Nhân Tố Chủ Quan Hình Thành Tư Tưởng Hồ Chí Minh | Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Nhân tố: Tư duy độc lập sáng tạo tự chủ Sáng tạo, sáng tạo và sáng tạo là tư duy của Hồ Chí Minhtrong cuộc sống. Từ rất sớm,Hồ Chí Minh đã khẳng định:cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cáchmạng thế giới.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.

Trường:

Học viện Nông nghiệp Việt Nam 1.7 K tài liệu

Thông tin:
3 trang 3 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Nhân Tố Chủ Quan Hình Thành Tư Tưởng Hồ Chí Minh | Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Nhân tố: Tư duy độc lập sáng tạo tự chủ Sáng tạo, sáng tạo và sáng tạo là tư duy của Hồ Chí Minhtrong cuộc sống. Từ rất sớm,Hồ Chí Minh đã khẳng định:cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cáchmạng thế giới.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.

10 5 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45619127
NHÂN TCHỦ QUAN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH
Nhân tố: Tư duy độc lập sáng tạo tự ch
Sáng tạo, sáng tạo và sáng tạo là tư duy của Hồ Chí Minh trong cuộc
sống.
Từ rất sớm,Hồ Chí Minh đã khẳng định: cách mạng Việt Nam
một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Người cho rằng: “Lý
luận do kinh nghiệm cách mạng ở các nước và trong nước ta,
do kinh
nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện nay gom góp được”. Thế giới hiện
nay là thế giới của tri thức sáng tạo, trong đó phong cách tư duy Hồ Chí
Minh là điểm nhấn đáng chú ý. Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh
là học tập nh thần sáng tạo để hành động cho phù hợp với mục êu
cách mạng đã đề ra. Sáng tạo là trên cơ sở nắm vững những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác – -nin, tư tưởng Hồ Chí Minh rồi đưa vào thực n
phù hợp hoàn cảnh cụ thể.
Đặc biệt, Hồ Chí Minh là người có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ, sáng
tạo, giàu nh phê phán, đổi mới và cách mạng; đã vận dụng đúng quy
luật chung của xã hội loài người, của cách mạng thế giới vào hoàn cnh
riêng, cụ thể của Việt Nam, đề xuất tư tưởng, đường lối cách mạng mới
đáp ứng đúng đòi hỏi thực ễn; có năng lực tchức biến tư tưởng,
đường lối thành hiện thực.
Độc lập, tự chủ, có nghĩa là Hồ Chí Minh không bị lệ thuộc, phụ thuộc
vào một luồng ý kiến nào. Trên cơ sở ếp thu nhiều luồng tư tưởng ến
bộ của Việt Nam và thế giới,trong từng thời kỳ, Người đúc kết, tổng hòa
thành cái riêng mà không sao chép, giáođiều, máy móc.
Hồ Chí Minh ếp thu chủ nghĩa Mác – -nin bằng toàn bộ cái tâm trong
sáng, sự khát vọng giải phóng: dân tộc, xã hội - giai cấp và con người,
thông qua hoạt động trong phong trào cách mạng của nhân dân Việt
Nam và nhân dân thế giới, chứ không theo kiểu kinh viện, tầm chương
trích cú.
Để đạt được như thế, chính là do Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự ch,
biết kế thừa có chọn lc những tư tưởng, nguyên lý của các nhà lý luận,
nhà tư tưởng của dân tộc Việt Nam và thế gii.
Được hình thành từ con người có đức dày, tâm trong, trí sáng,tầm cao trí
tuệ, nhân cách, ý chí lớn lao, hoạt động phong phú,đa dạng trên không
gian, thời gian rộng lớn, với nhiều lĩnh vực,vị trí công việc khác nhau,
nhưng phong cách tư duy Hồ Chí Minh là biểu hin đc sắc của sự độc
lập, tự chủ, sáng tạo.
lOMoARcPSD| 45619127
Chính tư duy độc lập, tự ch và sáng tạo đó đã tạo ra sự khác biệt trong
cách đi, bước đi, quan điểm, tư tưởng giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh với các nhà yêu nước cách mạng ền bối và cùng thời với Người.
Để đưa ra quyết định lựa chọn cứu nước theo con đường cách mạng
sản, trong suốt 10 năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã
tự mình khảo sát, nghiên cứu các cuộc cách mạng ở các nước tư bản Mỹ,
Anh, Pháp…, đã sống, lao động, học tập, ếp xúc với đủ hạng người, từ
tầng lớp thượng lưu, nh hoa đến những người lao động nghèo kh
nht ở châu Á, Âu, Phi, Mỹ La-nh. Điều đó giúp Người mở rộng tầm
mắt, tăng cường vốn sống, hiểu biết về cuc sống, nh cảnh, số phn
con người, nhất là người lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc
địa.
Sau khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản, trở thành người cộng
sản, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh thực s có bước
phát triển mới. Từ đây, độc lập, tự chủ mới thực sự đi đến sáng tạo; trình
độ tư duy của Người đã đạt đến tm mức có thể so sánh, lựa chọn
tổng hp những cứ liu tthc tế Việt Nam và thế giới, những kinh
nghiệm tcuộc sống, những tư tưởng của lớp người đi trước, để từ đó
mà đúc kết, hình thành nên những luận điểm, tư tưởng, kết luận mi.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - -nin, Hồ Chí Minh coi đó là kim chỉ nam cho
hành động, là “mặt trời soi sáng, “trí khôn”, “cái cẩm nang thần kỳ” có
nh phương pháp luận chỉ dẫn hành động. Người coi việc hc tp ch
nghĩa Mác - -nin là học tập cái nh thần xử trí đối với mọi việc, vi
người và với mình; là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp
của chủ nghĩa Mác--nin để giải quyết các vn đề của cách mạng Việt
Nam. Người không tự hạn chế, tự trói buộc mình và cũng không trói
buộc người khác hoặc để người khác trói buộc mình vào từng câu chữ.
Tư duy của
Hồ Chí Minh là sự thm nhun lời chỉ dẫn của Lê-nin: “Chúng ta không
hề coi lý lun của Mác như là một cái gì đó đã xong xuôi hẳn và bất khả
xâm phạm; trái lại, chúng ta n rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho
môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cn phải phát triển hơn
nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuc
sống”(1).
Nhờ có nh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo đó, nên trong quá trình
hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã có khả năng phát triển nhiu
luận điểm rất mới mẻ, bổ sung, phát triển lý lun của chủ nghĩa Mác - -
nin. Chẳng hạn, Báo cáo về Bắc K, Trung K, Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng
lOMoARcPSD| 45619127
sản năm 1924, nhấn mạnh, cuộc đấu tranh giai cấp ở phương Đông
không giống như ở phương Tây. Mác đã xây dựng học thuyết của mình
trên một triết lý nhất định của lịch sử châu Âu, mà châu Âu chưa phải là
toàn thể nhân loại; do vậy, phải “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch
sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”(2). Nguyễn Ái
Quốc cũng đã sớm nhận ra vai trò chủ động, ch cực của cách mạng giải
phóng dân tc ở các nước thuộc địa. Nếu như Lê-nin và Quốc tế Cộng
sản đều cho rằng, cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản
chính quốc, cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có ththắng lợi khi cách
mạng vô sản chính quốc thắng lợi thì Hồ Chí Minh đã nêu quan đim
ngược lại, khi cho rằng cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra
thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy
cách mạng chính quốc. Nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động
đứng lên “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Tài liệu tham khảo:
(1) Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 4, tr. 232
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr. 510
hps://bvhdl.gov.vn/doc-lap-tu-chu-sang-tao-net-doc-dao-trong-phongcach-tu-duy-ho-chi-
minh-20210426103331471.htm
| 1/3

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45619127
NHÂN TỐ CHỦ QUAN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Nhân tố: Tư duy độc lập sáng tạo tự chủ
• Sáng tạo, sáng tạo và sáng tạo là tư duy của Hồ Chí Minh trong cuộc
sống. Từ rất sớm,Hồ Chí Minh đã khẳng định: cách mạng Việt Nam là
một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Người cho rằng: “Lý
luận do kinh nghiệm cách mạng ở các nước và trong nước ta, do kinh
nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện nay gom góp được”. Thế giới hiện
nay là thế giới của tri thức sáng tạo, trong đó phong cách tư duy Hồ Chí
Minh là điểm nhấn đáng chú ý. Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh
là học tập tinh thần sáng tạo để hành động cho phù hợp với mục tiêu
cách mạng đã đề ra. Sáng tạo là trên cơ sở nắm vững những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh rồi đưa vào thực tiễn
phù hợp hoàn cảnh cụ thể.
• Đặc biệt, Hồ Chí Minh là người có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ, sáng
tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng; đã vận dụng đúng quy
luật chung của xã hội loài người, của cách mạng thế giới vào hoàn cảnh
riêng, cụ thể của Việt Nam, đề xuất tư tưởng, đường lối cách mạng mới
đáp ứng đúng đòi hỏi thực tiễn; có năng lực tổ chức biến tư tưởng,
đường lối thành hiện thực.
• Độc lập, tự chủ, có nghĩa là Hồ Chí Minh không bị lệ thuộc, phụ thuộc
vào một luồng ý kiến nào. Trên cơ sở tiếp thu nhiều luồng tư tưởng tiến
bộ của Việt Nam và thế giới,trong từng thời kỳ, Người đúc kết, tổng hòa
thành cái riêng mà không sao chép, giáođiều, máy móc.
• Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê-nin bằng toàn bộ cái tâm trong
sáng, sự khát vọng giải phóng: dân tộc, xã hội - giai cấp và con người,
thông qua hoạt động trong phong trào cách mạng của nhân dân Việt
Nam và nhân dân thế giới, chứ không theo kiểu kinh viện, tầm chương trích cú.
• Để đạt được như thế, chính là do Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ,
biết kế thừa có chọn lọc những tư tưởng, nguyên lý của các nhà lý luận,
nhà tư tưởng của dân tộc Việt Nam và thế giới.
• Được hình thành từ con người có đức dày, tâm trong, trí sáng,tầm cao trí
tuệ, nhân cách, ý chí lớn lao, hoạt động phong phú,đa dạng trên không
gian, thời gian rộng lớn, với nhiều lĩnh vực,vị trí công việc khác nhau,
nhưng phong cách tư duy Hồ Chí Minh là biểu hiện đặc sắc của sự độc
lập, tự chủ, sáng tạo. lOMoAR cPSD| 45619127
• Chính tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo đó đã tạo ra sự khác biệt trong
cách đi, bước đi, quan điểm, tư tưởng giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh với các nhà yêu nước cách mạng tiền bối và cùng thời với Người.
Để đưa ra quyết định lựa chọn cứu nước theo con đường cách mạng vô
sản, trong suốt 10 năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã
tự mình khảo sát, nghiên cứu các cuộc cách mạng ở các nước tư bản Mỹ,
Anh, Pháp…, đã sống, lao động, học tập, tiếp xúc với đủ hạng người, từ
tầng lớp thượng lưu, tinh hoa đến những người lao động nghèo khổ
nhất ở châu Á, Âu, Phi, Mỹ La-tinh. Điều đó giúp Người mở rộng tầm
mắt, tăng cường vốn sống, hiểu biết về cuộc sống, tình cảnh, số phận
con người, nhất là người lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa.
• Sau khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản, trở thành người cộng
sản, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh thực sự có bước
phát triển mới. Từ đây, độc lập, tự chủ mới thực sự đi đến sáng tạo; trình
độ tư duy của Người đã đạt đến tầm mức có thể so sánh, lựa chọn và
tổng hợp những cứ liệu từ thực tế Việt Nam và thế giới, những kinh
nghiệm từ cuộc sống, những tư tưởng của lớp người đi trước, để từ đó
mà đúc kết, hình thành nên những luận điểm, tư tưởng, kết luận mới.
• Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh coi đó là kim chỉ nam cho
hành động, là “mặt trời soi sáng”, “trí khôn”, “cái cẩm nang thần kỳ” có
tính phương pháp luận chỉ dẫn hành động. Người coi việc học tập chủ
nghĩa Mác - Lê-nin là học tập cái tinh thần xử trí đối với mọi việc, với
người và với mình; là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp
của chủ nghĩa Mác-Lê-nin để giải quyết các vấn đề của cách mạng Việt
Nam. Người không tự hạn chế, tự trói buộc mình và cũng không trói
buộc người khác hoặc để người khác trói buộc mình vào từng câu chữ. Tư duy của
Hồ Chí Minh là sự thấm nhuần lời chỉ dẫn của Lê-nin: “Chúng ta không
hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đó đã xong xuôi hẳn và bất khả
xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho
môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn
nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(1).
• Nhờ có tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo đó, nên trong quá trình
hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã có khả năng phát triển nhiều
luận điểm rất mới mẻ, bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-
nin. Chẳng hạn, Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng lOMoAR cPSD| 45619127
sản năm 1924, nhấn mạnh, cuộc đấu tranh giai cấp ở phương Đông
không giống như ở phương Tây. Mác đã xây dựng học thuyết của mình
trên một triết lý nhất định của lịch sử châu Âu, mà châu Âu chưa phải là
toàn thể nhân loại; do vậy, phải “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch
sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”(2). Nguyễn Ái
Quốc cũng đã sớm nhận ra vai trò chủ động, tích cực của cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Nếu như Lê-nin và Quốc tế Cộng
sản đều cho rằng, cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản
chính quốc, cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể thắng lợi khi cách
mạng vô sản chính quốc thắng lợi thì Hồ Chí Minh đã nêu quan điểm
ngược lại, khi cho rằng cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và
thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy
cách mạng chính quốc. Nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động
đứng lên “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Tài liệu tham khảo:
(1) Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 4, tr. 232
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr. 510
https://bvhttdl.gov.vn/doc-lap-tu-chu-sang-tao-net-doc-dao-trong-phongcach-tu-duy-ho-chi- minh-20210426103331471.htm