là một tất yếu của xã hội. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời là thành quả của quá trình đấu
tranh cách mạng, với kết quả giai cấp cầm quyền cũ bị lật đổ và thay vào
đó là giai cấp thống trị mới. Trên cơ sở đó có thể khẳng định sự ra đời Nhà
nước xã hội chủ nghĩa của các nước trên thế giới nói chung và ở Việt Nam
nói riêng có vai trò quan trọng, góp phần hình thành nên xã hội mới với
kiểu nhà nước mới tiến bộ nhất trong lịch sử.
1.2. Nhận thức chung về pháp luật
1.2.1. Khái niệm pháp luật
Pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước, trong đó quy định rõ
những đặc điểm, bản chất, nguồn gốc, vai trò, phạm vi điều chỉnh theo
từng thời gian, giai đoạn là khác nhau. Trong đó pháp luật xã hội chủ nghĩa
ra đời có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, là kiểu pháp luật mới
có bản chất khác với bản chất của các kiểu pháp luật trước đó với hệ
thống các quy tắc xử sự mang tính thống nhất nội tại cao.
Ở nước ta, pháp luật ra đời gắn với sự ra đời của Nhà nước, pháp luật luôn
phản ánh các đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước. Thông qua pháp
luật các đường lối, chính sách của Nhà nước được thể chế hoá thành các
quy định chung thống nhất trên toàn xã hội. Pháp luật là công cụ quan
trọng, là môi trường pháp lý thực tiễn để kiểm nghiệm tính đúng đắn, hiệu
quả trong thực hiện các đường lối, chính sách và quan điểm của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước ta đã nhanh chóng xây dựng một hệ
thống pháp luật riêng nhằm quản lý, theo dõi, kịp thời điều chỉnh các quan
hệ xã hội trong điều kiện mới. Trên cơ sở đó có thể hiểu rằng pháp luật là
hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị trong xã hội và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1.2.2. Các kiểu pháp luật
Cũng giống như Nhà nước, kiểu pháp luật ra đời và tồn tại nhằm thể hiện
tổng thể những đặc điểm cơ bản nhất, mang tính đặc thù của pháp luật;
qua đó thể hiện bản chất giai cấp, những điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển của pháp luật dưới một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Tương ứng với Nhà nước, trong lịch sử đã tồn tại bốn kiểu pháp luật bao
gồm: Kiểu pháp luật chủ nô, kiểu pháp luật phong kiến, kiểu pháp luật tư
sản và kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa. Cũng giống như Nhà nước, ba kiểu
pháp luật chủ nô, phong kiến và tư sản là những kiểu pháp luật được xây
dựng nhằm mục đích cũng cố, bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất,
nhằm bảo đảm về mặt pháp lý cho giai cấp thống trị trong việc áp đặt,
bóc lột, duy trì tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. Riêng pháp luật xã
hội chủ nghĩa mang tính ưu việt nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân lao
động, được xây dựng trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhằm tiến tới
xây dựng một xã hội mới trong đó mọi người đều bình đẳng và tự do.
Pháp luật Việt Nam ra đời trải qua nhiều thay đổi và ngày càng hoàn thiện
nhằm phát huy cao nhất vai trò của mình, đồng thời là công cụ sắc bén
trong quản lý nhà nước.
1.3. Mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật
Tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị chính là Nhà nước, nhưng quyền
lực đó chỉ có thể có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Ngược lại pháp luật
là hệ thống các quy tắc xử sự ra đời do nhà nước ban hành, chính vì vậy
luôn phản ánh những quan điểm và đường lối chính trị của nhà nước và
bảo đảm cho quyền lực đó được triển khai rộng khắp. Qua đó có thể thấy
Nhà nước và pháp luật có mối quan hệ gắn kết không thể tách rời, sự ràng
buộc, đan xen, thúc đẩy và cùng phát triển. Vì vậy, không thể nói nhà
nước đứng trên pháp luật hay pháp luật đứng trên nhà nước.
Ở nước ta Nhà nước và pháp luật ra đời và có quan hệ chặt chẽ, thống
nhất với nhau. Nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ và thực thi pháp luật,
xây dựng một bộ máy cưỡng chế nhằm đảm bảo pháp luật được thực thi
có hiệu quả. Ngược lại pháp luật được nhà nước ban hành, truyền bá phổ
biến tới mọi cơ quan, tổ chức, công dân thông qua các hệ thống cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, vì vậy có ảnh hưởng và tác động điều chỉnh các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chương 2 : Th3c Ti4n Nh Nưc VPhp
Lut Vit Nam
2.1. Tổng quan về Nhà nước và pháp luật Việt Nam
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, lịch sử
Năm 1945 nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời. Đây được xem là điều
kiện quan trọng giúp nước ta bước vào giai đoạn mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước, chúng ta liên tiếp đạt được nhiều thành
tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 9 năm từ 1945 đến 1954, kết
thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneve về Việt Nam
năm 1954. Bước vào giai đoạn sau 1954 đất nước bị chia cắt làm hai miền
với hai nhiệm vụ khác nhau cũng kéo theo điều kiện lịch sử khác nhau.
Trong đó, miền Nam tiếp tục con đường đấu tranh giành độc lập, còn miền
Bắc với điều kiện lịch sử thuận lợi hơn, tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy dù trải qua những điều kiện lịch sử khác nhau, nhưng bằng tinh
thần yêu nước, ý chí quật cường của nhân dân ta, cuối cùng cách mạng
cũng đi đến toàn thắng, mở ra trang lịch sử mới với chiến thắng mùa xuân
năm 1975. Từ đây, cả nước cùng tiến lên xây dựng xã hội mới với những
điều kiện, hoàn cảnh mới, với nhiều khó khăn, thử thách và đạt được
những kết quả đáng tự hào trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
2.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội
Sau khi cách mạng tháng tám thành công, chính quyền non trẻ mới thành
lập đã phải đối mặt với hàng loạt khó khăn thử thách bởi giặc đói, giặc
dốt, giặc ngoại xâm. Ở giai đoạn này kinh tế nông thôn và sản xuất nông
nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng, Chính phủ thực hiện các chính sách
mới về ruộng đất như giảm tô, giảm tức. Nhờ vậy, trong các vùng giải
phóng, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lương thực tăng cao.
Công nghiệp và thủ công nghiệp cũng đặc biệt được chú trọng, góp phần
không nhỏ đáp ứng nhu cầu chiến đấu và tiêu dùng.
Sau năm 1954 đất nước bước vào thời kỳ mới, với nhiệm vụ miền Bắc quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Trong giai đoạn này Đảng và Nhà nước đề ra nhiều chủ
trương, chính sách trên các lĩnh vực, miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến
đấu, vừa làm tròn nghĩa vụ hậu phương vững chắc cho miền Nam tiếp tục
kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Nhờ vậy nền kinh tế được phát triển,
đời sống nhân dân được nâng lên, các lĩnh vực trong đời sống xã hội đều
có những bước tiến vượt bậc, góp phần quan trọng xây dựng và bảo vệ
thành quả cách mạng, cũng như làm hậu phương cho miền Nam.
Đến năm 1975 với thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân
năm 1975, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Sau khi miền
Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cách mạng Việt
Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Trong giai đoạn này chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên
lĩnh vực kinh tế trong việc khôi phục lại các cơ sở sản xuất công nghiệp,
nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở
miền Nam bị chiến tranh tàn phá; từng bước đưa nền kinh tế xã hội lên
một tầm cao mới với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi
cả nước.
2.2. Thực trạng Nhà nước và pháp luật Việt Nam từ 1945 đến 1986
Để hiểu rõ hơn về quá trình xây dựng, phát triển của Nhà nước và pháp
luật Việt Nam có thể chia ra các giai đoạn như sau:
2.3. Đánh giá thực trạng
2.3.1. Những ưu điểm
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế
2.3.3. Nguyên nhân
Những hạn chế, yếu kém nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ
quan và khách quan cơ bản sau đây:
– Đất nước chịu tổn thất nặng nề bởi chiến tranh phá hoại, làm suy tàn và
ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, một yếu tố quan trọng trong
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật của nhà nước.
– Chủ trương đổi mới và kiện toàn bộ máy thực hiện không đồng bộ, thiếu
những giải pháp cụ thể, chưa kiên quyết, kịp thời, hiệu quả nhằm đổi mới
tổ chức, nâng cao năng lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước và hệ thống cơ
quan thực thi pháp luật.
Chương 3 : Phương Hưng , Gi9i Php Xây
D3ng Nh Nưc V Php Lut Vit Nam
3.1. Phương hướng
Có thể thấy, trải qua 30 năm xây dựng, hình thành và phát triển, mặc dù
đối mặt với không ít khó khăn, thử thách. Tuy nhiên, quá trình xây dựng
Nhà nước và pháp luật ở nước ta đã đạt được những thành công rực rỡ.
Những thành tựu đã đạt được của Nhà nước ta trong thời gian qua là ví dụ
điển hình nhất của đổi mới. Trong thời gian tới, nhằm hoàn thiện hơn nữa
bộ máy nhà nước cũng như các thể chế, chính sách, quy phạm pháp luật
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn đòi hỏi
chúng ta phải đề ra các giải pháp cụ thể, mang tính chiến lược lâu dài
nhằm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu mới.
3.1.1. Tiếp tục quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với
công tác xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trải qua các kỳ đại hội Đảng,
mục tiêu Nhà nước hướng tới nhằm tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng
tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Qua đó đặt ra yêu cầu trong tổ chức
và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên
tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao
hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp,
hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính
trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn
hóa, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.
Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng một lần nữa khẳng định, tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc
pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà
nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất,
khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới
sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.
3.1.2. Quán triệt và triển khai rộng rãi các quy định pháp luật của Đảng và
Nhà nước nhằm đưa pháp luật đi vào thực tiễn đời sống xã hội
Phương hướng trong thời gian tới là tiếp tục xây dựng và đổi mới mạnh mẽ
tư duy pháp lý, đưa ra các phương án phù hợp, sâu sát và sáng tạo trong
thực tiễn; tạo điều kiện tốt nhất sớm xây dựng được hệ thống pháp luật
đáp ứng các tiêu chuẩn của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa theo hướng tinh gọn, hiện đại, qua đó góp phần củng cố nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật ấy phải thể hiện được tính hệ
thống, giá trị công bằng xã hội, phản ánh đúng nhu cầu, nguyện vọng của
đại bộ phận nhân dân, đáp ứng đòi hỏi của tiến trình phát triển trong điều
kiện mới với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Đó phải là một hệ thống
pháp luật có đầy đủ các thuộc tính, thống nhất, đồng bộ, khả thi, công
khai, minh bạch, ổn định và dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ thấp nhất. Hệ
thống ấy không chỉ là công cụ hữu hiệu để nhà nước quản lý xã hội mà
còn phải là chỗ dựa vững chắc để nhân dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình đồng thời là công cụ hữu hiệu để nhân dân kiểm tra, giám
sát việc thực thi quyền lực nhà nước.
3.2. Giải pháp
Một số giải pháp đưa ra nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
và pháp luật trong thời gian tới:
3.2.1. Tiếp tục bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa
3.2.2. Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước
3.2.3. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
3.2.4. Hợp tác quốc tế
KẾT LUẬN ĐB TCI NHC NƯFC VC PHGP
LUẬT
Như vậy có thể thấy rằng, trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử dân tộc,
Nhà nước và pháp luật luôn có vai trò hết sức quan trọng, là cơ sở hình
thành nên một xã hội với những đặc điểm riêng biệt của nó. Trong đó,
pháp luật là do nhà nước ban hành, phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp
thống trị, đồng thời pháp luật cũng được đặt ra để điều chỉnh các quan hệ
xã hội. Chính vì vậy, Nhà nước và pháp luật luôn đồng hành không thể
tách rời, khi có Nhà nước ắt sẽ xuất hiện pháp luật và ngược lại. Ở nước
ta, với những thắng lợi to lớn từ hai cuộc kháng chiến chống thực dân
pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân ta càng thấm thía hơn về ý nghĩa của tự do
và độc lập. Vì vậy, việc lựa chọn con đường xây dựng Nhà nước và pháp
luật xã hội chủ nghĩa là lựa chọn hoàn toàn đúng đắn và tất yếu, trong đó
khẳng định Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lợi đều nhằm phục vụ nhân dân.
Đây là con đường cần thiết và phù hợp nhằm khẳng định sự lãnh đạo và
lựa chọn sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta. Qua đó, vai trò của pháp
luật cũng được khẳng định. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật phù
hợp với những bước đi kinh tế của nước ta có ý nghĩa quyết định trong
công cuộc xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh, hiện đại với một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
| 1/8

Preview text:

Li M Đu V Nh Nưc V Php Lut Vit Nam
Trong quá trình hình thành và phát triển của mỗi quốc gia đều có sự tồn
tại của Nhà nước và pháp luật. Nhà nước và pháp luật xuất hiện, tồn tại và
có tác động qua lại, có mối quan hệ gắn bó với nhau không tách rời. Có
thể nói, Nhà nước không thể tồn tại nếu không có pháp luật và ngược lại,
pháp luật được ra đời cùng với sự ra đời của chế độ tư hữu và cuộc đấu
tranh giai cấp ở mức độ không thể điều hòa được. Trên cơ sở đó pháp luật
ra đời là kết quả của sự thừa nhận các quy phạm xã hội, các tiền lệ cũng
như việc ban hành các quy tắc xử sự mới.
Trải qua quá trình đấu tranh của dân tộc với nhiều cuộc cách mạng, nước
ta đã quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Từ
một nhà nước thuộc địa nửa phong kiến, với nền nông nghiệp lạc hậu, lực
lượng sản xuất thấp, cũng như những hậu quả nặng nề để lại bởi hàng
chục năm chiến tranh. Ngoài ra, với những tàn dư để lại hết sức nặng nề
của chế độ thực dân, phong kiến, cũng như các thế lực thù địch thường
xuyên tìm cách xâm chiếm nhằm mục đích phá hoại chế độ xã hội chủ
nghĩa và nền độc lập dân tộc của Tổ quốc. Vì vậy, xác định đúng vị trí, vai
trò cũng như sự ảnh hưởng của Nhà nước và pháp luật đối với công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay là
hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, làm động lực thúc đẩy xã hội
phát triển, xây dựng và hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa, cũng
như thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của Nhà nước đã đề ra.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả của quá trình xây dựng Nhà nước và
pháp luật mang lại; trong những năm qua quá trình xây dựng, phát triển
nhà nước và pháp luật của nước ta cũng gặp phải những khó khăn, thách
thức nhất định như việc một bộ phận nhân dân chưa nắm rõ vai trò, vị trí,
tầm quan trọng của Nhà nước và pháp luật; một số chính sách trong quá
trình đổi mới áp dụng vẫn còn chưa phù hợp. Mặt khác, sự tấn công chống
phá của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ dân tộc, làm suy yếu khối đại
đoàn kết toàn dân cũng ít nhiều ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng Nhà
nước và pháp luật ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, để góp phần nâng cao
nhận thức hành động của mỗi người dân, cũng như nhằm mục đích hiểu rõ
hơn về sự ra đời, xây dựng và phát triển của Nhà nước và pháp luật ở nước
ta; qua đó thấy được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của quá trình xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng làm cơ sở
góp phần hoàn thiện các chính sách của nhà nước và pháp luật, từ đó đưa
ra những phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng, phát triển Nhà nước
và pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Với những lý do nêu trên,
em chọn đề tài: “Nh nưc v php lut Vit Nam giai đoạn từ năm
1945 đến năm 1986” làm tiểu luận kết thúc môn học pháp luật đại cương của mình.
Chương 1 : Cơ S L0 Lun V Nh Nưc V Php Lut
Nhận thức chung về Nhà nước 
Khái niệm Nhà nước
Ngay từ thời kỳ cổ đại, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những luận điểm
khác nhau về khái niệm nhà nước. Trong thời kì cổ đại nhà tư tưởng
Aristote cho rằng nhà nước thực chất là sự kết hợp của các gia đình. Sau
đó nhiều nhà tư tưởng khác cũng đưa ra các quan điểm khi cho rằng nhà
nước là sự liên kết của nhiều người phục tùng pháp luật. Khi nghiên cứu
nguồn gốc của nhà nước Ăngghen đã đưa ra một số quan niệm, theo Ông
nhà nước là sản phẩm của sự phát triển khi xã hội đó đã phát triển đến
một giai đoạn nhất định, có sự phân chia thành các giai cấp và mâu thuẫn
giai cấp là không thể điều hoà được, nhà nước được ra đời và nảy sinh từ
xã hội có nhiệm vụ trong việc làm dịu bớt sự xung đột và đảm bảo cho sự
xung đột đó trong trật tự nhất định. Trên cơ sở quan điểm của Ăngghen,
Lênin nghiên cứu và đưa ra quan điểm nhấn mạnh vai trò của nhà nước
trong việc duy trì sự thống trị giai cấp, theo Lênin Nhà nước thực chất là
bộ máy được tách ra từ xã hội bao gồm một nhóm người chuyên làm công
việc cai trị, nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác.
Qua đó có thể thấy rằng, thực tiễn đã đưa ra nhiều cách tiếp cận khác
nhau về khái niệm nhà nước, trong mỗi cách tiếp cận đều xây dựng nên
một khái niệm nhà nước với ý nghĩa riêng của nó, nhằm đáp ứng các yêu
cầu, nhiệm vụ, cũng như phục vụ mục tiêu nghiên cứu riêng. Điều này cho
thấy khái niệm nhà nước là một phạm trù đa dạng, phức tạp, có nội hàm
phong phú, mang tính thực tiễn cao. Nhà nước là một bộ phận của xã hội,
là một hình thức tổ chức của con người cho nên nhà nước không đồng
nhất với xã hội. Nhà nước được tạo ra để quản lí, điều hành mọi hoạt động
của xã hội trong đó bao gồm những người không trực tiếp tham gia vào
hoạt động sản xuất. Chính vì vậy để nhằm mục đích duy trì nền an ninh
trật tự của đất nước, bảo vệ người dân trước thiên tai dịch bệnh, phòng
chống ngoại xâm, bảo vệ các lợi ích chung của xã hội cộng đồng sự ra đời,
tồn tại và phát triển của nhà nước trong xã hội là tất yếu.
Mặt khác, trên thực tế Nhà nước cũng không hoàn toàn đồng nhất với
quốc gia, mà chỉ là một trong ba yếu tố cấu thành của một quốc gia.
Chính vì vậy nhà nước hoàn toàn độc lập trong quá trình hoạt động của
mình, nhưng có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm điều chỉnh các thiết chế
của một quốc gia. Theo giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật, khái
niệm về Nhà nước được hiểu như sau: “Nhà nước là một tổ chức đặc biệt
của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và
thực hiện chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện
mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp”.
Các kiểu Nhà nước
Trên thực tế Nhà nước ra đời cũng kéo theo các kiểu Nhà nước khác nhau
hình thành, mỗi nhà nước thường tương ứng với một kiểu nhà nước cụ thể.
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng kiểu nhà nước bao gồm
những đặc điểm riêng cơ bản, mang tính đặc trưng của nhà nước, được
thể hiện rõ nhất ở bản chất giai cấp cũng như những điều kiện tồn tại và
phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Các hình thái kinh tế xã hội ra đời trong lịch sử xã hội có giai cấp, kéo theo
đó là sự tồn tại bốn hình thái kinh tế xã hội bao gồm hình thái chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Tương ứng với
bốn hình thái này là bốn kiểu nhà nước đó là kiểu nhà nước chủ nô, kiểu
nhà nước phong kiến, kiểu nhà nước tư sản và kiểu nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Trong đó, ba kiểu nhà nước (chủ nô, phong kiến, tư sản) có những
đặc điểm chung đó là xây dựng nhằm mục đích bóc lột về tư liệu sản xuất
của chế độ tư hữu, nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp bóc lột đối với
đại bộ phận quần chúng nhân dân là giai cấp bị bóc lột. Riêng Nhà nước
xã hội chủ nghĩa về bản chất có đặc điểm khác với ba kiểu nhà nước trước
đó. Nhiệm vụ chính của nhà nước xã hội chủ nghĩa là việc thực hiện công
bằng xã hội, phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến
tới xây dựng xã hội dân chủ và văn minh.
Như vậy có thể thấy Nhà nước mới ra đời trên cơ sở kế thừa những thành
quả của nhà nước cũ nhưng đồng thời thể hiện rõ những ưu việt của mình
trong quá trình hình thành và phát triển, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cũng
như phù hợp với quy luật thực tiễn đặt ra là một tất yếu của xã hội. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời là thành quả của quá trình đấu
tranh cách mạng, với kết quả giai cấp cầm quyền cũ bị lật đổ và thay vào
đó là giai cấp thống trị mới. Trên cơ sở đó có thể khẳng định sự ra đời Nhà
nước xã hội chủ nghĩa của các nước trên thế giới nói chung và ở Việt Nam
nói riêng có vai trò quan trọng, góp phần hình thành nên xã hội mới với
kiểu nhà nước mới tiến bộ nhất trong lịch sử.
1.2. Nhận thức chung về pháp luật
1.2.1. Khái niệm pháp luật
Pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước, trong đó quy định rõ
những đặc điểm, bản chất, nguồn gốc, vai trò, phạm vi điều chỉnh theo
từng thời gian, giai đoạn là khác nhau. Trong đó pháp luật xã hội chủ nghĩa
ra đời có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, là kiểu pháp luật mới
có bản chất khác với bản chất của các kiểu pháp luật trước đó với hệ
thống các quy tắc xử sự mang tính thống nhất nội tại cao.
Ở nước ta, pháp luật ra đời gắn với sự ra đời của Nhà nước, pháp luật luôn
phản ánh các đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước. Thông qua pháp
luật các đường lối, chính sách của Nhà nước được thể chế hoá thành các
quy định chung thống nhất trên toàn xã hội. Pháp luật là công cụ quan
trọng, là môi trường pháp lý thực tiễn để kiểm nghiệm tính đúng đắn, hiệu
quả trong thực hiện các đường lối, chính sách và quan điểm của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước ta đã nhanh chóng xây dựng một hệ
thống pháp luật riêng nhằm quản lý, theo dõi, kịp thời điều chỉnh các quan
hệ xã hội trong điều kiện mới. Trên cơ sở đó có thể hiểu rằng pháp luật là
hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị trong xã hội và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1.2.2. Các kiểu pháp luật
Cũng giống như Nhà nước, kiểu pháp luật ra đời và tồn tại nhằm thể hiện
tổng thể những đặc điểm cơ bản nhất, mang tính đặc thù của pháp luật;
qua đó thể hiện bản chất giai cấp, những điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển của pháp luật dưới một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Tương ứng với Nhà nước, trong lịch sử đã tồn tại bốn kiểu pháp luật bao
gồm: Kiểu pháp luật chủ nô, kiểu pháp luật phong kiến, kiểu pháp luật tư
sản và kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa. Cũng giống như Nhà nước, ba kiểu
pháp luật chủ nô, phong kiến và tư sản là những kiểu pháp luật được xây
dựng nhằm mục đích cũng cố, bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất,
nhằm bảo đảm về mặt pháp lý cho giai cấp thống trị trong việc áp đặt,
bóc lột, duy trì tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. Riêng pháp luật xã
hội chủ nghĩa mang tính ưu việt nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân lao
động, được xây dựng trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhằm tiến tới
xây dựng một xã hội mới trong đó mọi người đều bình đẳng và tự do.
Pháp luật Việt Nam ra đời trải qua nhiều thay đổi và ngày càng hoàn thiện
nhằm phát huy cao nhất vai trò của mình, đồng thời là công cụ sắc bén trong quản lý nhà nước.
1.3. Mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật
Tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị chính là Nhà nước, nhưng quyền
lực đó chỉ có thể có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Ngược lại pháp luật
là hệ thống các quy tắc xử sự ra đời do nhà nước ban hành, chính vì vậy
luôn phản ánh những quan điểm và đường lối chính trị của nhà nước và
bảo đảm cho quyền lực đó được triển khai rộng khắp. Qua đó có thể thấy
Nhà nước và pháp luật có mối quan hệ gắn kết không thể tách rời, sự ràng
buộc, đan xen, thúc đẩy và cùng phát triển. Vì vậy, không thể nói nhà
nước đứng trên pháp luật hay pháp luật đứng trên nhà nước.
Ở nước ta Nhà nước và pháp luật ra đời và có quan hệ chặt chẽ, thống
nhất với nhau. Nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ và thực thi pháp luật,
xây dựng một bộ máy cưỡng chế nhằm đảm bảo pháp luật được thực thi
có hiệu quả. Ngược lại pháp luật được nhà nước ban hành, truyền bá phổ
biến tới mọi cơ quan, tổ chức, công dân thông qua các hệ thống cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, vì vậy có ảnh hưởng và tác động điều chỉnh các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chương 2 : Th3c Ti4n Nh Nưc V Php Lut Vit Nam
2.1. Tổng quan về Nhà nước và pháp luật Việt Nam
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, lịch sử
Năm 1945 nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời. Đây được xem là điều
kiện quan trọng giúp nước ta bước vào giai đoạn mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước, chúng ta liên tiếp đạt được nhiều thành
tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 9 năm từ 1945 đến 1954, kết
thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneve về Việt Nam
năm 1954. Bước vào giai đoạn sau 1954 đất nước bị chia cắt làm hai miền
với hai nhiệm vụ khác nhau cũng kéo theo điều kiện lịch sử khác nhau.
Trong đó, miền Nam tiếp tục con đường đấu tranh giành độc lập, còn miền
Bắc với điều kiện lịch sử thuận lợi hơn, tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy dù trải qua những điều kiện lịch sử khác nhau, nhưng bằng tinh
thần yêu nước, ý chí quật cường của nhân dân ta, cuối cùng cách mạng
cũng đi đến toàn thắng, mở ra trang lịch sử mới với chiến thắng mùa xuân
năm 1975. Từ đây, cả nước cùng tiến lên xây dựng xã hội mới với những
điều kiện, hoàn cảnh mới, với nhiều khó khăn, thử thách và đạt được
những kết quả đáng tự hào trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
2.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội
Sau khi cách mạng tháng tám thành công, chính quyền non trẻ mới thành
lập đã phải đối mặt với hàng loạt khó khăn thử thách bởi giặc đói, giặc
dốt, giặc ngoại xâm. Ở giai đoạn này kinh tế nông thôn và sản xuất nông
nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng, Chính phủ thực hiện các chính sách
mới về ruộng đất như giảm tô, giảm tức. Nhờ vậy, trong các vùng giải
phóng, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lương thực tăng cao.
Công nghiệp và thủ công nghiệp cũng đặc biệt được chú trọng, góp phần
không nhỏ đáp ứng nhu cầu chiến đấu và tiêu dùng.
Sau năm 1954 đất nước bước vào thời kỳ mới, với nhiệm vụ miền Bắc quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Trong giai đoạn này Đảng và Nhà nước đề ra nhiều chủ
trương, chính sách trên các lĩnh vực, miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến
đấu, vừa làm tròn nghĩa vụ hậu phương vững chắc cho miền Nam tiếp tục
kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Nhờ vậy nền kinh tế được phát triển,
đời sống nhân dân được nâng lên, các lĩnh vực trong đời sống xã hội đều
có những bước tiến vượt bậc, góp phần quan trọng xây dựng và bảo vệ
thành quả cách mạng, cũng như làm hậu phương cho miền Nam.
Đến năm 1975 với thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân
năm 1975, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Sau khi miền
Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cách mạng Việt
Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Trong giai đoạn này chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên
lĩnh vực kinh tế trong việc khôi phục lại các cơ sở sản xuất công nghiệp,
nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở
miền Nam bị chiến tranh tàn phá; từng bước đưa nền kinh tế xã hội lên
một tầm cao mới với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước.
2.2. Thực trạng Nhà nước và pháp luật Việt Nam từ 1945 đến 1986
Để hiểu rõ hơn về quá trình xây dựng, phát triển của Nhà nước và pháp
luật Việt Nam có thể chia ra các giai đoạn như sau:
2.3. Đánh giá thực trạng
2.3.1. Những ưu điểm
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế 2.3.3. Nguyên nhân
Những hạn chế, yếu kém nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ
quan và khách quan cơ bản sau đây:
– Đất nước chịu tổn thất nặng nề bởi chiến tranh phá hoại, làm suy tàn và
ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, một yếu tố quan trọng trong
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật của nhà nước.
– Chủ trương đổi mới và kiện toàn bộ máy thực hiện không đồng bộ, thiếu
những giải pháp cụ thể, chưa kiên quyết, kịp thời, hiệu quả nhằm đổi mới
tổ chức, nâng cao năng lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước và hệ thống cơ quan thực thi pháp luật.
Chương 3 : Phương Hưng , Gi9i Php Xây
D3ng Nh Nưc V Php Lut Vit Nam 3.1. Phương hướng
Có thể thấy, trải qua 30 năm xây dựng, hình thành và phát triển, mặc dù
đối mặt với không ít khó khăn, thử thách. Tuy nhiên, quá trình xây dựng
Nhà nước và pháp luật ở nước ta đã đạt được những thành công rực rỡ.
Những thành tựu đã đạt được của Nhà nước ta trong thời gian qua là ví dụ
điển hình nhất của đổi mới. Trong thời gian tới, nhằm hoàn thiện hơn nữa
bộ máy nhà nước cũng như các thể chế, chính sách, quy phạm pháp luật
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn đòi hỏi
chúng ta phải đề ra các giải pháp cụ thể, mang tính chiến lược lâu dài
nhằm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu mới.
3.1.1. Tiếp tục quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với
công tác xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trải qua các kỳ đại hội Đảng,
mục tiêu Nhà nước hướng tới nhằm tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng
tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Qua đó đặt ra yêu cầu trong tổ chức
và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên
tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao
hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp,
hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính
trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn
hóa, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.
Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng một lần nữa khẳng định, tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc
pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà
nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất,
khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới
sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.
3.1.2. Quán triệt và triển khai rộng rãi các quy định pháp luật của Đảng và
Nhà nước nhằm đưa pháp luật đi vào thực tiễn đời sống xã hội
Phương hướng trong thời gian tới là tiếp tục xây dựng và đổi mới mạnh mẽ
tư duy pháp lý, đưa ra các phương án phù hợp, sâu sát và sáng tạo trong
thực tiễn; tạo điều kiện tốt nhất sớm xây dựng được hệ thống pháp luật
đáp ứng các tiêu chuẩn của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa theo hướng tinh gọn, hiện đại, qua đó góp phần củng cố nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật ấy phải thể hiện được tính hệ
thống, giá trị công bằng xã hội, phản ánh đúng nhu cầu, nguyện vọng của
đại bộ phận nhân dân, đáp ứng đòi hỏi của tiến trình phát triển trong điều
kiện mới với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Đó phải là một hệ thống
pháp luật có đầy đủ các thuộc tính, thống nhất, đồng bộ, khả thi, công
khai, minh bạch, ổn định và dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ thấp nhất. Hệ
thống ấy không chỉ là công cụ hữu hiệu để nhà nước quản lý xã hội mà
còn phải là chỗ dựa vững chắc để nhân dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình đồng thời là công cụ hữu hiệu để nhân dân kiểm tra, giám
sát việc thực thi quyền lực nhà nước. 3.2. Giải pháp
Một số giải pháp đưa ra nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
và pháp luật trong thời gian tới:
3.2.1. Tiếp tục bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa
3.2.2. Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước
3.2.3. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
3.2.4. Hợp tác quốc tế
KẾT LUẬN ĐB TCI NHC NƯFC VC PHGP LUẬT
Như vậy có thể thấy rằng, trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử dân tộc,
Nhà nước và pháp luật luôn có vai trò hết sức quan trọng, là cơ sở hình
thành nên một xã hội với những đặc điểm riêng biệt của nó. Trong đó,
pháp luật là do nhà nước ban hành, phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp
thống trị, đồng thời pháp luật cũng được đặt ra để điều chỉnh các quan hệ
xã hội. Chính vì vậy, Nhà nước và pháp luật luôn đồng hành không thể
tách rời, khi có Nhà nước ắt sẽ xuất hiện pháp luật và ngược lại. Ở nước
ta, với những thắng lợi to lớn từ hai cuộc kháng chiến chống thực dân
pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân ta càng thấm thía hơn về ý nghĩa của tự do
và độc lập. Vì vậy, việc lựa chọn con đường xây dựng Nhà nước và pháp
luật xã hội chủ nghĩa là lựa chọn hoàn toàn đúng đắn và tất yếu, trong đó
khẳng định Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lợi đều nhằm phục vụ nhân dân.
Đây là con đường cần thiết và phù hợp nhằm khẳng định sự lãnh đạo và
lựa chọn sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta. Qua đó, vai trò của pháp
luật cũng được khẳng định. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật phù
hợp với những bước đi kinh tế của nước ta có ý nghĩa quyết định trong
công cuộc xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh, hiện đại với một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.