-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Nhận thức phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận HP2 công tác quốc phòng an ninh
Từ ngày xưa, khi chưa thể tự tạo ra các công cụ lao động, con người sống chủ yếu bằng săn bắt và hái lượm, phụ thuộc vào những cái có sẵn trong thiên nhiên. Lâu dần, khi cộng đồng người phát triển, những cái có sẵn từ thiên nhiên đã hết thì môi trường lại là nơi cung cấp cho họ nguyên liệu để sản xuất từ sản phẩm thô sơ nhất. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
HP2 Công tác quốc phòng an ninh 53 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Nhận thức phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận HP2 công tác quốc phòng an ninh
Từ ngày xưa, khi chưa thể tự tạo ra các công cụ lao động, con người sống chủ yếu bằng săn bắt và hái lượm, phụ thuộc vào những cái có sẵn trong thiên nhiên. Lâu dần, khi cộng đồng người phát triển, những cái có sẵn từ thiên nhiên đã hết thì môi trường lại là nơi cung cấp cho họ nguyên liệu để sản xuất từ sản phẩm thô sơ nhất. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: HP2 Công tác quốc phòng an ninh 53 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TỔ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
---------------------------------------- TIỂU LUẬN
HP2 ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH “N Ậ H N T Ứ H C PHÒNG, C Ố H NG VI P Ạ H M PHÁP L Ậ U T VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY. LIÊN Ệ H TRÁCH NHIỆM Ủ C A THẾ HỆ T Ẻ
R TRONG PHÒNG CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO Ệ V MÔI TRƯỜN ” G
Sinh viên: NGUYỄN NGỌC HẢI ANH MSSV: 2056160046
Lớp : TRUYỀN THÔNG MARKETING A2 Hà Nội, 2021 0 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
NỘI DUNG ............................................................................................................ 2
CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận của phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường ......................................................................................................... 2
1.1. Khái niệm bảo vệ môi trường và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường ............................................................................................................. 2
1.2. Nhận thức phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ....... 3
CHƯƠNG 2: Thực trạng việc phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường Việt Nam hiện nay. ................................................................................ 6
2.1. Tình trạng vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường hiện nay ..................... 6
2.2. Tình trạng phòng chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt
Nam hiện nay. ................................................................................................ 9
2.3. Bài học từ thực trạng phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường gần đây. ............................................................................................ 11
CHƯƠNG 3: Biện pháp và liên hệ trách nhiệm của thế hệ trẻ trong phòng,
chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. ............................................. 12
3.1. Biện pháp cải thiện công tác phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường. .................................................................................................. 12
3.2. Trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam trong công tác bảo vệ môi trường.
..................................................................................................................... 14
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 16 1 MỞ ĐẦU
Từ ngày xưa, khi chưa thể tự tạo ra các công cụ lao động, con người sống chủ
yếu bằng săn bắt và hái lượm, phụ thuộc vào những cái có sẵn trong thiên nhiên.
Lâu dần, khi cộng đồng người phát triển, những cái có sẵn từ thiên nhiên đã hết
thì môi trường lại là nơi cung cấp cho họ nguyên liệu để sản xuất từ sản phẩm thô
sơ nhất. Ngày nay, cùng với sự phát triển của nhân loại, sự tiến bộ của khoa học
kỹ thuật, môi trường lại cung cấp cho con người các nguyên liệu, nguồn tài nguyên
để sản xuất. Dù ở bất kỳ thời đại nào môi trường đều rất quan trọng đối với con
người. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ: môi trường là
địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi môi trường.
Chúng ta đang sinh sống ở một thời kỳ tối tân của nhân loại, mọi hoạt động
đều phát triển vượt bậc, yêu cầu con người cũng phải chạy đua theo vòng quay
của thời đại. Trong cuộc sống vội vã đó, chúng ta đang quên dần đi những thứ
quan trọng xung quanh mình. Sự phát triển của xã hội luôn đi cùng với những đe
doạ nguy hiểm đến môi trường, đây là điểm tiêu cực mà con người gần như đang
lãng quên mà cho rằng đó là hiển nhiên. Thế nhưng, bảo vệ môi trường mới chính
là bảo vệ cuộc sống của mỗi chúng ta.
Nhận thức được tầm quan trọng của môi trường cũng như việc bảo vệ môi
trường trong đời sống, và để răn đe những hành vi tiêu cực cố ý phá hoại cảnh
quan sinh thái chung, em quyết định chọn đề tài “Nhận thức phòng, chống vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay. Liên hệ trách nhiệm của thế
hệ trẻ trong phòng chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.” 2 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận của phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
1.1. Khái niệm bảo vệ môi trường và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
1.1.1. Khái niệm về bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ
trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, các cấp, các
ngành, là cơ sở quan trọng để phát triển bền vững và thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để bảo vệ môi trường, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy
định những quy tắc xử sự buộc các cá nhân, tổ chức phải tuân thủ khi tham gia
khai thác, sử dụng các thành phần của môi trường như vai trò, trách nhiệm của các
chủ thể; quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong việc khai thác, sử dụng các
thành phần của môi trường; quy định các biện pháp bảo vệ môi trường cũng như
quy định các chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
1.1.2. Khái niệm về vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Tội phạm về môi trường là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương
mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến các quy định của Nhà nước
về bảo vệ môi trường, xâm phạm đến các thành phần của môi trường làm thay đổi
trạng thái, tính chất của môi trường gây ảnh hưởng xấu tới sự tồn tại, phát triển con
người và sinh vật, mà theo quy định phải bị xử lý hình sự.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là những hành vi vi
phạm các quy định quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường do các cá nhân, tổ chức 3
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm, theo quy định phải
bị xử lý vi phạm hành chính.
1.2. Nhận thức phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm
Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường là hoạt động các cơ quan
nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng việc sử dụng tổng hợp các biện
pháp, phương tiện nhằm ngăn chặn, hạn chế tình hình vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường; phát hiện, loại trừ các nguyên nhân, điều kiện của vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường.Khi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra thì
hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả tác hại, kịp thời phát hiện, điều tra, xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Vấn đề phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có một số đặc điểm như sau:
Chủ thể tiến hành tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường rất đa dạng. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hành được quy định
trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để tiến
hành các hoạt động phòng ngừa cũng như điều tra, xử lý phù hợp.
Biện pháp tiến hành phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
được triển khai đồng bộ, có sự kết hợp hài hòa giữa các biện pháp phòng ngừa
(phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn) với các
biện pháp điều tra, xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường (cả tội phạm và vi phạm hành chính).
Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có liên quan trực tiếp
đến việc sử dụng các công cụ phương tiện nghiệp vụ và ứng dụng tiến bộ của khoa học công nghệ.
Phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có sự phối kết hợp chặt
chẽ giữa các chủ thể tham trên cơ sở chức năng, quyền hạn được phân công. 4
1.2.2. Nội dung phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Nắm tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, nghiên cứu làm rõ
những vấn đề có tính quy luật trong hoạt động vi phạm pháp luật của các đối tượng.
Trong phạm vi nhiệm vụ, các cơ quan chuyên môn cần nắm vững:
Số vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra trong từng thời gian trên
từng địa bàn cụ thể gắn với lĩnh vực công tác chuyên môn
Các loại vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra phổ biến (tội phạm vi
phạm hành chính; các hành vi vi phạm cụ thể về gây ô nhiễm môi trường, hủy hoại
tài nguyên, môi trường, làm lây lan dịch bệnh,...)
Lĩnh vực xảy ra nhiều là những lĩnh vực nào. Đối tượng gây ra các vụ vi phạm
thuộc loại người nào trong xã hội quốc tịch, dân tộc (nhân thân của đối tượng), các
pháp nhân thương mại nào là chủ yếu (công ty cổ phần, công ty TNHH, các cơ sở
sản xuất, kinh doanh có đăng ký pháp nhân,...)
Phương thức, thủ đoạn hoạt động, hậu quả, tác hại gây ra cho xã hội và cho.
Xác định và làm rõ các nguyên nhân, điều kiện của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Tiến hành nghiên cứu tìm ra những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay và nguyên nhân,
điều kiện của từng loại vi phạm cụ thể, từng vụ việc vi phạm cụ thể. Xác định rõ
các nguyên nhân và điều kiện thuộc ngành nào, lĩnh vực nào cụ thể. Trên cơ sở đó,
cần kiến nghị với các ngành, các cấp và trực tiếp tiến hành bịt kín những sơ hở thiếu
sót, những hiện tượng tiêu cực làm phát sinh vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Xây dựng các kế hoạch, biện pháp, các giải pháp chủ động hạn chế các nguyên
nhân, khắc phục các điều kiện của vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Nội dung này đòi hỏi các cơ quan, tổ chức phải xây dựng các phương án, các
kế hoạch cụ thể, những giải pháp để phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi 5
trường. Trong đó phải xác định rõ những công việc phải làm trước mắt, những việc
phải làm dâu lài, các lực lượng tham gia hỗ trợ, các biện pháp cụ thể sẽ sử dụng,…
Tổ chức lực lượng tiến hành các hoạt động khắc phục các nguyên nhân, điều
kiện của tội phạm về môi trường, từng bước kiềm chế, đẩy lùi tình trạng vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường.
Đây là nội dung cụ thể đòi hỏi các lực lượng, cơ quan chuyên môn tổ chức thực
hiện các phương án, kế hoạch đã đề ra. Huy động sức mạnh tổng hợp của các ngành,
các cấp, các đoàn thể, các tổ chức quần chúng tham gia vào cuộc đấu tranh. Trong
đó lực lượng Công an là lực lượng chủ công, nòng cốt, xung kích sử dụng đồng bộ
các biện pháp bao gồm các biện pháp chung của toàn xã hội và các biện pháp nghiệp
vụ chuyên môn của mình để đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực xã hội là nguyên
nhân nảy sinh vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở từng lĩnh vực, trên từng
địa bàn nhằm hạn chế sự gia tăng tội phạm về môi trường, tiến tới loại trừ vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường ra khỏi đời sống xã hội trong tương lai .
Tiến hành các hoạt động điều tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Khi tội phạm về môi trường xảy ra, căn cứ vào tính chất mức độ, mức độ của
hành vi phạm tội mà các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền (Công an, Viện Kiểm
sát, Tòa án,...) sẽ tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xết xử.
Đối với các vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường tùy theo cơ quan chuyên
môn nào phát hiện (Công an, Thanh tra chuyên ngành, Quản lý thị trưởng, Hải
Quan, Kiểm lâm,...) sẽ tiến hành xử lý hành chính theo thẩm quyền.
1.2.3. Biện pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
Biện pháp tổ chức - hành chính: Xây dựng, hoàn thiện cơ cấu tổ chức các cơ
quan quản lý Nhà nước về môi trường, các chủ thể tham gia bảo vệ môi trường,
nâng cao năng lực các cơ quan nhà nước, đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội, đoàn
thể quần chúng và nhân dân trong bảo vệ môi trường; thể chế hoá đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi trường... 6
Biện pháp kinh tế: Biện pháp này chủ yếu dùng các lợi ích vật chất để kích
thích chủ thể thực hiện những hoạt động có lợi cho môi trường, bảo vệ môi trường
và ngược lại xử lý, hạn chế lợi ích kinh tế của chủ thể vi phạm.
Biện pháp khoa học - công nghệ: Là ứng dụng các biện pháp khoa học công
nghệ vào giải quyết những vấn đề môi trường.
Biện pháp tuyên truyền, giáo dục: là giáo dục, tuyên truyền đường lối chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng
vào việc bảo vệ môi trường.
Biện pháp pháp luật là biện pháp xây dựng các quy phạm pháp luật và tổ chức
thực hiện, áp dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc bảo vệ môi trường.
CHƯƠNG 2: Thực trạng việc phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường Việt Nam hiện nay.
2.1. Tình trạng vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường hiện nay
Hiện nay, dưới tác động của quá trình biến đổi khí hậu và sự phát triển vượt
bậc của kinh tế - xã hội, tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường đang
tiếp tục gia tăng theo hướng tiêu cực hơn. Những hành vi trực tiếp làm ảnh hưởng
đến chất lượng cuộc sống của người dân, tác động đến môi trường sinh thái chung
của mọi người, dẫn đến rất nhiều hệ luỵ nghiêm trọng như làm suy giảm điều kiện
về an toàn vệ sinh thực phẩm, xã hội bức xúc, thậm chí có thể gây ra bất ổn về an
ninh trật tự xã hội. Trong đó, tội phạm và vi phạm pháp luật nổi lên đặc biệt ở một số lĩnh vực.
Trong sản xuất công nghiệp, lợi dụng chủ trương mở cửa, chính sách thu hút
vốn đầu tư của Nhà nước cùng với những sơ hở về pháp luật trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường của Việt Nam, nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đã đầu tư các
dự án sản xuất, kinh doanh, nhưng không chú trọng việc xây dựng các hệ thống
xử lý chất thải, nhất là các nhà máy, cơ sở sản xuất trong các khu công nghiệp 7
đang trong giai đoạn hoàn thiện và các cơ sở nằm trên lưu vực sông. Đáng lo ngại
là các doanh nghiệp tuy có hệ thống xử lý chất thải, nhưng luôn cố tình vi phạm,
thủ đoạn tinh vi, lén lút để xả thải ra môi trường như xây dựng hệ thống bí mật,
phức tạp, được ngụy trang bằng hệ thống đạt tiêu chuẩn nên rất khó phát hiện, điển
hình vụ Công ty Vedan Việt Nam, Công ty Tungkuang, Công ty TNHH Miwon,
Công ty thuộc da Hào Dương, Công ty giấy Việt Trì,...
Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu, tình trạng nhập khẩu trái phép chất
thải vào nước ta dưới hình thức phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, thiết bị công
nghệ lạc hậu dẫn đến nguy cơ biến nước ta thành “bãi rác thải công nghiệp”, với
thủ đoạn như "tạm nhập, tái xuất", khi bị phát hiện thì khai là "gửi nhầm hàng" và
xin được chuyển trả lại... Một số doanh nghiệp lợi dụng cơ chế kiểm hóa xác suất,
thậm chí móc nối với một số tổ chức kiểm định, giám định để có kết luận hàng
hóa đạt tiêu chuẩn về môi trường, câu kết với nhân viên hải quan để lấy mẫu trong
các lô hàng bảo đảm yêu cầu chất lượng đã được chuẩn bị sẵn, từ đó dễ dàng được
thông quan nhập rác vào nước ta. Nghiêm trọng hơn cả là hành vi nhập rác thải
sinh hoạt, các loại chất đi-ô-xin, thực phẩm kém chất lượng, bột xương bò điên,
kể cả chất có phóng xạ, các thiết bị công nghệ lạc hậu sản xuất từ những năm 60 của thế kỷ trước.
Trong hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ đa dạng sinh học,
trong nhiều năm qua, nạn chặt phá rừng ở nước ta vẫn đang diễn ra rất bức xúc,
đặc biệt là tình trạng chặt phá các khu rừng nguyên sinh, khu bảo tồn thiên nhiên,
rừng phòng hộ... với thủ đoạn lợi dụng chính sách chuyển đổi "rừng nghèo", xây
dựng thủy điện, phát quang biên giới để khai thác rừng bừa bãi, kèm theo tình
trạng chống người thi hành công vụ gây phức tạp tình hình an ninh trật tự ở nhiều
địa phương. Tại các khu vực khai thác khoáng sản, do sử dụng hóa chất như thủy
ngân, kim loại nặng, nên nguồn nước sinh hoạt, tưới tiêu bị ô nhiễm, không có
biện pháp hoàn nguyên môi trường, chống xói mòn, rửa trôi, làm ảnh hưởng hệ 8
sinh thái, gây phong hóa biến rừng thành đất trống đồi núi trọc, tiềm ẩn nguy cơ lũ quét cao.
Tình trạng săn bắn, buôn bán, vận chuyển động vật hoang dã, quý hiếm diễn
ra công khai ở nhiều nơi. Qua một số vụ việc do lực lượng cảnh sát môi trường
điều tra, khám phá cho thấy vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này tiếp diễn phức
tạp, nhất là buôn bán các loài động vật quý hiếm có lợi nhuận cao như hổ, tê tê.
Các đường dây mua bán, vận chuyển động vật hoang dã qua biên giới với thủ đoạn
tinh vi, che giấu bằng nhiều hình thức nhằm đối phó với cơ quan chức năng. Việt
Nam đang là nước trung chuyển các loại động vật hoang dã và sản phẩm từ động
vật hoang dã cho nước thứ ba.
Trong sản xuất làng nghề, với trên 2.700 làng nghề trong cả nước, nhưng hầu
hết do quy mô sản xuất nhỏ lẻ ở hộ gia đình, trình độ sản xuất thủ công theo kinh
nghiệm, công nghệ sản xuất thô sơ, không quan tâm đến vấn đề xử lý chất thải,
dẫn đến tình trạng môi trường tại các làng nghề rất đáng báo động. Chất thải từ
hoạt động sản xuất của các làng nghề nhìn chung không được xử lý mà xả trực
tiếp ra mương, ao, hồ, ruộng lúa,... Các chất thải độc hại khó phân hủy tại các làng
nghề, đặc biệt là các làng nghề thuộc da, dệt nhuộm và tái chế kim loại, đã làm
cho các chỉ tiêu BOD, COD, SS đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe của nhân dân.
Trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm, tình hình nhập khẩu thực phẩm
không đạt tiêu chuẩn trong thời gian qua có dấu hiệu lắng xuống nhờ sự vào cuộc
quyết liệt của công an và các cơ quan chức năng. Tuy nhiên, hoạt động buôn bán,
vận chuyển, tiêu thụ gia súc, gia cầm không qua kiểm dịch theo đường tiểu ngạch
vẫn diễn ra phức tạp, nhất là từ khu vực biên giới phía Bắc. Các hoạt động buôn
bán, vận chuyển sản phẩm gia súc như da, mỡ,... diễn ra nhỏ lẻ, gây khó khăn cho
công tác kiểm soát. Dịch bệnh có dấu hiệu bùng phát trở lại, nhất là dịch lợn tai
xanh, nhân dân một số địa phương tại Hà Nội, Hải Dương không xử lý gia súc 9
chết do bệnh gây ô nhiễm, thậm chí có nơi còn bán ra thị trường, gây nguy cơ mất
an toàn vệ sinh thực phẩm.
Tình trạng trốn hoặc gian lận trong việc nộp phí bảo vệ môi trường diễn ra
khá phổ biến ở các doanh nghiệp, các tổ chức, các cơ sở sản xuất kinh doanh và
các bệnh viện. Nguyên nhân của tình trạng này là do cơ quan quản lý nhà nước
chưa tuyên truyền rộng rãi, chưa có cơ chế thu, nộp phí bảo vệ môi trường rõ ràng,
mặt khác đối với những trường hợp vi phạm chưa có chế tài xử phạt đủ mạnh để răn đe, phòng ngừa.
2.2. Tình trạng phòng chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay.
Thực hiện Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg ngày 22-2-2005 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết
số 41/NQ-TW ngày 15-11-2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về bảo vệ môi trường
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; ngày 29-11-2006,
Bộ trưởng Bộ Công an đã quyết định thành lập lực lượng Cảnh sát môi trường để
thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường.
Trải qua 10 năm thành lập, mặc dù điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn,
biên chế lực lượng còn thiếu trong khi tội phạm và vi phạm pháp luật về môi
trường diễn biến ngày càng nghiêm trọng, phức tạp; song dưới sự chỉ đạo của
Đảng ủy Công an Trung ương và lãnh đạo Bộ Công an, lực lượng Cảnh sát môi
trường đã nhanh chóng ổn định, củng cố tổ chức, đồng thời triển khai các chương
trình, kế hoạch đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường.
Qua thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, lực lượng Cảnh sát môi trường
đã kịp thời phát hiện và tham mưu lãnh đạo Bộ Công an đề xuất Quốc hội, Chính
phủ, các bộ, ngành và địa phương hoàn thiện các văn bản pháp luật, chính sách,
công tác quản lý về bảo vệ môi trường, tài nguyên và an toàn thực phẩm nhằm 10
khắc phục các lỗ hổng, bất cập trong hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho
hoạt động của lực lượng Cảnh sát môi trường. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền
làm chuyển biến mạnh mẽ, qua đó nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường của
các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân; đồng thời huy động sức mạnh tổng
hợp của toàn xã hội trong đấu tranh với tội phạm, vi phạm pháp luật về môi
trường. Chủ động triển khai lực lượng nhằm phát hiện, đấu tranh, xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật về môi trường (qua 10 năm được thành lập, toàn lực lượng
đã phát hiện, xử lý trên 100.000 vụ; khởi tố trên 3.000 vụ, 4.300 bị can; xử phạt vi
phạm hành chính 97.000 vụ với số tiền 1.166 tỷ đồng).
Đặc biệt, đã điều tra, khám phá, xử lý nhiều vụ phạm tội môi trường, tài nguyên,
an toàn thực phẩm nghiêm trọng, phức tạp, gây bức xúc trong nhân dân. Những
kết quả đó đã thể hiện sự trưởng thành của lực lượng Cảnh sát môi trường; khẳng
định vai trò, vị trí nòng cốt trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm,
vi phạm pháp luật về môi trường; được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận,
đánh giá cao; góp phần quan trọng trong việc đưa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng
về phát triển kinh tế - xã hội đi vào cuộc sống; đảm bảo tính nghiêm minh và nâng
cao hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, quản lý tài
nguyên và an toàn thực phẩm; phục vụ thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước; đồng thời thể hiện nỗ lực, quyết tâm và cam kết của
Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế trong việc giải quyết vấn đề môi
trường, biến đổi khí hậu và an ninh tài nguyên.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn hạn chế, yếu kém như: Còn có
khoảng cách lớn giữa nhận thức và hành động, giữa cam kết và thực hiện; chưa
hình thành thói quen, ý thức bảo vệ môi trường trong xã hội. Xu hướng gia tăng
các nguồn gây ô nhiễm, suy giảm chất lượng môi trường sống, suy thoái đa dạng
sinh học. Đáng lo ngại, ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực đô thị, nông thôn,
làng nghề, cụm công nghiệp, lưu vực sông… đang ở mức cao; nhiều khu vực ô 11
nhiễm, tồn lưu hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật chậm được khắc phục; nhiều cơ sở
gây ô nhiễm nghiêm trọng chưa được xử lý triệt để.
Nhiều chỉ tiêu bảo vệ môi trường trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội và chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia chưa đạt yêu cầu đặt ra; quản lý
chất thải nguy hại; môi trường biển đảo; khai thác tài nguyên, khoáng sản; sản
xuất, chế biến thực phẩm, điều đó đặt ra nhiều thách thức đối với công tác phòng,
chống tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường, tài nguyên và an toàn thực phẩm.
2.3. Bài học từ thực trạng phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường gần đây.
Sau 10 năm thực hiện công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường, một số bài học kinh nghiệm về công tác quản lí điều hành
và việc thực hiện nhiệm vụ phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
được khái quát lại để có thể đưa ra những chiến lược và giải pháp tốt nhất cho tương lai.
Bài học quan trọng nhất, có tính xuyên suốt trong quá trình thực hiện công tác
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường đó là đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về môi trường cho người dân
và các doanh nghiệp. Tham mưu cấp uỷ và chính quyền các cấp để huy động sức
mạnh của cả hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân để mỗi người dân đều là
chiến sĩ trên mặt trận phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường. Đồng thời, coi trọng công tác phòng ngừa nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả
công tác trinh sát, phát hiện sớm, kịp thời, đúng thời điểm, kiên quyết không để
hành vi vi phạm pháp luật về môi trường xảy ra trên diện rộng và trong thời gian dài.
Trong những năm tới đây, xu thế chung của thế giới vẫn là hoà bình, hợp tác
và phát triển, nhưng sẽ xuất hiện những diễn biến phức tạp hơn, tiềm ẩn nhiều 12
bất trắc khó lường. Các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống còn tiếp tục gia
tăng, diễn biến phức tạp. Trong lĩnh vực môi trường, tài nguyên, an toàn thực
phẩm, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật dự báo vẫn còn diễn biến phức
tạp, thậm chí có chiều hướng gia tăng.
CHƯƠNG 3: Biện pháp và liên hệ trách nhiệm của thế hệ trẻ trong phòng,
chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
3.1. Biện pháp cải thiện công tác phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường Việt Nam hiện nay, cần tập trung thực hiện một số biện pháp cụ thể.
Thứ nhất, các lực lượng chuyên trách cần chủ động nắm chắc tình hình tội
phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường để tham mưu cho các cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương xác định địa bàn, lĩnh vực trọng điểm về môi trường để
tập trung lực lượng đấu tranh. Đó là các địa bàn tập trung nhiều khu công nghiệp,
khu chế xuất; các lĩnh vực trọng điểm, như khai thác khoáng sản, lâm sản, nhập
khẩu, buôn bán chất thải nguy hại, buôn bán, vận chuyển trái phép động vật hoang
dã, quí hiếm; lĩnh vực an toàn thực phẩm…
Thứ hai, tiếp tục rà soát, nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ
thống văn bản qui phạm pháp luật về phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật
khác về môi trường, nhất là Bộ luật Hình sự quy định các tội phạm về môi trường
theo hướng đầy đủ, thống nhất, đồng bộ, minh bạch, cụ thể, hiện đại và có tính
khả thi cao. Đặc biệt phải định lượng một cách rõ ràng tại các cấu thành tội phạm
các chất nguy hại vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Thứ ba, tăng cường công tác xây dựng lực lượng, coi công tác xây dựng lực
lượng là then chốt. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn, nâng cao chất lượng cán bộ làm
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường. 13
Tăng cường công tác huấn luyện, đào tạo, xây dựng quy chế về đào tạo cán bộ
(trình độ cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ, cử đi học nước ngoài, bồi dưỡng các chuyên đề
nghiệp vụ…) nhằm đáp ứng số lượng và chất lượng cán bộ. Trước mắt, thành lập
Trung tâm kiểm định về môi trường thuộc Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm
về môi trường thành một Trung tâm kiểm định đạt chuẩn quốc gia, có năng lực
kiểm định, giám định độc lập, kết quả giám định, kiểm định có giá trị pháp lý phục
vụ công tác điều tra, xử lý tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường.
Thành lập đội cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường ở công an cấp huyện,
tiến tới kiến nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi Pháp lệnh Tổ chức điều
tra hình sự năm 2004 theo hướng quy định lực lượng cảnh sát phòng, chống tội
phạm về môi trường thành Cơ quan Cảnh sát điều tra tội phạm về môi trường - cơ
quan cảnh sát điều tra chuyên trách về tội phạm môi trường.
Thứ tư, định kỳ 6 tháng, hàng năm, lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm
về môi trường chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng ở các cấp tổ chức tổng
kết rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác điều hành, chỉ đạo, tổ chức đấu tranh
với tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường.
Thứ năm, trang bị đầy đủ phương tiện, thiết bị kỹ thuật hiện đại và kinh phí
phục vụ công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường.
Thứ sáu, lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường chủ trì tăng
cường mối quan hệ phối hợp với các lực lượng chức năng liên quan trong phát
hiện, điều tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường. Tăng cường hợp
tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm trong công tác đấu tranh, xử lý vi phạm và ứng
dụng khoa học, công nghệ trong xử lý ô nhiễm, khắc phục sự cố môi trường. Nắm
tình hình, diễn biến an ninh môi trường thế giới và khu vực, những tác động gây
mất an ninh môi trường trong nước, để kịp thời đề xuất những giải pháp đấu tranh
phòng, chống có hiệu quả, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội trong tình hình mới. 14
3.2. Trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam trong công tác bảo vệ môi trường.
Thế hệ trẻ là thế hệ tương lai của đất nước, một thế hệ đầy nhiệt huyết, năng
động, đam mê, sáng tạo, là độ tuổi để phấn đấu và đóng góp sức lực vào công cuộc
xây dựng đất nước. Đặc biệt là đối với vấn đề môi trường, một vấn đề vô cùng
nhạy cảm trong thời điểm hiện tại.
Hành động của thế hệ trẻ ngày nay sẽ mang tính quyết định Trái Đất trong
tương lai. Giới trẻ ngày nay dường như đã nhận thức được trách nhiệm to lớn của
mình trong việc bảo vệ môi trường sống và đang thể hiện trách nhiệm đó thông
qua những hành động hằng ngày. Đặc biệt, trong 2 năm trở lại đây, khi vấn đề môi
trường trở nên nguy cấp hơn bao giờ hết với nhiều sự kiện gây chấn động, thế hệ
trẻ nói chung và người trẻ Việt Nam nói riêng cũng được chứng kiến ngày càng
nhiều những chiến dịch, những trào lưu liên quan đến bảo vệ môi trường như giảm
thiểu rác thải nhựa bằng cách sử dụng ống hút tre, ống hút kim loại và những
chương trình như “mang theo bình nước để được giảm giá” cũng được phát triển
rộng rãi. Điều này không chỉ nhắc nhở về tác hại của rác thải nhựa lên nhiều khía
cạnh của đời sống, mà còn nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường tại Việt Nam. 15 KẾT LUẬN
Môi trường rất cần thiết cho cuộc sống của con người. Môi trường cung cấp
cho con người những điều kiện để sống như hít thở, ăn, ở,…Nếu không có
những điều kiện đó con người không thể sống, tồn tại và phát triển được. Khi
sống, làm chuyện và học tập trong môi trường tốt, bầu không khí mát mẽ trong
lành thì chúng ta sẽ cảm giác dễ chịu và hưng phấn hơn, giúp ta hiểu sâu và tiếp
thu rộng lớn hơn những vấn đề nan giải, đồng thời giúp chúng ta thư giãn và
thoải mái hơn sau những giờ lao động, học tập thật mệt mỏi, đầy căng thẳng và vất vả.
Môi trường là mái nhà chung của toàn nhân loại, bảo vệ môi trường không
phải là một lời nói xuông mà đang đòi hỏi cấp thiết và nên phải hành động ngay,
bảo vệ môi trường là bảo vệ cuộc sông của chúng ta. Bởi vậy, tất cả chúng ta hãy
chung tay lũy sức bảo vệ môi trường và tránh gây ô nhiễm. Vì tương lai của một
trái đất xanh, sạch, đẹp và vì cuộc sống của chính chúng ta và của các thế hệ sau. 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình Giáo dục Quốc phòng và an ninh. (2019). NXB Bộ giáo dục và đào tạo.
[2] Trung tướng Phạm Quý Ngọ. (2013). Đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Trường Đại học kiểm sát Hà Nội.
[3] Thượng tướng, GS.TS Tô Lâm. (2016). Phòng, chống tội phạm, vi phạm
pháp luật về môi trường, tài nguyên, an toàn thực phẩm trong tình hình mới. Báo Công an nhân dân.
[4] ThS. Nguyễn Trần Điện. (2012). Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường ở
Việt Nam. Viện nghiên cứu lập pháp.
[5] ThS. Nguyễn Hữu Hoà. (2018). Thực trạng và giải pháp phòng ngừa các tội
phạm về môi trường ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Toà án nhân dân.
[6] Thanh Thảo. (2021). Kiên quyết phòng, chống tội phạm và VPPL về bảo vệ
môi trường. Trang thông tin điện tử công an tỉnh Đồng Tháp. !