Những giải pháp của doanh nghiệp và của nhà nước - Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Trước đây, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của con người đều mang tính “tự cung, tự cấp”. Những sản phẩm con người tạo ra đôi khi chưa thỏa mãn được nhu cầu của họ. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................2 I.
HÀNG HOÁ VÀ HAI THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HOÁ................................2
1. Khái niệm hàng hoá...........................................................................................2
1. Hai thuộc tính của hàng hoá.............................................................................2
1.1. Giá trị của hàng hoá.....................................................................................2
1.2. Giá trị sử dụng của hàng hoá........................................................................3
1.3. Mối liên hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá...............................................4
II. THỰC TRẠNG CỦA HÀNG HOÁ VIỆT NAM................................................4
1. Thế nào là hàng hoá của Việt Nam...................................................................4
2. Đặc điểm của kinh tế hàng hoá.........................................................................5
2.1. Nền kinh tế nước ta.......................................................................................5
2.2. Nền kinh tế hàng hoá....................................................................................6
3. Thực trạng của hàng hoá Việt Nam..................................................................6 III.
NHỮNG GIẢI PHÁP CỦA DOANH NGHIỆP VÀ NHÀ NƯỚC TRONG
VIỆC VẬN DỤNG HAI THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA NHẰM PHÁT TRIỂN
SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP VÀ CỦA NỀN KINH TẾ..12
1. Giải pháp của doanh nghiệp và nhà nước trong thời kỳ trước COVID......12
1.1. Giải pháp của doanh nghiệp (chủ thể quản lý vi mô)..................................13
1.2. Giải pháp của nhà nước (chủ thể quản lý vĩ mô).... .... ..............................14
2. Giải pháp của doanh nghiệp và nhà nước trong thời kỳ sau COVID..........15
2.1. Giải pháp thu hút người lao động của doanh nghiệp trong điều kiện thực
hiện bình thường mới............................................................................................15
2.2. Giải pháp của nhà nước, chính phủ............................................................16
PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................20 PHẦN MỞ ĐẦU
Trước đây, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của con người đều mang tính
“tự cung, tự cấp”. Những sản phẩm con người tạo ra đôi khi chưa thỏa mãn được nhu
cầu của họ. Từ đó, con người nghĩ đến việc sản xuất ra nhiều hàng hóa hơn để trao đổi
với người khác, vì nhu cầu ngày càng tăng, xã hội ngày càng phát triển con người đem
hàng hóa để “ mua - bán”. Việc “mua - bán” ngày càng thông dụng đối với con người
nên họ đã đầu tư nhiều hơn cho việc sản xuất hàng hóa.
Từ đó C.Mác đã nói rằng: “Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế
mà ở đó, những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, buôn bán.”. Việc
sản xuất hàng hóa (sản phẩm) “tự cung, tự cấp” khác với hàng hóa có mục đích trao
đổi. Mỗi người có một sở thích khác nhau nên khi sản xuất, hàng hóa cần có nhiều
dạng khác nhau. Để đáp ứng được nhu cầu con người, nhà sản xuất cần xem xét những
thuộc tính mà hàng hóa đó mang lại, tối ưu hóa nhằm phát triển sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và nền kinh tế.
Tại Việt Nam, Nhà nước lẫn doanh nghiệp vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế
về sản xuất hàng hóa và cần đưa ra những giải pháp cụ thể. Nhận thấy được tầm quan
trọng trong việc sản xuất hàng hóa và đưa ra các giải pháp, nhóm 10 chúng em quyết
định chọn đề tài: “Hàng hóa, hai thuộc tính của hàng hoá. Những giải pháp của doanh
nghiệp và của nhà nước (chủ thể quản lý vĩ mô) trong việc vận dụng hai thuộc tính của
hàng hóa nhằm phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của nền kinh tế”
để tìm hiểu thêm về hàng hóa và đưa ra những giải pháp cụ thể hơn. 1 PHẦN NỘI DUNG
I. HÀNG HOÁ VÀ HAI THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HOÁ
1. Khái niệm hàng hoá
Theo định nghĩa của Karl Marx, hàng hoá là sản phẩm của lao động, thông qua
trao đổi, mua bán có thể thỏa mãn một số nhu cầu nhất định của con người. Hàng hóa
có thể đáp ứng nhu cầu cá nhân hoặc nhu cầu sản xuất và có thể tồn tại dưới dạng vật
thể hoặc phi vật thể. Từ khái niệm này, ta có thể rút ra kết luận một đồ vật muốn trở
thành hàng hoá cần phải thỏa mãn 3 yếu tố:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động
Hàng hóa có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người
Thông qua trao đổi, mua bán.
Hàng hoá có thể được phân thành nhiều loại như: Hàng hóa đặc biệt Hàng hóa vô hình
Hàng hóa thông thường Hàng hóa công cộng Hàng hóa thứ cấp Hàng hóa tư nhân. Hàng hóa hữu hình
1. Hai thuộc tính của hàng hoá 1.1.
Giá trị của hàng hoá
Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh bên
trong hàng hóa. Giá trị là nội dung bên trong của hàng hóa, nó được biểu hiện ra bên
ngoài bằng việc hai hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Giá trị hàng hóa có những
đặc trưng cơ bản như sau:
Biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa
Là phạm trù lịch sử chỉ tồn tại ở kinh tế hàng hóa.
Giá trị hàng hoá = hao phí sức lao động = thời gian lao động của người sản xuất
để sản xuất ra hàng hoá. 2
Là sức lao động của người sản xuất hàng hoá bị hao phí kết tinh trong hàng hoá
Là mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hoá
Trao đổi là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị còn giá trị là nội dung, cơ sở của trao đổi.
Giá trị hàng hoá gồm 2 loại:
Giá trị cá biệt: hao phí sức lao động của từng người sản xuất để sản xuất ra từng hàng hoá.
Giá trị xã hội: trung bình chung của giá trị cá biệt. 1.2.
Giá trị sử dụng của hàng hoá
Giá trị sử dụng là công dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn một số nhu cầu nào
đó của con người. (có thể là nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần, nhu cầu cá nhân, nhu
cầu tiêu dùng cho sản xuất…). Đối với giá trị sử dụng, hàng hóa có các đặc điểm như sau:
Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quyết định
Hàng hóa không nhất thiết chỉ có một giá trị sử dụng duy nhất. Khi khoa học kỹ
thuật càng phát triển người ta càng phát hiện ra nhiều thuộc tính mới của hàng hóa và
sử dụng chúng cho nhiều mục đích khác nhau
Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hoặc
mọi kiểu tổ chức sản xuất.
Giá trị sử dụng không dành cho bản thân người sản xuất hàng hóa mà cho người
tiêu dùng hàng hóa (xã hội). Người mua có quyền sở hữu và sử dụng hàng hóa theo
mục đích của họ. Hay nói cách khác, sản phẩm hàng hóa đáp ứng nhu cầu của xã hội. 1.3.
Mối liên hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá
Giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau:
Mặt thống nhất: Hai thuộc tính này tồn tại đồng thời trong một sản
phẩm, hàng hóa. Phải có đủ hai thuộc tính này sản phẩm, vật phẩm đó mới được 3
gọi là hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính, thì sản phẩm, vật phẩm
không được coi là hàng hóa
Mặt mâu thuẫn: Người sản xuất làm ra hàng hóa để bán, mục đích của họ
là mặt giá trị (tức là lợi nhuận) chứ không phải là giá trị sử dụng. Trong tay
người bán có giá trị sử dụng, tuy nhiên cái mà họ quan tâm là giá trị hàng hóa.
Ngược lại, đối với người mua, họ lại rất cần giá trị sử dụng. Nhưng để có giá trị
sử dụng, trước hết họ cần thực hiện giá trị hàng hóa sau đó mới có thể chi phối
giá trị sử dụng. Vì vậy mâu thuẫn giữa hai thuộc tính này chính là “quá trình
thực hiện giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa là hai quá trình khác nhau về thời
gian và không gian. Quá trình thực hiện giá trị được thực hiện trước (trên thị
trường), quá trình thực hiện giá trị sử dụng diễn ra sau (trong tiêu dùng). Nếu
giá trị của hàng hóa không được thực hiện thì sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất.” II.
THỰC TRẠNG CỦA HÀNG HOÁ VIỆT NAM
1. Thế nào là hàng hoá của Việt Nam
Đối với nền kinh tế nước ta, sản xuất phải chú trọng đến chất lượng của hàng
hóa, mang lại giá trị sử dụng tốt, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, đem đến cho
khách hàng những trải nghiệm tốt nhất khi sử dụng hàng hóa. Giá trị sử dụng phải làm
cho hàng hóa tốt, bền, đẹp, có nhiều công dụng, tính năng.
Hàng hóa được phép thể hiện là hàng hóa của Việt Nam trong 2 trường hợp,
theo quy định tại dự thảo Thông tư sau:
Hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam
Hàng hóa có xuất xứ không thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại
Việt Nam nhưng trải qua công đoạn gia công, chế biến cuối cùng tại Việt Nam làm
thay đổi cơ bản tính chất của hàng hóa. 4
Dự thảo Thông tư này áp dụng cho hàng lưu thông trên thị trường Việt Nam,
nên ngôn ngữ thể hiện bắt buộc phải là tiếng Việt. Chúng ta là người Việt và không có
nhu cầu sử dụng tiếng nước ngoài để giao tiếp với nhau. Và không áp dụng đối với
hàng xuất khẩu. Nếu hàng nhập khẩu vào Việt Nam đã có nhãn mác thể hiện xuất xứ
không phải xuất xứ Việt Nam thì khi lưu thông trên thị trường, việc ghi nước xuất xứ
sẽ được thực hiện theo Nghị định 43/2017/NĐ-CP. Thông tư của Bộ Công thương sẽ
không điều chỉnh các trường hợp này. Tuy nhiên, nếu hàng nhập khẩu lại gắn sẵn nhãn
mác thể hiện đó là “hàng Việt Nam” thì Thông tư này sẽ được áp dụng. Cơ quan chức
năng sẽ có quyền yêu cầu người nhập khẩu chứng minh đó là hàng Việt Nam trước khi thông quan.
2. Đặc điểm của kinh tế hàng hoá
2.1. Nền kinh tế nước ta
Đang trong quá trình chuyển biến kinh tế từ nền kinh tế hàng hóa kém phát
triển, mang nặng tính tự cấp tự túc sang thành nền kinh tế hàng hóa phát triển từ thấp
đến cao. Có cơ cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội thấp kém. Trình độ cơ sở vật chất
và công nghệ trong các doanh nghiệp còn lạc hậu không có khả năng cạnh tranh và
hầu như không có đội ngũ nhà doanh nghiệp có tầm cỡ. Thu nhập của người làm công
ăn lương và nông dân thấp kém, sức mua hàng hóa của xã hội và dân cư thấp nên nhu
cầu tăng chậm dung lượng thị trường trong nước còn hạn chế.
Nhận xét: Trình độ thấp kém về dung lượng cung cầu hàng hóa và khả năng
cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường.
=> Tạo ra áp lực buộc chúng ta phải vượt qua thực trạng đó và đưa nền kinh tế
phát triển về cả số lượng lẫn chất lượng.
2.2. Nền kinh tế hàng hoá
Nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở kinh tế tồn tại nhiều thành phần. Tiếp cận
đặc điểm này của kinh tế hàng hóa theo các khía cạnh sau: 5
- Nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất, là nguồn lực tổng hợp về nhiều mặt, có khả năng đưa nền kinh tế vượt khỏi
tình trạng thấp kém. Thực trạng kinh tế hàng hóa ở nước ta kém phát triển là do nhiều
nhân tố, nhưng nhân tố gây hậu quả nặng nề nhất là sự nhận thức không đúng dẫn đến
nôn nóng xóa bỏ ngang các thành phần kinh tế.
- Nền kinh tế hàng hóa chịu tác động của sự thay đổi cơ cấu ngành theo hướng
nền kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng. Nó đảm bảo cho mọi người, mỗi doanh
nghiệp dù ở thành phần kinh tế nào cũng đều được tự do kinh doanh theo pháp luật,
được Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp. Các chủ thể kinh tế
đều được hoạt động theo cơ chế tự chủ, hợp tác, cạnh tranh với nhau và đều bình đẳng trước pháp luật.
- Ngoài ra, nền kinh tế hàng hóa phát triển theo cơ cấu kinh tế mở giữa nước ta
với các nước trên thế giới. Nền kinh tế hàng hóa với cơ cấu mở ra đời bắt nguồn từ
Quy luật phân bố và phát triển không đều về tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và
thế mạnh giữa các nước, vì thế nền kinh tế hàng hóa đã ra sức cơ cấu, thích ứng với
chiến lược thị trường hướng ngoại.
3. Thực trạng của hàng hoá Việt Nam
Theo quan điểm của C.Mác thì kinh tế hàng hóa không phải là một phương thức
sản xuất độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại trong các phương thức xã
hội. Với phạm vi và mức độ khác nhau, tuy cùng là nền kinh tế hàng hóa nhưng bản
chất của xã hội sẽ quy định đặc điểm của kinh tế hàng hóa của xã hội đó. Bên cạnh đó,
vai trò quản lý của nhà nước định hướng nền kinh tế hàng hóa theo chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là do nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trước đây, nước ta vốn phát triển lực lượng sản xuất xã hội rất thấp nên cơ sở
sản xuất, chế biến nông, thủy sản ở nước ta còn lạc hậu, trong khi thị trường quốc tế lại
khó tính, đòi hỏi cao về chất lượng của sản phẩm. Nếu chúng ta không tiến lên trình độ 6
sản xuất lớn, hiện đại thì nền kinh tế của nước ta sẽ không thể khắc phục được sự lạc
hậu. Chính vì vậy, nhà nước ta khẳng định chỉ có thể phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần mới phát triển được lực lượng sản xuất; thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp
hóa - Hiện đại hóa; đẩy lùi được kinh tế tự nhiên; khắc phục được hậu quả của kinh tế
kế hoạch hóa tập trung; làm cho kinh tế nước ta hòa nhập vào kinh tế khu vực và thế
giới. Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần được nâng cao, phong phú và đa dạng hơn đều
nhờ vào sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữ các cá nhân, các vùng các nước,...
Nền kinh tế nước ta đã từng là nền kinh tế hàng hóa kém phát triển và chịu ảnh
hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Chất lượng sản phẩm của hầu hết các
doanh nghiệp còn thấp kém đều do hệ thống công cụ thủ công lạc hậu và lao động thủ
công còn nhiều. Các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh để tồn tại và chất
lượng hàng hóa, dịch vụ trở thành vấn đề quyết định. Do đó, các đơn vị sản xuất, kinh
doanh không ngừng đưa ra thị trường nhiều loại hàng hóa với mẫu mã khác nhau và
chất lượng sẽ ngày càng được nâng cao. Vì vậy khả năng cạnh tranh trên thị trường
của hàng hóa sẽ tốt hơn và người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn khi mua hàng hóa.
Dựa vào đặc điểm của từng loại hàng hóa và mục đích sử dụng chúng ta có thể
chia hàng hóa hiện nay ra thành 3 loại: hàng công nghiệp, hàng nông, lâm thủy sản và hàng dịch vụ.
- Hàng công nghiệp: Một số sản phẩm công nghiệp có chỉ số sản xuất tăng cao
như: mặt hàng điện thoại di động, ô tô, tivi, giày dép da, thức ăn cho thủy sản, sơn hóa
học, thức ăn cho gia súc, điện sản xuất,... 7
- Hàng nông sản: Nước ta là một nước nông nghiệp, diện tích đất đai nông
nghiệp dùng để canh tác là rất lớn... Sản phẩm nông nghiệp lại chia thành hai nhóm
chính là trồng trọt và chăn nuôi.
- Hàng thủy sản: Đất nước ta luôn tự hào với đường bờ biển dài với nhiều ngư
trương đánh cá quan trọng để cung cấp một lượng lớn để phục vụ cho nhu cầu xuất
khẩu. Tuy nhiên, sản lượng nuôi trồng có xu hướng tăng mạnh hơn do ngư dân đã tập
trung hơn vào việc nuôi trồng để tránh làm cạn kiệt nguồn tài nguyên biển.
- Hàng lâm sản: So với hai ngành còn lại, lâm sản cũng có những bước phát triển
nhất định với chất lượng ngày càng nâng cao hơn.
Tuy nhiên , nếu hàng hóa mà chỉ chăm chú vào phát triển sản lượng thì hàng
hóa của nước ta sẽ không thể đứng vững trên thị trường, muốn tồn tại và phát triển ta
cần phải nâng cao chất lượng hàng hóa. Chất lượng chính là sự đáp ứng yêu cầu của
người sử dụng tức là hàng sản xuất ra phải phù hợp với mục đích và điều kiện sử dụng
trong những hoàn cảnh cụ thể. Do đó, việc quản lý Nhà nước về quản lý chất lượng
hàng hóa, dịch vụ bao gồm:
- Nhà nước định hướng sự phát triển nâng cao chất lượng hàng hóa , dịch vụ xây
dựng kế hoạch, quy hoạch về chất lượng, ban hành luật và các chính sách khuyến khích chất lượng.
- Nhà nước quy định chế độ, thể lệ và quản lý chất lượng , ban hành tiêu chuẩn
Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến chất lượng hàng hóa, dịch vụ.
- Nhà nước xác nhận tính hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ về mặt chất lượng của
các hệ thống quản lý chất lượng, của các phòng thử nghiệm chất lượng hàng hóa bằng
việc cấp đăng kí, chứng nhận và công nhận.
- Nhà nước giám sát sự thực hiện những quy định quản lý qua thanh tra Nhà
nước về chất lượng hàng hóa và xử lý vi phạm pháp luật về chất lượng hàng hóa, thiết
lập trật tự kỉ cương trong lĩnh chất lượng hàng hóa, bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các
doanh nghiệp và người tiêu dùng. 8
Ngoài ra, việc phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở của trao đổi cũng
mang yếu tố quan trọng trong việc sản xuất hàng hóa. Nó chẳng những không mất đi,
trái lại ngày một phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự chuyên môn hóa và hợp
tác hóa lao động ngày càng mang tính quốc tế và đã vượt khỏi biên giới quốc gia. Phân
công lao động xã hội đã tạo cơ sở thống nhất và phụ thuộc lẫn nhau giữa những người
sản xuất vào hệ thống của hợp tác lao động và phá vỡ các mối quan hệ truyền thống
của nền kinh tế tự nhiên. Sự phân công lao động đã ngày càng chi tiết hơn đến từng
ngành, từng cơ sở và ở phạm vi rộng hơn nữa là toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hiện
nay, nước ta đã có hàng loạt các thị trường được hình thành từ sự phân công lao động
như thị trường công nghệ, thị trường các yếu tố sản xuất,... để nhanh chóng hòa nhập
được với kinh tế trong khu vực và thế giới thì chúng ta cần phải tạo đà cho nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần phát triển. Trong nền kinh tế đã và đang tồn tại nhiều hình
thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động, chế độ xã hội hóa sản
xuất giữa các ngành và các xí nghiệp trong cùng một hình thức sở hữu vẫn chưa đều
nhau. Nguyên nhân là do cơ cấu kinh tế của ta giờ là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần,
sự tồn tại của các thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan
Sản xuất hàng hóa là để trao đổi đáp ứng nhu cầu của xã hội nên người sản xuất
có điều kiện để chuyên môn hoá cao. Trình độ tay nghề của mỗi người cao hay thấp
đều từ việc tích luỹ kinh nghiệm và tiếp thu được tri thức mới. Bên cạnh đó, việc cạnh
tranh ngày càng gay gắt khiến cho năng suất lao động được nâng lên, chất lượng sản
phẩm ngày càng được cải thiện đều nhờ công cụ chuyên dùng được cải tiến và áp dụng
những kỹ thuật mới. Việc trao đổi hàng hóa dựa trên nguyên tắc ngang giá khiến cho
người sản xuất luôn tìm cách tiết kiệm giảm đến mức tối đa những chi phí cá biệt,
giảm giá trị hàng hoá cá biệt để có lợi nhuận. Trên cơ sở phân công lao động, khi sản
xuất hàng hóa phát triển sẽ làm phân công lao động ngày càng cao hơn. Quan hệ hàng
hóa, tiền tệ, quan hệ thị trường ngày càng được chủ thể sản xuất hàng hoá vận dụng có 9
hiệu quả hơn và từ đó không chỉ các quan hệ kinh tế phát triển mà các quan hệ pháp lý
xã hội, tập quán, tác phong cũng thay đổi theo.
Thực trạng sự phát triển của yếu tố hàng hóa trong thực tiễn nền kinh tế thị
trường nước ta hiện nay cũng có ưu điểm và nhược điểm: Ưu điểm:
Thứ nhất, nhìn chung sự phát triển của yếu tố hàng hóa sẽ tạo ra sự đa dạng và
phong phú về số lượng và chủng loại những hàng hóa trên thị trường. Ngoài ra, nó còn
phản ánh lên hai mặt, một mặt là phản ánh những trình độ cao của năng suất lao động
xã hội, mặt còn lại thể hiện mức độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ của phân
công lao động xã hội và sự phát triển của thị trường. Việc nâng cao phát triển yếu tố
hàng hóa trong kinh tế thị trường sẽ giúp đẩy mạnh sức cạnh tranh của hàng hóa, của
doanh nghiệp, của nền kinh tế để theo kịp yêu cầu hội nhập xã hội .
Thứ hai, sự phát triển của yếu tố hàng hóa cũng góp phần nâng cao đời sống vật
chất, tăng khả năng lựa chọn cho người tiêu dùng. Bên cạnh đời sống vật chất được cải
thiện thì cả đời sống văn hóa, tinh thần và chăm sóc y tế cho người dân ngày nay cũng
được nâng cao lên một trình độ mới.
Thứ ba, làm đổi mới kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc
những người sản xuất phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất, không ngừng đổi
mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, sản phẩm, tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả.
Thứ tư, sự phát triển của hàng hóa cũng giúp cho các doanh nghiệp, các nhà sản
xuất thích nghi cao hơn với các điều kiện kinh tế biến đổi giúp sản xuất xã hội thích
ứng kịp thời với nhu cầu xã hội. Bên cạnh những mặt tích cực do yếu tố hàng hóa phát
triển mang lại, thì cũng sẽ chứa những mặt tiêu cực vốn có của nó. Nhược điểm: 10
Thứ nhất, trên thị trường chứa đựng tính tự phát và nhiều yếu tố bất ổn, mất cân
đối. Các nhà sản xuất và kinh doanh đã chạy theo lợi nhuận mà không màng tới việc
phá hoại thiên nhiên, gây nhiều hậu quả xấu như ô nhiễm môi trường, làm hàng giả,
phân hóa xã hội, trốn lậu thuế, thất nghiệp.
Thứ hai, hầu hết giá cả hàng hóa đều do Nhà nước quy định nên đồng tiền thực
tế chỉ còn làm chức năng thanh toán. Thông thường vai trò của quan hệ cung cầu sẽ
điều tiết hay hình thành nên giá cả nhưng việc giá cả được quy định bởi Nhà nước đã
làm cho nó trở nên không còn có ý nghĩa. Chính vì điều đó đã dẫn đến tình trạng là tất
cả các quan hệ cân bằng của thị trường như giá cả cung cầu, sự khan hiếm tương đối
của các nguồn lực đều bị méo mó, thậm chí còn bị loại khỏi đời sống kinh tế.
Thứ ba, vì mục đích hoạt động đạt lợi nhuận tối đa và sản xuất ra nhiều sản
phẩm tốt, vì vậy họ có thể tận dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường sống của con người.
Thứ tư, phân phối thu nhập sẽ không cân bằng, vì sự tác động của cơ chế thị
trường sẽ dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo. Do đó khi hàng hóa có giá quá cao thì
người nghèo ít được sự lựa chọn trong việc mua hàng hóa. III.
NHỮNG GIẢI PHÁP CỦA DOANH NGHIỆP VÀ NHÀ NƯỚC TRONG
VIỆC VẬN DỤNG HAI THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA NHẰM PHÁT TRIỂN
SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP VÀ CỦA NỀN KINH TẾ
1. Giải pháp của doanh nghiệp và nhà nước trong thời kỳ trước COVID
Doanh nghiệp và nhà nước Việt Nam cần định hướng rõ ràng, phát triển dài hạn
các mục tiêu trong việc sản xuất, kinh doanh hàng hóa. Cần ưu tiên lựa chọn những
mặt hàng được mọi người sử dụng nhiều tại địa phương, các tỉnh thành khác tại Việt
Nam, xa hơn nữa là sẽ xuất khẩu đi các nước khác. Đó có thể là những mặt hàng như:
nhu yếu phẩm, đồ gia dụng, trái cây,.... Nhà nước và các doanh nghiệp tại Việt Nam 11
cần đầu tư song song đổi mới (về sản phẩm) và phải chú trọng nhiều hơn nữa về giá trị
và giá trị sử dụng của hàng hóa.
Ngày nay, ứng với nhu cầu ngày càng tăng của người dân đối với hàng hóa đòi
hỏi nhà nước phải chú trọng hơn đến chất lượng sản phẩm, giá trị sử dụng của sản
phẩm và phải mang lại những trải nghiệm tốt nhất khi sử dụng sản phẩm cho người
tiêu dùng. Giá trị sử dụng của sản phẩm vừa phải đảm bảo về mặt chất lượng, đáp ứng
tiêu chí tốt – bền – đẹp của người tiêu dùng; vừa phải có nhiều công dụng, tính năng.
Vì vậy, để có thể nâng cao giá trị sử dụng của sản phẩm, nhà nước ta cần chú trọng
hơn đến những vấn đề sau:
Cần chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong việc quản lý, đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động.
Trình độ, kỹ thuật của người lao động là một trong những yếu tố quyết định đối
với giá trị sử dụng của sản phẩm. Lao động có tay nghề sẽ tạo ra sản phẩm chất lượng,
có giá trị sử dụng tốt. Do đó, nhà nước và doanh nghiệp cần linh hoạt đổi mới phương
pháp quản lý; đổi mới các chính sách, cơ chế về quản lý phát triển nguồn nhân lực;
đảm bảo các phúc lợi cơ bản cho người lao động; đồng thời cần đẩy mạnh công tác
giáo dục, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; khuyến khích người lao động
nâng cao tay nghề. Lao động có tay nghề cao thì sản xuất sẽ hiệu quả, nhanh chóng và
chất lượng thành phẩm tốt. Từ đó được người tiêu dùng trong nước tin tưởng và ưu
tiên sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Khi đó doanh nghiệp mới nghĩ đến việc xuất khẩu ra nước ngoài.
Liên tục cập nhập và đổi mới công nghệ; tăng cường ứng dụng các thành tựu
khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại vào sản xuất.
Dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và xu hướng hội nhập
quốc tế, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành nền tảng quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa. Vì vậy, nhà nước và doanh nghiệp cần 12
chủ động tìm hiểu, nghiên cứu, cập nhật các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại;
triển khai các chương trình đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ; tăng cường
liên kết, hợp tác trong nước và quốc tế về khoa học công nghệ; đẩy mạnh ứng dụng
khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, máy móc hiện đại. Từ đó sản xuất được
nhiều sản phẩm có sự đồng đều hơn, giảm bớt chi phí thuê lao động. Như vậy về lâu
dài giá cũng sẽ giảm, chất lượng sản phẩm có giá trị cao hơn, giá trị sử dụng tốt hơn và
bền hơn, nếu doanh nghiệp tranh thủ đầu tư cải tiến sớm nhất. Đó cũng là một lợi thế
dẫn đầu xu hướng hiện đại hóa dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp, nhằm nâng cao
chất lượng và giá trị sử dụng của sản phẩm, từ đó đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân.
Ngoài những sự giống nhau về giải pháp của doanh nghiệp và nhà nước thì cũng
tồn tại những giải pháp riêng biệt cho từng chủ thể quản lý vi mô và vĩ mô.
1.1. Giải pháp của doanh nghiệp (chủ thể quản lý vi mô)
Nâng cao chất lượng , chất lượng phục vụ, dịch vụ chăm sóc khánh hàng: Nếu
doanh nghiệp thường xuyên lắng nghe những đóng góp, ý kiến từ khách hàng họ sẽ
hiểu được khách hàng muốn gì. Từ đó sẽ dễ dàng cho việc sửa đổi, thay thế những sản
phẩm được sản xuất cung cấp cho thị trường.
Cần có sự cạnh tranh về giá cả trên thị trường: Giá cả hàng hoá được xem khá
quan trọng trong mọi lĩnh vực, giá cả biểu hiện bằng giá trị hàng hóa (tiền), giá trị
càng lớn giá cả càng cao, hầu như phụ thuộc vào cung cầu khi sử dụng.
Đào tạo và phát triển liên tục đội ngũ nhân viên: Đội ngũ nhân viên đã qua
nhiều lớp đào tạo khác nhau, họ sẽ nhạy bén hơn trong việc nghiên cứu thị trường,
phân khúc khách hàng và kịp thời nắm bắt tình hình kinh tế trong và ngoài nước.
Mở rộng quy mô sản xuất tận dụng, tối đa nguồn nhân lực có sẵn ( nhà máy,
máy móc, thiết bị, công nhân,…) 13
1.2. Giải pháp của nhà nước (chủ thể quản lý vĩ mô)
Đẩy mạnh nghiên cứu và tìm hiểu về những xu thế sản xuất hàng hóa trên thị
trường trong và ngoài nước.
Cùng với nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng, việc nắm bắt xu thế sản
xuất trên thị trường là điều kiện cần thiết khi muốn tăng trưởng nền kinh tế. Nhà nước
cần quan tâm hơn đến nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài nước, chủ động nắm bắt xu thế
sản xuất hàng hóa, từ đó đưa ra những chính sách phát triển đúng đắn và hiệu quả
nhằm nâng cao giá trị sử dụng của sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Đầu tư vào việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản
xuất hàng hóa vừa làm tăng năng suất vừa tối đa hóa chi phí sản xuất, từ đó tạo
ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế nước nhà.
Việc sản xuất kinh doanh luôn cần đến những giải pháp công nghệ để tăng năng
suất và hiệu quả ở tất cả các công đoạn. Do đó, nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa công
tác nghiên cứu, đổi mới công nghệ; có các chính sách, cơ chế hỗ trợ phát triển khoa
học công nghệ; xây dựng cơ sở dữ liệu công nghệ hiện đại, tiên tiến để tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp khai thác và sử dụng; từ đó nâng cao năng suất và chất
lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của người dân.
Hợp lý hóa sản xuất, tận dụng tối đa các nguồn lực sẵn có trong sản xuất và kinh doanh.
Để nâng cao giá trị hàng hóa, nhà nước cần phải có những chính sách huy động,
phân bổ và sử dụng nguồn lực hợp lý, hiệu quả để có thể tận dụng tối đa các nguồn lực
sẵn có; từ đó nâng cao năng suất sản xuất, tiết kiệm nguồn lực, tối đa hóa lợi nhuận và
tăng giá trị thặng dư cho nền kinh tế Việt Nam.
Tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm quốc gia. 14
Trước sự cạnh tranh gay gắt từ hàng hóa nước ngoài ở cả thị trường nội địa và
xuất khẩu, nhà nước cần thể hiện vai trò chủ đạo trong các thành phần kinh tế của
mình để điều tiết và nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa của Việt Nam. Muốn làm
được điều đó, nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vào sản xuất kinh
doanh nhằm nâng cao năng suất sản xuất và chất lượng sản phẩm; thực hiện sáng tạo
các chương trình xúc tiến thương mại trong nước; thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam
tham gia trực tiếp vào mạng phân phối nước ngoài; tạo môi trường kinh doanh lành mạnh;…
Tăng năng suất lao động.
Để tăng năng suất lao động, nhà nước cần đảm bảo các chính sách, cơ chế phúc
lợi cơ bản, tối thiểu cho người lao động; tăng cường ứng dụng công nghệ vào sản xuất,
tổ chức đào tạo chuyên môn, kỹ thuật cho nguồn nhân lực; có những chính sách linh
hoạt, hợp lý về mức lương tối thiểu…
2. Giải pháp của doanh nghiệp và nhà nước trong thời kỳ sau COVID
2.1. Giải pháp thu hút người lao động của doanh nghiệp trong điều kiện thực hiện bình thường mới
Các doanh nghiệp có thể ưu tiên liên lạc, thuyết phục, vận động những công nhân
cũ có tay nghề quay lại công ty làm việc, kết hợp với việc lắng nghe tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng và khó khăn của người lao động để có giải pháp chăm lo phù hợp. Đưa ra
các chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà, tiền điện, tiền nước, hỗ trợ mức tối thiểu sinh hoạt
hàng ngày, chi phí xét nghiệm COVID - 19, đàm phán lại mức lương khởi điểm tương
xứng với kinh nghiệm, năng lực công tác và phù hợp với khả năng của doanh nghiệp, …
Xây dựng các chính sách tốt để giữ chân người lao động, nhất là các vị trí cần
kinh nghiệm công tác và tay nghề cao. Có thể giữ chân nhóm lao động ngoại tỉnh bằng
cách cho họ được ưu tiên tiêm vaccine ngừa COVID - 19; hay liên hệ cơ quan y tế để 15
được hướng dẫn việc tự xét nghiệm nhanh định kỳ cho người lao động; riêng đối với
doanh nghiệp thực hiện “3 tại chỗ”, cần quan tâm bố trí địa điểm cho công nhân ăn ở
thuận tiện, cũng như phương tiện đưa công nhân từ nơi ở đến nơi làm việc an toàn,
hiệu quả; trường hợp xuất hiện ca nhiễm có thể xử lý theo hướng có F0 tại phân xưởng
nào thì phong tỏa, khử khuẩn, thay đổi kíp làm việc của phân xưởng đó, chứ không
phong tỏa toàn bộ doanh nghiệp.
Xây dựng các chiến lược phát triển mới sản phẩm, mở rộng thêm mô hình, tái
cấu trúc. Cần xây dựng chính sách đãi ngộ đặc biệt đối những người lao động trung
thành, gắn bó, không rời bỏ công ty lúc khó khăn. Thực hiện các chương trình, chính
sách thu hút nguồn lao động trẻ, nhất là những sinh viên mới tốt nghiệp chưa có việc
làm, sẵn sàng tuyển dụng vào công ty để đào tạo, thay thế dần các khâu đang bị thiếu hụt lao động.
2.2. Giải pháp của nhà nước, chính phủ
Đưa ra nghị quyết 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về việc Quy
định tạm thời “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19” (Nghị
quyết 128) là một bước tiến rất quan trọng, hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, đáp ứng
yêu cầu phòng, chống dịch và phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội.
Thứ nhất, kiểm soát dịch bệnh COVID-19, nâng cao năng lực của hệ thống y tế,
nhất là y tế cơ sở, y tế dự phòng. Đây là nhóm nhiệm vụ giải pháp quan trọng, cấp
bách ngay từ đầu năm 2022 nhằm “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả với
dịch bệnh COVID-19,” tạo nền tảng cho quá trình phục hồi và phát triển kinh tế bền vững.
Thứ hai, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, kiểm soát lạm
phát, trong đó tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ mở rộng hợp lý, bảo đảm
an toàn tài chính quốc gia đồng thời kiểm soát lạm phát và tiết kiệm chi thường xuyên. 16
Thứ ba, hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, thủ tục hành chính, cải thiện
môi trường đầu tư, kinh doanh. Quyết liệt cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện kinh
doanh, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất-kinh doanh, từ đó nâng cao năng lực, hiệu lực,
hiệu quả của bộ máy chính quyền các cấp.
Thứ tư, hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp trong một số ngành, lĩnh vực ưu tiên bằng
các giải pháp về hỗ trợ tín dụng, tài chính, sản xuất, phát triển chuỗi cung ứng bền
vững. Bên cạnh đó tiếp tục hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Thứ năm, phục hồi, huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó đẩy
mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp FDI,
khuyến khích đầu tư nhà ở cho công nhân trong các khu công nghiệp, khu kinh tế.
Thêm vào đó, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, tập trung đầu tư các công trình hạ
tầng quan trọng, dự kiến nguồn vốn đầu tư công trong hai (năm 2022-2023) khoảng 1,2 triệu tỷ đồng.
Thứ sáu, phát triển thị trường lao động và lực lượng lao động, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tăng
cường kết nối cung-cầu lao động, hỗ trợ chuyển đổi nghề bền vững cho người lao động. 17 PHẦN KẾT LUẬN
Hàng hóa ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người. Với sự
tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ, hàng hóa cũng ngày càng được quan
tâm và chú trọng hơn. Do đó, việc nghiên cứu về hàng hóa và các thuộc tính của nó là
điều vô cùng cần thiết. Việc nghiên cứu này sẽ là cơ sở để liên hệ thực tế đến đặc điểm
và thực trạng của hàng hóa Việt Nam; từ đó nhận ra những cơ hội và thách thức,
những mặt còn hạn chế của nước ta trong việc sản xuất kinh doanh, đồng thời đưa ra
những giải pháp cho doanh nghiệp nói riêng và cho nhà nước Việt Nam nói chung
trong việc vận dụng hai thuộc tính của hàng hóa nhằm phát triển sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện phát triển nền kinh tế nước nhà.
Mục đích chính của bất kỳ hoạt động sản xuất nào cũng là để tạo ra hàng hóa có
khả năng đáp ứng hay thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Hàng hóa có hai thuộc
tính là giá trị và giá trị sử dụng. Hai thuộc tính này vừa thống nhất vừa mâu thuẫn lẫn
nhau. Một hàng hóa phải có cả hai thuộc tính, nếu thiếu một trong hai thì không phải là
hàng hóa. Do đó, doanh nghiệp và nhà nước phải xem xét và vận dụng cả hai thuộc
tính để có thể đưa ra những chính sách, quyết định phát triển chính xác và đúng đắn nhất.
Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa và vẫn đang trong
quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu là lao động chân tay sang
nền kinh tế phát triển từ thấp đến cao với sự ứng dụng của khoa học công nghệ vào sản
xuất. Do đó, thị trường ở nước ta vẫn còn chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, nền sản xuất
vẫn còn lạc hậu so với các nước khác trên thế giới, hàng hóa vẫn chưa đạt chất lượng
tốt, chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng; song, với sự ứng dụng
các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, yếu tố hàng hóa phát triển đã làm tăng
cạnh tranh trong nước; từ đó tạo động lực cho người sản xuất không ngừng đổi mới
công nghệ, nâng cao chất lượng sản xuất. 18
Trong bối cảnh toàn cầu chịu ảnh hưởng từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và
hội nhập quốc tế, nhu cầu tiêu dùng trong nước ta nói riêng cũng ngày càng tăng cao
và đa dạng hơn. Điều này đòi hỏi việc sản xuất hàng hóa cần coi trọng cả hai thuộc
tính của hàng hóa để có thể không ngừng cải thiện chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa
mẫu mã, nâng cao giá trị sử dụng và đem đến cho khách hàng giá cả sản phẩm phải
chăng, hợp lý thúc đẩy quá trình trao đổi hàng hóa trên thị trường… 19