Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác – lênin

Khái niệm Triết họcTriết Học là hệ thống lý luận chung nhất của con người về thế giới, cũng như vềbản thân con người và vị trí của con người trong thế giới ấy.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem 

lOMoARcPSD| 45764710
ĐỀ CƯƠNG :
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN
CÂU 1 : Trình bày nội dung vấn đề cơ bản của Triết học, phân biệt Chủ nghĩa
duy vật và Chủ nghĩa duy tâm , triết học nhị nguyên ; các hình thức của Chủ
nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm ?
Bài làm :
Khái niệm Triết học
Triết Học là hệ thống lý luận chung nhất của con người về thế giới, cũng như về
bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới ấy.
Triết học đã có hơn 2000 năm hình thành và phát triển. Ở mỗi thời kì lịch sử khác
nhau, Triết học phải giải quyết các vấn đề khác nhau, nhưng tổng kết lại toàn bộ
lịch sử. Ph. Ăngghen đã khái quát rằng : “ Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi Triết
học, đặc biệt là Triết học hiện đại là mối liên hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa vật
chất và ý thức, giữa con người với giới tự nhiên “
Vấn đề cơ bản của Triết học
Gồm hai mặt.
lOMoARcPSD| 45764710
+ mặt thứ nhất, vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào sẽ
quyết định cái nào.
+ mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không ?
Việc trả lời cho mặt thứ nhất đã dẫn đến sự xuất hiện của các trường phái Triết học
lịch sử đó chính là Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa Duy Tâm.
Chủ nghĩa duy vật thì cho rằng vật chất là cái có trước và ý thức là cái có sau, vật
chất quyết định ý thức. Vật chất là tính thứ nhất còn ý thức là tính hai. Chủ nghĩa
duy tâm thì lại cho rằng ý thức mới là cái có trước và vật chất là cái có sau, ý thức
quyết định vật chất, ý thức là tính thứ nhất và vật chất là tính thứ hai.
Việc trả lời cho mặt thứ hai đã làm xuất hiện các quan điểm trái chiều nhau. Có
quan điểm cho rằng con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới, đó
chính là quan điểm của trường phái Khả tri luận. Lại có quan điểm cho rằng con
người không có khả năng nhận thức được thế giới, đó chính là trường phái Bất tri
luận.
Các hình thức của Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật :
Có nguồn gốc từ thực tiễn và sự phát triển của khoa học. Chính qua thực tiễn và
khái quát hóa tri thức của nhận loại trong nhiều lĩnh vực, chủ nghĩa duy vật đã thể
hiện hệ thống tri thức lý luận chung nhất gắn với lợi ích của các lực lượng xã hội
tiến bộ, định hướng cho các lực lượng này trong hoạt động nhận thức và thực tiễn,
chủ nghĩa duy vật có 3 hình thức, đó chính là Chủ nghĩa duy vật chất phác, Chủ
nghĩa duy vật siêu hình và Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật chất phác :
lOMoARcPSD| 45764710
Là hình thức sơ khai của chủ nghĩa duy vật. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất của
vật chất, chủ nghĩa duy vật chất phác đã lý giải toàn bộ sự sinh thành của thế giới
từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên, là
bản nguyên của thế giới. Những lý giải đó được thể hiện trong nhiều học thuyết
duy vật thời cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp.
Tuy còn rất nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác về cơ bản là đúng vì
nó đã lấy bản thân vật chất của giới tự nhiện để giải thích về giới tự nhiên.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình :
Là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện tiêu biểu trong lịch sử
Triết học Tây Âu thế kỉ XVII – XVIII. Đặc điểm lớn nhất của chủ nghĩa duy vật
thời kì này là phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhìn nhận về thế giới.
Tuy chưa phản ánh đúng thế giới trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển nhưng
chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần quan trọng trong việc chống lại thế giới
quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung cổ
sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng :
Là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng
lập, V.I.Lênin và những người kế tục của ông bảo vệ và phát triển. Với sự kế thừa
những tinh hoa của các hc thuyết triết học trước đó và việc sử dung triệt để nhũng
thành tựu khoa học tự nhiên đương thời, chủ nghĩa duy vật biên chứng ngay từ khi
mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại
và chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại Tây Âu, đạt tới trình độ là hình thức
phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử. Trên cơ sở phản ánh đúng
đắn khi thực hiện khách quan trọng mối quan hệ phổ biến và sự phát triển, chủ
lOMoARcPSD| 45764710
nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức
khoa học và thực tiễn cách mạng.
Toàn bộ hệ thống quan hệ của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ
sở lý giải một cách khoa hc về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm :
Có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó là : sự xem xét phiến diện, tuyệt
đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó cảu quá trình nhận thức và
thường gắn với lợi ích của các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động.
Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cũng thường có mối liên hệ mật thiết với nhau ,
nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Trong lịch sử, Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản đó chính là : Chủ nghĩa
duy tâm chủ quan và Ch nghĩa duy tâm khách quan.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan : thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người,
trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan ca hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ
quan khẳng định mọi sự vật, hiện tương chỉ là “ phức hợp những cảm giác “ của cá
nhân.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan : cũng thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý
thức nhưng tinh thần, ý thức ấy là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có
trước, tồn tại độc lập với giới tự nhiên, với con người và thể hiện dưới nhiều tên
gọi khác nhau, như “ ý niệm tuyệt đối “ , ‘ tinh thần tuyệt đối “ hay “ lý tính thế
giới “ ,…..
lOMoARcPSD| 45764710
CÂU 2 : Phân tích quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất và các
phương pháp, hình thức tồn ti của vật chất, Ý nghĩa phương pháp lun của
những vấn đề trên ?
Bài làm :
Vật chất :
Vật chất với tư cách là một phạm trù Triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500
năm. Ngay từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh
không khoan nhường giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Trong khi chủ nghĩa duy tâm quan niệm rằng bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên
của mọi sự tồn tại là một bản nguyên tinh thần, còn vật chất chỉ là sản phẩm của
bản nguyên tinh thần ấy thì chủ nghĩa duy vật quan niệm : bản chất của thế giới,
thực thể của thế giới là vật chất – cái tồn tại vĩnh viễn, tạo nên mọi sự vật, hiện
tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
Trước khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời, nhìn chung, các nhà triết học duy
vật quan niệm vật chất là một hay một số chất tự có, đầu tiên, được coi là những
chất “ giới hạn tột cùng “ đóng vai trò là cơ sở sản sinh ra toàn bộ thế giới. Từ
thời cổ đại, thuyết Ngũ hành của Triết Học Trung Quốc đã cho rằng những chất tự
có, đầu tiên ấy là kim – mộc – thủy – hỏa – thổ ; ở Ấn Độ, phái Sàm-Khya lại
quan niệm đấy là Prakriti hay Pradhana; ở Hy Lạp, phái Mile quan niệm là Nước (
Thales ) hay không khí ( Anaximen ) ; Hê-ra-clit quan niệm đó là lửa,…. Cho
đến thế kỷ XVII, XVIII quan niệm về vật chất của các nhà Triết Học thời cận đại
Tây Âu như Ph.Becon, R.Đềcáctơ, T.Hốpxơ, Đ.Điđơrô v.v. vẫn không có những
thay đổi căn bản. Họ tiếp tc đi theo khuynh hướng hiểu về vật chất như các nhà
triết học duy vật thời cổ đại và đi sâu tìm hiểu cấu trúc vật chất của giới tự nhiên
trong sự biểu hiện cảm tính cụ thể của nó.
lOMoARcPSD| 45764710
Quan niệm về vật chất của các nhà triết học duy vật trước Mác đã đặt nền móng
cho khuynh hướng lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên nhưng
nó cũng bộc lộ nhiều hạn chế, như đồng nhất vật chất với vật thể, không hiểu bản
bản chất của ý thức cũng như mối quan hệ giữa ý thức với vật chất; không tìm
được cơ sở để xác định những biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội nên
cũng không có cơ sở để đứng trên quan điểm duy vật khi giải quyết các vấn đề về
xã hội, v.v… Những hạn chế đó tất yếu dẫn đến quan điểm duy vật không triệt để.
Và chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng tình cảnh này để bác bỏ hay là khẳng định bản
chất “ phi vật chất “ của thế giới, khẳng đnh vai trò của các lực lượng siêu nhiện
đối với quá trình sáng tạo ra thế giới.
Trong bối cảnh lịch sử đó, để chống lại sự xuyên tạc của các nhà triết học duy tâm,
bảo vệ và phát triển thành tưu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
đồng thời kế thừa tư tưởng Mác và Ph. Ăngghen, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa
kinh điển về vật chất :
Vật chất là mt phạm trù Triết Học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại , phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác “
Trong định nghĩa này, cho thấy :
Thứ nhất, cần phải phân biệt khái niệm “ vật chất “ với tư cách là một phạm trù
triết học ( phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi sự tồn
tại vật chất và được xác định từ góc độ giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học )
với khái niệm “ vật chất “ được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành ( khái
niệm dùng để chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính )
lOMoARcPSD| 45764710
Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất là thuộc tính
tồn tại khách quan, tức tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức
của con người, cho dù con người có nhận thức hay không nhận thức được chúng.
Thứ ba, vật chất, dưới những dạng cụ thể của nó là cái có thể gây nên cảm giác ở
con người khi trức tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý
thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất ; vật chất là cái được ý thức
phản ánh
Như vậy, định nghĩa về vật chất của Lênin có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học :
Một là, với tư cách là một phạm trù triết học với khái niệm vật chất với tư cách là
một phạm trù của các khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong
quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp thêm căn cứ nhận thức
khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây
dựng quan điểm duy vật về lịch sử , khắc phục được những hạn chế duy tâm trong
quan niệm về xã hội.
Hai là, khi khẳng định vật chất là “ thực tại khách quan “, “ được đem lại cho con
người trong cảm giác và được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
V.I.Lenin không những đã khẳng định tính thứ nhất của vật chất , tính thứ hai ca ý
thức theo quan điểm duy vật mà còn khẳng định khả năng con người có thể nhận
thức được thực tại khách quan.
Các phương thức và hình thức tồn tại của vật cht :
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật chất;
không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
lOMoARcPSD| 45764710
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất : Ph.Ăng-ghen đã định nghĩa “ vận
động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật
chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và
mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy “
Theo quan điểm của Ăng-ghen, vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí
mà là “ mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ “ ; vật chất luôn gắn
liền với vận động và chỉ thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất mới
biểu hiện được sự tồn tại của mình.
Dựa trên thành tự khoa học ở thời đại mình, Ph.Ăngghen đã chia vận động thành 5
hình thức cơ bản :
+ Vận động cơ học : sự di chuyển ca các vật thể trong không gian
+ Vật động vật lý : sự vận đng của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các quá
trình nhiệt, điện v.v…
+ Vận động hóa hc : sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ trong những quá trình hóa
hợp và phân giải
+ Vận động sinh học : sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen v.v…
+ Vận động xã hội : sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v…
của đời sống xã hội.
Các hình thức vận động cơ bản nói trên được sắp xếp theo trình độ từ thấp đến cao,
tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau
song chúng không tồn tại biệt lập mà còn có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong
đó : hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp
bao hàm trong những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình,
lOMoARcPSD| 45764710
mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao gi
cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
Khi khẳng định vận động là hình thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của
vật chất, chủ nghĩa duy vật biện chúng cũng đã khẳng định vận động là tuyệt đối,
là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa là chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận
đứng im. Song, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im
trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng và đứng im là
hiện tượng tương đối, tạm thời.
Vận động trong thế cân bằng là vận động chưa làm thay đổi cơ bản về v trí, hình
dáng, kết cấu ca sự vật, chưa làm thay đổi cơ bản chất của sự vật.
Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối vì đứng im chỉ xảy ra đối với một số hình
thức vận động và trong một số quan hệ nhất định chú không xảy ra với tất cả các
hình thức vận động và tới tất cả các quan hệ. Đứng im là hiện tượng tạm thời vì
đứng im chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định chứ không tồn tại vĩnh viễn.
Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính
( chiều cao, chiều rộng, chiều dài ) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan
nhất định ( trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái v.v..) với những
dạng vất chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Mặt
khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi nhanh hay chậm,
kế tiếp và chuyển hóa v.v… gọi là thời gian.
Tính thống nhất về vật chất của thế giới.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định : bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất của nó.
lOMoARcPSD| 45764710
Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau :
Một là, chỉ có mt thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất là cái có
trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người
Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và
không bị mất đi.
Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống nhất
với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng c thể của vật chất, là những
kết cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự
chi phối của những quy luật khách quan phổ biến ca thế giới vật chất.
CÂU 3 : Phân tích nguồn gốc bản chất của ý thức, mi liên hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này ?
Bài làm :
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên
và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên :
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng : ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định
vật chất, ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai.
Theo quan điểm của các nhà duy tâm thì ý thức tách rời vật chất. Nhờ có ý thức mà
con người biết được thế giới khách quan coi ý thức là điểm xuất phát để suy ra tự
nhiên.
+ Chủ nghĩa duy vật : vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức,
vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai.
Ý thức của riêng con người và do ý thức được sinh ra ở não bộ con người.
lOMoARcPSD| 45764710
Ý thức là một dạng của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà ch
một dạng vật chất có tổ chức cao ở trong bộ óc con người, cho nên ý thức phải gắn
liền với hoạt động của bộ óc con người.
Như vậy, nếu ch riêng bộ óc con người không thôi thì vẫn chưa có ý thức, nếu
không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó lên não bộ
thì hoạt động ý thức của con người không diễn ra.
Kết luận : bộ óc con người cùng với thế giới bên ngoài tác động vào ý thức con
người. Đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội :
C.Mác đã từng nói : “ con người muốn tồn tại và phát triển thì trước hết phải có ăn,
uống, ở , mặc “
Chính vì vậy, con người phải trải qua quá trình lao động để làm thỏa mãn những
nhu cầu tồn tại của mình và chính từ lao động con người đã tạo ra được ngôn ngữ.
Lao động : là quá trình diễn biến giữa con người với thế giới khách quan. Nhờ có
sự lao động mà từ loài vượn thành người, nhờ lao động con người tạo ra sản phẩm
của tự nhiên và xã hội, là chủ thể của tự nhiên và xã hội. Trong quá trình tác động
vào thế giới khách quan, con người đã làm cho thế giới khách quan bộc lộ ra
nhũng thuộc tính, quy định vốn có của nó, tác động vào bộ óc con người. Từ đó,
hình thành nên tri thức về tự nhiên và xã hội, cho nên ý thức được hình thành ch
yếu do quá trình cải tạo hiện thực khách quan của con người , làm biển đổi thế giới
đó.
Ngôn ngữ : Trong quá trình lao động, ngay từ đầu con người đã mang tính tập thể,
tính xã hội. Do vậy, họ cần trao đổi kinh nghiệm, tư tưởng cho nhau và chính nhu
cầu đó đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ, ngôn ngữ làm cho khả năng tư duy ý thức con
lOMoARcPSD| 45764710
người ngày càng hoàn thiện hơn. Đồng thời ngôn ngữ giúp ý thức trong bộ não con
người không bị mất đi.
Như vậy, ta có thể kết luận : ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, ý
thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người trên cơ sở
lao động và ngôn ngữ.
Bản chất và kết cấu của ý thức :
Bản chất : Coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con
người một cách năng động sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ thể ca thế giới khách
quan.
Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động sáng tạo,
ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên ý thức
con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu xã hội, thể
hiện ở ba mặt :
Thứ nhất, trao đổi thông tin giữa chủ thể với đối tượng phản ánh : sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều , có định hướng, có chọn lc các thông tin cần thiết.
Thứ hai, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
VD : Khi ta nhìn thấy quả xoài và nhận ra được đặc điểm của nó, và khi vô thức
chúng ta nghe ai đó nhắc đến quả xoài, chúng ta sẽ dễ nhận dạng ra hình dáng và vị
của quả xoài.
Thứ ba, chuyển mô hình từ tư duy hiện thực khách quan : tức là quá trình hiện thực
hóa tư tưởng thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại,
biến cái ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực.
lOMoARcPSD| 45764710
Về bản chất, ý thức mang bản chất xã hi. Vì nó luôn gắn liền với các hoạt động
thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sịnh học mà chủ yếu là của
quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực
của con người quy định.
Kết Cấu : Ý thức là một hiện tượng xã hội có kết câu phức tạp gồm nhiều thành
tố khách nhau có quan hệ chặt chẽ lẫn nhau.
C.Mác và Lênin cho rằng : “ ý thức bao gồm : tri thức, tình cảm – ý chí “
Tri thức : là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức của con người về thế giới hiện thực làm tái hiện trong tư tưởng. Về những
thuộc tính, nhũng quy luật của thế giới ấy được diễn ra dưới hình thức ngôn ngữ và
các kí hiệu khác.
Tình cảm : Là sự xúc cảm, cảm động của con người trong quan hệ giữa mình với
thực tại xung quanh đối với bản thân mình. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của
sự phản ánh hiện thực, nó phản ánh mối quan hệ của con người với nhau cũng như
của thế giới khách quan. Đồng thời, nó cũng giữ vị trí quan trọng trong sự điều
chỉnh hoạt động của con người.
Ý chí : là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong
quá trình thực hiện mục đích của con người, cho nên ý chí tạo nên sức mạnh đ
làm chủ tự nhiện, bản thân và xã hội.
Mối quan hệ hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức :
- Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức :
lOMoARcPSD| 45764710
Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức và tồn tại độc lập
khách quan với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Não người là dạng vật
chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức, ý thức tồn tại
phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới
khách quan.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào não người, là hình ảnh của thế giới
khách quan. Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung
của ý thức. Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vào vật chất, phản
ánh đúng hiện thực khách quan, có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của
con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất và ngược lại. Nếu như ý thức
không phản ánh đúng hiện thực khách quan ở mức độ nhất định có thể gây sự
kìm hãm các hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiện
và xã hội.
Ý nghĩa phương pháp luận :
Từ mối quan hệ biện chứng trên, ta có thể thấy rằng :
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan,
tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tinh thần năng động chủ quan.
Theo nguyên tắc của phương pháp luận này, mọi hoạt động nhậ thức và thực
tiễn của con người chỉ có thể đúng đắn, thành công và có hiêu jquar tối ưu
khi và chỉ khi thực hiện đồng thời được việc xuất phát từ thực tế khách quan,
tôn trọng khách quan với phát huy tính năng động chủ quan.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan trọng nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và khắc phc
bệnh chủ quan duy ý chí, đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế,
lấy ảo tưởng thay cho hiện thực…. , mặt khác cũng phải chống chủ nghĩa
lOMoARcPSD| 45764710
kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ,
thụ động… trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
CÂU 4 : Tnh bày nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý
về mối liên hệ ph biến và nguyên lý về sự phát triển ?
Bài làm :
Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến :
Khái niệm : mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau, giữa các sự vật trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến là những khái niệm dùng để ch mối liên hệ, tồn tại ở
nhiều sự vật của thế giới, đó là mối liên hệ giữa các mặt đối lập, giữa lượng
và chất, tồn tại trong nhiều sự vật ca thế giới.
Mối liên hệ phổ biến ở các sự vật, hiện tượng có yếu tồ cấu thành nên sự vật
hiện tượng, tồn tại trong thế giới tự nhiên, xã hội hay tư duy của con người.
Theo quan điểm duy vật siêu hình :
Mọi sự vật đều tách rời và cô lập, ở chúng không có mối liên hệ với nhau,
không phụ thuộc vào nhau và cái nào sẽ quy định cho mối liên hệ của cái đó.
Được các thế lực siêu nhiên và ý thức, cảm giác của con người tạo ra ( gọi là
ý niệm tuyệt đối )
Theo quan điểm duy vật biện chứng :
Các sư vật, hiện tượng không tách rời và không cô lập nhau, giữa chúng có
mối liên hệ mật thiết, ràng buộc và áp đặt nhau, phụ thuộc vào nhau.
Cơ sở mối liên hệ giữa sự vật và hiện tượng chính là tính thống nhất vật chất
của thế giới, vì nhờ tính thống nhất này mà các sự vật, hiện tượng không thể
lOMoARcPSD| 45764710
tồn tại biệt lập và tách rời nhau mà chúng tồn tại trong sự tác động qua lại,
chuyển hóa lẫn nhau.
Tính chất của mối liên hệ :
Mối liên hệ phổ biến có những tính chất sau :
Thứ nhất, tính khách quan : mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới đều có tính khách quan, các mối liên hệ đó quy định lẫn nhau, tác động,
chuyển hóa lẫn nhau do tính vốn có của sự vật, hiện tượng. Nó tồn tại một
cách độc lập, khách quan và không phụ thuc vào ý thức, tư duy của con
người.
Thứ hai, tính phổ biến : Bất kì một sự vật, hiện tượng nào cũng mối liên
hệ với một hay nhiều sự vật, hiện tượng khách. Không có sự vật nào là
không có mối liên hệ hoặc nằm ngoài mối liên hệ này cả.
Có thể là cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong
những điều kiện cụ thể khác nhau ở những giai đoạn phát triển khác nhau thì
cũng có tính chất và vai trò hết sức khác nhau.
Chính vì tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ mà chúng ta có thể
chia ra các mối liên hệ theo từng cấp. Đó chính là mối qua nhệ bên trọng và
bên ngoài , mi liên hệ thứ yếu và chủ yếu, trực tiếp hay gián tiếp, bản chất
hay không bản chất ? Phương pháp luận :
Từ dung và tính chất của các mối liên hệ đã rút ra được một điều, trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải quán triệt quan
điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện cần phải đòi hỏi trong nhận thức và xử lí các tình
huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật, hiện tượng, trong mối quan hệ biện
chứng, qua lại giữa chúng, giữa các yếu tố, giữa các mặt của các sự vật, hiện
tượng và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật hiện tượng đó với sự vật
hiện tượng khác. Có như vậy, chúng ta mới có thể nhận thức đúng đắn về sự
lOMoARcPSD| 45764710
vật , hiện tượng và tử lí có hiệu quả các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống
thực tiễn này.
Không dừng lại ở đó, trong các hoạt động nhận thức và thực tiễn, tuyệt đối
phải tránh và khắc phục các quan điểm phiến diện, một chiều hay những
quan điểm ngy biện, vô căn cứ hay chỉ là những quan điểm mang tính mơ
hồ.
Nguyên lý về sự phát triển :
Khái niệm phát triển : phát triển là một khái niệm dùng để ch quá trình vận
động theo hướng từ thấp tới cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của
sự vật, hiện tượng.
Mọi sự vật,hiện tượng đều vận động và biến đổi từ trạng thái này sang trạng
thái khác, sự biến đổi ấy là vô cùng tận và có nhiều khuynh hướng, tính chất
khác nhau. Có thể đi từ hướng giản đơn đến phức tạp, thấp tới cao, kém đến
tốt hơn. Theo con đường đi lên, nhưng cũng có một số sự phát triển dẫn đến
sự biến đổi dẫn tới tan rã rồi mất đi ( gọi là sự vận động đi xuống ) Vì vậy,
cần phân biệt khái niệm vận động và phát triển, vì vận động là sự biến đổi
nói chung không phụ thuộc vào khuynh hướng nhất định nào cả. Bất kì mọi
sự vật , hiện tượng nào đều có sự phát triển, là khuynh hướng chung của tất
cả các sự vật, hiện tượng. cái cũ mất đi thì cái mới sẽ ra đời và thay thế, kế
thừa cái cũ trong quá trình hoàn thiện mình.
Sự phát triển không theo con đường thẳng tấp mà nó diễn ra theo con đường
xoắn ốc.
Tính chất của sự phát triển :
Sự phát triển thường có các tính chất sau :
Thứ nhất, tính khách quan : tự bản thân sự vật, hiện tượng vận động, phát
triển.
lOMoARcPSD| 45764710
Thứ hai, tính phổ biến : được diễn ra trong thế giới khách quan, xã hội, tư
duy hay bất cứ sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong thế giới khách quan đó.
Có thể sự phát triển của các sự vật, hiện tượng diễn ra không giống nhau
nhưng đều phản ánh quá trình phát triển của mình kể cả khái niệm phạm trù
do chính tự duy con người mang lại.
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú : Các sự vật, hiện tượng vận động và phát
triển không giống nhau. Nó tồn tại ở không gian và thời gian khác nhau cho
nên sự phát triển cũng khác. Sự phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng
các yếu tố ấy có thể tác động tốt hoặc xấu đến sự phát triển đó.
Ý nghĩa phương pháp luận :
Có thể nói, nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lí luận khoa học để định
hướng được nhận thức được thế giới và cải tạo thế giới. Đồng thời, giúp
chúng ta khắc phục được những tư tưởng bảo thủ, trì trệ, những định kiến
trái chiều.
Giúp chúng ta thấy được sự phức tạp, sự gay go của sự phát triển và qua đó,
giúp phát huy những nhân tố chủ quan của con người để làm thúc đẩy sự
phát triển của con người
CÂU 5 : Tnh bày nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại ?
Bài làm :
Khái niệm chất : dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật ,
hiện tượng ; là sự thống nhất các hữu cơ thuộc tính cấu thành nó, phân biệt
nó với sự vật, hiện tượng.
lOMoARcPSD| 45764710
Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản
Một sự vật có thể có một chất hoặc nhiều chất cấu thành. Chất và sự vật có
mối quan hệ chặt chẽ, không tách ời nhau, không có sự vật nào tồn tại mà
không có chất và cũng không có chất nào nằm ngoài sự vật cả. Chất của
sự vật, hiện tượng không chỉ bị quy định bởi những yếu tố cấu thành mà
còn ở phương thức kết cấu của yếu tố cấu thành ấy.
Khái niệm lượng : dùng để chỉ tính vốn có của sự vật, về mặt số lượng, quy
mô, trình độ của sự vận động và phát triển cũng như thuộc tính vốn có của
sự vật.
Lượng mang tính khách quan, do tính quy định vốn có của sự vật quy định,
được biểu thị bằng con số, bằng đại lượng hay bằng trình độ của sự vật, hiện
tượng. Chất của sự vật, hiện tượng càng phức tạp bao nhiêu thì lượng cũng
sẽ phức tạp bấy nhiêu.
Có thể nói, để phân biệt giữa lượng và chất, sự phân biệt này chỉ mang tính
chất tương đối bởi lẽ, trong lượng có chất và trong chất sẽ có lượng.
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng :
Giữa chất và lượng có mối quan hệ biện chứng với nhau, là hai mặt của một
thể thống nhất và đối lập giữa chất và lượng được thể hiện trọng một độ nhất
định
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Khi bản chất mất đi
thì hiện tượng cũng mất theo. Vì vậy, V.I.Lenin cho rằng : “ Bản chất hiện ra.
Hiện tượng là có tính bản chất “
Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng được thể hiện ở chỗ : bản chất là cái
chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt, phong phú và đa dạng ;
bản chất là cái bên trong hiện tượng là cái bên ngoài ; bản chất là cái tương
đối ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
lOMoARcPSD| 45764710
Một vài ví dụ về sự thay đổi của lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại :
Lượng -> Chất : Một học sinh THPT trở thành sinh viên Đại Học, khi đã
hoàn thành các chương trình học phổ thông và được nâng tầm lên một môi
trường cao hơn đó chính là Đại Học, lượng kiến thức tích lũy trong suốt quá
trình học tập đã đủ để tạo nên cú nhảy vọt về chất để học sinh có thể nâng
tầm lên trở thành sinh viên đại học và tiếp nhận những kiến thức mới , cao
hơn ở môi trường Đại Học.
Chất -> Lượng : Ở môi trường Đại Hc, sau khi hoàn thành quá trình tích
lũy kiến thức ở bậc THPT và trở thành mt tân sinh viên, có nghĩa là chất
lúc này đã biến đổi từ chất cũ là học sinh thành chất mới ( sinh viên ), việc
tích lũy kiến thức sẽ là nền tảng để chất cũ có thể tích thêm về lượng ở chất
mới ( kiến thức đại học ) là sinh viên
Ý nghĩa phương pháp luận :
Trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần phải chú ý cả chất lẫn
lượng để nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng.
Sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng luôn diễn ra bằng cách tích
lũy dần dần về lượng để tạo ra bước nhảy vọt để có sự chuyển biến về chất
cho nên chúng ta cần phải c gắng hết mình để tích lũy đủ lượng, sau đó dần
tạo ra sự biến đổi về chất.
Những quy luật tự nhiên, xã hội đều mang tính khách quan nhưng quy luật
khách quan diễn ra tự phát, còn quy luật xã hội, thực hiện không qua ý thức
con người nên khi đã tích đủ về lượng phải thực hiện bước nhảy, tránh sự
bảo thủ.
Vì vậy, bước nhảy của sự vật, hiện tượng rất đa dạng và phong phú. Cho
nên, trong hoạt động thực tiễn cũng như trong lí luận phải biết vận dụng hình
| 1/36

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45764710 ĐỀ CƯƠNG :
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
CÂU 1 : Trình bày nội dung vấn đề cơ bản của Triết học, phân biệt Chủ nghĩa
duy vật và Chủ nghĩa duy tâm , triết học nhị nguyên ; các hình thức của Chủ
nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm ? Bài làm :
Khái niệm Triết học
Triết Học là hệ thống lý luận chung nhất của con người về thế giới, cũng như về
bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới ấy.
Triết học đã có hơn 2000 năm hình thành và phát triển. Ở mỗi thời kì lịch sử khác
nhau, Triết học phải giải quyết các vấn đề khác nhau, nhưng tổng kết lại toàn bộ
lịch sử. Ph. Ăngghen đã khái quát rằng : “ Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi Triết
học, đặc biệt là Triết học hiện đại là mối liên hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa vật
chất và ý thức, giữa con người với giới tự nhiên “
Vấn đề cơ bản của Triết học Gồm hai mặt. lOMoAR cPSD| 45764710
+ mặt thứ nhất, vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào sẽ quyết định cái nào.
+ mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không ?
Việc trả lời cho mặt thứ nhất đã dẫn đến sự xuất hiện của các trường phái Triết học
lịch sử đó chính là Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa Duy Tâm.
Chủ nghĩa duy vật thì cho rằng vật chất là cái có trước và ý thức là cái có sau, vật
chất quyết định ý thức. Vật chất là tính thứ nhất còn ý thức là tính hai. Chủ nghĩa
duy tâm thì lại cho rằng ý thức mới là cái có trước và vật chất là cái có sau, ý thức
quyết định vật chất, ý thức là tính thứ nhất và vật chất là tính thứ hai.
Việc trả lời cho mặt thứ hai đã làm xuất hiện các quan điểm trái chiều nhau. Có
quan điểm cho rằng con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới, đó
chính là quan điểm của trường phái Khả tri luận. Lại có quan điểm cho rằng con
người không có khả năng nhận thức được thế giới, đó chính là trường phái Bất tri luận.
Các hình thức của Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật :
Có nguồn gốc từ thực tiễn và sự phát triển của khoa học. Chính qua thực tiễn và
khái quát hóa tri thức của nhận loại trong nhiều lĩnh vực, chủ nghĩa duy vật đã thể
hiện hệ thống tri thức lý luận chung nhất gắn với lợi ích của các lực lượng xã hội
tiến bộ, định hướng cho các lực lượng này trong hoạt động nhận thức và thực tiễn,
chủ nghĩa duy vật có 3 hình thức, đó chính là Chủ nghĩa duy vật chất phác, Chủ
nghĩa duy vật siêu hình và Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật chất phác : lOMoAR cPSD| 45764710
Là hình thức sơ khai của chủ nghĩa duy vật. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất của
vật chất, chủ nghĩa duy vật chất phác đã lý giải toàn bộ sự sinh thành của thế giới
từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên, là
bản nguyên của thế giới. Những lý giải đó được thể hiện trong nhiều học thuyết
duy vật thời cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp.
Tuy còn rất nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác về cơ bản là đúng vì
nó đã lấy bản thân vật chất của giới tự nhiện để giải thích về giới tự nhiên.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình :
Là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện tiêu biểu trong lịch sử
Triết học Tây Âu thế kỉ XVII – XVIII. Đặc điểm lớn nhất của chủ nghĩa duy vật
thời kì này là phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhìn nhận về thế giới.
Tuy chưa phản ánh đúng thế giới trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển nhưng
chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần quan trọng trong việc chống lại thế giới
quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung cổ
sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng :
Là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng
lập, V.I.Lênin và những người kế tục của ông bảo vệ và phát triển. Với sự kế thừa
những tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và việc sử dung triệt để nhũng
thành tựu khoa học tự nhiên đương thời, chủ nghĩa duy vật biên chứng ngay từ khi
mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại
và chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại Tây Âu, đạt tới trình độ là hình thức
phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử. Trên cơ sở phản ánh đúng
đắn khi thực hiện khách quan trọng mối quan hệ phổ biến và sự phát triển, chủ lOMoAR cPSD| 45764710
nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức
khoa học và thực tiễn cách mạng.
Toàn bộ hệ thống quan hệ của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ
sở lý giải một cách khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm :
Có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó là : sự xem xét phiến diện, tuyệt
đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó cảu quá trình nhận thức và
thường gắn với lợi ích của các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động.
Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cũng thường có mối liên hệ mật thiết với nhau ,
nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Trong lịch sử, Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản đó chính là : Chủ nghĩa
duy tâm chủ quan và Chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan : thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người,
trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ
quan khẳng định mọi sự vật, hiện tương chỉ là “ phức hợp những cảm giác “ của cá nhân.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan : cũng thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý
thức nhưng tinh thần, ý thức ấy là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có
trước, tồn tại độc lập với giới tự nhiên, với con người và thể hiện dưới nhiều tên
gọi khác nhau, như “ ý niệm tuyệt đối “ , ‘ tinh thần tuyệt đối “ hay “ lý tính thế giới “ ,….. lOMoAR cPSD| 45764710
CÂU 2 : Phân tích quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất và các
phương pháp, hình thức tồn tại của vật chất, Ý nghĩa phương pháp luận của
những vấn đề trên ? Bài làm : Vật chất :
Vật chất với tư cách là một phạm trù Triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500
năm. Ngay từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh
không khoan nhường giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Trong khi chủ nghĩa duy tâm quan niệm rằng bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên
của mọi sự tồn tại là một bản nguyên tinh thần, còn vật chất chỉ là sản phẩm của
bản nguyên tinh thần ấy thì chủ nghĩa duy vật quan niệm : bản chất của thế giới,
thực thể của thế giới là vật chất – cái tồn tại vĩnh viễn, tạo nên mọi sự vật, hiện
tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
Trước khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời, nhìn chung, các nhà triết học duy
vật quan niệm vật chất là một hay một số chất tự có, đầu tiên, được coi là những
chất “ giới hạn tột cùng “ đóng vai trò là cơ sở sản sinh ra toàn bộ thế giới. Từ
thời cổ đại, thuyết Ngũ hành của Triết Học Trung Quốc đã cho rằng những chất tự
có, đầu tiên ấy là kim – mộc – thủy – hỏa – thổ ; ở Ấn Độ, phái Sàm-Khya lại
quan niệm đấy là Prakriti hay Pradhana; ở Hy Lạp, phái Mile quan niệm là Nước (
Thales ) hay không khí ( Anaximen ) ; Hê-ra-clit quan niệm đó là lửa,…. Cho
đến thế kỷ XVII, XVIII quan niệm về vật chất của các nhà Triết Học thời cận đại
Tây Âu như Ph.Becon, R.Đềcáctơ, T.Hốpxơ, Đ.Điđơrô v.v. vẫn không có những
thay đổi căn bản. Họ tiếp tục đi theo khuynh hướng hiểu về vật chất như các nhà
triết học duy vật thời cổ đại và đi sâu tìm hiểu cấu trúc vật chất của giới tự nhiên
trong sự biểu hiện cảm tính cụ thể của nó. lOMoAR cPSD| 45764710
Quan niệm về vật chất của các nhà triết học duy vật trước Mác đã đặt nền móng
cho khuynh hướng lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên nhưng
nó cũng bộc lộ nhiều hạn chế, như đồng nhất vật chất với vật thể, không hiểu bản
bản chất của ý thức cũng như mối quan hệ giữa ý thức với vật chất; không tìm
được cơ sở để xác định những biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội nên
cũng không có cơ sở để đứng trên quan điểm duy vật khi giải quyết các vấn đề về
xã hội, v.v… Những hạn chế đó tất yếu dẫn đến quan điểm duy vật không triệt để.
Và chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng tình cảnh này để bác bỏ hay là khẳng định bản
chất “ phi vật chất “ của thế giới, khẳng định vai trò của các lực lượng siêu nhiện
đối với quá trình sáng tạo ra thế giới.
Trong bối cảnh lịch sử đó, để chống lại sự xuyên tạc của các nhà triết học duy tâm,
bảo vệ và phát triển thành tưu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
đồng thời kế thừa tư tưởng Mác và Ph. Ăngghen, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa
kinh điển về vật chất :
“ Vật chất là một phạm trù Triết Học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại , phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác “
Trong định nghĩa này, cho thấy :
Thứ nhất, cần phải phân biệt khái niệm “ vật chất “ với tư cách là một phạm trù
triết học ( phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi sự tồn
tại vật chất và được xác định từ góc độ giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học )
với khái niệm “ vật chất “ được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành ( khái
niệm dùng để chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính ) lOMoAR cPSD| 45764710
Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất là thuộc tính
tồn tại khách quan, tức tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức
của con người, cho dù con người có nhận thức hay không nhận thức được chúng.
Thứ ba, vật chất, dưới những dạng cụ thể của nó là cái có thể gây nên cảm giác ở
con người khi nó trức tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý
thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất ; vật chất là cái được ý thức phản ánh
Như vậy, định nghĩa về vật chất của Lênin có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học :
Một là, với tư cách là một phạm trù triết học với khái niệm vật chất với tư cách là
một phạm trù của các khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong
quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp thêm căn cứ nhận thức
khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây
dựng quan điểm duy vật về lịch sử , khắc phục được những hạn chế duy tâm trong quan niệm về xã hội.
Hai là, khi khẳng định vật chất là “ thực tại khách quan “, “ được đem lại cho con
người trong cảm giác và được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh “
V.I.Lenin không những đã khẳng định tính thứ nhất của vật chất , tính thứ hai của ý
thức theo quan điểm duy vật mà còn khẳng định khả năng con người có thể nhận
thức được thực tại khách quan.
Các phương thức và hình thức tồn tại của vật chất :
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật chất;
không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất. lOMoAR cPSD| 45764710
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất : Ph.Ăng-ghen đã định nghĩa “ vận
động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật
chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và
mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy “
Theo quan điểm của Ăng-ghen, vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí
mà là “ mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ “ ; vật chất luôn gắn
liền với vận động và chỉ thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất mới
biểu hiện được sự tồn tại của mình.
Dựa trên thành tự khoa học ở thời đại mình, Ph.Ăngghen đã chia vận động thành 5 hình thức cơ bản :
+ Vận động cơ học : sự di chuyển của các vật thể trong không gian
+ Vật động vật lý : sự vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các quá
trình nhiệt, điện v.v…
+ Vận động hóa học : sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ trong những quá trình hóa hợp và phân giải
+ Vận động sinh học : sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen v.v…
+ Vận động xã hội : sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v…
của đời sống xã hội.
Các hình thức vận động cơ bản nói trên được sắp xếp theo trình độ từ thấp đến cao,
tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau
song chúng không tồn tại biệt lập mà còn có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong
đó : hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và
bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, lOMoAR cPSD| 45764710
mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ
cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
Khi khẳng định vận động là hình thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của
vật chất, chủ nghĩa duy vật biện chúng cũng đã khẳng định vận động là tuyệt đối,
là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa là chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận
đứng im. Song, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im
trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng và đứng im là
hiện tượng tương đối, tạm thời.
Vận động trong thế cân bằng là vận động chưa làm thay đổi cơ bản về vị trí, hình
dáng, kết cấu của sự vật, chưa làm thay đổi cơ bản chất của sự vật.
Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối vì đứng im chỉ xảy ra đối với một số hình
thức vận động và trong một số quan hệ nhất định chú không xảy ra với tất cả các
hình thức vận động và tới tất cả các quan hệ. Đứng im là hiện tượng tạm thời vì
đứng im chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định chứ không tồn tại vĩnh viễn.
Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính
( chiều cao, chiều rộng, chiều dài ) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan
nhất định ( trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái v.v..) với những
dạng vất chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Mặt
khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi nhanh hay chậm,
kế tiếp và chuyển hóa v.v… gọi là thời gian.
Tính thống nhất về vật chất của thế giới.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định : bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất của nó. lOMoAR cPSD| 45764710
Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau :
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất là cái có
trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người
Hai là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra và không bị mất đi.
Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống nhất
với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những
kết cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự
chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.
CÂU 3 : Phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức, mối liên hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này ? Bài làm :
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên :
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng : ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định
vật chất, ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai.
Theo quan điểm của các nhà duy tâm thì ý thức tách rời vật chất. Nhờ có ý thức mà
con người biết được thế giới khách quan coi ý thức là điểm xuất phát để suy ra tự nhiên.
+ Chủ nghĩa duy vật : vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức,
vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai.
Ý thức của riêng con người và do ý thức được sinh ra ở não bộ con người. lOMoAR cPSD| 45764710
Ý thức là một dạng của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là
một dạng vật chất có tổ chức cao ở trong bộ óc con người, cho nên ý thức phải gắn
liền với hoạt động của bộ óc con người.
Như vậy, nếu chỉ riêng bộ óc con người không thôi thì vẫn chưa có ý thức, nếu
không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó lên não bộ
thì hoạt động ý thức của con người không diễn ra.
Kết luận : bộ óc con người cùng với thế giới bên ngoài tác động vào ý thức con
người. Đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội :
C.Mác đã từng nói : “ con người muốn tồn tại và phát triển thì trước hết phải có ăn, uống, ở , mặc “
Chính vì vậy, con người phải trải qua quá trình lao động để làm thỏa mãn những
nhu cầu tồn tại của mình và chính từ lao động con người đã tạo ra được ngôn ngữ.
Lao động : là quá trình diễn biến giữa con người với thế giới khách quan. Nhờ có
sự lao động mà từ loài vượn thành người, nhờ lao động con người tạo ra sản phẩm
của tự nhiên và xã hội, là chủ thể của tự nhiên và xã hội. Trong quá trình tác động
vào thế giới khách quan, con người đã làm cho thế giới khách quan bộc lộ ra
nhũng thuộc tính, quy định vốn có của nó, tác động vào bộ óc con người. Từ đó,
hình thành nên tri thức về tự nhiên và xã hội, cho nên ý thức được hình thành chủ
yếu do quá trình cải tạo hiện thực khách quan của con người , làm biển đổi thế giới đó.
Ngôn ngữ : Trong quá trình lao động, ngay từ đầu con người đã mang tính tập thể,
tính xã hội. Do vậy, họ cần trao đổi kinh nghiệm, tư tưởng cho nhau và chính nhu
cầu đó đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ, ngôn ngữ làm cho khả năng tư duy ý thức con lOMoAR cPSD| 45764710
người ngày càng hoàn thiện hơn. Đồng thời ngôn ngữ giúp ý thức trong bộ não con
người không bị mất đi.
Như vậy, ta có thể kết luận : ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, ý
thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người trên cơ sở lao động và ngôn ngữ.
Bản chất và kết cấu của ý thức :
Bản chất : Coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con
người một cách năng động sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ thể của thế giới khách quan.
Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động sáng tạo,
ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên ý thức
con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu xã hội, thể hiện ở ba mặt :
Thứ nhất, trao đổi thông tin giữa chủ thể với đối tượng phản ánh : sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều , có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
Thứ hai, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
VD : Khi ta nhìn thấy quả xoài và nhận ra được đặc điểm của nó, và khi vô thức
chúng ta nghe ai đó nhắc đến quả xoài, chúng ta sẽ dễ nhận dạng ra hình dáng và vị của quả xoài.
Thứ ba, chuyển mô hình từ tư duy hiện thực khách quan : tức là quá trình hiện thực
hóa tư tưởng thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại,
biến cái ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. lOMoAR cPSD| 45764710
Về bản chất, ý thức mang bản chất xã hội. Vì nó luôn gắn liền với các hoạt động
thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sịnh học mà chủ yếu là của
quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực
của con người quy định.
Kết Cấu : Ý thức là một hiện tượng xã hội có kết câu phức tạp gồm nhiều thành
tố khách nhau có quan hệ chặt chẽ lẫn nhau.
C.Mác và Lênin cho rằng : “ ý thức bao gồm : tri thức, tình cảm – ý chí “
Tri thức : là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức của con người về thế giới hiện thực làm tái hiện trong tư tưởng. Về những
thuộc tính, nhũng quy luật của thế giới ấy được diễn ra dưới hình thức ngôn ngữ và các kí hiệu khác.
Tình cảm : Là sự xúc cảm, cảm động của con người trong quan hệ giữa mình với
thực tại xung quanh đối với bản thân mình. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của
sự phản ánh hiện thực, nó phản ánh mối quan hệ của con người với nhau cũng như
của thế giới khách quan. Đồng thời, nó cũng giữ vị trí quan trọng trong sự điều
chỉnh hoạt động của con người.
Ý chí : là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong
quá trình thực hiện mục đích của con người, cho nên ý chí tạo nên sức mạnh để
làm chủ tự nhiện, bản thân và xã hội.
Mối quan hệ hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức :
- Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức : lOMoAR cPSD| 45764710
Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức và tồn tại độc lập
khách quan với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Não người là dạng vật
chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức, ý thức tồn tại
phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào não người, là hình ảnh của thế giới
khách quan. Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung
của ý thức. Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vào vật chất, phản
ánh đúng hiện thực khách quan, có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của
con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất và ngược lại. Nếu như ý thức
không phản ánh đúng hiện thực khách quan ở mức độ nhất định có thể gây sự
kìm hãm các hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiện và xã hội.
Ý nghĩa phương pháp luận :
Từ mối quan hệ biện chứng trên, ta có thể thấy rằng :
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan,
tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tinh thần năng động chủ quan.
Theo nguyên tắc của phương pháp luận này, mọi hoạt động nhậ thức và thực
tiễn của con người chỉ có thể đúng đắn, thành công và có hiêu jquar tối ưu
khi và chỉ khi thực hiện đồng thời được việc xuất phát từ thực tế khách quan,
tôn trọng khách quan với phát huy tính năng động chủ quan.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan trọng nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và khắc phục
bệnh chủ quan duy ý chí, đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế,
lấy ảo tưởng thay cho hiện thực…. , mặt khác cũng phải chống chủ nghĩa lOMoAR cPSD| 45764710
kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ,
thụ động… trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
CÂU 4 : Trình bày nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển ? Bài làm :
Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến :
Khái niệm : mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau, giữa các sự vật trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến là những khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, tồn tại ở
nhiều sự vật của thế giới, đó là mối liên hệ giữa các mặt đối lập, giữa lượng
và chất, tồn tại trong nhiều sự vật của thế giới.
Mối liên hệ phổ biến ở các sự vật, hiện tượng có yếu tồ cấu thành nên sự vật
hiện tượng, tồn tại trong thế giới tự nhiên, xã hội hay tư duy của con người.
Theo quan điểm duy vật siêu hình :
Mọi sự vật đều tách rời và cô lập, ở chúng không có mối liên hệ với nhau,
không phụ thuộc vào nhau và cái nào sẽ quy định cho mối liên hệ của cái đó.
Được các thế lực siêu nhiên và ý thức, cảm giác của con người tạo ra ( gọi là ý niệm tuyệt đối )
Theo quan điểm duy vật biện chứng :
Các sư vật, hiện tượng không tách rời và không cô lập nhau, giữa chúng có
mối liên hệ mật thiết, ràng buộc và áp đặt nhau, phụ thuộc vào nhau.
Cơ sở mối liên hệ giữa sự vật và hiện tượng chính là tính thống nhất vật chất
của thế giới, vì nhờ tính thống nhất này mà các sự vật, hiện tượng không thể lOMoAR cPSD| 45764710
tồn tại biệt lập và tách rời nhau mà chúng tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau.
Tính chất của mối liên hệ :
Mối liên hệ phổ biến có những tính chất sau :
Thứ nhất, tính khách quan : mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới đều có tính khách quan, các mối liên hệ đó quy định lẫn nhau, tác động,
chuyển hóa lẫn nhau do tính vốn có của sự vật, hiện tượng. Nó tồn tại một
cách độc lập, khách quan và không phụ thuộc vào ý thức, tư duy của con người.
Thứ hai, tính phổ biến : Bất kì một sự vật, hiện tượng nào cũng có mối liên
hệ với một hay nhiều sự vật, hiện tượng khách. Không có sự vật nào là
không có mối liên hệ hoặc nằm ngoài mối liên hệ này cả.
Có thể là cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong
những điều kiện cụ thể khác nhau ở những giai đoạn phát triển khác nhau thì
cũng có tính chất và vai trò hết sức khác nhau.
Chính vì tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ mà chúng ta có thể
chia ra các mối liên hệ theo từng cấp. Đó chính là mối qua nhệ bên trọng và
bên ngoài , mối liên hệ thứ yếu và chủ yếu, trực tiếp hay gián tiếp, bản chất
hay không bản chất ? Phương pháp luận :
Từ dung và tính chất của các mối liên hệ đã rút ra được một điều, trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải quán triệt quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện cần phải đòi hỏi trong nhận thức và xử lí các tình
huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật, hiện tượng, trong mối quan hệ biện
chứng, qua lại giữa chúng, giữa các yếu tố, giữa các mặt của các sự vật, hiện
tượng và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật hiện tượng đó với sự vật
hiện tượng khác. Có như vậy, chúng ta mới có thể nhận thức đúng đắn về sự lOMoAR cPSD| 45764710
vật , hiện tượng và tử lí có hiệu quả các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống thực tiễn này.
Không dừng lại ở đó, trong các hoạt động nhận thức và thực tiễn, tuyệt đối
phải tránh và khắc phục các quan điểm phiến diện, một chiều hay những
quan điểm ngụy biện, vô căn cứ hay chỉ là những quan điểm mang tính mơ hồ.
Nguyên lý về sự phát triển :
Khái niệm phát triển : phát triển là một khái niệm dùng để chỉ quá trình vận
động theo hướng từ thấp tới cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật, hiện tượng.
Mọi sự vật,hiện tượng đều vận động và biến đổi từ trạng thái này sang trạng
thái khác, sự biến đổi ấy là vô cùng tận và có nhiều khuynh hướng, tính chất
khác nhau. Có thể đi từ hướng giản đơn đến phức tạp, thấp tới cao, kém đến
tốt hơn. Theo con đường đi lên, nhưng cũng có một số sự phát triển dẫn đến
sự biến đổi dẫn tới tan rã rồi mất đi ( gọi là sự vận động đi xuống ) Vì vậy,
cần phân biệt khái niệm vận động và phát triển, vì vận động là sự biến đổi
nói chung không phụ thuộc vào khuynh hướng nhất định nào cả. Bất kì mọi
sự vật , hiện tượng nào đều có sự phát triển, là khuynh hướng chung của tất
cả các sự vật, hiện tượng. cái cũ mất đi thì cái mới sẽ ra đời và thay thế, kế
thừa cái cũ trong quá trình hoàn thiện mình.
Sự phát triển không theo con đường thẳng tấp mà nó diễn ra theo con đường xoắn ốc.
Tính chất của sự phát triển :
Sự phát triển thường có các tính chất sau :
Thứ nhất, tính khách quan : tự bản thân sự vật, hiện tượng vận động, phát triển. lOMoAR cPSD| 45764710
Thứ hai, tính phổ biến : được diễn ra trong thế giới khách quan, xã hội, tư
duy hay bất cứ sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong thế giới khách quan đó.
Có thể sự phát triển của các sự vật, hiện tượng diễn ra không giống nhau
nhưng đều phản ánh quá trình phát triển của mình kể cả khái niệm phạm trù
do chính tự duy con người mang lại.
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú : Các sự vật, hiện tượng vận động và phát
triển không giống nhau. Nó tồn tại ở không gian và thời gian khác nhau cho
nên sự phát triển cũng khác. Sự phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng
các yếu tố ấy có thể tác động tốt hoặc xấu đến sự phát triển đó.
Ý nghĩa phương pháp luận :
Có thể nói, nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lí luận khoa học để định
hướng được nhận thức được thế giới và cải tạo thế giới. Đồng thời, giúp
chúng ta khắc phục được những tư tưởng bảo thủ, trì trệ, những định kiến trái chiều.
Giúp chúng ta thấy được sự phức tạp, sự gay go của sự phát triển và qua đó,
giúp phát huy những nhân tố chủ quan của con người để làm thúc đẩy sự
phát triển của con người
CÂU 5 : Trình bày nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại ? Bài làm :
Khái niệm chất : dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật ,
hiện tượng ; là sự thống nhất các hữu cơ thuộc tính cấu thành nó, phân biệt
nó với sự vật, hiện tượng. lOMoAR cPSD| 45764710
Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản
Một sự vật có thể có một chất hoặc nhiều chất cấu thành. Chất và sự vật có
mối quan hệ chặt chẽ, không tách ời nhau, không có sự vật nào tồn tại mà
không có chất và cũng không có chất nào nằm ngoài sự vật cả. Chất của
sự vật, hiện tượng không chỉ bị quy định bởi những yếu tố cấu thành mà
còn ở phương thức kết cấu của yếu tố cấu thành ấy.
Khái niệm lượng : dùng để chỉ tính vốn có của sự vật, về mặt số lượng, quy
mô, trình độ của sự vận động và phát triển cũng như thuộc tính vốn có của sự vật.
Lượng mang tính khách quan, do tính quy định vốn có của sự vật quy định,
được biểu thị bằng con số, bằng đại lượng hay bằng trình độ của sự vật, hiện
tượng. Chất của sự vật, hiện tượng càng phức tạp bao nhiêu thì lượng cũng
sẽ phức tạp bấy nhiêu.
Có thể nói, để phân biệt giữa lượng và chất, sự phân biệt này chỉ mang tính
chất tương đối bởi lẽ, trong lượng có chất và trong chất sẽ có lượng.
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng :
Giữa chất và lượng có mối quan hệ biện chứng với nhau, là hai mặt của một
thể thống nhất và đối lập giữa chất và lượng được thể hiện trọng một độ nhất định
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Khi bản chất mất đi
thì hiện tượng cũng mất theo. Vì vậy, V.I.Lenin cho rằng : “ Bản chất hiện ra.
Hiện tượng là có tính bản chất “
Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng được thể hiện ở chỗ : bản chất là cái
chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt, phong phú và đa dạng ;
bản chất là cái bên trong hiện tượng là cái bên ngoài ; bản chất là cái tương
đối ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi. lOMoAR cPSD| 45764710
Một vài ví dụ về sự thay đổi của lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại :
Lượng -> Chất : Một học sinh THPT trở thành sinh viên Đại Học, khi đã
hoàn thành các chương trình học phổ thông và được nâng tầm lên một môi
trường cao hơn đó chính là Đại Học, lượng kiến thức tích lũy trong suốt quá
trình học tập đã đủ để tạo nên cú nhảy vọt về chất để học sinh có thể nâng
tầm lên trở thành sinh viên đại học và tiếp nhận những kiến thức mới , cao
hơn ở môi trường Đại Học.
Chất -> Lượng : Ở môi trường Đại Học, sau khi hoàn thành quá trình tích
lũy kiến thức ở bậc THPT và trở thành một tân sinh viên, có nghĩa là chất
lúc này đã biến đổi từ chất cũ là học sinh thành chất mới ( sinh viên ), việc
tích lũy kiến thức sẽ là nền tảng để chất cũ có thể tích thêm về lượng ở chất
mới ( kiến thức đại học ) là sinh viên
Ý nghĩa phương pháp luận :
Trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần phải chú ý cả chất lẫn
lượng để nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng.
Sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng luôn diễn ra bằng cách tích
lũy dần dần về lượng để tạo ra bước nhảy vọt để có sự chuyển biến về chất
cho nên chúng ta cần phải cố gắng hết mình để tích lũy đủ lượng, sau đó dần
tạo ra sự biến đổi về chất.
Những quy luật tự nhiên, xã hội đều mang tính khách quan nhưng quy luật
khách quan diễn ra tự phát, còn quy luật xã hội, thực hiện không qua ý thức
con người nên khi đã tích đủ về lượng phải thực hiện bước nhảy, tránh sự bảo thủ.
Vì vậy, bước nhảy của sự vật, hiện tượng rất đa dạng và phong phú. Cho
nên, trong hoạt động thực tiễn cũng như trong lí luận phải biết vận dụng hình