








Preview text:
lOMoAR cPSD| 58605085 TIỂU LUẬN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Chủ đề 3: Những dự báo của Chủ nghĩ xã hội khoa học về xã hội Cộng
sản chủ nghĩa tương lai Liên hệ vấn đề ở Việt Nam hiện nay?
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Thảo Mã sinh viên: 2621150896 Lớp: NH26.04 lOMoAR cPSD| 58605085 Mục lục: Lời mở đầu trang 3
Cơ sở khoa học và tính chất của dự báo trang 4
Dự báo về hai giai đoạn phát triển của CSCN trang 5
Đổi mới quan niệm về CNXH thông qua việc trang 7
xác định những đặc trưng của CNXH lOMoAR cPSD| 58605085 Lời mở đầu:
Theo các nhà nghiên cứu chủ nghĩa Marx-Lenin thì chủ nghĩa xã hội khoa học về
mặt lý luận nằm trong khái niệm "chủ nghĩa xã hội", là một trong ba bộ phận hợp
thành của chủ nghĩa Marx-Lenin, nghiên cứu sự vận động xã hội nhằm thủ tiêu chủ
nghĩa tư bản và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, tiến tới xây dựng xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Theo nghĩa hẹp thì chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận
của chủ nghĩa Marx-Lenin. Chủ nghĩa xã hội khoa học đã dựa trên phương pháp luận
triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời cũng dựa trên những cơ
sở lý luận khoa học về các quy luật kinh tế, quan hệ kinh tế... để luận giải một cách
khoa học về quá trình nảy sinh cách mạng xã hội chủ nghĩa, hình thành và phát triển
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, gắn liền với sứ mệnh lịch sử có tính
toàn thế giới của giai cấp công nhân hiện đại, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội.
Chủ nghĩa cộng sản là một hình thái kinh tế xã hội và hệ tư tưởng chính trị ủng hộ
việc thiết lập xã hội phi nhà nước, không giai cấp, tự do, bình đẳng, dựa trên sự sở
hữu chung và điều khiển chung đối với các phương tiện sản xuất nói chung.
C.Mác cho rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ là giai đoạn cuối cùng của lịch sử, đạt được
qua một cuộc cách mạng vô sản. Trong xã hội cộng sản, các quyết định về việc sản
xuất cái gì và theo đuổi những chính sách gì được lựa chọn một cách dân chủ, cho
phép mọi thành viên của xã hội tham gia vào quá trình quyết định trong cả hai lĩnh
vực chính trị và kinh tế. Việc sản xuất và phân phối của cải được tiến hành công
bằng giữa các công dân. C.Mác chưa bao giờ miêu tả chi tiết về việc chủ nghĩa cộng
sản sẽ vận hành như thế nào trong vai trò một hệ thống kinh tế - xã hội, nhưng người
ta hiểu rằng một nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa sẽ dựa trên sở hữu toàn dân đối với các tư liệu sản xuất.
Vậy chúng ta sẽ đi tìm hiểu kĩ hơn về những quan điểm dự báo về xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa là một trong những nội dung
cơ bản và quan trọng của chủ nghĩa xã hội khoa học. Thông qua việc nghiên cứu sự
phát triển của xã hội, C.mác và Ăngghen đã luận giải, chứng minh xã hội loài người
trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội (lúc đó các ông gọi là trạng thái xã hội khác
nhau). Và hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ bị thay thế bằng một
hình thái kinh tế xã hội khác tiến bộ hơn, đó chính là hình thái kinh tế xã hội cộng
sản chủ nghĩa. Việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ lOMoAR cPSD| 58605085
nghĩa là một việc hết sức cấp bách và cần thiết trong công cuộc xây dựng nước ta hiện nay. Nội dung:
1.Cơ sở khoa học và tính chất của dự báo. 1.1 Cơ sở khoa học
Mác và Ăngghen đã vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, phương pháp biện chứng duy vật để phân tích sự chuyển biến tất yếu từ chủ
nghĩa tư bản len chủ nghĩa xã hội và dự báo về xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai.
Mác và Ăngghen đã xuất phát từ hiện thực, phân tích hiện thực xã hội tư bản chủ
nghĩa chỉ ra xu hướng phát triển tất yếu, chỉ ra khả năng có thể xảy ra trong tương
lai. Đồng thời, Mác và Ăngghen cũng kế thừa những kết quả nghiên cứu về lịch sử
phát triển xã hội loài người(học thuyết Đác-uyn, Công trình nghiên cứu của
Morgan,..) để nghiên cứu xã hội tư bản chủ nghĩa. Do đó, cùng với sự phân tích ngày
càng sâu sắc về xã hội tư bản chủ nghĩa, những khái niệm về chủ nghĩa cộng sản
tương lai ngfay càng được cụ thể hóa.
1.2 Tích chất của dự báo Tính khoa học:
Như trên đã chỉ ra, những dự báo về xã hội cọng sản chủ nghĩa tương lai của Mác và
Ăngghen hoàn toàn không phải là những tưởng tượng vô căn cứ mà là những kết
luận dựa trên những hovj thuyếtkhoa học và dự trên những điều kiệ hiẹn thựccuar
xã hôij tư bản chủ nghĩa đương thời. Tính cách mạng: lOMoAR cPSD| 58605085
Khi đưa ra những dự báo về xã hội cộng sản tương lai, Mác và Ăngghen đã vận dụng
các nguyên lí, quy luật của phép biện chứng duy vật, để chỉ ra những tính tất yếu của
sự ra đời chế dộ xã hội cộng sản chủ nghĩa thay thế cho chế độ xã hội tư bản chủ
nghĩa. C.Mác đã rút ra kết luận có tính khoa học sâu sắc và cách mạng triệt để về
tính nhất thời lịch sử của chủ nghĩa tư bản.
Tính khả năng (có thể xảy ra hay không, phụ thuộc vfao nững điều kiện lịch sử cụ thể):
Các quan điẻm dự báo về xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương là sự “ngoại suy”
từ các kết quả nghiên cứu xã hội TBCN đương thời,chứ không phải là kết quả nghiên
cứu chính xã hội CSCN đã có thực, do đó với một thái độ khoa học nghiê túc,thận
trọng, khi nói đến các đặc trưng của XHCS tương lai, Mác và Ăngghen nhấn mạnh
nhưng đặc trưng đó chỉ là nêu lên cái có thể có, có thể xay ra, chứ không phải cái đã
có, cái nhất định phải là như thế.
2. Dự báo về hai giai đoạn phát triển của CSCN
Dựa trên quy luật chung về sự ra đời của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, đồng thời
dựa trên sự phân tích về hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa với tư cách là hình
thái kinh tế - xã hội trực tiếp dẫn đến sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những dự báo và phác thảo cơ bản
về các giai đoạn ra đời, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản trong tương
lai. Những dự báo và phác thảo đó đã được V.I. Lênin tiếp tục nghiên cứu, bổ sung
trên cơ sở kinh nghiệm lịch sử mới ở thế ở đầu thế kỷ XX, đặc biệt là từ kinh nghiệm
của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Theo C.Mác, từ xã hội tư bản chủ nghĩa chuyển lên xã hội cộng sản chủ nghĩa phải
trải qua 2 giai đoạn: giai đoạn đầu (CNXH) và giai đoạn hoàn chỉnh (CNCS). a.
Giai đoạn đầu: chủ nghĩa xã hội
Dựa vào quan điểm biện chứng duy vật, Mác chỉ ra, mặc dù tư liệu sản xuất đã thuộc
về toàn xã hội nhưng vì xã hội cộng sản chủ nghĩa “thoát thai” từ xã hội tư bản chủ
nghĩa nên trong giai đoạn đầu không thể có ngay các thuộc tính hoàn toàn khác với
chủ nghĩa tư bản mà nó vẫn còn mang “những dấu vết” của xã hội cũ: - Về kinh tế:
+ Sau khi chế độ TBCN bị lật đổ, ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản (giai đoạn
xã hội chủ nghĩa) chế độ tư hữu vẫn còn tồn tại. Việc cải tạo những quan hệ sản xuất
TBCN, cải tạo và xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là một quá trình lâu dài. lOMoAR cPSD| 58605085
+ Việc phân phối được thực hiện theo nguyên tắc trao đổi ngang giá: một số lượng
lao động dưới một hình thức này được đổi lấy cùng một số lượng lao động dưới một
hình thức khác, vẫn còn tồn tại. Theo nguyên tắc này, người lao động lĩnh thù lao
ngang với số lượng lao động mà người đó cống hiến, nghĩa là phân phối theo lao
động. Mác cho rằng, đó vẫn là phân phối theo “pháp quyền tư sản”. Sự phân phối
này là công bằng, sự cống hiến của mỗi người đều được đo bằng thước đo hiệu quả
lao động như nhau. Nhưng sự phân phối theo lao động này có tính hạn chế lịch sử,
còn có thiếu sót, chưa thực sự bình đẳng vì nó mặc nhiên không tính đến sự không
ngang nhau về thể chất, về năng khiếu, về hoàn cảnh gia đình của những người lao
động. Tuy nhiên, Mác cho rằng, những thiếu sót đó là không thể tránh khỏi. Những
thiếu sót này chỉ có thể được khắc phục nhờ kết quả của sự phát triển mạnh mẽ các
lực lượng sản xuất để có thể đảm bảo tình trạng dồi dào của cải vật chất và tinh thần
cho phép chuyển sang một chế độ phân phối mới hoàn thiện hơn, bình đẳng hơn trong
giai đoạn chủ nghĩa cộng sản hoàn thiện. - Về chính trị:
+ Trong giai đoạn đầu của xã hội CSCN, nhà nước vẫn còn tồn tại nhưng không phải
nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa, mà là nhà nước “nửa nhà nước”, nhà nước
đang trên đường đi đến chỗ tự tiêu vong.
+ Lênin đã nhấn mạnh về sự cần thiết tất yếu của việc xác lập nhà nước chuyên chính
vô sản trong giai đoạn đầu của CNCS.
+ Khi đã trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp vô sản phải nắm vững công cụ chuyên
chính, kiên quyết trấn áp những thế lực đi ngược lại lợi ích của đại đa số nhân dân,
bảo vệ những thành quả cách mạng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
+ Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực, của trấn áp, các nhà chủ nghĩa xã
hội khoa học đồng thời nhấn mạnh chức năng tổ chức, xây dựng là thuộc tính cơ
bản nhất của nhà nước chuyên chính vô sản.
+ Lênin chỉ ra, chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột,
đối với những phần tử chống đối chủ nghĩa xã hội mà mặt chủ yếu cơ bản của nó là
tổ chức xây dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
+ Với những đặc tính chức năng như trên, nhà nước vô sản trong giai đoạn đầu của
chủ nghĩa+ sản là một kiểu nhà nước đặc biệt, “nhà nước không còn nguyên nghĩa”,
là nhà nước “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của
nhà nước (chế độ tư hữu sự, phân chia giai cấp,...) mất đi thì nhà nước sẽ tự tiêu vong. lOMoAR cPSD| 58605085
b. Giai đoạn hai: chủ nghĩa cộng sản hoàn chỉnh Giai
đoạn này gồm có 5 đặc trưng:
- Đặc trưng thứ nhất: Lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ cao. Năng suất
lao động của nền sản xuất cộng sản chủ nghĩa cao hơn hẳn năng suất lao động của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. V.I.Lênin đã chỉ ra: “Đó là một nhiệm vụ hết sức
khó khăn, nhưng đó cũng là nhiệm vụ hữu ích, vì chỉ khi nào đã thực tế giải quyết
xong nhiệm vụ đó, thì lúc đó chúng ta mới đóng xong cái đinh cuối cùng vào quan
tài của xã hội tư bản chủ nghĩa để đem nó đi chôn”.
- Đặc trưng thứ hai: Chế độ sở hữu xã hội (công hữu) về tư liệu sản xuất được xác
lập, không còn phân chia giai cấp, không còn nhà nước, chế độ người bóc lột người bị xóa bỏ.
+ Phù hợp với trình độ phát triển và trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất
là sự hình thành quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất.
+ Các nhà sáng lập Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng chỉ ra, không thể xóa bỏ chế
độ sở hữu tư nhân thay thế bằng chế độ công hữu ngay lập tức, một sớm một chiều
được. Sự thay thế này chỉ có thể thực hiện một cách dần dần. Chỉ khi nào tạo ra
được một lực lượng sản xuất hiện đại, xã hội hóa trình độ cao, năng suất cao hơn
hẳn nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thì lúc đó mới có thể xóa bỏ thực sự sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Lúc này, chế độ sở hữu xã hội thay thế
cho chế độ sở hữu tư nhân, chế độ người áp bức, bóc lột người bị xóa bỏ. Quan
hệ giữa người với người là quan hệ hợp tác tương hỗ của những người lao động.
- Đặc trưng thứ ba: Nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên
phạm vi toàn xã hội.
+ Trên cơ sở sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, trong chế độ cộng sản chủ nghĩa sẽ
không có sự khác biệt, không còn mâu thuẫn giữa sự tổ chức sản xuất trong mỗi
công xưởng với tình trạng vô chính phủ trong toàn bộ nền sản xuất xã hội như trong
chế độ tư bản chủ nghĩa nữa. Việc tổ chức sản xuất một cách có ý thức, có kế hoạch
được thực hiện trên phạm vi toàn xã hội trở thành một tất yếu kinh tế có khả năng để thực hiện được.
+ Như vậy, bên cạnh việc thủ tiêu chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã xác định việc điều tiết nền
sản xuất theo một kế hoạch thống nhất trên toàn xã hội là một trong những đặc trưng
cơ bản, là mục tiêu, là thực chất của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. lOMoAR cPSD| 58605085
- Đặc trưng thứ tư: Trong xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai không còn tồn tại
nền sản xuất hàng hóa, không còn tồn tại tiền tệ.
Cũng trên cơ sở chế độ sở hữu xã hội (công hữu) về tư liệu sản xuất trong chế độ
cộng sản chủ nghĩa, Mác dự báo trong xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai, sẽ
không còn tồn tại nền sản xuất hàng hóa, và do đó cũng không còn tồn tại tiền tệ.
- Đặc trưng thứ năm: Nền sản xuất đã có thể thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội.
+ Theo C.Mác và Ăngghen, CNCS tạo khả năng bảo đảm cho mọi thành viên xã
hội không những có điều kiện sinh hoạt vật chất và văn hóa đầy đủ, phong phú,
ngày càng được cải thiện, mà còn hoàn toàn tự do phát triển và sử dụng mọi khả
năng thể lực và trí lực của mình. Đó cũng chính là mục đích của nền sản xuất xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
+ Cơ sở vật chất của khả năng này chính là lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình
độ cao, năng suất lao động đã đạt tới mức tạo ra nguồn của cải dồi dào thỏa mãn
được mọi nhu cầu vật chất cũng như tinh thần của mọi thành viên trong xã hội.
Giai đoạn hoàn chỉnh xã hội Cộng sản chủ nghĩa, đó “là bước nhảy của nhân
loại từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc tự do”. KẾT LUẬN:
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa đã tạo nên một bước ngoặt,
một bước phát triển đặc biệt quan trọng đối với giai cấp vô sản nói riêng và sự phát
triển của lịch sử nhân loại nói chung cả về mặt lý luận và thực tiễn. Học thuyết đã
đưa ra những luận điểm, quan niệm đúng đắn và chứng minh bằng những sự kiện,
những luận cứ xác đáng về tiến trình phát triển của toàn nhân loại. Học thuyết chỉ ra
cho toàn nhân loại về sự sụp đổ của chế độ tư bản chủ nghĩa và sự ra đời của chế độ
Cộng sản chủ nghĩa là tất yếu khách quan chứ không phải là do ý muốn chủ quan
của bất kỳ ai, của bất kỳ người lãnh đạo nào.
Hình thái kinh tế xã hội – xã hội Cộng sản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng
giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, giữa hoàn cảnh quốc tế và những
nhân tố bên trong của giai cấp công nhân mỗi quốc gia, dân tộc. Xây dựng hình thái
kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa là một quá trình phát triển kinh tế xã hội lâu dài
qua nhiều bước lâu dài, qua nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn tìm
tòi và thử nghiệm để tìm cách lý giải và giải quyết những vấn đề do thực tiễn lịch sử
đặt ra. Đồng thời tổng kết khái quát bổ sung vào lý luận chung của hình thái kinh tế
- xã hội Cộng sản chủ nghĩa và lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học ngày càng phong phú và hoàn thiện. lOMoAR cPSD| 58605085 Tài liệu tham khảo:
- Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (dành cho bậc
Đahi học – không chuyên lý luận chính trị), Hà Nội, 2019. - GS, PTS, Nguyễn
Danh mục tham khảo:
Tài liệu Lms buổi 7 và buổi 5