-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Những nét đặc sắc về thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm | Văn mẫu lớp 9
Trong nhiều bài thơ, nhất là thơ Nôm, của Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta bắt gặp những rung động thơ tinh tế, biểu lộ một tâm hồn nghệ sĩ rất nhạy cảm. Không chỉ là những tiếng thơ mĩ lệ, những lời thơ đẹp, mà là những xúc cảm thực sự mang tính trữ tình. Dưới đây là đôi nét đặc sắc về thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
(...) Lâu nay, khi nói về thơ ông. người ta hay nghĩ nhiều đến chất triết lý, chất
trí tuệ, ít người chú ý đến chất trữ tình của ông. Trong rừng thơ trí tuệ ấy, yếu
tố trữ tình trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đem lại cho chúng ta cảm giác tươi
mát như lạc giữa đại ngàn bỗng gặp một mảnh trời xanh biếc. Trong dịp này,
tôi xin sẽ không đề cập đến mảnh thơ trí tuệ, mảng thơ giáo huấn và mảng
thơ phê phán của ông, cũng như chưa nói đến hình thức nghệ thuật mang
tính dân tộc của ông, mà chi xin nói đôi nét về thơ trữ lình.
Trong nhiều bài thơ, nhất là thơ Nôm, của Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta bắt
gặp những rung động thơ tinh tế, biểu lộ một tâm hồn nghệ sĩ rất nhạy cảm.
Không chỉ là những tiếng thơ mĩ lệ, những lời thơ đẹp, mà là những xúc cảm
thực sự mang tính trữ tình. Đó là chiều sâu tâm hồn của mội thi sĩ có bề dày
của cả cuộc sống thời đại, của cả một sức học uyên bác, một sức nghĩ sâu
sắc, một cây bút tài hoa. Tôi đã gặp đâu đây một câu nói hay của một nhà tư
tưởng: Triết học cũng như toán học khi đến đỉnh cao sẽ gặp thơ ca. Ở trường
hợp Nguyễn Bỉnh Khiêm, trí tuệ đã phát triển đến nghệ thuật trữ tình, ông đi
từ tư duy logic đến tư duy hình tượng không chút nào khiên cưỡng. Sự
chuyển tiếp ấy dung dị, lão thực đến mức người đời sau đọc thơ ông không
khỏi ngạc nhiên về trình độ bậc thầy trong cấu tạo hình ảnh, sử dụng màu
sắc, với những câu thơ vô cùng trong sáng. Có ai nghĩ được rằng người viết những câu:
“Chẵn lẽ đầy vơi số song nhau
Âm dương tiêu trưởng rất cơ màu." hoặc:
“Thái cực chưa chia còn hỗn độn,
Lưỡng nghi hợp lại mới khai trương…”
Cũng là những người viết những câu:
“Vườn rau sáng dạo sương đầy dép,
Bến cá đêm trăng bóng lọt thuyền…” hoặc:
“Núi nhuộm sắc thu, xanh chuyển nhạt
Sóng lồng bóng nguyệt, trăng ghen nhau…”
Trong thơ ông, thiên nhiên cũng có tình như người. Giữa sự vật, giữa gió,
trăng, hoa, có cũng có mối liên quan tình cảm với nhau. Thấy hoa nở mới hay
có gió đưa tin, nhìn mặt nước vẫn rõ bóng nguyệt như dáng giai nhân. Nhà
thơ của chúng ta. giữa những ưu tư về thời thế, vẫn dành thời gian để đợi
ánh trăng qua hàng tre trúc. Để chờ gió đến báo tin hoa nở trước nhà. Nỗi lo
đời, thương dân không làm mất đi cái phong thái ung dung, nỗi rung dộng của lòng mình:
“Đêm, đợi trăng cài bóng trúc
Ngày, chờ gió thổi tin hoa…”
Ông muốn níu lại từng làn hương thoáng qua song cửa, ban đêm nâng chén
rượu, ông hồi hộp sợ bóng trăng tan đi, không ở lại với mình:
“Nương song, ngày tiếc mùi hương lạc
Nối chén, đêm âu bóng quế tan…” (Thơ Nôm, bài 23)
Tiêu biểu cho thơ trữ tình của Nguyễn Bỉnh Khiêm, có lẽ nên nhắc đến hai bài
Khuê tình và Cảm cựu, một bài nói về nỗi đau buồn của người thiếu phụ nhớ
thương chồng nơi trận mạc, một bài nói đến tình bạn xưa của bản thân tác giả.
“Tiếng ngâm theo ngọn gió tây
Phong khuê thiếu phụ ngủ say một mình
Bỗng nghe hơi gió bên mình
Mới hay có kẻ xót tình biệt ly
Chẳng nề trận mạc ra đi
Trông xa gợi nỗi tái tê bao niềm
Giọt mưa rả rích bên thềm
Như ai thủ thỉ trong đêm nỗi lòng.”
("Nỗi lòng ở chốn phòng khuê" - Bản dịch thơ)
Cũng vẫn những chất liệu từng gặp trong những bài thơ viết về chinh phụ xưa
nay. nhưng ở đây không phải là tiếng trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt
lúc ra đi mà là tiếng trống thúc quản nơi trận mạc cũng dấy lên nỗi đau lòng
của người ở nhà - không phải là ngọn gió xuân không hiểu cho lòng người lại
cứ ỡm ờ vào động màn the, mà là hơi giá buốt thấm vào phòng khuê làm cho
người thiếu phụ cô đơn càng thấm cảnh xót xa ly biệt. Khép lại bài thơ trên là
tiếng thì thầm đêm dài của giọt mưa trước thềm, tạo nên một cảm giác buồn
quạnh thê lương và triền miên không dứt. Đối với nhà thơ, nỗi lòng chinh phụ
ấy là một thực trạng của đời sống nhân dân. Chất trữ tình của bài thơ là sự cô
đọng của tình thương đời của ông. Nếu không có tấm lòng ấy, nếu không hòa
mình vào số phận của nhân dân trong đời ly loạn ấy, khó có thể viết nên
những vần thơ thiết tha như vậy.
Bài "Cảm cựu" cũng là một bài thơ hay. Thơ xưa cũng từng viết về tình bạn,
mừng bạn, khóc bạn, tiễn bạn như chúng ta đã biết, ở đây Nguyễn Bỉnh
Khiêm gửi vào thơ tình cảm nhớ thương người bạn cũ. Chúng ta có thể hiểu
được nỗi riêng của ông trong thời buổi ấy, người bạn tâm giao có thể do thời
thế mà bước sang một trận tuyến khác; nhưng đối với ông. Hắc triều hay Nam
triều, nhà Mạc hay nhà Lê trung hưng lúc bấy giờ cũng chỉ là những kẻ hung
ác hại dân, cho nên khoảng cách không gian chỉ làm cho lòng nhớ bạn càng
mặn nồng hơn. Nỗi riêng ấy, Nguyễn Binh Khiêm chỉ biết trao gửi cho vầng
trăng, vầng trăng lẽo đẽo theo từng bước bên mình, như mối tình chung thủy của ông “Sơ giao bạn cũ cách xa
Tấm son có biết đậm đà nữa thôi? Đau lòng vô cớ lệ rơi,
Nhớ ai luống những bồi hồi xiết đau
Sao buồn vẳng tiếng canh thâu
Non cao riêng dứt đàn sầu cho xong
Biết ta chỉ tấm trăng trong
Quan sơn muốn dặm trăng cùng theo ta”
(Bản dịch trích trong bài viết của Vân Trinh)
Chúng ta có thể còn tìm thấy nhiều nét trữ tình như thế ở một số thơ lớn của
dân tộc. Mảng thơ này ít được người đời sau chú ý, dù nó có giá trị nghệ
thuật rất cao. Có lẽ mảng thơ ấy đã bị che lấp bởi cái bóng núi đồ sộ về triết
học, về nhân cách tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm hầu như đã trở thành
trọng tâm nghiên cứu của nhiều thế hệ và cũng là đặc trưng lớn nhất, cơ bản
nhất, của sự nghiệp văn chương của ông. Dù vậy. chúng ta vẫn nên chắt lọc
một chút ánh trăng trong rừng già cổ kính, một chút trời xanh bên tượng đài
trang nghiêm. Làm như vậy, để càng thấy lồng lộng tầm cao của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, càng thấy sự đa dạng, phong phú ở tâm hồn ông.