Những đặc trưng của kinh tế thị trường - Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương thức để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

I. NHỮNG ĐẶC CHƯNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Về mục tiêu
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương thức để phát triển lực lượng sản xuất, xây
dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện “ dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh”. Đây là sự khác biệt cơ bản của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mục đích đó bắt nguồn từ cơ sở kinh tế - xã
hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và là sự phản ánh mục tiêu chính trị - xã hội mà Đảng, nhà
nước và nhân dân ta đang phấn đấu. Mặt khác, đi đôi với việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại,
quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam còn gắn với xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp nhằm ngày càng hoàn thiện cơ sở kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội.
2. Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế
2.1 Về sở hữu
Sở hữu là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội trên cơ sở
chiếm hữu nguồn lực của quá trình sản xuất và kết quả lao động tương ứng của quá trình sản xuất
hay tái sản xuất ấy trong một điều kiện lịch sử nhất định. Sở hữu hàm ý trong đó bao gồm có chủ thể
sở hữu, đối tượng sở hữu, lợi ích từ đối tượng sở hữu. Mục đích của chủ thể sở hữu là nhằm thực
hiện những lợi ích từ đối tượng sở hữu. Chẳng hạn như ở chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
thì đối tượng sở hữu là tư bản và trí tuệ, chủ thể sở hữu là nhà tư bản, lợi ích có được từ đối tượng
sở hữu là giá trị thặng dư (có được do người có quyền sở hữu có quyền phân phối kết quả lao động).
Khác với việc chiếm hữu các sản phẩm tự nhiên, sở hữu phản ánh việc chiếm hữu trước hết là các
nguồn lực sản xuất, tiếp đến là chiếm hữu kết quả lao động. Trong sự phát triển của các xã hội khác
nhau, đối tượng sở hữu trong các nấc thang phát triển có thể là nô lệ, có thể là ruộng đất, có thể là
tư bản, có thể là trí tuệ. Sở hữu bao hàm nội dung kinh tế và nội dung pháp lý.
Về nội dung kinh tế, sở hữu là điều kiện của sản xuất, là lợi ích kinh tế mà chủ thể sở hữu được thụ
hưởng khi sở hữu đối tượng sở hữu. Về mặt này, sở hữu là cơ sở để các chủ thể thực hiện lợi ích từ
đối tượng sở hữu, không xác lập quan hệ sở hữu sẽ không có cơ sở để thực hiện lợi ích kinh tế.Vì vậy,
khi có sự thay đổi phạm vi và quy mô các đối tượng sở hữu, địa vị của các chủ thể sở hữu sẽ thay đổi
trong đời sống xã hội hiện thực.
Về nội dung pháp lý, sở hữu thể hiện những quy định mang tinh chất pháp luật về vấn đề quan trọng
hàng đầu khi xây dựng và hoạch định cơ chế quản lý nhà nước với quát trình phát triển nói chung. Vì
vậy, về mặt pháp lý, sở hữu giả định và đòi hỏi sự thừa nhận về mặt luật pháp.Khi đó, những lợi ích
kinh tế mà chủ thể sở hữu được thụ hưởng sẽ không bị các chủ thể khác phản đối.Khi đó việc thụ
hưởng được coi là chính đáng và hợp pháp.
2.2 Kinh tế nhiều thành phần
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình thức ở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan
trọng, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phât triển một nền
kinh tế độc lập, tự chủ.
Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp
luật.
Đây không chỉ là điểm khác biệt cơ bản với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà còn phản ánh
nhận thức mới về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.Để đi lên chủ nghĩa xã hội cần phải phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm tạo động lực
cạnh tranh cho nền kinh tế.
Trích trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII: "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy
động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản
xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ
chế thị trường.
3. Về quan hệ quản lý
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ở mọi quốc gia trên thế giới, nhà nước đều phải can thiệp (điều
tiết) quá trình phát triển kinh tế của đất nước nhằm khắc phục những hạn chế, khuyết tật của kinh tế
thị trường vàđịnh hướng chúng theo mục tiêu đã định. Tuy nhiên, quan hệ quản lý và cơ chế quản lý
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có đặc trưng riêng đó là: Nhà
nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, sự làm chủ và giám sát của nhân dân với
mục tiêu dùng kinh tế thị trường để xây dựng ơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, vì “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua pháp luật, các chiến lược, kế hoạch, cơ chế chính sách và
các công cụ kinh tế trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc của thị trường, khắc phục những khuyết tật của
kinh tế thị trường và phù hợp với yêu cầu xây dựng CNXH ở Việt Nam.
4. Về quan hệ phân phối
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực hiện phân phối công bằng các yếu tố
sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội và điều kiện phát triển của mọi chủ thể kinh tế (phân phối
đầu vào) để tiến tới xây dựng xã hội mọi người đều giàu có.
Quan hệ phân phối bị chi phối và quyết định bởi quan hệ sở hữu về TLSX. Nền kinh tế thị trường với
sự đa dạng các hình thức sở hữu do vậy thích ứng với nó sẽ có các lại hình phân phối khác nhau:
phân phối theo kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp
vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội
5. Về quan hệ tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải thực hiện gắn tăng trưởng kinh
tế với công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa – xã hội; thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát
triển của kinh tế thị trường. Đây là đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng mang tính định
hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Tiến bộ và công bằng xã hội vừa là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế,
vừa là mục tiêu thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chue nghĩa mà chúng ta phải hiện thực
hóa từng bước trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết công bằng xã hội không chỉ là
phương tiện để duy trì sự tăng trưởng ổn định, bền vững mà còn là mục tiêu phải hiện thực hóa. Do
đó, ở bất cứ giai đoạn nào, mỗi chính sách kinh tế cũng đều phải hướng đến mục tiêu phát triển xã
hội và mỗi chính sách xã hội cũng phải nhằm tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; phải coi đầu
tư cho các vấn đề xã hội (giáo dục, văn hóa, y tế, thể dục, thể thao…) là đầu tư cho sự phát triển bền
vững.
II Liên hệ thực tiễn
1 thực tiễn
Ở Việt Nam, sau 35 năm đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN đã hình thành, phát triển, đến nay đã
có những yếu tố của một nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế và bảo đảm định hướng XHCN. Đó là
nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần; có sự phát triển đầy đủ, đồng bộ các loại
thị trường, thị trường trong nước gắn kết với thị trường quốc tế. Thị trường đã phát huy vai trò trong
việc xác định giá cả, phân bổ nguồn lực, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa; nền kinh tế đã vận
hành theo các quy luật của KTTT.
Đồng thời, nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN; Nhà nước vừa xây dựng và hoàn
thiện thể chế, tạo khung khổ pháp luật, môi trường ổn định, thuận lợi cho kinh tế phát triển, vừa sử
dụng các nguồn lực kinh tế của Nhà nước để điều tiết, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định
hướng XHCN, phát triển bền vững cả kinh tế, xã hội, môi trường; gắn phát triển kinh tế với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Những yếu tố này hoàn toàn tương đồng với các định hướng xã hội của các nền KTTT hiện đại trên
thế giới.
Như vậy, từ thực tiễn và lý luận, có thể khẳng định, KTTT định hướng XHCN là mô hình KTTT hiện đại,
hội nhập quốc tế không chỉ phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại, mà còn là mô hình
kinh tế phù hợp với các nước kinh tế chưa phát triển quá độ lên CNXH.
2. Thực trạng
2.1. Thành tựu trong những năm gần đây
Sự phát triển của Việt Nam trong 35 năm qua rất đáng ghi nhận. Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đã
nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia
thu nhập trung bình thấp. Giai đoạn 2002-2019, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm
2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6%
(3,2USD/ngày theo sức mua ngang giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu
số, chiếm 86%
Năm 2020, với độ mở về kinh tế và sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam bị
tác động nặng nề bởi đại dịch Covid-19, làm gián đoạn hoạt động kinh tế – xã hội. Trong nước, thiên
tai, dịch bệnh tác động không nhỏ tới các hoạt động của nền kinh tế và cuộc sống của người dân; tỷ
lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở mức cao. Tuy nhiên, với những giải pháp quyết liệt và hiệu quả trong
việc thực hiện mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế – xã hội”, kinh tế
Việt Nam vẫn đạt kết quả tích cực với việc duy trì tăng trưởng. Mặc dù tăng trưởng GDP năm 2020 là
2,91%, đạt thấp nhất trong giai đoạn 2011- 2020 nhưng trước những tác động tiêu cực của dịch
Covid-19 thì đó là một thành công của nước ta với tốc độ tăng thuộc nhóm nước cao nhất thế giới.
Cùng với Trung Quốc và Mianma, Việt Nam là một trong 3 quốc gia ở châu Á có mức tăng trưởng tích
cực trong năm 2020; đồng thời quy mô nền kinh tế nước ta đạt hơn 343 tỷ USD, vượt Singapore
(337,5 tỷ USD) và Malaysia (336,3 tỷ USD), đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 4
trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia 1.088,8 tỷ USD; Thái Lan 509,2 tỷ USD và Philipin 367,4 tỷ
USD). Báo cáo triển vọng kinh tế VN 2021 và những điều chỉnh trung hạn 2021 - 2025 được NCIF
công bố tại hội thảo dự báo 2 kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2021.
Với kịch bản cơ sở, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế thế giới phục hồi, đại dịch Covid-19 dần được
khống chế - tốc độ tăng GDP của VN trong năm nay đạt 6,17%/năm, CPI trung bình tăng 3,8%. TS
Đặng Đức Anh - phó giám đốc NCIF - cho biết kịch bản này diễn ra khi các nền kinh tế lớn như Mỹ,
EU, Nhật Bản đạt mức tăng trưởng dương trở lại trong năm 2021, Trung Quốc đạt mức tăng trưởng 5
- 6%/năm, giá dầu thô ở mức thấp 45 USD/thùng; trong nước, sản xuất dần phục hồi, đầu tư nhà
nước đạt mức tăng trưởng 7%/năm, đóng góp khu vực FDI tiếp tục được duy trì, chính sách tiền tệ
linh hoạt và phù hợp bảo đảm ổn định vĩ mô
Với kịch bản khả quan, tăng trưởng kinh tế VN trong năm 2021 có thể đạt 6,72%/năm, CPI tăng
khoảng 4,2%. "Kịch bản này diễn ra khi kinh tế toàn cầu phục hồi nhanh hơn dự kiến, các hoạt động
sản xuất kinh doanh trong nước trở lại bình thường ngay trong năm 2021. Bên cạnh đó, VN tận dụng
được những lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết, đầu tư khu vực nhà nước tăng
khoảng 8%".
Báo cáo ADO công bố ngày 28/4/2021 gần đây nhận định, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng dương
trong năm 2020 bất chấp đại dịch Covid-19 kéo theo sự sụt giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Theo
đó, các biện pháp chống dịch và phát triển kinh tế - xã hội hiệu quả của Chính phủ đã có tác động lớn
trong việc bảo vệ nền kinh tế khỏi đại dịch trong năm ngoái, với GDP tăng trưởng 2,9%, một trong
những mức tăng trưởng cao nhất thế giới trong năm qua.
Dự báo về tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2021, các chuyên gia của Viện Nghiên cứu quản
lý kinh tế Việt Nam (CIEM) cho rằng, với những rủi ro và bất định khó lường, phải rất nỗ lực Việt Nam
mới có thể đạt mức tăng trưởng cao 6,46%.
Như vậy, so với mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2021 mà Chính phủ đề ra là khoảng 6,5% (cao hơn kế
hoạch Quốc hội giao là 6%), thì mức dự báo lạc quan nhất của CIEM vẫn đang thấp hơn mục tiêu của
Chính phủ. "Tăng trưởng không chỉ là con số 5,98% hay 6,46% mà quan trọng hơn là hàm ý chất
lượng tăng trưởng. Đó là phải chú trọng tăng trưởng trong thay đổi, cải cách để thích ứng với xu thế
mới, tăng cường quản trị rủi ro và khả năng chống chịu với những thách thức bất định. Từ khoá năm
2021 sẽ là "phục hồi trong thay đổi" thay vì "Covid-19 và vượt khó" như năm trước"
2.2. Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực như trên thì nền kinh tế Việt Nam cũng đang tiềm ẩn nhiều
khó khăn. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng khoảng 40% so với thu nhập bình
quân quân trên thế giới, nên chúng ta còn một chặng đường khá dài và nhiều chông gai để có thể
“sánh vai với các cường quốc năm châu”. Trong những năm sắp tới nhu cầu phát triển nhanh chắc
chắn sẽ vẫn còn, tuy nhiên vn đang ở mức thấp, thể hiện bởi việc suy giảm các mức độ khác nhau
trong năng suất, lực lượng tăng trưởng lao động và đầu tư. Dù được rất nhiều các nước khác ghen tị
bởi sự phát triển kinh tế nhưng sự phát triển này vẫn chưa cao để Việt Nam có thể hướng tới mục
tiêu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình vào năm 2035. Đặc biệt, việc tăngtrưởng chậm lại của
Việt Nam dường như đã xảy ra trước so với các nền kinh tế Đông Nam Á khác. Tăng năng suất lao
động - động lực chính cho tăng trưởng GDP trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi ở Việt Nam
- vẫn còn thấp. Tăng năng suất lao
đã phục hồi phần nào trong những nằm gần đây nhờ sự mở rộng khu vực FDI, và việc người lao động
chuyển từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực dịch vụ và sản xuất. Tuy nhiên, việc tăng năng suất vẫn
còn khá yếu, thể hiện việc thiếu hiệu quả thường xuyên trong phân bổ ngườn lực trong nền kinh tế.
Hạch toán tăng trưởng trên một loạt giả định cho thấy một bức tranh trong đó tỷ lệ tăng năng suất
các nhân tố tổng hợp trong thập kỷ qua nhìn chung là thấp. Năng suất lao động đã kéo tăng trưởng
GDP xuống thấp, mặc dù có nhiều sự khác biệt trong mức năng suất và tốc độ tăng rưởng trong và
giữa các lĩnh vực, cũng như trong và giữa các công ty.
Cụ thể hơn, kinh tế thị trường giai đoạn 2011-2020 còn có những hạn chế và gặp nhiều khó khăn,
thách thức.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra (một phần là do năm 2020 bị ảnh hưởng lớn của
đại dịch Covid-19); khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa thật vững chắc. Chất lượng tăng
trưởng có mặt chậm được cải thiện, chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế phát triển. Việc cơ cấu lại
một số ngành, lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu; hiệu quả hoạt động và mức độ sẵn sàng cho hội nhập
của nhiều doanh nghiệp còn thấp; kinh tế tập thể, hợp tác xã quy mô còn nhỏ, năng lực chưa cao.
Thực hiện các đột phá chiến lược còn chậm; việc tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt mục tiêu đề ra. Một số cơ chế, chính
sách, quy định pháp luật còn chồng chéo, thiếu chặt chẽ, chưa ổn định; thực thi pháp luật có lúc, có
nơi chưa nghiêm. Công tác cải cách hành chính trong một số lĩnh vực vẫn chưa thực chất; còn tình
trạng đùn đẩy công việc.
Ngoài ra, Giám đốc ADB tại Việt Nam cũng cho rằng, vẫn còn những rủi ro đáng kể trong năm 2021 và
năm tiếp đến, trong đó có sự trở lại của các biến thể virus SARS-CoV-2 và tốc độ triển khai chương
trình tiêm chủng Covid-19 không đồng đều trên toàn cầu có thể trì hoãn việc Việt Nam trở lại với
mức tăng trưởng mạnh mẽ trước đại dịch, do nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế.
3. Giải pháp
Do phát triển KTTT định hướng XHCN là một sự nghiệp, một quá trình chưa có tiền lệ nên có những
vấn đề đặt ra trong điều kiện hiện nay cần phải được tiếp tục xem xét để hoàn thiện thể chế KTTT
định hướng XHCN, cụ thể:
Thứ nhất, nhận thức một cách đầy đủ và toàn diện về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, đảm bảo phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Xây dựng và vận hành
nền kinh tế đồng bộ, thống nhất, đạt hiệu quả cao. Đưa kinh tế Việt Nam trở thành nền kinh tế hiện
đại và hội nhập quốc tế. Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện
đổi mới, kế thừa có chọn lọc và phát huy những điểm tiến bộ trong xây dựng và đổi mới. Nhận thức
rõ vai trò, chức năng của nhà nước trong quản lý và xây dựng hệ thống chính sách pháp luật phù hợp
với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Xác lập và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, lấy con người làm
trung tâm, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, từng bước phát triển hướng tới một xã hội thật sự
dân chủ, công bằng văn minh.
Thứ hai, nhận thức rõ vai trò của kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở kết hợp và
phát huy sức mạnh của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân. Tạo ra sự hợp tác và
cạnh tranh bình đằng giữa các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế. Phân phối chủ yếu theo hiệu
quả kinh tế và kết quả lao động và hệ thống an ninh xã hội, phúc lợi xã hội.
Thứ ba, Nhà nước đóng vai trò định hướng, tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, sử
dụng chính sách và các nguồn lực điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy kinh doanh đi đôi với bảo vệ môi
trường.
Thứ tư, thể chế hóa quyền sở hữu tài sản, bảo đảm công khai, minh bạch, nhất là trong thủ tục hành
chính nhà nước và dịch vụ công, đảm bảo quyền tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân được bảo
vệ và thực hiện các giao dịch một cách thông suốt, có hiệu quả. Phân bổ và sử dụng có hiệu quả
nguồn tài nguyên đất đai đi đôi với hoàn thiện pháp luật về đất đai. Giải quyết các tranh chấp, khiếu
nại, lãng phí trong lĩnh vực đất đai một cách nhanh chóng, kịp thời. Minh bạch việc sử dụng đất công,
giám sát và nâng cao hiệu quả việc giao đất cho cho các cộng đồng và doanh nghiệp nhà nước sử
dụng. Tạo cơ chế thuận lợi, nhanh chóng và minh bạch cho các giao dịch về chuyển nhượng, cho
thuê quyền sử dụng đất và các giao dịch liên quan đến đất đai khác. Sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả
nguồn tài nguyên thiên nhiên, gắn với bảo đảm việc làm và thu nhập bền vững của người dân, đồng
thời đảm bảo không để khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo phát triển kinh tế
bền vững. Pháp luật về đầu tư vốn Nhà nước, tài sản công phải được hoàn thiện, quản lý và sử dụng
có hiệu quả. Có cơ chế để giám sát và quản lý tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản để thực hiện
chính sách xã hội.
KẾT LUẬN
Những vấn đề nêu trên đã khái quát rõ nét những vấn đề cơ bản của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trong đó vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở năm điểm: có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; phát huy vai t
làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp để
thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất; và nhất là: thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển. Với những đặc trưng trên, kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự kết hợp những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với bản
chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội để hướng tới một nền kinh tế thị trường hiện đại, văn minh. Tuy
nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành và
phát triển tất sẽ còn bộc lộ nhiều yếu kém cần phải khắc phục và hoàn thiện. Vì vậy để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội chúng ta phải tìm ra con đường đúng đắn tạo cơ sở vững chắc xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội. Và vì thế chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa một cách sáng suốt nhất để kinh tế thị trường không đi lệch hướng tư bản chủ nghĩa. Kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mô của
nhà nước. Trong khi kinh tế thị trường ở nước ta có đặc điểm khác với kinh tế thị trường của các
nước khác. Ở nước ta kinh tế tăng trưởng gắn liền với sự tiến bộ và công bằng xã hội. Đó là cốt lõi để
xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
| 1/6

Preview text:

I. NHỮNG ĐẶC CHƯNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1. Về mục tiêu
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương thức để phát triển lực lượng sản xuất, xây
dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện “ dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh”. Đây là sự khác biệt cơ bản của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mục đích đó bắt nguồn từ cơ sở kinh tế - xã
hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và là sự phản ánh mục tiêu chính trị - xã hội mà Đảng, nhà
nước và nhân dân ta đang phấn đấu. Mặt khác, đi đôi với việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại,
quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam còn gắn với xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp nhằm ngày càng hoàn thiện cơ sở kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội.
2. Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế 2.1 Về sở hữu
Sở hữu là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội trên cơ sở
chiếm hữu nguồn lực của quá trình sản xuất và kết quả lao động tương ứng của quá trình sản xuất
hay tái sản xuất ấy trong một điều kiện lịch sử nhất định. Sở hữu hàm ý trong đó bao gồm có chủ thể
sở hữu, đối tượng sở hữu, lợi ích từ đối tượng sở hữu. Mục đích của chủ thể sở hữu là nhằm thực
hiện những lợi ích từ đối tượng sở hữu. Chẳng hạn như ở chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
thì đối tượng sở hữu là tư bản và trí tuệ, chủ thể sở hữu là nhà tư bản, lợi ích có được từ đối tượng
sở hữu là giá trị thặng dư (có được do người có quyền sở hữu có quyền phân phối kết quả lao động).
Khác với việc chiếm hữu các sản phẩm tự nhiên, sở hữu phản ánh việc chiếm hữu trước hết là các
nguồn lực sản xuất, tiếp đến là chiếm hữu kết quả lao động. Trong sự phát triển của các xã hội khác
nhau, đối tượng sở hữu trong các nấc thang phát triển có thể là nô lệ, có thể là ruộng đất, có thể là
tư bản, có thể là trí tuệ. Sở hữu bao hàm nội dung kinh tế và nội dung pháp lý.
Về nội dung kinh tế, sở hữu là điều kiện của sản xuất, là lợi ích kinh tế mà chủ thể sở hữu được thụ
hưởng khi sở hữu đối tượng sở hữu. Về mặt này, sở hữu là cơ sở để các chủ thể thực hiện lợi ích từ
đối tượng sở hữu, không xác lập quan hệ sở hữu sẽ không có cơ sở để thực hiện lợi ích kinh tế.Vì vậy,
khi có sự thay đổi phạm vi và quy mô các đối tượng sở hữu, địa vị của các chủ thể sở hữu sẽ thay đổi
trong đời sống xã hội hiện thực.
Về nội dung pháp lý, sở hữu thể hiện những quy định mang tinh chất pháp luật về vấn đề quan trọng
hàng đầu khi xây dựng và hoạch định cơ chế quản lý nhà nước với quát trình phát triển nói chung. Vì
vậy, về mặt pháp lý, sở hữu giả định và đòi hỏi sự thừa nhận về mặt luật pháp.Khi đó, những lợi ích
kinh tế mà chủ thể sở hữu được thụ hưởng sẽ không bị các chủ thể khác phản đối.Khi đó việc thụ
hưởng được coi là chính đáng và hợp pháp.
2.2 Kinh tế nhiều thành phần
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình thức ở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan
trọng, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phât triển một nền
kinh tế độc lập, tự chủ.
Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật.
Đây không chỉ là điểm khác biệt cơ bản với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà còn phản ánh
nhận thức mới về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.Để đi lên chủ nghĩa xã hội cần phải phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm tạo động lực
cạnh tranh cho nền kinh tế.
Trích trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII: "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy
động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản
xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.” 3. Về quan hệ quản lý
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ở mọi quốc gia trên thế giới, nhà nước đều phải can thiệp (điều
tiết) quá trình phát triển kinh tế của đất nước nhằm khắc phục những hạn chế, khuyết tật của kinh tế
thị trường vàđịnh hướng chúng theo mục tiêu đã định. Tuy nhiên, quan hệ quản lý và cơ chế quản lý
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có đặc trưng riêng đó là: Nhà
nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, sự làm chủ và giám sát của nhân dân với
mục tiêu dùng kinh tế thị trường để xây dựng ơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, vì “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua pháp luật, các chiến lược, kế hoạch, cơ chế chính sách và
các công cụ kinh tế trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc của thị trường, khắc phục những khuyết tật của
kinh tế thị trường và phù hợp với yêu cầu xây dựng CNXH ở Việt Nam.
4. Về quan hệ phân phối
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực hiện phân phối công bằng các yếu tố
sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội và điều kiện phát triển của mọi chủ thể kinh tế (phân phối
đầu vào) để tiến tới xây dựng xã hội mọi người đều giàu có.
Quan hệ phân phối bị chi phối và quyết định bởi quan hệ sở hữu về TLSX. Nền kinh tế thị trường với
sự đa dạng các hình thức sở hữu do vậy thích ứng với nó sẽ có các lại hình phân phối khác nhau:
phân phối theo kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp
vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội
5. Về quan hệ tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải thực hiện gắn tăng trưởng kinh
tế với công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa – xã hội; thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát
triển của kinh tế thị trường. Đây là đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng mang tính định
hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Tiến bộ và công bằng xã hội vừa là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế,
vừa là mục tiêu thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chue nghĩa mà chúng ta phải hiện thực
hóa từng bước trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết công bằng xã hội không chỉ là
phương tiện để duy trì sự tăng trưởng ổn định, bền vững mà còn là mục tiêu phải hiện thực hóa. Do
đó, ở bất cứ giai đoạn nào, mỗi chính sách kinh tế cũng đều phải hướng đến mục tiêu phát triển xã
hội và mỗi chính sách xã hội cũng phải nhằm tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; phải coi đầu
tư cho các vấn đề xã hội (giáo dục, văn hóa, y tế, thể dục, thể thao…) là đầu tư cho sự phát triển bền vững. II Liên hệ thực tiễn 1 thực tiễn
Ở Việt Nam, sau 35 năm đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN đã hình thành, phát triển, đến nay đã
có những yếu tố của một nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế và bảo đảm định hướng XHCN. Đó là
nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần; có sự phát triển đầy đủ, đồng bộ các loại
thị trường, thị trường trong nước gắn kết với thị trường quốc tế. Thị trường đã phát huy vai trò trong
việc xác định giá cả, phân bổ nguồn lực, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa; nền kinh tế đã vận
hành theo các quy luật của KTTT.
Đồng thời, nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN; Nhà nước vừa xây dựng và hoàn
thiện thể chế, tạo khung khổ pháp luật, môi trường ổn định, thuận lợi cho kinh tế phát triển, vừa sử
dụng các nguồn lực kinh tế của Nhà nước để điều tiết, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định
hướng XHCN, phát triển bền vững cả kinh tế, xã hội, môi trường; gắn phát triển kinh tế với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Những yếu tố này hoàn toàn tương đồng với các định hướng xã hội của các nền KTTT hiện đại trên thế giới.
Như vậy, từ thực tiễn và lý luận, có thể khẳng định, KTTT định hướng XHCN là mô hình KTTT hiện đại,
hội nhập quốc tế không chỉ phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại, mà còn là mô hình
kinh tế phù hợp với các nước kinh tế chưa phát triển quá độ lên CNXH. 2. Thực trạng
2.1. Thành tựu trong những năm gần đây
Sự phát triển của Việt Nam trong 35 năm qua rất đáng ghi nhận. Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đã
nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia
thu nhập trung bình thấp. Giai đoạn 2002-2019, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm
2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6%
(3,2USD/ngày theo sức mua ngang giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu số, chiếm 86%
Năm 2020, với độ mở về kinh tế và sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam bị
tác động nặng nề bởi đại dịch Covid-19, làm gián đoạn hoạt động kinh tế – xã hội. Trong nước, thiên
tai, dịch bệnh tác động không nhỏ tới các hoạt động của nền kinh tế và cuộc sống của người dân; tỷ
lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở mức cao. Tuy nhiên, với những giải pháp quyết liệt và hiệu quả trong
việc thực hiện mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế – xã hội”, kinh tế
Việt Nam vẫn đạt kết quả tích cực với việc duy trì tăng trưởng. Mặc dù tăng trưởng GDP năm 2020 là
2,91%, đạt thấp nhất trong giai đoạn 2011- 2020 nhưng trước những tác động tiêu cực của dịch
Covid-19 thì đó là một thành công của nước ta với tốc độ tăng thuộc nhóm nước cao nhất thế giới.
Cùng với Trung Quốc và Mianma, Việt Nam là một trong 3 quốc gia ở châu Á có mức tăng trưởng tích
cực trong năm 2020; đồng thời quy mô nền kinh tế nước ta đạt hơn 343 tỷ USD, vượt Singapore
(337,5 tỷ USD) và Malaysia (336,3 tỷ USD), đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 4
trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia 1.088,8 tỷ USD; Thái Lan 509,2 tỷ USD và Philipin 367,4 tỷ
USD). Báo cáo triển vọng kinh tế VN 2021 và những điều chỉnh trung hạn 2021 - 2025 được NCIF
công bố tại hội thảo dự báo 2 kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2021.
Với kịch bản cơ sở, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế thế giới phục hồi, đại dịch Covid-19 dần được
khống chế - tốc độ tăng GDP của VN trong năm nay đạt 6,17%/năm, CPI trung bình tăng 3,8%. TS
Đặng Đức Anh - phó giám đốc NCIF - cho biết kịch bản này diễn ra khi các nền kinh tế lớn như Mỹ,
EU, Nhật Bản đạt mức tăng trưởng dương trở lại trong năm 2021, Trung Quốc đạt mức tăng trưởng 5
- 6%/năm, giá dầu thô ở mức thấp 45 USD/thùng; trong nước, sản xuất dần phục hồi, đầu tư nhà
nước đạt mức tăng trưởng 7%/năm, đóng góp khu vực FDI tiếp tục được duy trì, chính sách tiền tệ
linh hoạt và phù hợp bảo đảm ổn định vĩ mô
Với kịch bản khả quan, tăng trưởng kinh tế VN trong năm 2021 có thể đạt 6,72%/năm, CPI tăng
khoảng 4,2%. "Kịch bản này diễn ra khi kinh tế toàn cầu phục hồi nhanh hơn dự kiến, các hoạt động
sản xuất kinh doanh trong nước trở lại bình thường ngay trong năm 2021. Bên cạnh đó, VN tận dụng
được những lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết, đầu tư khu vực nhà nước tăng khoảng 8%".
Báo cáo ADO công bố ngày 28/4/2021 gần đây nhận định, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng dương
trong năm 2020 bất chấp đại dịch Covid-19 kéo theo sự sụt giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Theo
đó, các biện pháp chống dịch và phát triển kinh tế - xã hội hiệu quả của Chính phủ đã có tác động lớn
trong việc bảo vệ nền kinh tế khỏi đại dịch trong năm ngoái, với GDP tăng trưởng 2,9%, một trong
những mức tăng trưởng cao nhất thế giới trong năm qua.
Dự báo về tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2021, các chuyên gia của Viện Nghiên cứu quản
lý kinh tế Việt Nam (CIEM) cho rằng, với những rủi ro và bất định khó lường, phải rất nỗ lực Việt Nam
mới có thể đạt mức tăng trưởng cao 6,46%.
Như vậy, so với mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2021 mà Chính phủ đề ra là khoảng 6,5% (cao hơn kế
hoạch Quốc hội giao là 6%), thì mức dự báo lạc quan nhất của CIEM vẫn đang thấp hơn mục tiêu của
Chính phủ. "Tăng trưởng không chỉ là con số 5,98% hay 6,46% mà quan trọng hơn là hàm ý chất
lượng tăng trưởng. Đó là phải chú trọng tăng trưởng trong thay đổi, cải cách để thích ứng với xu thế
mới, tăng cường quản trị rủi ro và khả năng chống chịu với những thách thức bất định. Từ khoá năm
2021 sẽ là "phục hồi trong thay đổi" thay vì "Covid-19 và vượt khó" như năm trước" 2.2. Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực như trên thì nền kinh tế Việt Nam cũng đang tiềm ẩn nhiều
khó khăn. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng khoảng 40% so với thu nhập bình
quân quân trên thế giới, nên chúng ta còn một chặng đường khá dài và nhiều chông gai để có thể
“sánh vai với các cường quốc năm châu”. Trong những năm sắp tới nhu cầu phát triển nhanh chắc
chắn sẽ vẫn còn, tuy nhiên vẫn đang ở mức thấp, thể hiện bởi việc suy giảm các mức độ khác nhau
trong năng suất, lực lượng tăng trưởng lao động và đầu tư. Dù được rất nhiều các nước khác ghen tị
bởi sự phát triển kinh tế nhưng sự phát triển này vẫn chưa cao để Việt Nam có thể hướng tới mục
tiêu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình vào năm 2035. Đặc biệt, việc tăngtrưởng chậm lại của
Việt Nam dường như đã xảy ra trước so với các nền kinh tế Đông Nam Á khác. Tăng năng suất lao
động - động lực chính cho tăng trưởng GDP trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi ở Việt Nam
- vẫn còn thấp. Tăng năng suất lao
đã phục hồi phần nào trong những nằm gần đây nhờ sự mở rộng khu vực FDI, và việc người lao động
chuyển từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực dịch vụ và sản xuất. Tuy nhiên, việc tăng năng suất vẫn
còn khá yếu, thể hiện việc thiếu hiệu quả thường xuyên trong phân bổ ngườn lực trong nền kinh tế.
Hạch toán tăng trưởng trên một loạt giả định cho thấy một bức tranh trong đó tỷ lệ tăng năng suất
các nhân tố tổng hợp trong thập kỷ qua nhìn chung là thấp. Năng suất lao động đã kéo tăng trưởng
GDP xuống thấp, mặc dù có nhiều sự khác biệt trong mức năng suất và tốc độ tăng rưởng trong và
giữa các lĩnh vực, cũng như trong và giữa các công ty.
Cụ thể hơn, kinh tế thị trường giai đoạn 2011-2020 còn có những hạn chế và gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra (một phần là do năm 2020 bị ảnh hưởng lớn của
đại dịch Covid-19); khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa thật vững chắc. Chất lượng tăng
trưởng có mặt chậm được cải thiện, chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế phát triển. Việc cơ cấu lại
một số ngành, lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu; hiệu quả hoạt động và mức độ sẵn sàng cho hội nhập
của nhiều doanh nghiệp còn thấp; kinh tế tập thể, hợp tác xã quy mô còn nhỏ, năng lực chưa cao.
Thực hiện các đột phá chiến lược còn chậm; việc tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt mục tiêu đề ra. Một số cơ chế, chính
sách, quy định pháp luật còn chồng chéo, thiếu chặt chẽ, chưa ổn định; thực thi pháp luật có lúc, có
nơi chưa nghiêm. Công tác cải cách hành chính trong một số lĩnh vực vẫn chưa thực chất; còn tình
trạng đùn đẩy công việc.
Ngoài ra, Giám đốc ADB tại Việt Nam cũng cho rằng, vẫn còn những rủi ro đáng kể trong năm 2021 và
năm tiếp đến, trong đó có sự trở lại của các biến thể virus SARS-CoV-2 và tốc độ triển khai chương
trình tiêm chủng Covid-19 không đồng đều trên toàn cầu có thể trì hoãn việc Việt Nam trở lại với
mức tăng trưởng mạnh mẽ trước đại dịch, do nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế. 3. Giải pháp
Do phát triển KTTT định hướng XHCN là một sự nghiệp, một quá trình chưa có tiền lệ nên có những
vấn đề đặt ra trong điều kiện hiện nay cần phải được tiếp tục xem xét để hoàn thiện thể chế KTTT
định hướng XHCN, cụ thể:
Thứ nhất, nhận thức một cách đầy đủ và toàn diện về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, đảm bảo phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Xây dựng và vận hành
nền kinh tế đồng bộ, thống nhất, đạt hiệu quả cao. Đưa kinh tế Việt Nam trở thành nền kinh tế hiện
đại và hội nhập quốc tế. Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện
đổi mới, kế thừa có chọn lọc và phát huy những điểm tiến bộ trong xây dựng và đổi mới. Nhận thức
rõ vai trò, chức năng của nhà nước trong quản lý và xây dựng hệ thống chính sách pháp luật phù hợp
với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Xác lập và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, lấy con người làm
trung tâm, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, từng bước phát triển hướng tới một xã hội thật sự
dân chủ, công bằng văn minh.
Thứ hai, nhận thức rõ vai trò của kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở kết hợp và
phát huy sức mạnh của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân. Tạo ra sự hợp tác và
cạnh tranh bình đằng giữa các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế. Phân phối chủ yếu theo hiệu
quả kinh tế và kết quả lao động và hệ thống an ninh xã hội, phúc lợi xã hội.
Thứ ba, Nhà nước đóng vai trò định hướng, tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, sử
dụng chính sách và các nguồn lực điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy kinh doanh đi đôi với bảo vệ môi trường.
Thứ tư, thể chế hóa quyền sở hữu tài sản, bảo đảm công khai, minh bạch, nhất là trong thủ tục hành
chính nhà nước và dịch vụ công, đảm bảo quyền tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân được bảo
vệ và thực hiện các giao dịch một cách thông suốt, có hiệu quả. Phân bổ và sử dụng có hiệu quả
nguồn tài nguyên đất đai đi đôi với hoàn thiện pháp luật về đất đai. Giải quyết các tranh chấp, khiếu
nại, lãng phí trong lĩnh vực đất đai một cách nhanh chóng, kịp thời. Minh bạch việc sử dụng đất công,
giám sát và nâng cao hiệu quả việc giao đất cho cho các cộng đồng và doanh nghiệp nhà nước sử
dụng. Tạo cơ chế thuận lợi, nhanh chóng và minh bạch cho các giao dịch về chuyển nhượng, cho
thuê quyền sử dụng đất và các giao dịch liên quan đến đất đai khác. Sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả
nguồn tài nguyên thiên nhiên, gắn với bảo đảm việc làm và thu nhập bền vững của người dân, đồng
thời đảm bảo không để khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo phát triển kinh tế
bền vững. Pháp luật về đầu tư vốn Nhà nước, tài sản công phải được hoàn thiện, quản lý và sử dụng
có hiệu quả. Có cơ chế để giám sát và quản lý tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản để thực hiện chính sách xã hội. KẾT LUẬN
Những vấn đề nêu trên đã khái quát rõ nét những vấn đề cơ bản của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trong đó vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở năm điểm: có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; phát huy vai trò
làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp để
thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất; và nhất là: thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển. Với những đặc trưng trên, kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự kết hợp những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với bản
chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội để hướng tới một nền kinh tế thị trường hiện đại, văn minh. Tuy
nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành và
phát triển tất sẽ còn bộc lộ nhiều yếu kém cần phải khắc phục và hoàn thiện. Vì vậy để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội chúng ta phải tìm ra con đường đúng đắn tạo cơ sở vững chắc xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội. Và vì thế chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa một cách sáng suốt nhất để kinh tế thị trường không đi lệch hướng tư bản chủ nghĩa. Kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mô của
nhà nước. Trong khi kinh tế thị trường ở nước ta có đặc điểm khác với kinh tế thị trường của các
nước khác. Ở nước ta kinh tế tăng trưởng gắn liền với sự tiến bộ và công bằng xã hội. Đó là cốt lõi để
xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh