Những quan điểm về khoa học lịch sử Tác phẩm | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Những quan điểm về khoa học lịch sử Tác phẩm | Đại học Sư Phạm Hà Nội  với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU......................................................................................................................2
B. NỘI DUNG...................................................................................................................2
I. Một số khái niệm..........................................................................................................2
1. Khái niệm lịch sử.....................................................................................................2
2. Khái niệm khoa học.................................................................................................3
II. Lịch sử là một khoa học..............................................................................................4
1. Những quan điểm về khoa học lịch sử....................................................................4
2. Khoa học lịch sử.....................................................................................................11
2.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................11
2.2. Chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................12
2.3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................13
2.4. Đặc trưng, bản chất...............................................................................................14
2.5. Những lí thuyết tiếp cận........................................................................................15
3. Các chuyên ngành của khoa học lịch sử...............................................................16
4. Vị trí, vai trò của khoa học lịch sử trong hệ thống các ngành khoa học............19
III. Lịch sử s học - Sơợc về lịch sử pt triển của khoa hc Lch sử.......................21
1. Sự phát triển của khoa học lịch sử nói chung......................................................21
2. Sự phát triển của khoa học lịch sử ở Việt Nam....................................................22
IV. Phương pháp học tập và nghiên cứu khoa học lịch sử của sinh viên...................24
C. KẾT LUẬN................................................................................................................29
A. MỞ ĐẦU
Trong quá trình nhận thức lịch sử, khoa học lịch sử ra đời phát triển, Từ sự nhận
thức quá khứ lúc con người khi mới xuất hiện đến lúc Sử học ra đời, tức từ việc nhận
thức những sự kiện lớn trong đời sống được phản ánh qua các câu chuyện cổ tích, thần
thoại, truyền thuyết, các bản anh hùng ca đến tri thức khoa học về lịch sử, một chặng
đường rất dài lâu. Khoa học ra đời khi nó hình thành hệ thống tri thức về mọi quy luật
của vật chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, tư duy”.
trường Đại học, sinh viên được học tập, nghiên cứu khoa học chứ không phải
được cung cấp những kiến thức bản của môn học. vậy, việc tìm hiểu lịch sử của
khoa học cần thiết; qua đó sinh viên sẽ nhận thức được quá trình hình thành phát
triển của ngành học, từ những tri thức đầu tiên của con người đến lúc khoa học ra đời.
B. NỘI DUNG
I. Một số khái niệm
1. Khái niệm lịch sử
Lịch sử một bộ môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt những sự kiện
liên quan đến con người. Đây thuật ngữ chung có liên quan đến các sự kiện trong quá
khứ cũng như những ghi nhớ, phát hiện, tổ chức, thu thập, trình bày thông tin về
những sự kiện này.
Lịch sử những thuộc về quá khứ gắn liền với hội loài người. Với ý này,
lịch sử là một nội hàm lớn, bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong xã hội, đa diện, do đó khó
định nghĩa chính xác và đầy đủ.
Định nghĩa ngắn gọn của Ts.Sue Peabody: “lịch sử một câu chuyện chúng ta nói
chúng ta là ai.”
Theo nhà văn Victor Hugo: Lịch sử là gì? Đó là tiếng vọng của quá khứ và tương lai
và là ánh phản chiếu của tương lai trên quá khứ.
Quan điểm triết học của Karl Marx cho rằng : Lịch sử là các tồn tại hội từ trước
đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp..
Nhà các học La Ciceron đưa ra quan điểm “historia magistra vitae” (lịch sử
chính yếu của cuộc sống” với yêu cầu đạt tới “lux veritatis” ( ánh sáng của sự thật).
Gs Văn Tấn viết lịch sử khách quan. S kiện lịch sử những sự thật
được tồn tại độc lập ngoài ý thức chúng ta. Những sự nhận thức lịch sử lại chủ quan.
Và người ta chép sử vì những mục đích khác nhau”.
- 3 tầng hàm nghĩa của lịch sử:
Thứ nhất: Lịch sử là quá trình hiện thực khách quan của xã hội loài người trước đây,
hoặc lịch sử của những sự kiện, hiện tượng, nhân vật đã từng tồn tại trong quá khứ, tức là
lịch sử một hiện thực khách quan, tức lịch sử của một hiện thực khách quan, trở
thành đối tượng nhận thức của những người nghiên cứu, dạy học và học tập lịch sử.
Thứ hai: sự nhận thức của con người qua các nguồn sử liệu, thể hiện kết quả của
nhận thức lịch sử, tức là lịch sử của chủ thể đối với dựng lại quá khứ lịch sử khách quan
có thực mà nay không còn nữa.
Thứ ba: chỉ môn khoa học lịch sử mà theo Macxit là môn khoa học nghiên cứu các
hiện tượng lịch sử đã xảy ra trong hội loài người, phát hiện ra quy luật phát sinh,
phát triển của nó.
Ba nội dung trên mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Không có hiện thực lịch sử thì
không nhận thức lịch sử, không nhận thức lịch sử thì lịch sử vẫn vấn đề con
người không thể biết được. Như vậy, hiện thực lịch sử cái trước , khách quan, độc
lập với sự nhận thức của Con Người về quá khứ . Chỉ một hiện thực lịch sử khách
quan thể những nhận thức khác nhau, song chỉ nhận thức nào tiệm cận với quá
khứ phản ánh đúng (ở mức độ tương đối) mới phản ánh chân thực hiện thực lịch sử.
2. Khái niệm khoa học
Khoa học quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới, học
thuyết mới,… về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới này, tốt hơn, có
thể thay thế dần những cái cũ, không còn phù hợp. Thí dụ: Quan niệm thực vật vật thể
không có cảm giác được thay thế bằng quan niệm thực vật có cảm nhận.
Khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về quy luật của vật chất sự vận động
của vật chất, những quy luật của tự nhiên, hội, duy. Hệ thống tri thức này hình
thành trong lịch sử không ngừng phát triển trên sở thực tiễn hội. Phân biệt ra 2
hệ thống tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học.
- Tri thức kinh nghiệm: những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống hàng
ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên.
Quá trình này giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách quản thiên nhiên hình
thành mối quan hệ giữa những con người trong xã hội.
- Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống nhờ hoạt
động NCKH, các hoạt động này có mục tiêu xác định và sử dụng phương pháp khoa học.
Không giống như tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu
thập được qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động
hội, trong tự nhiên. Tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các ngành bộ
môn khoa học (discipline) như: triết học, sử học, kinh tế học, toán học, sinh học,…
II. Lịch sử là một khoa học
1. Những quan điểm về khoa học lịch sử
Trong quá trình nhận thức lịch sử, với những đặc điểm, tính chất nêu chương thứ
hai, khoa học Lịch sử ra đời phát triển. Từ sự nhận thức quá khứ lúc con người khi
mới xuất hiện đến lúc sử học ra đời, tức là từ việc nhận thức những sự kiện lớn trong đời
sống được phản ánh qua các câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết, các bản anh
hùng ca đến tri thức khoa học về lịch sử, là một chặng đường rất lâu dài. Nếu tính lịch sử
xã hội loài người từ khi ra đời đến nay khoảng triệu năm và nhận thức về lịch sử của con
người cũng có ngần ấy thời gian, thì khoa học Lịch sử còn khá non trẻ (2000-3000 năm).
Khoa học ra đời khi hình thành “hệ thống tri thức về mọi quy luật của vật chất sự
vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, hội duy”. Một cách cụ thể,
khoa học sự tổng kết những kinh nghiệm hoạt động của con người trong cuộc đấu
tranh với tự nhiên đấu tranh hội.Những hiểu biết này đạt được trình độ khái quát
hoá, trừu tượng hoá, đi sâu vào bản chất sự việc, hiện tượng. Phát hiện những quy luật
vận động quy luật tác động đến nó. Khoa học chân chính phục vụ con người, mang
tính chất xác thực khách quan.
Khoa học lịch sử ra đời, trên sở hiếu biết của con người về quá khứ, nhưng vào
thời cổ đại, khoa học lịch sử mới hình thành từ đầu thời cận đại trở thành một khoa
học thật sự. được xác định khoa học chân chính, đích thực với sự ra đời của chủ
nghĩa Mác- sử học Mác xít. Với sự nghiên cứu về đối tượng, chức năng, nhiệm vụ,
phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của nó.
>>>>Khoa học lịch sử ra đời dựa trên cơ sở hiểu biết của con người về quá khứ, trở
thành khoa học thực sự từ thời cận đại.
Khoa học lịch sử mang tính hội nghiên cứu hội, tham gia vào cuộc
sống xã hội. Nội dung của lịch sử – những vấn đề được nghiên cứu ảnh hưởng đến xã hội
và những khoa học khác. Khoa học lịch sử tích cực tham gia vào sự hình thành ý thức xã
hội. Trái với luận điểm này, các trường phái lịch sử tư sản cho rằng: lịch smôn khoa
học chỉ phục vụ khoa học thôi, không phụ thuộc vào quyền lợi của giai cấp, đảng
phái. Nhà sử học người Anh Ellton kêu gọi nghiên cứu lịch sử không đếm xỉa đến mối
quan hệ quá khứ –hiện tại, hay nghiên cứu lịch sử chỉ lịch sử thôi. Trên thực tế,
điều này là ảo tưởng. Khoa học lịch sử không thể tách rời xã hội. Dù muốn hay không, nó
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, ảnh hưởng của giai cấp, thời
đại, môi trường thể hiện trong từng bước nghiên cứu của nhà sử học. Từ việc chọn đề tài
nghiên cứu, chọn lựa liệu đến cách phân tích, giải thích chúng. Khi xem xét bất
công trình lịch sử của bất kì thời đại nào, thậm chí là đã rất xa vời, đều thấy có những vấn
đề chung, hội, con người thời bấy giờ quan tâm quan điểm giai cấp, những
đánh giá, cảm tình của tác giả.
Khoa học lịch sử có chức năng nhận thức. Chức năng nhận thức lịch sử thể hiện
việc miêu tả một cánh khoa học hiện thực lịch sử, quá khứ khách quan, để từ đó nêu lên
những qui luật chung của sphát triển hội, hình thái kinh tế hội những qui luật
biệt đặc thù, nhằm nhận thức qui luật chung một cách sâu sắc hơn, từ nhận thức đó
hiểu biết sự phát triển của toàn bộ xã hội loài người.
Khoa học lịch sử còn chức năng giáo dục, nêu gương. thể hiện s tham gia
tích cực của khoa học lịch sử vào đời sống xã hội. không tách rời nguyên tắc “ôn cố
nhi tri tân”( biết điều đã qua để hiểu cái mới).
Hiểu biết quá khứ để hiểu sâu sắc hiện tại, hoạt động tích cực trong hiện tại, tiên
đoán sự phát triển của tương lai, đấu tranh cho một tương lai tốt đẹp hơn, đó chính
nhiệm vụ của sử học.
Quan niệm về đối tượng sử học tính giai cấp. Nếu các sử gia phong kiến cho
rằng lịch sử là lịch sử của vua chúa, do vậy đối tượng của sử học là vua chúa, quí tộc, các
triều đại phong kiến, thì các nhà sử học hiện đại quan niệm lịch sử lịch sử của loài
người, đối tượng của sử học là con người và toàn bộ sự vật, hiện tượng có liên quan đến
con người. nghĩa lịch sử được coi như một quá trình thống nhất, bị chi phối bởi
những qui luật. Quá trình lịch sử là một quá trình phức tạp và đầy mâu thuẫn. Do vậy, đối
tượng của khoa học lịch sử cả quá trình phát triển thực tế của hội loài người nói
chung, của từng nước, từng dân tộc nói riêng, trong toàn bộ tính thống nhất, phức tạp của
nó.
Lịch sử trước khi trở thành khoa họcnhiều nhược điểm, mà nhược điểm chính là
tất cả những nghiên cứu lịch sử không nhằm rút ra bài học kinh nghiệm từ quá khứ, phục
vụ cho hiện tại, có ý nghĩa thực tiễn, mà chỉ khai thác những sự kiện lịch sử để hướng tới
mặt đạo đức, ý nghĩa đạo đức chính. Nhà sử học thời trung đại Beđa
Đostopochennưi (673-735) đã tuyên bố “ Sử họcnhằm thu thập những tấm gương lịch
sử để làm thức dậy trong con người những hành động thiện, hạn chế bớt cái ác”. Ngoài
ra, có thể thấy lịch sử trước khi trở thành khoa học trong các bước nghiên cứu chỉ đi tìm
sự tương tự giữa quá khứ và hiện tại. Lịch sử được coi là “cái kho” lớn, trong đó mỗi sử
gia đều có thể tìm thấy những tiền lệ cho bất kì sự kiện, hiện tượng nào của hiện tại. Trên
thực tế, lịch sử không lặp lại y hệt, nếu một vài điểm nào đó tương đồng trong một
quan hệ nào đó thì trong các mối quan hệ khác, lại hoàn toàn khác biệt. Các sử gia
trước đây đã quên đặt sự kiện lịch sử vào trong các mối quan hệ, để nhìn ra bản chất của
sự kiện, hiện tượng trong tổng các mối quan hệ. Cách nhìn nhận đánh giá lịch sử như
vậy không mang lại lợi ích thiết thực, nếu không nói là có hại.
Vào thế kỉ XV, bắt đầu nhận thấy những cố gắng đầu tiên nhìn nhận nhiệm vụ của
lịch sử một cách sâu hơn, nhìn thấy quan hệ của lịch sử với những khoa học khác. Nhà sử
học Đức Kekerman (1571-1609) trong cuốn “Về tự nhiên thuộc tính của lịch sử” cho
rằng: “lịch sử sự giải thích, tìm hiểu cả những sự vật, hiện tượng nhỏ nhất, thậm trí
mang tính cá nhân, để từ đó chúng ta nhận thức, hiểu thấu sự việc”. Các sử gia khác cũng
dần nhận thấy rằng, lịch sử có mối quan hệ mật thiết với các khoa học khác. Đây là môn
khoa học bao gồm trong mình nhiều bộ môn khoa học. Trong quá trình phát triển của tri
thức khoa học, các sử gia đã nhận thấy sự ảnh hưởng của yếu tố địa lý, điều kiện tự nhiên
đến tiến trình lịch sử .
Nhà sử học-triết học Arixtot đã tập trung sự chú ý vào yếu tố khí hậu vai trò của
nó. Trong tác phẩm “Chế độ chính trị Aten” ông đã nói về sự ảnh hưởng tới con người của
yếu tố khí hậu, (ví dụ như biển, sa mạc…). Quan niệm tương tự cũng nhận thấy ở Hipocrat,
Platon và được nhà sử học người Ả rập Ubh Khaldun (1332-1406) phát triển sâu hơn trong
bộ sách 7 tập của mình về lịch sử các dân tộc vùng Ả rập, Ba tư và các dân tộc sống cận kề.
Trong đó ông khẳng định rằng: "yếu tố quyết định ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội
là môi trường xung quanh. Bởi vì, phong tục tập quán của mỗi dân tộc, cách tổ chức xã hội
của họ chịu ảnh hưởng trong một chừng mực nhất định bởi cách thức kiếm kế sinh nhai" .
Các nhà sử học đi tới quan niệm vai trò của lịch sử như là phương thức nhận thức
thế giới. Lịch sử không chỉ kể lại những đã diễn ra, phải đánh giá, giải thích ý
nghĩa của nó, tìm hiểu những yếu tố, sự kiện khách quan, những qui luật ảnh hưởng đến
sự phát triển của lịch sử, xã hội.
Thế kỉ thứ XVI-XVIII, thời lực lượng sản xuất đạt được những thành tựu to
lớn. Khoa học duy con người bước tiến đáng kể. Đây sở cho những bước
chuyển mới trong lịch sử lịch sử bắt đầunhững thay đổi lớn lao, dần dần trở thành
khoa học. Trước tiên, thể nhận thấy sự giải phóng tư duy nguyên nhân quan trọng
thúc đẩy lịch sử phát triển. Các nhà khoa học nhận thấy những tri thức khoa học không
thể song hành với giáo điều, với tín ngưỡng tôn giáo, khi mọi câu trả lời đều gắn vào với
thượng đế và kinh thánh. Khoa học bắt đầu cuộc tấn công vào thành kiến tôn giáo, mê tín
dị đoan. Quyền lực của nhà thờ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của khoa học.
Khoa học bắt đầu cuộc đấu tranh với nhà thờ, để tri thức khoa học thoát khỏi ảnh của
giáo lý nhà thờ- một cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn và các nhà sử học tham gia tích cực
vào cuộc đấu tranh này. Đại diện tiêu biểu là Ph.Bêcơn (1561-1626) cho rằng, phải kiểm
tra mọi giả thuyết một cách lưỡng bằng con đường thực nghiệm. Nhà bác học Ý
Marchenlo Malpigi (1628-1694), người có nhiều thành công trong lĩnh vực giải phẫu học
quan niệm: “mọi cuộc chiến tranh đều mang lại ít thiệt hại hơn cho khoa học hơn
phương pháp nghiên cứu dựa trên giáo uy tín của nhà thờ, chứ không dựa trên
những quan sát trực tiếp”.
Trong cuộc đấu tranh này, phải kể đến vai trò tích cực của các nhà sử học thuộc
trường phái Nhân văn Ý. Họ mơ ước đưa sử học từ địa vị đầy tớ của nhà thờ, phục vụ nhà
thờ trở thành tri thức khoa học, loại bỏ mọi sự tin tưởng ở những thế lực thần bí, tham gia
vào hoạt động của con người trong quá trình lịch sử. Các nhà sử học-nhân văn đã tiến
hành cuộc tìm kiếm, nghiên cứu những tác phẩm của các nhà sử học cổ đại, sử dụng
phương pháp phân tích, so sánh để chỉ ra độ tin cậy của văn bản. Họ bước đầu đặt cơ sở,
nền móng cho việc ra đời thuật khôi phục lại trạng thái ban đầu của văn bản và liệu
gốc. Họ công lao lớn trong việc hình thành phương pháp phê phán sử liệu, mặc
trong các công trình của mình, phương pháp này chưa được sử dụng thực sự triệt để. Do
đề cao tính cổ đại của liệu, nên họ đã tin tưởng một cách quáng vào bất một
liệu nào, nếu nó có nguồn gốc, xuất xứ từ thế giới cổ đại.
Thời kì này cũng xuất hiện một trào lưu mới- phong trào Cải cách tôn giáo. Những
đại diện của phong trào này như nhà sử học Anh Robert Barnx(1495-1540), nhà shọc
Matiax Phlasiux (1520-1575)…bằng các tác phẩm của mình đã vạch ra hàng loạt mặt độc
tài trong chính sách của nhà thờ Rô-ma, chống lại giáo nhà thờ, vạch ra bản chất của
nhà thờ, đề cao khoa học nói chung và khoa học lịch sử nói riêng.
Để chống lại trào lưu này, bảo vệ nhà thờ, nhà thờ Rô-ma tổ chức một trào lưu đối
địch, đứng đầu Hồng y Giáo chủ Xeda Baronia(1538-1607), xuất bản hàng loạt ấn
phẩm trong đó đề cao quyền lực của nhà thờ Rô-ma, chống lại những thành viên của
phong trào Cải cách tôn giáo.
Cuộc đấu tranh về mặt tường của thời này có những ý nghĩa nhất định. Trước
hết, nó làm giảm ảnh hưởng của nhà thờ, tiêu diệt sự ảnh hưởng tuyệt đối của nhà thờ đối
với khoa học. Sau nữa, nhờ hàng loạt các liệu gốc, các tác phẩm lịch sử được
xuất bản, để dựa trên đó, hai phái bảo vệ lập trường của mình. Người cùng thời gọi đây là
“cuộc chiến tranh tư liệu”.
Sự giải phóng tri thức khỏi ảnh hưởng của nhà thờ, thái độ có tính phê phán đối với
các giáo lý tôn giáo, đã tạo cách nhìn nhận mới của khoa học đối với thế giới xung quanh
và sự phát triển của thế giới ấy.
Ở giai đoạn lịch sử chưa trở thành khoa học, xu hướng tiêu biểu trong quan niệm
về thế giới là đề cao tính ổn định, không thay đổi của nó, coi thế giới, xã hội chỉ vận động
trong một vòng tròn khép kín, hạn hẹp. Trong thế giới cũng như trong cuộc sống của mỗi
con người, mọi sự vật hiện tượng đều lặp đi, lặp lại. Quan niệm này thịnh hành cho tới
thời đầu cận đại. Nhà khoa học, chính trị học thời Phục hưng Nicôlo Makiavelli
(1469-1527) khẳng định rằng: “có thể tiên đoán trước được tương lai, tất cả mọi dân
tộc đều có chung một mong muốn hi vọng, và mọi dân tộc đều đi qua những giai đoạn
như nhau: từ chế độ quân chủ- nền bạo chính- thống trị tập đoàn- dân chủ-vô chính phủ-
chế độ quân chủ” [19,8]. nghĩa là sự phát triển tuân theo một trật tự nhất định, lặp lại
theo một vòng khép kín. Phần lớn các sử gia thời kì này đều quan niệm: quá khứ soi sáng
hiện tại, vì thế giới chỉ là một và chỉ một mà thôi. Những gì đang có, sẽ có thì đã từng có,
chỉ có điều có ở thời gian khác mà thôi. Những gì thuộc về quá khứ sẽ trở lại, nhưng dưới
một cái tên khác, một diện mạo khác mà không phải ai cũng nhận ra. Nhận ra chỉ
người thông thái, biết quan sát.
Một quan niệm khác, không khoa học tương tự, đó quan niệm về sự thoái hoá,
thụt lùi, cho rằng “thời vàng son” của nhân loại đã qua rồi. Trong quá khứ con người
không biết đến bệnh tật, từng sống sung sướng. Tất cả lịch sử nhân loại chỉ sự thoái
biến thôi. Mặc khoa học đã từ lâu chứng minh tính phản khoa học của tưởng
này, nhưng vẫn những ảnh hưởng nhất định đến duy của một số những người
chưa thoát khỏi sự chi phối của giáo điều tôn giáo.
Thay thế những tư tưởng lỗi thời đó là những quan niệm tiến bộ hơn về sự phát triển
phù hợp với thời gian, tính thay đổi liên tục của thế giới, như qui luật tồn tại của thế
giới xung quanh, như một trong những điều kiện của sự tồn tại. Sở quan niệm này
đứng vững được do thời này lực lượng sản xuất phát triển một cách rệt, mức
sống được nâng cao. Đây thời kì của sản xuất vật chất, thuật và khoa học, cùng với
sự phát triển của quan hệ mới- quan hệ tư sản. Tư tưởng về sự tiến hoá được thể hiện khá
nét các nhà khoa học-nhân văn Khai sáng, tiêu biểu Gian Bôden(1530-1596),
Bernar de Phontenel(1657-1757), Dzambattista Viko(1668-1744)…Quan niệm này đặc
biệt phát triển vào thời Khai sáng, những nhà tư tưởng thời đại này thể hiện quyền
lợi của giai cấp sản đang hình thành, phát triển, phê phán tưởng phong kiến một
cách mạnh mẽ qua việc nhấn mạnh tính qui luật của quá trình lịch sử. Tuy vậy, đây
thể thấy sự thoả hiệp giữa niềm tin tôn giáo tính qui luật của sự phát triển, khi họ
cho rằng “cú hích” đầu tiên là do một sức mạnh thần bí, siêu đẳng, nhưng sau đó thế lực
này không còn tác động vào quá trình lịch sử nữa, thế giới phát triển theo một hướng nhất
định.Tuy những bước tiến , nhưng tưởng về sự tiến hoá này những mặt yếu
không thể không nhận ra. Đó tính sài. Sự tiến hoá được hình dung đơn giản theo
đường thẳng, đi từ nấc thang này sang nấc thang khác. Do ảnh hưởng của chủ nghĩa duy
tâm, các nhà Khai sáng không nhìn ra nguyên nhân thực sự của sự tiến hoá, coi trí tuệ của
con người nguyên nhân bản, hàng đầu của quá trình tiến hoá ấy.Thời này, ảnh
hưởng của yếu tố địa lý, điều kiện tự nhiên đến tiến trình lịch sử cũng được đào sâu hơn.
tưởng này được thể hiện một cách hoàn thiện hơn bởi Monteskio(1689-1775), khi
ông cho rằng các hình thức cai trị xã hội và đời sống văn hoá của các dân tộc phụ thuộc
vào khí hậu, thảm thực vật và hàng loạt các yếu tố địa lý khác.
Thế kỉ XVIII, các nhà s học bị lôi kéo bởi những yếu tố khác trong sự phát triển
của xã hội, trong đó yếu tố cơ bản chi phối sự phát triển của lịch sử, được coi các quá
trình kinh tế. nhiên quan điểm này được các nhà sử học Anh quan tâm đầu tiên,
đây là nơi đang diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp với những thay đổi sâu sắc trong đời
sống xã hội. Các nhà sử học nêu lên vai trò của sở hữu và sự phân bố không đồng đều của
nó, tác động của nó đối với sự phát triển củahội. Họ cho rằng động lực phát triển của
hội nằm trong tổng hoà các điều kiện kinh tế. Nhà sử học Xcôtlen Adam Phergisxon
(1723-1816) đã nhìn thấy vai trò của các mâu thuẫn, xung đột trong sự phát triển của
hội và thừa nhận tính qui luật của các biến động cách mạng.
Thế kỉ XIX, các nhà khoa học đã chỉ ra thêm nhiều yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến hoạt động của xã hội. Nhưng để lịch sử thực sự trở thành khoa học đòi hỏi phải xây
dựng hệ thống phương pháp nghiên cứu. Lịch sử là khoa học khidựa trên những hiểu
biết tin câỵ. Những hiểu biết này có được, khi nhà sử học có thể xác định được độ tin cậy,
tính chân thực của tư liệu lịch sử và kiểm tra nó một cách kĩ càng. Chính từ yêu cầu này
mà phương pháp phê phán sử liệu đã ra đời. Những người đặt nền móng chính là các nhà
sử học-nhân văn, sau đó nhà thờ công giáo (như đã nêutrên, trong cuộc “chiến tranh
liệu”). Phương pháp này (đặc biệt phương pháp phê phán sliệu bên trong) được
hình thành trong khoảng từ thế kỉ XVII-XVIII, với công sức, sự cố gắng, nỗ lực của
nhiều nhà nghiên cứu.
Như vậy, đã nh thành dần những điều kiện cơ bản để lịch sử trở thành khoa học, đó
:
- Sự nhận thức sâu sắc hơn nhiệm vụ của khoa học lịch sử.
- Hình thành chặt chẽ hơn hệ thống các phương pháp nghiên cứu sử liệu.
Sự hoà quyện của hai yếu tố cơ bản này làm cho lịch sử thực sự trở thành khoa học.
Vậy thì sự hoà quyện ấy xẩy ra khi nào? Khi nào lịch sử trở thành sử học? Trả lời câu hỏi
này không hề đơn giản. Bởi vì, bản thân khái niệm “khoa học”cũng luôn thay đổi, nó phụ
thuộc vào thời đại. Cùng với sự phát triển của hội, khoa học cũng thay đổi cách nhìn
nhận nhiệm vụ của mình và giải quyết chúng bằng những phương pháp khác nhau. Trong
bối cảnh như vậy, thay đổi cả quan niệm về “tính khoa học”. Đối với khoa học lịch sử cũng
vậy. Nên cuộc tranh luận về thời gian lịch sử trở thành sử học không tránh khỏi. Nếu
xem những tri thức lịch sử đã đạt được mức độ tương đối chính xác, dựa trên sở
những nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ của mình dựa trên những phương pháp nghiên
cứu chặt chẽ, thì khoa học lịch sử xuất hiện chưa lâu, không sớm hơn cuối thế kỉ XVIII,
đầu thế kỉ XIX.
Lịch sử trở thành khoa học không nghĩa hình thức duy nhất nhận thức quá
khứ. Ngoài sử học, vẫn tồn tại các hình thức nhận thức lịch sử khác nhau, như ngoài khoa
học hoặc trước khoa học. Khoa học lịch sử như một khoa học hội trong điều kiện
đấu tranh giai cấp không thể đứng ngoài cuộc, tham gia vào cuộc đấu tranh tưởng
| 1/33

Preview text:

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 2
B. NỘI DUNG................................................................................................................... 2
I. Một số khái niệm..........................................................................................................2
1. Khái niệm lịch sử.....................................................................................................2
2. Khái niệm khoa học.................................................................................................3
II. Lịch sử là một khoa học..............................................................................................4
1. Những quan điểm về khoa học lịch sử....................................................................4
2. Khoa học lịch sử.....................................................................................................11
2.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................11
2.2. Chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................12
2.3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................13
2.4. Đặc trưng, bản chất...............................................................................................14
2.5. Những lí thuyết tiếp cận........................................................................................15
3. Các chuyên ngành của khoa học lịch sử...............................................................16
4. Vị trí, vai trò của khoa học lịch sử trong hệ thống các ngành khoa học............19
III. Lịch sử sử học - Sơ lược về lịch sử phát triển của khoa học Lịch sử.......................21
1. Sự phát triển của khoa học lịch sử nói chung......................................................21
2. Sự phát triển của khoa học lịch sử ở Việt Nam....................................................22
IV. Phương pháp học tập và nghiên cứu khoa học lịch sử của sinh viên...................24
C. KẾT LUẬN................................................................................................................ 29 A. MỞ ĐẦU
Trong quá trình nhận thức lịch sử, khoa học lịch sử ra đời và phát triển, Từ sự nhận
thức quá khứ lúc con người khi mới xuất hiện đến lúc Sử học ra đời, tức là từ việc nhận
thức những sự kiện lớn trong đời sống được phản ánh qua các câu chuyện cổ tích, thần
thoại, truyền thuyết, các bản anh hùng ca đến tri thức khoa học về lịch sử, là một chặng
đường rất dài lâu. Khoa học ra đời khi nó hình thành “hệ thống tri thức về mọi quy luật
của vật chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, tư duy”.
Ở trường Đại học, sinh viên được học tập, nghiên cứu khoa học chứ không phải
được cung cấp những kiến thức cơ bản của môn học. Vì vậy, việc tìm hiểu lịch sử của
khoa học là cần thiết; qua đó sinh viên sẽ nhận thức được quá trình hình thành và phát
triển của ngành học, từ những tri thức đầu tiên của con người đến lúc khoa học ra đời. B. NỘI DUNG
I. Một số khái niệm
1. Khái niệm lịch sử
Lịch sử là một bộ môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện
liên quan đến con người. Đây là thuật ngữ chung có liên quan đến các sự kiện trong quá
khứ cũng như những ghi nhớ, phát hiện, tổ chức, thu thập, trình bày và thông tin về những sự kiện này.
Lịch sử là những gì thuộc về quá khứ và gắn liền với xã hội loài người. Với ý này,
lịch sử là một nội hàm lớn, bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong xã hội, đa diện, do đó khó
định nghĩa chính xác và đầy đủ.
Định nghĩa ngắn gọn của Ts.Sue Peabody: “lịch sử là một câu chuyện chúng ta nói chúng ta là ai.”
Theo nhà văn Victor Hugo: Lịch sử là gì? Đó là tiếng vọng của quá khứ và tương lai
và là ánh phản chiếu của tương lai trên quá khứ.
Quan điểm triết học của Karl Marx cho rằng : Lịch sử là các tồn tại xã hội từ trước
đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp..
Nhà các học La Mã Ciceron đưa ra quan điểm “historia magistra vitae” (lịch sử
chính yếu của cuộc sống” với yêu cầu đạt tới “lux veritatis” ( ánh sáng của sự thật).
Gs Hà Văn Tấn có viết “ lịch sử là khách quan. Sự kiện lịch sử là những sự thật
được tồn tại độc lập ngoài ý thức chúng ta. Những sự nhận thức lịch sử lại là chủ quan.
Và người ta chép sử vì những mục đích khác nhau”.
- 3 tầng hàm nghĩa của lịch sử:
Thứ nhất: Lịch sử là quá trình hiện thực khách quan của xã hội loài người trước đây,
hoặc lịch sử của những sự kiện, hiện tượng, nhân vật đã từng tồn tại trong quá khứ, tức là
lịch sử là một hiện thực khách quan, tức là lịch sử của một hiện thực khách quan, trở
thành đối tượng nhận thức của những người nghiên cứu, dạy học và học tập lịch sử.
Thứ hai: sự nhận thức của con người qua các nguồn sử liệu, thể hiện kết quả của
nhận thức lịch sử, tức là lịch sử của chủ thể đối với dựng lại quá khứ lịch sử khách quan
có thực mà nay không còn nữa.
Thứ ba: chỉ môn khoa học lịch sử mà theo Macxit là môn khoa học nghiên cứu các
hiện tượng lịch sử đã xảy ra trong xã hội loài người, và phát hiện ra quy luật phát sinh, phát triển của nó.
Ba nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Không có hiện thực lịch sử thì
không có nhận thức lịch sử, không có nhận thức lịch sử thì lịch sử vẫn là vấn đề con
người không thể biết được. Như vậy, hiện thực lịch sử là cái có trước , khách quan, độc
lập với sự nhận thức của Con Người về quá khứ . Chỉ có một hiện thực lịch sử khách
quan và có thể những nhận thức khác nhau, song chỉ có nhận thức nào tiệm cận với quá
khứ phản ánh đúng (ở mức độ tương đối) mới phản ánh chân thực hiện thực lịch sử.
2. Khái niệm khoa học
Khoa học là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới, học
thuyết mới,… về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới này, tốt hơn, có
thể thay thế dần những cái cũ, không còn phù hợp. Thí dụ: Quan niệm thực vật là vật thể
không có cảm giác được thay thế bằng quan niệm thực vật có cảm nhận.
Khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về quy luật của vật chất và sự vận động
của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy. Hệ thống tri thức này hình
thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội. Phân biệt ra 2
hệ thống tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học.
- Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống hàng
ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên.
Quá trình này giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách quản lý thiên nhiên và hình
thành mối quan hệ giữa những con người trong xã hội.
- Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống nhờ hoạt
động NCKH, các hoạt động này có mục tiêu xác định và sử dụng phương pháp khoa học.
Không giống như tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu
thập được qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã
hội, trong tự nhiên. Tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các ngành và bộ
môn khoa học (discipline) như: triết học, sử học, kinh tế học, toán học, sinh học,…
II. Lịch sử là một khoa học
1. Những quan điểm về khoa học lịch sử
Trong quá trình nhận thức lịch sử, với những đặc điểm, tính chất nêu ở chương thứ
hai, khoa học Lịch sử ra đời và phát triển. Từ sự nhận thức quá khứ lúc con người khi
mới xuất hiện đến lúc sử học ra đời, tức là từ việc nhận thức những sự kiện lớn trong đời
sống được phản ánh qua các câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết, các bản anh
hùng ca đến tri thức khoa học về lịch sử, là một chặng đường rất lâu dài. Nếu tính lịch sử
xã hội loài người từ khi ra đời đến nay khoảng triệu năm và nhận thức về lịch sử của con
người cũng có ngần ấy thời gian, thì khoa học Lịch sử còn khá non trẻ (2000-3000 năm).
Khoa học ra đời khi nó hình thành “hệ thống tri thức về mọi quy luật của vật chất và sự
vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy”. Một cách cụ thể,
khoa học là sự tổng kết những kinh nghiệm hoạt động của con người trong cuộc đấu
tranh với tự nhiên và đấu tranh xã hội.Những hiểu biết này đạt được trình độ khái quát
hoá, trừu tượng hoá, đi sâu vào bản chất sự việc, hiện tượng. Phát hiện những quy luật
vận động và quy luật tác động đến nó. Khoa học chân chính phục vụ con người, mang
tính chất xác thực khách quan.
Khoa học lịch sử ra đời, trên cơ sở hiếu biết của con người về quá khứ, nhưng vào
thời cổ đại, khoa học lịch sử mới hình thành và từ đầu thời cận đại trở thành một khoa
học thật sự. Nó được xác định là khoa học chân chính, đích thực với sự ra đời của chủ
nghĩa Mác- sử học Mác xít. Với sự nghiên cứu về đối tượng, chức năng, nhiệm vụ,
phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của nó.
>>>>Khoa học lịch sử ra đời dựa trên cơ sở hiểu biết của con người về quá khứ, trở
thành khoa học thực sự từ thời cận đại.
Khoa học lịch sử mang tính xã hội vì nó nghiên cứu xã hội, tham gia vào cuộc
sống xã hội. Nội dung của lịch sử – những vấn đề được nghiên cứu ảnh hưởng đến xã hội
và những khoa học khác. Khoa học lịch sử tích cực tham gia vào sự hình thành ý thức xã
hội. Trái với luận điểm này, các trường phái lịch sử tư sản cho rằng: lịch sử là môn khoa
học chỉ phục vụ khoa học mà thôi, không phụ thuộc vào quyền lợi của giai cấp, đảng
phái. Nhà sử học người Anh Ellton kêu gọi nghiên cứu lịch sử không đếm xỉa đến mối
quan hệ quá khứ –hiện tại, hay nghiên cứu lịch sử chỉ vì lịch sử mà thôi. Trên thực tế,
điều này là ảo tưởng. Khoa học lịch sử không thể tách rời xã hội. Dù muốn hay không, nó
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, vì ảnh hưởng của giai cấp, thời
đại, môi trường thể hiện trong từng bước nghiên cứu của nhà sử học. Từ việc chọn đề tài
nghiên cứu, chọn lựa tư liệu đến cách phân tích, giải thích chúng. Khi xem xét bất kì
công trình lịch sử của bất kì thời đại nào, thậm chí là đã rất xa vời, đều thấy có những vấn
đề chung, mà xã hội, con người thời kì bấy giờ quan tâm và quan điểm giai cấp, những
đánh giá, cảm tình của tác giả.
Khoa học lịch sử có chức năng nhận thức. Chức năng nhận thức lịch sử thể hiện ở
việc miêu tả một cánh khoa học hiện thực lịch sử, quá khứ khách quan, để từ đó nêu lên
những qui luật chung của sự phát triển xã hội, hình thái kinh tế xã hội và những qui luật
cá biệt đặc thù, nhằm nhận thức qui luật chung một cách sâu sắc hơn, từ nhận thức đó
hiểu biết sự phát triển của toàn bộ xã hội loài người.
Khoa học lịch sử còn có chức năng giáo dục, nêu gương. Nó thể hiện sự tham gia
tích cực của khoa học lịch sử vào đời sống xã hội. Nó không tách rời nguyên tắc “ôn cố
nhi tri tân”( biết điều đã qua để hiểu cái mới).
Hiểu biết quá khứ để hiểu sâu sắc hiện tại, hoạt động tích cực trong hiện tại, tiên
đoán sự phát triển của tương lai, đấu tranh cho một tương lai tốt đẹp hơn, đó chính là nhiệm vụ của sử học.
Quan niệm về đối tượng sử học có tính giai cấp. Nếu các sử gia phong kiến cho
rằng lịch sử là lịch sử của vua chúa, do vậy đối tượng của sử học là vua chúa, quí tộc, các
triều đại phong kiến, thì các nhà sử học hiện đại quan niệm lịch sử là lịch sử của loài
người, đối tượng của sử học là con người và toàn bộ sự vật, hiện tượng có liên quan đến
con người. Có nghĩa là lịch sử được coi như một quá trình thống nhất, bị chi phối bởi
những qui luật. Quá trình lịch sử là một quá trình phức tạp và đầy mâu thuẫn. Do vậy, đối
tượng của khoa học lịch sử là cả quá trình phát triển thực tế của xã hội loài người nói
chung, của từng nước, từng dân tộc nói riêng, trong toàn bộ tính thống nhất, phức tạp của nó.
Lịch sử trước khi trở thành khoa học có nhiều nhược điểm, mà nhược điểm chính là
tất cả những nghiên cứu lịch sử không nhằm rút ra bài học kinh nghiệm từ quá khứ, phục
vụ cho hiện tại, có ý nghĩa thực tiễn, mà chỉ khai thác những sự kiện lịch sử để hướng tới
mặt đạo đức, ý nghĩa đạo đức là chính. Nhà sử học thời kì trung đại Beđa
Đostopochennưi (673-735) đã tuyên bố “ Sử học là nhằm thu thập những tấm gương lịch
sử để làm thức dậy trong con người những hành động thiện, hạn chế bớt cái ác”. Ngoài
ra, có thể thấy lịch sử trước khi trở thành khoa học trong các bước nghiên cứu chỉ đi tìm
sự tương tự giữa quá khứ và hiện tại. Lịch sử được coi là “cái kho” lớn, trong đó mỗi sử
gia đều có thể tìm thấy những tiền lệ cho bất kì sự kiện, hiện tượng nào của hiện tại. Trên
thực tế, lịch sử không lặp lại y hệt, nếu có một vài điểm nào đó tương đồng trong một
quan hệ nào đó thì trong các mối quan hệ khác, nó lại hoàn toàn khác biệt. Các sử gia
trước đây đã quên đặt sự kiện lịch sử vào trong các mối quan hệ, để nhìn ra bản chất của
sự kiện, hiện tượng trong tổng các mối quan hệ. Cách nhìn nhận và đánh giá lịch sử như
vậy không mang lại lợi ích thiết thực, nếu không nói là có hại.
Vào thế kỉ XV, bắt đầu nhận thấy những cố gắng đầu tiên nhìn nhận nhiệm vụ của
lịch sử một cách sâu hơn, nhìn thấy quan hệ của lịch sử với những khoa học khác. Nhà sử
học Đức Kekerman (1571-1609) trong cuốn “Về tự nhiên và thuộc tính của lịch sử” cho
rằng: “lịch sử là sự giải thích, tìm hiểu cả những sự vật, hiện tượng nhỏ nhất, thậm trí
mang tính cá nhân, để từ đó chúng ta nhận thức, hiểu thấu sự việc”. Các sử gia khác cũng
dần nhận thấy rằng, lịch sử có mối quan hệ mật thiết với các khoa học khác. Đây là môn
khoa học bao gồm trong mình nhiều bộ môn khoa học. Trong quá trình phát triển của tri
thức khoa học, các sử gia đã nhận thấy sự ảnh hưởng của yếu tố địa lý, điều kiện tự nhiên
đến tiến trình lịch sử .
Nhà sử học-triết học Arixtot đã tập trung sự chú ý vào yếu tố khí hậu và vai trò của
nó. Trong tác phẩm “Chế độ chính trị Aten” ông đã nói về sự ảnh hưởng tới con người của
yếu tố khí hậu, (ví dụ như biển, sa mạc…). Quan niệm tương tự cũng nhận thấy ở Hipocrat,
Platon và được nhà sử học người Ả rập Ubh Khaldun (1332-1406) phát triển sâu hơn trong
bộ sách 7 tập của mình về lịch sử các dân tộc vùng Ả rập, Ba tư và các dân tộc sống cận kề.
Trong đó ông khẳng định rằng: "yếu tố quyết định ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội
là môi trường xung quanh. Bởi vì, phong tục tập quán của mỗi dân tộc, cách tổ chức xã hội
của họ chịu ảnh hưởng trong một chừng mực nhất định bởi cách thức kiếm kế sinh nhai" .
Các nhà sử học đi tới quan niệm vai trò của lịch sử như là phương thức nhận thức
thế giới. Lịch sử không chỉ là kể lại những gì đã diễn ra, mà phải đánh giá, giải thích ý
nghĩa của nó, tìm hiểu những yếu tố, sự kiện khách quan, những qui luật ảnh hưởng đến
sự phát triển của lịch sử, xã hội.
Thế kỉ thứ XVI-XVIII, là thời kì lực lượng sản xuất đạt được những thành tựu to
lớn. Khoa học và tư duy con người có bước tiến đáng kể. Đây là cơ sở cho những bước
chuyển mới trong lịch sử và lịch sử bắt đầu có những thay đổi lớn lao, dần dần trở thành
khoa học. Trước tiên, có thể nhận thấy sự giải phóng tư duy là nguyên nhân quan trọng
thúc đẩy lịch sử phát triển. Các nhà khoa học nhận thấy những tri thức khoa học không
thể song hành với giáo điều, với tín ngưỡng tôn giáo, khi mọi câu trả lời đều gắn vào với
thượng đế và kinh thánh. Khoa học bắt đầu cuộc tấn công vào thành kiến tôn giáo, mê tín
dị đoan. Quyền lực của nhà thờ có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của khoa học.
Khoa học bắt đầu cuộc đấu tranh với nhà thờ, để tri thức khoa học thoát khỏi ảnh của
giáo lý nhà thờ- một cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn và các nhà sử học tham gia tích cực
vào cuộc đấu tranh này. Đại diện tiêu biểu là Ph.Bêcơn (1561-1626) cho rằng, phải kiểm
tra mọi giả thuyết một cách kĩ lưỡng bằng con đường thực nghiệm. Nhà bác học Ý
Marchenlo Malpigi (1628-1694), người có nhiều thành công trong lĩnh vực giải phẫu học
quan niệm: “mọi cuộc chiến tranh đều mang lại ít thiệt hại hơn cho khoa học hơn là
phương pháp nghiên cứu dựa trên giáo lý và uy tín của nhà thờ, chứ không dựa trên
những quan sát trực tiếp”.
Trong cuộc đấu tranh này, phải kể đến vai trò tích cực của các nhà sử học thuộc
trường phái Nhân văn Ý. Họ mơ ước đưa sử học từ địa vị đầy tớ của nhà thờ, phục vụ nhà
thờ trở thành tri thức khoa học, loại bỏ mọi sự tin tưởng ở những thế lực thần bí, tham gia
vào hoạt động của con người trong quá trình lịch sử. Các nhà sử học-nhân văn đã tiến
hành cuộc tìm kiếm, nghiên cứu những tác phẩm của các nhà sử học cổ đại, sử dụng
phương pháp phân tích, so sánh để chỉ ra độ tin cậy của văn bản. Họ bước đầu đặt cơ sở,
nền móng cho việc ra đời kĩ thuật khôi phục lại trạng thái ban đầu của văn bản và tư liệu
gốc. Họ có công lao lớn trong việc hình thành phương pháp phê phán sử liệu, mặc dù
trong các công trình của mình, phương pháp này chưa được sử dụng thực sự triệt để. Do
đề cao tính cổ đại của tư liệu, nên họ đã tin tưởng một cách mù quáng vào bất kì một tư
liệu nào, nếu nó có nguồn gốc, xuất xứ từ thế giới cổ đại.
Thời kì này cũng xuất hiện một trào lưu mới- phong trào Cải cách tôn giáo. Những
đại diện của phong trào này như nhà sử học Anh Robert Barnx(1495-1540), nhà sử học
Matiax Phlasiux (1520-1575)…bằng các tác phẩm của mình đã vạch ra hàng loạt mặt độc
tài trong chính sách của nhà thờ Rô-ma, chống lại giáo lý nhà thờ, vạch ra bản chất của
nhà thờ, đề cao khoa học nói chung và khoa học lịch sử nói riêng.
Để chống lại trào lưu này, bảo vệ nhà thờ, nhà thờ Rô-ma tổ chức một trào lưu đối
địch, đứng đầu là Hồng y Giáo chủ Xeda Baronia(1538-1607), xuất bản hàng loạt ấn
phẩm trong đó đề cao quyền lực của nhà thờ Rô-ma, chống lại những thành viên của
phong trào Cải cách tôn giáo.
Cuộc đấu tranh về mặt tư tường của thời kì này có những ý nghĩa nhất định. Trước
hết, nó làm giảm ảnh hưởng của nhà thờ, tiêu diệt sự ảnh hưởng tuyệt đối của nhà thờ đối
với khoa học. Sau nữa, nhờ nó mà hàng loạt các tư liệu gốc, các tác phẩm lịch sử được
xuất bản, để dựa trên đó, hai phái bảo vệ lập trường của mình. Người cùng thời gọi đây là
“cuộc chiến tranh tư liệu”.
Sự giải phóng tri thức khỏi ảnh hưởng của nhà thờ, thái độ có tính phê phán đối với
các giáo lý tôn giáo, đã tạo cách nhìn nhận mới của khoa học đối với thế giới xung quanh
và sự phát triển của thế giới ấy.
Ở giai đoạn lịch sử chưa trở thành khoa học, xu hướng tiêu biểu trong quan niệm
về thế giới là đề cao tính ổn định, không thay đổi của nó, coi thế giới, xã hội chỉ vận động
trong một vòng tròn khép kín, hạn hẹp. Trong thế giới cũng như trong cuộc sống của mỗi
con người, mọi sự vật hiện tượng đều lặp đi, lặp lại. Quan niệm này thịnh hành cho tới
thời kì đầu cận đại. Nhà khoa học, chính trị học thời kì Phục hưng Nicôlo Makiavelli
(1469-1527) khẳng định rằng: “có thể tiên đoán trước được tương lai, vì tất cả mọi dân
tộc đều có chung một mong muốn và hi vọng, và mọi dân tộc đều đi qua những giai đoạn
như nhau: từ chế độ quân chủ- nền bạo chính- thống trị tập đoàn- dân chủ-vô chính phủ-
chế độ quân chủ” [19,8]. Có nghĩa là sự phát triển tuân theo một trật tự nhất định, lặp lại
theo một vòng khép kín. Phần lớn các sử gia thời kì này đều quan niệm: quá khứ soi sáng
hiện tại, vì thế giới chỉ là một và chỉ một mà thôi. Những gì đang có, sẽ có thì đã từng có,
chỉ có điều có ở thời gian khác mà thôi. Những gì thuộc về quá khứ sẽ trở lại, nhưng dưới
một cái tên khác, một diện mạo khác mà không phải ai cũng nhận ra. Nhận ra nó chỉ có
người thông thái, biết quan sát.
Một quan niệm khác, không khoa học tương tự, đó là quan niệm về sự thoái hoá,
thụt lùi, cho rằng “thời kì vàng son” của nhân loại đã qua rồi. Trong quá khứ con người
không biết đến bệnh tật, từng sống sung sướng. Tất cả lịch sử nhân loại chỉ là sự thoái
biến mà thôi. Mặc dù khoa học đã từ lâu chứng minh tính phản khoa học của tư tưởng
này, nhưng nó vẫn có những ảnh hưởng nhất định đến tư duy của một số những người
chưa thoát khỏi sự chi phối của giáo điều tôn giáo.
Thay thế những tư tưởng lỗi thời đó là những quan niệm tiến bộ hơn về sự phát triển
phù hợp với thời gian, tính thay đổi liên tục của thế giới, như là qui luật tồn tại của thế
giới xung quanh, như một trong những điều kiện của sự tồn tại. Sở dĩ quan niệm này
đứng vững được là do thời kì này lực lượng sản xuất phát triển một cách rõ rệt, mức
sống được nâng cao. Đây là thời kì của sản xuất vật chất, kĩ thuật và khoa học, cùng với
sự phát triển của quan hệ mới- quan hệ tư sản. Tư tưởng về sự tiến hoá được thể hiện khá
rõ nét ở các nhà khoa học-nhân văn và Khai sáng, tiêu biểu là Gian Bôden(1530-1596),
Bernar de Phontenel(1657-1757), Dzambattista Viko(1668-1744)…Quan niệm này đặc
biệt phát triển vào thời kì Khai sáng, vì những nhà tư tưởng thời đại này thể hiện quyền
lợi của giai cấp tư sản đang hình thành, phát triển, phê phán tư tưởng phong kiến một
cách mạnh mẽ qua việc nhấn mạnh tính qui luật của quá trình lịch sử. Tuy vậy, ở đây có
thể thấy rõ sự thoả hiệp giữa niềm tin tôn giáo và tính qui luật của sự phát triển, khi họ
cho rằng “cú hích” đầu tiên là do một sức mạnh thần bí, siêu đẳng, nhưng sau đó thế lực
này không còn tác động vào quá trình lịch sử nữa, thế giới phát triển theo một hướng nhất
định.Tuy có những bước tiến , nhưng tư tưởng về sự tiến hoá này có những mặt yếu
không thể không nhận ra. Đó tính sơ sài. Sự tiến hoá được hình dung đơn giản theo
đường thẳng, đi từ nấc thang này sang nấc thang khác. Do ảnh hưởng của chủ nghĩa duy
tâm, các nhà Khai sáng không nhìn ra nguyên nhân thực sự của sự tiến hoá, coi trí tuệ của
con người là nguyên nhân cơ bản, hàng đầu của quá trình tiến hoá ấy.Thời kì này, ảnh
hưởng của yếu tố địa lý, điều kiện tự nhiên đến tiến trình lịch sử cũng được đào sâu hơn.
Tư tưởng này được thể hiện một cách hoàn thiện hơn bởi Monteskio(1689-1775), khi
ông cho rằng các hình thức cai trị xã hội và đời sống văn hoá của các dân tộc phụ thuộc
vào khí hậu, thảm thực vật và hàng loạt các yếu tố địa lý khác.
Thế kỉ XVIII, các nhà sử học bị lôi kéo bởi những yếu tố khác trong sự phát triển
của xã hội, trong đó yếu tố cơ bản chi phối sự phát triển của lịch sử, được coi là các quá
trình kinh tế. Dĩ nhiên là quan điểm này được các nhà sử học Anh quan tâm đầu tiên, vì
đây là nơi đang diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp với những thay đổi sâu sắc trong đời
sống xã hội. Các nhà sử học nêu lên vai trò của sở hữu và sự phân bố không đồng đều của
nó, tác động của nó đối với sự phát triển của xã hội. Họ cho rằng động lực phát triển của
xã hội nằm trong tổng hoà các điều kiện kinh tế. Nhà sử học Xcôtlen Adam Phergisxon
(1723-1816) đã nhìn thấy vai trò của các mâu thuẫn, xung đột trong sự phát triển của xã
hội và thừa nhận tính qui luật của các biến động cách mạng.
Thế kỉ XIX, các nhà khoa học đã chỉ ra thêm nhiều yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến hoạt động của xã hội. Nhưng để lịch sử thực sự trở thành khoa học đòi hỏi phải xây
dựng hệ thống phương pháp nghiên cứu. Lịch sử là khoa học khi nó dựa trên những hiểu
biết tin câỵ. Những hiểu biết này có được, khi nhà sử học có thể xác định được độ tin cậy,
tính chân thực của tư liệu lịch sử và kiểm tra nó một cách kĩ càng. Chính từ yêu cầu này
mà phương pháp phê phán sử liệu đã ra đời. Những người đặt nền móng chính là các nhà
sử học-nhân văn, sau đó là nhà thờ công giáo (như đã nêu ở trên, trong cuộc “chiến tranh
tư liệu”). Phương pháp này (đặc biệt là phương pháp phê phán sử liệu bên trong) được
hình thành trong khoảng từ thế kỉ XVII-XVIII, với công sức, sự cố gắng, nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu.
Như vậy, đã hình thành dần những điều kiện cơ bản để lịch sử trở thành khoa học, đó là:
- Sự nhận thức sâu sắc hơn nhiệm vụ của khoa học lịch sử.
- Hình thành chặt chẽ hơn hệ thống các phương pháp nghiên cứu sử liệu.
Sự hoà quyện của hai yếu tố cơ bản này làm cho lịch sử thực sự trở thành khoa học.
Vậy thì sự hoà quyện ấy xẩy ra khi nào? Khi nào lịch sử trở thành sử học? Trả lời câu hỏi
này không hề đơn giản. Bởi vì, bản thân khái niệm “khoa học”cũng luôn thay đổi, nó phụ
thuộc vào thời đại. Cùng với sự phát triển của xã hội, khoa học cũng thay đổi cách nhìn
nhận nhiệm vụ của mình và giải quyết chúng bằng những phương pháp khác nhau. Trong
bối cảnh như vậy, thay đổi cả quan niệm về “tính khoa học”. Đối với khoa học lịch sử cũng
vậy. Nên cuộc tranh luận về thời gian lịch sử trở thành sử học là không tránh khỏi. Nếu
xem những tri thức lịch sử đã đạt được ở mức độ tương đối chính xác, dựa trên cơ sở
những nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ của mình và dựa trên những phương pháp nghiên
cứu chặt chẽ, thì khoa học lịch sử xuất hiện chưa lâu, không sớm hơn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX.
Lịch sử trở thành khoa học không có nghĩa nó là hình thức duy nhất nhận thức quá
khứ. Ngoài sử học, vẫn tồn tại các hình thức nhận thức lịch sử khác nhau, như ngoài khoa
học hoặc trước khoa học. Khoa học lịch sử như là một khoa học xã hội trong điều kiện
đấu tranh giai cấp không thể đứng ngoài cuộc, nó tham gia vào cuộc đấu tranh tư tưởng