lOMoARcPSD| 48302938
Câu 1:Triết học là gì? PT ND vđe cơ bản của triết học
Triết học là hình thức đặc biệt của nhận thức và ý thức xã hội về thế giới, được thể hiện
thành hệ thống tri thức về những nguyên tắc cơ bản và nền tảng của tồn tại người,về
những đặc trưng bản chất nhất của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,với xã hội và
với đời sống tinh thần.
- Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức. Ăng-
ghen viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn
đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.
- Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn :
+ Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào?
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học và trường phái triết
học, xác định việc hình thành các trường phái lớn của triết học. a) Giải quyết mặt thứ
nhất vấn đề cơ bản của triết học - Chủ nghĩa duy vật: thể hiện dưới 3 hình thức cơ
bản :
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác của các nhà triết học thời cổ đại: lấy bản thân giới tự
nhiên để giải thích thế giới, không viện đến thần linh, thượng đế hay các thế lực siêu
nhiên.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình của các nhà triết học TK XV-TK XVIII: nhìn thế giới như
một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên thế giới đó ở trong trạng thái biệt lập và
tĩnh tại, đẩy lùi thế giới quan duy tâm và tôn giáo.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăng-ghen xây dựng vào TK XIX: kế thừa
tinh hoa của các học thuyết triết học và thành tựu của khoa học đương thời, phản ánh
đúng hiện thực như chính bản thân nó tồn tại và là công cụ hữu hiệu giúp những lực
lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực.
- Chủ nghĩa duy tâm: thể hiện dưới 2 hình thức cơ bản :
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, phủ nhận
sự tồn tại khách quan của hiện thực, mọi sự vật hiện tượng là sự phức hợp của cảm giác.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan: thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là thứ
tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người.
Gồm 3 phái:
lOMoARcPSD| 48302938
+ Nhất nguyên luận: chỉ thừa nhận một trong hai thực thể vật chất hoặc tinh thần
nguyên bản của thế giới, quyết định sự vận động của thế giới.
+ Nhị nguyên luận: xem vật chất và tinh thần là hai nguyên bản có thể cùng quyết định
nguồn gốc và sự vận động của thế giới. + Đa nguyên luận: rất nhiều nguyên nhân.
b) Giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học
- Khả tri luận: khẳng định khả năng nhận thức của con người, về nguyên tắc con
người có thể hiểu được bản chất của sự vật.
- Bất khả tri luận: phủ nhận khả năng nhận thức của con người, về nguyên tắc con
người không thể hiểu được bản chất của đối tượng. Kết quả mà con người nhận thức
được chỉ là hình thức bề ngoài, không phải cái tuyệt đối đáng tin cậy.
- Hoài nghi luận: Chủ nghĩa hoài nghi là một hướng tiếp cận của triết học, mà trong
đó, những mọi tri thức nền tảng hay bất cứ một khẳng định nào cũng đều được người
theo thuyết này hồ nghi, xem xét. Câu 2: Triết học Mac-Lenin là gì
Triết học là hệ thống quan điểm lí luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong
thế giới đó,là khoa học về những quy luật vận động,phát triển chung nhất của tự nhiên,xã
hội và tư duy
Câu 3: PT vai trò triết học Mac-Lenin trong đời sống XH và trong công cuộc đổi
mới nước ta hiện nay
Triết học Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng cho
con người trong nhận thức và thực tiễn.
Vì các nguyên lý và quy luật của phép biện chứng duy vật là sự phản ánh những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ phổ biến nhất của cả tự nhiên, xã hội và tư duy cho
nên chúng có tác dụng định hướng không phải chỉ trong một phạm vi nhất định nào đấy
như đối với các nguyên lý và quy luật do các khoa học chuyên nnh nêu lên, mà trong
tất cả mọi trường hợp. Chúng giúp cho con người khi bắt tay vào nghiên cứu và hoạt
động cải biến sự vật không phải xuất phát từ một mảnh đất trống không mà bao giờ cũng
xuất phát từ một lập trường nhất định, thấy trước được phương hướng vận động chung
của đối tượng, xác định được sơ bộ các mốc cơ bản mà việc nghiên cứu hay hoạt động
cải biến sự vật phải trải qua, nghĩa là chúng giúp cho con người xác định được về đại thể
con đường cần đi, có được phương hướng đặt vấn đề cũng như giải quyết vấn đề, tránh
được những lầm lạc hay mò mẫm giữa một khối những mối liên hệ chằng chịt phức tạp
mà không có tư tưởng dẫn đường.
+ Triết học với vai trò là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất, nhưng không
phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với cuộc
sống, với thực tiễn, là cái định hướng, cái chỉ đạo cho chúng ta trong hành động. Xuất
lOMoARcPSD| 48302938
phát từ một lập trường triết học đúng đắn, cụ thể là xuất phát từ những quan điểm của ch
nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta có thể có được những cách giải quyết đúng đắn các
vấn đề do cuộc sống đặt ra. Và ngược lại, xuất phát từ một lập trường triết học sai lầm,
chúng ta không thể tránh khỏi hành động sai lầm. Chính ở đây thể hiện giá trị định hướng
- một trong những biểu hiện cụ thể chức năng phương pháp luận của triết học.
+ Thực tế cho thấy hiệu quả của nghiên cứu triết học chính là ở giá trị định hướng cho
hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú và đa dạng của những kết luận chung, có tính
khái quát cao mà nó đạt tới chứ không phải và không thể là những lời giải đáp cụ thể cho
từng trường hợp cụ thể.
+ Để có thể giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể hết sức phức tạp và vô
cùng đa dạng của cuộc sống, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm: Hoặc là xem
thường triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện, dễ bằng lòng với những
biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu
chủ động và sáng tạo trong công tác; hoặc là tuyệt đối hóa vai trò của triết học và do đó
sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, những quy
luật chung của triết học mà không tính đến tình hình cụ thể do không nắm được tình hình
cụ thể đó trong từng trường hợp cụ thể.
b) Triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách
mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ.
+ Do kết quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại mà loài người bước
vào thế kỷ XXI với những vấn đề nhận thức mới rất cơ bản và sâu sắc. Trước tình hình
đó, triết học Mác - Lênin đóng vai trò rất quan trọng, là cơ sở lý luận - phương pháp luận
cho các phát minh khoa học, cho sự tích hợp và truyền bá tri thức khoa học hiện đại. Dù
tự giác hay tự phát, khoa học hiện đại phát triển phải dựa trên cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận duy vật biện chứng. Đồng thời, những vấn đề mới của hệ thống tri
thức khoa học hiện đại cũng đang đặt ra đòi hỏi triết học Mác - Lênin phải có bước phát
triển mới.
+ Toàn cầu hoá là một quá trình xã hội phức tạp, đầy mâu thuẫn, chứa đựng cả tích cực
và tiêu cực, cả thời cơ và thách thức đối với các quốc gia, dân tộc, đặc biệt là các nước
kém phát triển. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực tư bản chủ nghĩa đang lợi dụng toàn cầu
hoá để âm mưu thực hiện toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, toàn cầu hoá là
một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc với các nước
đang phát triển, các dân tộc chậm phát triển. Trong bối cảnh đó, triết học Mác - Lênin là
cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng để phân tích xu hướng vận
động, phát triển của xã hội hiện đại.
lOMoARcPSD| 48302938
+ Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng là lý luận khoa
học và cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu
tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đang diễn ra trong điều kiện mới, dưới hình thức mới.
+ Hiện nay, chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng và thoái trào, tương quan so
sánh lực lượng bất lợi cho các lực lượng cách mạng, tiến bộ. Chủ nghĩa đế quốc đang tạm
thời thắng thế. Mặc dù vậy, phong trào công nhân, phong trào xã hội chủ nghĩa và phong
trào độc lập dân tộc vẫn tồn tại, phục hồi dần, đang tập hợp, phát triển lực lượng, tìm tòi
các phương thức và phương pháp đấu tranh mới.
+ Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại nhưng đã mang những đặc điểm mới,
hình thức mới. Đồng thời, một loạt các mâu thuẫn khác mang tính toàn cầu cũng đang nổi
lên gay gắt. Thế giới trong thế kỷ XXI vẫn tồn tại và phát triển trong hệ thống mâu thuẫn
đó, trong đó mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa lợi ích của giai cấp tư sản với lợi ích
của tuyệt đại đa số loài người đang hướng đến mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Để thực hiện mục tiêu cao cả đó, loài người phải có lý luận khoa
học và cách mạng soi đường. Lý luận đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và
triết học Mác - Lênin nói riêng.
c)Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
+ Kể từ khi cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chủ nghĩa xã hội hiện thực
đã tỏ rõ tính ưu việt của một mô hình xã hội mới do con người, vì hạnh phúc con người.
Tuy nhiên, mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan đã bộc lộ những hạn chế của nó mà nổi bật nhất là một cơ chế quản lý kinh tế - xã
hội mang tính tập trung, quan liêu, bao cấp. Chính trong tình trạng hiện nay, cần phải có
một cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng để lý giải, phân tích sự
khủng hoảng, xu thế phát triển của chủ nghĩa xã hội thế giới và phương hướng khắc phục
để phát triển.
+ Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam tất yếu phải dựa trên cơ sở lý luận khoa
học, trong đó hạt nhân là phép biện chứng duy vật. Công cuộc đổi mới toàn diện xã hội
theo định hướng xã hội chủ nghĩa được mở đường bằng đổi mới tư duy lý luận, trong đó
vai trò của triết học Mác - Lênin. Triết học phải góp phần tìm được lời giải đáp về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời qua thực tiễn để bổ sung, phát triển
tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội.
+ Bên cạnh mặt tích cực không thể phủ nhận, việc nhận thức và vận dụng lý luận
Mác - Lênin, trong đó có triết học Mác - Lênin, sau một thời gian dài mắc phải giáo điều,
xơ cứng, lạc hậu, bất cập, là một trong những nguyên nhân của sự khủng hoảng của chủ
nghĩa xã hội thế giới. Nhiều vấn đề lý luận, do những hạn chế của điều kiện lịch sử mà
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin chưa luận giải một cách đầy đủ hoặc chưa thể dự
báo hết. Do đó, việc tiếp tục bổ sung, đổi mới là nhu cầu tự thân và bức thiết của triết học
Mác - Lênin trong giai đoạn hiện nay.
lOMoARcPSD| 48302938
+ Vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác - Lênin thể hiện đặc
biệt rõ đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đó là đổi mới tư duy. Nếu không có đổi mới
tư duy, nhất là tư duy lý luận, thì sẽ không có sự nghiệp đổi mới. Triết học Mác - Lênin là
nền tảng, cơ sở cho quá trình đổi mới tư duy ở Việt Nam. Một trong những điểm nhấn
của thế giới quan, phương pháp luận triết học Mác - Lênin chính là vấn đề thực tiễn, đó là
phương pháp biện chứng, đó là sự vận động biến đổi không ngừng của thế giới.
+ Thế giới quan triết học Mác - nin đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn nhận
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới, bối cảnh mới, trong điều kiện,
hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông u, chủ nghĩa
bản không những không sụp đổ mà còn có sự phát triển mạnh mẽ hơn thế. Thế giới
quan triết học Mác Lênin đã chỉ ra logic tất yếu của sự phát triển xã hội loài người là
chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa tư bản trước sau cũng sẽ được thay thế bởi một chế độ tốt
hơn, công bằng hơn; con người được phát triển toàn diện. Thế giới quan triết học Mác -
Lênin đã giúp xác định tính đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Nếu như thế giới quan triết học Mác - Lênin giúp chúng ta xác định con đường,
bước đi, thì phương pháp luận của triết học Mác - Lênin giúp chúng ta giải quyết những
vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tiễn đổi mới hơn 30 năm
qua. Đó không chỉ là những vấn đề, điều kiện cụ thể của Việt Nam, mà còn là những vấn
đề, thực tiễn chung của thế giới, của toàn cầu hóa, của phát triển khoa học công nghệ, của
kinh tế tri thức, của hội nhập quốc tế. Dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác
- Lênin, chúng ta đã giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản của quá trình đổi mới như mối
quan hệ giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị, đây là mối quan hệ cốt lõi, mang tính nền tảng cho việc giải quyết các
mối quan hệ khác.
Câu 4: Nêu và pt nd định nghĩa vật chất của Lenin
Định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
1 là) Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng vừa có tính cụ thể.
a)Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất- đó
là đặc tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đây cũng là tiêu chí duy
nhất để phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất. b) Tính cụ thể của vật
chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất bằng các giác quan của con người;
chỉ có thể nhận thức được vật chất thông qua việc nghiên cứu các sự vật, hiện tượng vật
chất cụ thể.
lOMoARcPSD| 48302938
2 là) Vật chất là “thực tại khách quan” có đặc tính cơ bản (cũng là đặc trưng cơ bản) là
tồn tại không phụ thuộc vào ý thức. Dù con người có nhận thức được hay chưa nhận
thức được nó nó vẫn tồn tại.
3 là) Vật chất có tính khách thể - con người có thể nhận biết được vật chất bằng các giác
quan.
4 là) Ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách quan. Bằng các giác
quan của mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được thực tại khách
quan; chỉ có những sự vật, hiện tượng của thực tại khách quan chưa được nhận biết biết
chứ không thể không biết.
5 là) được suy ra từ nội dung trên để xác định mối quan hệ biện chứng giữa thực tại
khách quan (vật chất) với cảm giác (ý thức). Vật chất (cái thứ nhất) là cái có trước, tồn
tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức và quy định ý thức. Ý thức (cái thứ hai) là cái
có sau vật chất, phụ thuộc vào vật chất và như vậy, vật chất là nội dung, là nguồn gốc
khách quan của ý thức, là nguyên nhân làm cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên, ý thức tồn
tại độc lập tương đối so với vật chất và có tác động, thậm chí chuyển thành sức mạnh
vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng và được quần chúng vận dụng.
c. Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa vật chất của V.I.
Lênin đối với hđ nhận thức và thực tiễn
Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học. Về mặt thứ nhất, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là
nguồn gốc khách quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục được quan điểm về vật chất
của chủ nghĩa duy vật cổ và cận đại). Về mặt thứ hai, định nghĩa khẳng định ý thức con
người có khả năng nhận thức được thế giới vật chất (chống lại thuyết không thể biết và
hoài nghi luận). Thế giới quan duy vật biện chứng xác định được vật chất và mối quan hệ
của nó với ý thức trong lĩnh vực xã hội; đó là tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội, kinh
tế quy định chính trị v.v tạo cơ sở lý luận cho các nhà khoa học tự nhiên, đặc biệt là các
nhà vật lý vững tâm nghiên cứu thế giới vật chất.
Định nghĩa đưa lại phương pháp luận biện chứng duy vật của mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất với ý thức. Theo đó, vật chất có trước ý thức, là nguồn gốc và quy
định ý thức nên trong mọi hoạt động cần xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng các
quy luật vốn có của sự vật, hiện tượng; đồng thời cần thấy được tính năng động, tích cực
của ý thức để phát huy tính năng động chủ quan nhưng tránh chủ quan duy ý chí mà biểu
hiện là tuyệt đối hoá vai trò, tác dụng của ý thức, cho rằng con người có thể làm được tất
cả mà không cần đến sự tác động của các quy luật khách quan, các điều kiện vật chất cần
thiết.
Câu 5: PT nguồn gốc,bản chất và kết cấu của ý thức:
Ý thức là gì?
lOMoARcPSD| 48302938
Triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, ý thức là một phạm trù triết học dùng để
chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn ra trong não người, hình
thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (yếu tố cần)
1) Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới
hữu cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi đến con người- sinh vật-xã hội. Hoạt động ý
thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ não càng hoàn
thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu
sắc. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên
ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
2) Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Sự phản ánh
của vật chất là một trong những nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Phản ánh của vật chất có
quá trình phát triển lâu dài và từ hình thức thấp lên hình thức cao- y thuộc vào kết cấu
của tổ chức vật chất. Các hình thức phản ánh.
a) Phản ánh của giới vô cơ (gồm phản ánh vật lý và phản ánh hoá học) là những phản ánh
thụ động, không định hướng và không lựa chọn. b) Phản ánh của thực vật là tính kích
thích
c) Phản ánh của động vật đã có định hướng, lựa chọn để nhờ đó mà động vật thích nghi
với môi trường sống.
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự
nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức (yếu tố đủ)
1) Lao động là hoạt động có mục đích, có tính lịch sử-xã hội của con người nhằm tạo
ra của cải để tồn tại và phát triển. Lao động làm cho ý thức không ngừng phát triển (bằng
cách tích lũy kinh nghiệm), tạo cơ sở cho con người nhận thức những tính chất mới
(được suy ra từ những kinh nghiệm đã có) của giới tự nhiên; dẫn đến năng lực tư duy
trừu tượng, khả năng phán đoán, suy luận dần được hình thành và phát triển.
2) Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết). Trong quá trình lao động con người liên kết với
nhau, tạo thành các mối quan hệ xã hội tất yếu và các mối quan hệ của các thành viên của
xã hội không ngừng được củng cố và phát triển dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao đổi
với nhau điều gì đấy” nên ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ ra đời trở thành “cái vỏ vật chất
của ý thức”, thành phương tiện thể hiện ý thức. Nhờ ngôn ngữ, con người khái quát hoá,
trừu tượng hoá những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau. Ngôn ngữ là sản phẩm của lao
động, đến lượt nó, ngôn ngữ lại thúc đẩy lao động phát triển.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý
thức là lao động, là thực tiễn xã hội
lOMoARcPSD| 48302938
Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào
bộ não người; là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnhy tuy bị thế giới khách
quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không còn y
nguyên như nó vốn có, mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông qua tâm tư,
tình cảm, nguyện vọng, nhu cầu v.v Có thể nói, ý thức phản ánh hiện thực, còn ngôn ngữ
thì diễn đạt hiện thực và nói lên tư tưởng. Các tư tưởng đó được tín hiệu hoá trong một
dạng cụ thể của vật chất- là ngôn ngữ- cái mà con người có thể cảm giác được. Không có
ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và tồn tại được.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới có
chọn lọc- tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm nắm bắt
bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng vượt trước (dự
báo) của ý thức tạo nên sự lường trước những tình huống sẽ gây tác động tốt, xấu lên kết
quả của hoạt động mà con người đang hướng tới. Có dự báo đó, con người điều chỉnh
chương trình của mình sao cho phù hợp với dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, hiện
tượng (dự báo thời tiết, khí hậu…); xây dựng các mô hình lý tưởng, đề ra phương pháp
thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu. Như vậy, ý thức không chỉ phản ánh thế giới
khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức
gắn liền với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học, mà
chủ yếu còn của các quy luật xã hội; do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh
hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động của mình, ý thức sáng tạo lại hiện
thực theo nhu cầu của bản thân và thực tiễn xã hội. ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở
cùng một thời đại, sự phản ánh (ý thức) về cùng một sự vật, hiện tượng có sự khác nhau-
theo các điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.
Có thể nói quá trình ý thức gồm các giai đoạn.
1) Trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể với khách thể phản ánh; định hướng và
chọn lọc các thông tin cần thiết.
2) Mô hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng tạo lại
khách thể phản ánh theo cách mã hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý tưởng tinh thần
phi vật chất.
3) Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực hóa tư tưởng,
thông qua hoạt động thực tiễn biến các ý tưởng tinh thần phi vật chất trong tư duy thành
các sự vật, hiện tượng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn
phương pháp, công cụ tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của
mình.
Kết cấu của ý thức:
lOMoARcPSD| 48302938
- Các lớp cấu trúc của ý thức :
+ Tri thức: là toàn bộ những hiểu biết của con người về thế giới, là kết quả của quá trình
con người nhận thức về thế giới
+ Tình cảm: là những rung động của con người, biểu hiện thái độ của con người trong
quan hệ với thế giới khách quan và với chính bản thân con người + Niềm tin: tri thức
kết hợp với tình cảm làm hình thành nên niềm tin
+ Ý chí: là sức mạnh tinh thần, giúp con người vượt qua những trở ngại trong quá trình
thực hiện mục đích - Các cấp độ của ý thức :
+ Tự ý thức: là hoạt động của tinh thần, ở đó diễn ra sự trao đổi tranh luận nội tâm
+ Tiềm thức: là những tri thức mà chủ thể đã có từ trước nhưng đã trở thành kỹ năng, kỹ
xảo nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể
+ Vô thức: là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi của
con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm hay sự kiểm tra, tính toán của lý trí Câu
6: PT mqh giữa vật chất và ý thức: a) Định nghĩa:
- Theo Lênin vật chất “là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan,
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Vật chất tồn tại bằng cách vận
động và thông qua vận động để thể hiện sự tồn tại của mình.Không thể có vật chất không
vận động và không có vận động ở ngoài vật chất.Đồng thời vật chất vận động trong
không gian và thời gian.Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, là
thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể .
- Ý thức: Ý thức lẩn phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã
hội.Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của TG khách quan, là sự phản ánh tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt
động thực tiễn.
Chính vì vậy, không thể xem xét hai phạm trù này tách rời, cứng nhắc, càng không thể
coi ý thức (bao gồm cảm xúc,ý chí,tri thức,….) là cái có trước, cái sinh ra và quyết định
sự tồn tại, phát triển của thế giới vật chất.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
- Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức :
Vật chất là cái có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức. Nguồn gốc của ý thức chính là
vật chất : bộ não người – cơ quan phản ánh thế giới xung quanh,sự tác động của thế giới
vật chất vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên.
lOMoARcPSD| 48302938
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức :
+ Ý thức luôn là sự phản ánh lại hiện thực khách quan (thế giới vật chất) vào đầu óc của
con người. Do đó, nội dung của ý thức luôn bị quy định bởi hiện thực khách quan.
+ Hoạt động thực tiễn của con người là hoạt động vật chất, nó chính là động lực làm nên
sự phong phú và sâu sắc trong nội dung của ý thức. - Vật chất quyết định sự vận động
và phát triển của ý thức :
Sự vận động biến đổi không ngừng của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết
định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức của con người - Ý thức có quy luật vận
động và phát triển riêng của nó :
+ Ý thức thay đổi theo từng chủ thể, qua lăng kính của chủ thể nội dung của ý thức sẽ
thay đổi khác nhau.
+ Nó có thể thay đổi nhanh hơn, chậm hơn, không phải lúc nào nó cũng song hành với
thế giới vật chất. Nhìn chung, ý thức thường thay đổi chậm hơn so với sự biến đổi của thế
giới vật chất.
- Ý thức quay trở lại chỉ đạo trực tiếp hành động của con người :
+ Khi những quan điểm được xác lập, nó sẽ quay trở thành chỉ đạo hành vi của con
người.
+ Nếu ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan sẽ có tác động tích cực đến hoạt
động của con người. Nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực thì sẽ tác động tiêu cực đến
nhận nhận thức và hành động của con người.
- Ý thức cải biến thế giới vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người
+ Dựa trên tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết quy luật khách quan, từ đó con
người đề ra mục tiêu, phương hướng, phương pháp thực hiện để đạt được mục tiêu. +
Điều đó được minh chứng bằng toàn bộ sự phát triển của nền văn minh nhân loại.
c) Ý nghĩa phương pháp luận: Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý
thức, cho nên để nhận thức cái đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét
nguyên nhân vật chất, tồn tại xã hội để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm
nguồn gốc, nguyên nhân từ những nguyên nhân tinh thần nào.“tính khách quan của sự
xem xét” chính là ở chỗ đó . Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại
đối với vật chất, cho nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò
của nhân tố tinh thần. Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách
quan và giải quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng
thời cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân
lOMoARcPSD| 48302938
tố tinh thần, tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả
cao. Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ tiêu
cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách rời và
thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.
Câu 7: PT nd nguyên lí về mối liên hệ phổ biến:
Định nghĩa
Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các
sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới.
MLH phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự
vật và hiện tượng của thế giới.
Tính chất của các mối liên hệ phổ biến
Tính khách quan. Phép biện chứng duy vật khẳng định tính khách quan của các mối liên
hệ, tác động của bản thân thế giới vật chất. Các mối liên hệ thể hiện mình trong sự tác
động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất với nhau. Có mối liên hệ giữa sự vật, hiện
tượng với cái tinh thần. Có cái liên hệ giữa những hiện tượng tinh thần với nhau, như mối
liên hệ và tác động giữa các hình thức của quá trình nhận thức. Các mối liên hệ, tác động
đó, suy cho đến cùng, đều là sự phản ánh mối liên hệ lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng
của thế giới khách quan.
Tính phổ biến. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn ra ở
mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với
các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
Tính đa dạng, phong phú. Có nhiều mối liên hệ. Có mối liên hệ về mặt không gian và
cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung
tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới. Có mối liên hệ riêng
chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực
tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng, nhưng cũng có những mối liên hệ gián tiếp. Có mối
liên hệ tất nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ bản chất cũng có mối
liên hệ chỉ đóng vai trò phụ thuộc (không bản chất). Có mối liên hệ chủ yếu và có mối
liên hệ thứ yếu v.v chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng. Do vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát được toàn
cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính
vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ
có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ
có hình thức, vai trò khác nhau.
Ý nghĩa phương pháp luận
lOMoARcPSD| 48302938
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc
toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này yêu cầu xem
xét sự vật, hiện tượng
1) trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc
tính cùng các mối liên hệ của chúng.
2) trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với
môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.
3) trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động
của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó. Nguyên
tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không thấy các mặt
khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy mặt bản
chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật ngụy biện (cố ý đánh tráo các mối liên hệ cơ bản
thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các
mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, còn rút ra nguyên tắc
lịch sử-cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này yêu cầu
xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối liên hệ cụ thể, có tính đến lịch sử hình thành,
tồn tại, dự báo xu hướng phát triển của sự vật hiện tượng. Cơ sở lý luận của nguyên tắc
này là nguồn gốc , thời gian với vận động của vật chất, là quan niệm chân lý là cụ thể và
chính nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Vận dụng vào cuộc sống
Trong hoàn cảnh hiện nay, giáo dục còn đối mặt nhiều thách thức khó khăn từ đại dịch
Covid-19, biết vận dụng đúng đắn quan điểm toàn diện còn có thể giúp học sinh, sinh
viên tìm ra phương pháp học tập tích cực, chủ động, tối ưu và hiệu quả cho mình. Đối với
bản thân em, có thể khái quát lại như sau: Thứ nhất, cần phải có ý thức cao cùng một sức
khỏe tốt, tạo cho mình mục tiêu để chiến đấu cùng với tinh thần mạnh mẽ, kiên trì, bền bỉ
vượt qua những khó khăn; một ý chí vững vàng để có thể vượt qua những cám dỗ từ bên
ngoài. Đồng thời bên cạnh đó, mỗi người học cần phải tích cực tập luyện thể dục thể
thao, ăn uống lành mạnh để có thể bảo đảm sức khỏe trong quá trình học. Thứ hai, cần
tận dụng tối đa nguồn lực hiện có. Hiện nay trên mạng có vô số nguồn tài nguyên, bài
giảng quý báu để người học có thể sử dụng hay những sự trợ giúp từ thầy cô, bạn bè
thông qua những ứng dụng thông minh và vô kể những nguồn lực khác. Và cuối cùng, để
có thể thể xây dựng cho mình một phương pháp học tập tích cực, thì một không gian học
tập phù hợp đóng vai trò không nhỏ. Bởi vậy, thông qua quá trình học tập, người học cần
tự tìm hiểu xem đâu là không gian học tập phù hợp nhất với mình, từ đó tạo cho mình
một thời khóa biểu hợp lý để việc học có thể diễn ra một cách hiệu quả và trơn tru.
lOMoARcPSD| 48302938
Câu 8: PT cặp phạm trù cái chung cái riêng a.
Khái niệm
1. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những
mối quan hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
2. Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định.
3. Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định.
Cặp phạm trù cái riêng và cái chung trong triết học gắn liền với “bộ ba” phạm trù là cái
đơn nhất, cái đặc thù, cái phổ biến. Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những
mặt, những thuộc tính… chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất. Những mặt, những
thuộc tính ấy không được lặp lại ở bất kỳ sự vật, hiện tượng hay kết cấu vật chất nào
khác. Cái đặc thù là phạm trù triết học chỉ những thuộc tính… chỉ lặp lại ở một số sự vật,
hiện tượng hay kết cấu vật chất nhất định của một tập hợp nhất định. Cái phổ biến là
phạm trù triết học được hiểu như cái chung của tập hợp tương ứng.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, cái đơn nhất
Phép biện chứng duy vật cho rằng, cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan và giữa
chúng có sự thống nhất biện chứng.
1. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là
không có cái chung thuần tuý, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái riêng. Ví dụ: Thuộc tính
cơ bản của vật chất là vận động. Vận động lại tồn tại dưới các hình thức riêng biệt như
vận động vật lý, vận động hoá học, vận động xã hội v.v..
2. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Điều đó có nghĩa là không có
cái riêng độc lập thuần tuý không có cái chung với những cái riêng khác. Ví dụ: Các chế
độ kinh tế – chính trị riêng biệt đều bị chi phối với các quy luật chung của xã hội như quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất.
3. Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái
chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung, vì ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái
chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có. Cái chung là cái
sâu sắc hơn cái riêng bởi vì nó phản ánh những mặt, những thuộc tính, nhưng mối liên hệ
bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại. Cái chung gắn
liên hệ với cái bản chất, quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
4. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau; có thể coi đây là sự chuyển
hoá giữa hai mặt đối lập. Sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái chung diễn ra theo hai
lOMoARcPSD| 48302938
hướng: cái đơn nhất biến thành cái chung, làm sự vật phát triển và ngược lại, cái chung
biến thành cái đơn nhất làm cho sự vật dần dần mất đi.
Mối quan hệ này được cái chung, cái riêng và cái đơn nhất thể hiện: Cái riêng = cái
chung + cái đơn nhất
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Cái chung chỉ tồn tại thông qua cái riêng. Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng chứ
không thể ở ngoài cái riêng.
- Bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hoá.
Nếu đem áp dụng nguyên xi cái chung, tuyệt đối hoá cái chung dễ dẫn đến sai lầm tả
khuynh giáo điều. Nếu xem thường cái chung, chỉ chú ý đến cái đơn nhất dễ dẫn đến sai
lầm hữu khuynh xét lại.
- Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có
thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn nhất. Trong
hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất chuyển thành cái chung
nếu cái đơn nhất có lợi cho con người. Và ngược lại biến cái chung thành cái đơn nhất
nếu cái chung tồn tại bất lợi cho con người
d. Liên hệ bản thân, vận dụng vào cuộc sống
Xét về mối quan hệ giữa bản thân với hội, ta thấy cái riêng nhân, cái chung
hội. Con người tồn tại qua những nhân người, mỗi nhân một chỉnh thể đơn nhất
gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp lại, khác với những nhân khác về
chế, tâm lý, trình độ... hội bao giờ cũng do các nhân hợp thành, những nhân
này sống và hoạt động trong nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều kiện lịch
sử quy định. Trong quan hệ với giống loài, tức trong mối quan hvới hội, nhân
biểu hiện ra với tư cách như sau: Cá nhân là phương thức tồn tại của loài người. Không có
con người nói chung. loài người tồn tại độc lập. một Cá nhâncá thể riêng rẽ, là phần tử
tạo thành cộng đồng hội, chỉnh thể toàn vẹn nhân cách. Cá nhân được hình thành
và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội. Giữa cá nhân và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ gắn
với nhau, chuyển hóa lẫn nhau giữa cái chung cái riêng. Mác cho rằng: “Chỉ trong
tập thể mới những phương tiện làm cho mỗi nhân khả năng phát triển toàn diện
những năng khiếu của mình... chỉ trong tập thể mới tự do nhân.” . Mỗi nhân
trong một tập thể phải biết phát huy điểm mạnh của mình, biến cái đơn nhất lợi thành
cái chung, biến cái chung bất lợi thành cái đơn nhất. Khi m bất cứ một vấn đề cũng
phải xem xét giải quyết vấn đề sao cho hợp nhất. như thế thì con đường đến thành
công của bạn sẽ ngắn đi rất nhiều. Câu 9: PT cặp phạm trù nguyên nhân kết quả a. Khái
niệm
lOMoARcPSD| 48302938
1. Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
2. Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động
lẫn nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
- Khác với nguyên nhân, nguyên cớ cũng là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết
quả, nhưng không sinh ra kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng là mối liên hệ bên ngoài
không bản chất. VD: “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, vào tháng 8/1964, từ đó Mỹ ném bom miền
Bắc là nguyên cơ, còn nguyên nhân thực sự là do bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ. -
Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân, nhưng có tác
dụng đối với sự nảy sinh kết quả. VD: Nhiệt độ, áp suất, chất xúc tác là những điều kiện
không thể thiếu của một số phản ứng hoá học
b. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
1. Nguyên nhân sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả.
Còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Chỉ những mối liên hệ trước sau về
mặt thời gian có quan hệ sản sinh mới là mối liên hệ nhân quả.
2. Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp: một kết quả có thể
do nhiều nguyên nhân và một số nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả.
Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn.
Nếu các nguyên nhân tđ ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kq chậm hơn.
Thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
3. Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối, có sự chuyển hoá, tác động qua lại tạo
thành chuỗi liên hệ nhân quả vô cùng vô tận. c. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính khách quan của mối
liên hệ nhân quả.
Muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo nguyên nhân cùng những điều kiện
cho nguyên nhân đó phát huy tác dụng. Ngược lại, muốn hiện tượng nào đó mất đi thì
phải làm mất nguyên nhân tồn tại của nó.
Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các nguyên
nhân có vai trò không như nhau.
Kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân. Do đó, trong hoạt động thực tiễn cần
khai thác, tận dụng những kết quả đã đạt được để thúc đẩy nguyên nhân tác động theo
hướng tích cực.
d. Liên hệ, vận dụng vào cuộc sống
lOMoARcPSD| 48302938
Bạo lực học đường do một số nguyên nhân như sau:
Thứ nhất: Có thể thấy tình trạng bạo lực diễn ở môi trường học tập chủ yếu ở độ tuổi
1217 tuổi. Đây là độ tuổi thay đổi tâm sinh lý của của học sinh độ tuổi vô cùng nhạy
cảm. Bản thân các em chưa làm chủ được nhận thức và hành động của bản thân mà dễ
cáu gắt, bực tức và có những hành viy bạo lực học đường.
Thứ hai: Từ phía gia đình. Cuộc sống ngày nay ngày càng đòi hỏi vật chất nên phụ huynh
bận rộn kiếm tiền, ít quan tâm đến con cái, thậm chí vì áp lực cuộc sống hay trút giận lên
chính đứa con của mình. Nhiều gia đình lục đục nên con cái chứng kiến và bị ảnh hưởng.
Thứ ba: Từ nhà trường. Nhiều trường học chỉ chú trọng đào tạo giáo dục mà ko để ý giáo
dục nhân cách, kỹ năng cư xử phẩm chất cho học sinh. Hoặc khi có bạo lực không có
hướng giải quyết nên học sinh không sợ.
Thứ tư: Từ phía xã hội. Sự ảnh hưởng do thời đại 4.0 internet phát triển mạnh mẽ và
không được kiểm duyệt. Văn hóa bạo lực trong các bộ phim ảnh, sách báo và các trò
chơi, game mang xu hướng bạo lực tràn lan trên mạng và không được kiểm duyệt đàng
hoàng dẫn đến những đối tượng ở độ tuổi vị thành niên này bị tò mò và tiếp xúc nên có
tâm lý bạo hành học đường ở ngoài đời.
Thứ năm: Do biến chất về mặt tâm lý. Nhiều học sinh, giáo viên suy thoái đạo đức nghề
nghiệp, có những cách nhìn nhận méo mó, lệch lạc biến thái.
Kết quả là nạn bạo lực học đường ngày càng gia tăng với sự phức tạp. Các hành vi đánh
đập, bứt tóc, xô đẩy, cắt tóc, xé quần áo, đổ đồ ăn lên người, trấn lột cướp đồ giữa học
sinh với nhau hết sức phổ biến trong các trường. Không chỉ vậy mà học sinh còn sử dụng
những hành vi hoặc lời nói gây xúc phạm, gán ghép hoặc bôi nhọ, sỉ nhục, chế nhạo hoặc
bắt người khác làm theo ý mình. Hành vi này có thể ở giáo viên đối với học sinh hoặc
học sinh với nhau. Việc xâm phạm tình dục, có thể động chạm những bộ phận nhạy cảm
hoặc thậm chí có những hành vi cưỡng ép tình dục, hiếp dâm, … gây rúng động dư luận
thời gian qua cũng rất báo động và cần được xử lý nghiêm.
Có thể thấy mối quan hệ giữa nguyên nhân của bạo lực học đường dẫn đến những hậu
quả đáng tiếc trên thực tế. Từ những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan mà học
sinh có các hành vi đánh đập, chế nhạo hoặc xâm phạm, xúc phạm,… bạn bè thầy cô. Từ
đó mà bỏ học, nghỉ học đuổi học kéo theo hệ lụy phía sau.
Câu 10: PT nd quy luật từ sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại
- Định nghĩa quy luật: Là mối liên hệ phổ biến, khách quan, bản chất, bền vững,tất
yếu giữa các đối tượng và nhất định tác động khi có điều kiện phù hợp.
lOMoARcPSD| 48302938
Chất
- Khái niệm về chất
Là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,hiện tượng
Là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính,yếu tố tạo nên sự vật,hiện tượng khác
- Đặc điểm
Thể hiện tính tương đối ổn định của sự vật,hiện tượng.Nghĩa là khi nó chưa chuyển hóa
thành sự vật,hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi
Mỗi sự vật,hiện tượng đều có quá trình ổn tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn,trong
mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng
-> Mỗi sự vật,hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có thể có nhiều chất. Nhờ
đó,con người có thể phân biệt sự vật,hiện tượng này với sự vật,hiện tượng khác.
VD: Con người khác với động vật chính là nhờ những tính quy định vốn có của con
người,khả năng chế tạo vũ khí,máy móc và khả năng sử dụng công cụ,tư duy…
Chất của sự vật không những quy định bởi chất của những nguyên tố tạo thành mà còn
bởi những phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành mà,nghĩa là bởi kết cấu của sự
vật. Trong hiện thực của sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau,song chất của
chúng lại khác
VD: Kim cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học là nguyên tố Cacbon tạo
nên,nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tố Cacbon là khác nhau nên chất của
chúng hoàn toàn khác nhau --> Kim cương rất cứng còn than chì rất mềm.
ợng:
- Khái niệm :
Là phạm trù triết học dùng để chỉ thuộc tính vốn có của sự vật về mặt số lượng,quy
mô,trình độ,nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật
Lượng là cái khách quan,vốn có của sự vật,quy định sự vật ấy là nó.Lượng của sự vật
không phụ thuộc vào ý chí,ý thức của con người
- Biểu hiện
Lượng của sự vật biểu hiện kích thước dài hay ngắn,số lượng ít hay nhiều,quy mô lớn
hay nhỏ,trình độ cao hay thấp,nhịp điệu nhanh hay chậm…
VD: Đơn vị đo lường cụ thể như vận tốc ánh sáng là 300 000km trong 1 giây… Bên cạnh
đó lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát
VD: trình độ nhận thức của một người,ý thức trách nhiệm cao hay thấp của 1 công dân
lOMoARcPSD| 48302938
Lượng còn biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật ( số lượng nguyên tử hợp thành
nguyên tố hóa học,số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) hoặc có những lượng
còn vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật ( chiều dài,rộng,cao của sự vật )
Phân biệt lượng và chất: chỉ mang tính tương đối. Điều này phụ thuộc vào từng mối quan
hệ cụ thể xác định. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật,song
trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại .
VD: con số 16 có nhiều cách xác định khác nhau: tích của 2 và 8, bình phương của 4,....
- Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
+ Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thay đổi thống nhất giữa mặt chất và
mặt lượng. Chúng tác động qua lại với nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao
giờ tồn tại nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
+ Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, sự thay
đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật hiện tượng đã tích lũy những thay đổi về lượng đến một
ngưỡng nhất định.
+ Quy luật này cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển, cho thấy sự
thay đổi về lượng của sự vật hiện tượng diễn ra từng bước và kết hợp với sự thay đổi
nhảy vọt về chất làm cho sự vật hiện tượng vừa có những bước tiến tuần tự, vừa có những
bước tiến đột phá.
a. Chất và lượng có mối quan hệ thống nhất với nhau.
- Chất và lượng không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng
bởi vì mỗi sự vật hiện tượng đều phải phải có tính quy định về chất lại vừa vừa có
tính quy định về lượng, nên không có chất thiếu lượng và ngược lại.
- Tuy nhiên không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đển sự thay đổi
về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi
về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là
Độ.(Độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự
vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó,
chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.)
lOMoARcPSD| 48302938
Vd: Người sống lâu nhất trên thế giới theo Guinness công nhận có tuổi thọ là
118 tuổi. Như vậy giới hạn từ 0→118 năm là “độ” của con người xét về mặt tuổi. b.
Lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất.
- Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về
lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự
thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là Điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới
điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất
mới(sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút). Đây chính là bước nhảy trong quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Vd: 0°C, 100°C, 118 tuổi là điểm nút,...
- ớc nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình
phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức
bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của
mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ,
tự phát và tự giác,... Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển;
đồng thời, đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong
quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng.
Vd: Sự chuyển hóa từ nước lỏng thành hơi nước là 1 bước nhảy. Có bước nhảy
này là do nước lỏng có sự thay đổi về nhiệt độ và đạt đến 100°C
- Các hình thức của bước nhảy :
Bước nhảy đột biến: Là bước nhảy làm thay đổi căn bản về chất nhanh chóng ở tất cả các
bộ phận cấu thành sự vật.
Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra trong thời gian dài.
Bước nhảy toàn bộ: làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ở tất cả các mặt các bộ phận
các yếu tố cấu thành nên sự vật.
Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi một số yếu tố 1 số bộ phận của sự vật
c. Lượng tác động trở lại chất.
lOMoARcPSD| 48302938
- Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động
tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Vd: Nếu bạn tăng thời gian tự học ở nhà, giảm thời gian chơi Game online thì sẽ
thu nhận được nhiều kiến thức hơn, làm bài sẽ đạt được nhiều điểm cao hơn.
→ Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa
hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút lất yếu sẽ dẫn
đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời, chất mới sẽ tác động trở
lại lượng, tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng. Quá trình
đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. d) Liên hệ
Mỗi học sinh, sinh viên cần phải tích đủ lượng. Thể hiện với các lộ trình bài giảng theo
chương trình học. Đảm bảo các tiếp cận với các dạng, các mức độ bài tập khác nhau.
Tương ứng với các cấp học theo chương trình đào tạo, Khi lượng đạt tới giới hạn điểm
nút thì mới được thực hiện bước nhảy. Nó đảm bảo mang đến hiệu quả của cả một giai
đoạn. Không được nôn nóng, đốt cháy giai đoạn. Vì sẽ không mang đến chất lượng học
nếu không chăm chỉ, chịu khó. Hiện nay, kiểu học tín chỉ đã tạo điều kiện lựa chọn cho
sinh viên. Cân nhắc với chương trình học đảm bảo khả năng. Nhiều sinh viên cảm thấy
mình đủ năng lực có thể đăng kí học vượt để ra trường sớm. Do đó thực hiện khối lượng
lớn kiến thức trong thời gian không đảm bảo. Nó tùy vào khả năng của từng người.
Câu 11: PT nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
1 . Cơ sở lý luận
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập thể hiện bản chất, là hạt nhân của
phép biện chứng duy vật, bởi quy luật đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của
phép biện chứng duy vật – vấn đề nguyên nhân, động lực của sự vận động và phát
triển.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 48302938
Câu 1:Triết học là gì? PT ND vđe cơ bản của triết học
Triết học là hình thức đặc biệt của nhận thức và ý thức xã hội về thế giới, được thể hiện
thành hệ thống tri thức về những nguyên tắc cơ bản và nền tảng của tồn tại người,về
những đặc trưng bản chất nhất của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,với xã hội và
với đời sống tinh thần.
- Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức. Ăng-
ghen viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn
đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.
- Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn :
+ Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học và trường phái triết
học, xác định việc hình thành các trường phái lớn của triết học. a) Giải quyết mặt thứ
nhất vấn đề cơ bản của triết học - Chủ nghĩa duy vật: thể hiện dưới 3 hình thức cơ bản :
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác của các nhà triết học thời cổ đại: lấy bản thân giới tự
nhiên để giải thích thế giới, không viện đến thần linh, thượng đế hay các thế lực siêu nhiên.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình của các nhà triết học TK XV-TK XVIII: nhìn thế giới như
một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên thế giới đó ở trong trạng thái biệt lập và
tĩnh tại, đẩy lùi thế giới quan duy tâm và tôn giáo.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăng-ghen xây dựng vào TK XIX: kế thừa
tinh hoa của các học thuyết triết học và thành tựu của khoa học đương thời, phản ánh
đúng hiện thực như chính bản thân nó tồn tại và là công cụ hữu hiệu giúp những lực
lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực.
- Chủ nghĩa duy tâm: thể hiện dưới 2 hình thức cơ bản :
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, phủ nhận
sự tồn tại khách quan của hiện thực, mọi sự vật hiện tượng là sự phức hợp của cảm giác.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan: thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là thứ
tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Gồm 3 phái: lOMoAR cPSD| 48302938
+ Nhất nguyên luận: chỉ thừa nhận một trong hai thực thể vật chất hoặc tinh thần là
nguyên bản của thế giới, quyết định sự vận động của thế giới.
+ Nhị nguyên luận: xem vật chất và tinh thần là hai nguyên bản có thể cùng quyết định
nguồn gốc và sự vận động của thế giới. + Đa nguyên luận: rất nhiều nguyên nhân.
b) Giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học -
Khả tri luận: khẳng định khả năng nhận thức của con người, về nguyên tắc con
người có thể hiểu được bản chất của sự vật. -
Bất khả tri luận: phủ nhận khả năng nhận thức của con người, về nguyên tắc con
người không thể hiểu được bản chất của đối tượng. Kết quả mà con người nhận thức
được chỉ là hình thức bề ngoài, không phải cái tuyệt đối đáng tin cậy. -
Hoài nghi luận: Chủ nghĩa hoài nghi là một hướng tiếp cận của triết học, mà trong
đó, những mọi tri thức nền tảng hay bất cứ một khẳng định nào cũng đều được người
theo thuyết này hồ nghi, xem xét. Câu 2: Triết học Mac-Lenin là gì
Triết học là hệ thống quan điểm lí luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong
thế giới đó,là khoa học về những quy luật vận động,phát triển chung nhất của tự nhiên,xã hội và tư duy
Câu 3: PT vai trò triết học Mac-Lenin trong đời sống XH và trong công cuộc đổi
mới nước ta hiện nay
Triết học Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng cho
con người trong nhận thức và thực tiễn.
Vì các nguyên lý và quy luật của phép biện chứng duy vật là sự phản ánh những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ phổ biến nhất của cả tự nhiên, xã hội và tư duy cho
nên chúng có tác dụng định hướng không phải chỉ trong một phạm vi nhất định nào đấy
như đối với các nguyên lý và quy luật do các khoa học chuyên ngành nêu lên, mà trong
tất cả mọi trường hợp. Chúng giúp cho con người khi bắt tay vào nghiên cứu và hoạt
động cải biến sự vật không phải xuất phát từ một mảnh đất trống không mà bao giờ cũng
xuất phát từ một lập trường nhất định, thấy trước được phương hướng vận động chung
của đối tượng, xác định được sơ bộ các mốc cơ bản mà việc nghiên cứu hay hoạt động
cải biến sự vật phải trải qua, nghĩa là chúng giúp cho con người xác định được về đại thể
con đường cần đi, có được phương hướng đặt vấn đề cũng như giải quyết vấn đề, tránh
được những lầm lạc hay mò mẫm giữa một khối những mối liên hệ chằng chịt phức tạp
mà không có tư tưởng dẫn đường.
+ Triết học với vai trò là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất, nhưng không
phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với cuộc
sống, với thực tiễn, là cái định hướng, cái chỉ đạo cho chúng ta trong hành động. Xuất lOMoAR cPSD| 48302938
phát từ một lập trường triết học đúng đắn, cụ thể là xuất phát từ những quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta có thể có được những cách giải quyết đúng đắn các
vấn đề do cuộc sống đặt ra. Và ngược lại, xuất phát từ một lập trường triết học sai lầm,
chúng ta không thể tránh khỏi hành động sai lầm. Chính ở đây thể hiện giá trị định hướng
- một trong những biểu hiện cụ thể chức năng phương pháp luận của triết học.
+ Thực tế cho thấy hiệu quả của nghiên cứu triết học chính là ở giá trị định hướng cho
hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú và đa dạng của những kết luận chung, có tính
khái quát cao mà nó đạt tới chứ không phải và không thể là những lời giải đáp cụ thể cho
từng trường hợp cụ thể.
+ Để có thể giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể hết sức phức tạp và vô
cùng đa dạng của cuộc sống, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm: Hoặc là xem
thường triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện, dễ bằng lòng với những
biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu
chủ động và sáng tạo trong công tác; hoặc là tuyệt đối hóa vai trò của triết học và do đó
sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, những quy
luật chung của triết học mà không tính đến tình hình cụ thể do không nắm được tình hình
cụ thể đó trong từng trường hợp cụ thể.
b) Triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách
mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ.
+ Do kết quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại mà loài người bước
vào thế kỷ XXI với những vấn đề nhận thức mới rất cơ bản và sâu sắc. Trước tình hình
đó, triết học Mác - Lênin đóng vai trò rất quan trọng, là cơ sở lý luận - phương pháp luận
cho các phát minh khoa học, cho sự tích hợp và truyền bá tri thức khoa học hiện đại. Dù
tự giác hay tự phát, khoa học hiện đại phát triển phải dựa trên cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận duy vật biện chứng. Đồng thời, những vấn đề mới của hệ thống tri
thức khoa học hiện đại cũng đang đặt ra đòi hỏi triết học Mác - Lênin phải có bước phát triển mới.
+ Toàn cầu hoá là một quá trình xã hội phức tạp, đầy mâu thuẫn, chứa đựng cả tích cực
và tiêu cực, cả thời cơ và thách thức đối với các quốc gia, dân tộc, đặc biệt là các nước
kém phát triển. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực tư bản chủ nghĩa đang lợi dụng toàn cầu
hoá để âm mưu thực hiện toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, toàn cầu hoá là
một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc với các nước
đang phát triển, các dân tộc chậm phát triển. Trong bối cảnh đó, triết học Mác - Lênin là
cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng để phân tích xu hướng vận
động, phát triển của xã hội hiện đại. lOMoAR cPSD| 48302938
+ Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng là lý luận khoa
học và cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu
tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đang diễn ra trong điều kiện mới, dưới hình thức mới.
+ Hiện nay, chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng và thoái trào, tương quan so
sánh lực lượng bất lợi cho các lực lượng cách mạng, tiến bộ. Chủ nghĩa đế quốc đang tạm
thời thắng thế. Mặc dù vậy, phong trào công nhân, phong trào xã hội chủ nghĩa và phong
trào độc lập dân tộc vẫn tồn tại, phục hồi dần, đang tập hợp, phát triển lực lượng, tìm tòi
các phương thức và phương pháp đấu tranh mới.
+ Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại nhưng đã mang những đặc điểm mới,
hình thức mới. Đồng thời, một loạt các mâu thuẫn khác mang tính toàn cầu cũng đang nổi
lên gay gắt. Thế giới trong thế kỷ XXI vẫn tồn tại và phát triển trong hệ thống mâu thuẫn
đó, trong đó mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa lợi ích của giai cấp tư sản với lợi ích
của tuyệt đại đa số loài người đang hướng đến mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Để thực hiện mục tiêu cao cả đó, loài người phải có lý luận khoa
học và cách mạng soi đường. Lý luận đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và
triết học Mác - Lênin nói riêng.
c)Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
+ Kể từ khi cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chủ nghĩa xã hội hiện thực
đã tỏ rõ tính ưu việt của một mô hình xã hội mới do con người, vì hạnh phúc con người.
Tuy nhiên, mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan đã bộc lộ những hạn chế của nó mà nổi bật nhất là một cơ chế quản lý kinh tế - xã
hội mang tính tập trung, quan liêu, bao cấp. Chính trong tình trạng hiện nay, cần phải có
một cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng để lý giải, phân tích sự
khủng hoảng, xu thế phát triển của chủ nghĩa xã hội thế giới và phương hướng khắc phục để phát triển.
+ Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam tất yếu phải dựa trên cơ sở lý luận khoa
học, trong đó hạt nhân là phép biện chứng duy vật. Công cuộc đổi mới toàn diện xã hội
theo định hướng xã hội chủ nghĩa được mở đường bằng đổi mới tư duy lý luận, trong đó
có vai trò của triết học Mác - Lênin. Triết học phải góp phần tìm được lời giải đáp về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời qua thực tiễn để bổ sung, phát triển
tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội.
+ Bên cạnh mặt tích cực không thể phủ nhận, việc nhận thức và vận dụng lý luận
Mác - Lênin, trong đó có triết học Mác - Lênin, sau một thời gian dài mắc phải giáo điều,
xơ cứng, lạc hậu, bất cập, là một trong những nguyên nhân của sự khủng hoảng của chủ
nghĩa xã hội thế giới. Nhiều vấn đề lý luận, do những hạn chế của điều kiện lịch sử mà
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin chưa luận giải một cách đầy đủ hoặc chưa thể dự
báo hết. Do đó, việc tiếp tục bổ sung, đổi mới là nhu cầu tự thân và bức thiết của triết học
Mác - Lênin trong giai đoạn hiện nay. lOMoAR cPSD| 48302938
+ Vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác - Lênin thể hiện đặc
biệt rõ đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đó là đổi mới tư duy. Nếu không có đổi mới
tư duy, nhất là tư duy lý luận, thì sẽ không có sự nghiệp đổi mới. Triết học Mác - Lênin là
nền tảng, cơ sở cho quá trình đổi mới tư duy ở Việt Nam. Một trong những điểm nhấn
của thế giới quan, phương pháp luận triết học Mác - Lênin chính là vấn đề thực tiễn, đó là
phương pháp biện chứng, đó là sự vận động biến đổi không ngừng của thế giới.
+ Thế giới quan triết học Mác - Lênin đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn nhận
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới, bối cảnh mới, trong điều kiện,
hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông u, chủ nghĩa
tư bản không những không sụp đổ mà còn có sự phát triển mạnh mẽ hơn thế. Thế giới
quan triết học Mác – Lênin đã chỉ ra logic tất yếu của sự phát triển xã hội loài người là
chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa tư bản trước sau cũng sẽ được thay thế bởi một chế độ tốt
hơn, công bằng hơn; con người được phát triển toàn diện. Thế giới quan triết học Mác -
Lênin đã giúp xác định tính đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Nếu như thế giới quan triết học Mác - Lênin giúp chúng ta xác định con đường,
bước đi, thì phương pháp luận của triết học Mác - Lênin giúp chúng ta giải quyết những
vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tiễn đổi mới hơn 30 năm
qua. Đó không chỉ là những vấn đề, điều kiện cụ thể của Việt Nam, mà còn là những vấn
đề, thực tiễn chung của thế giới, của toàn cầu hóa, của phát triển khoa học công nghệ, của
kinh tế tri thức, của hội nhập quốc tế. Dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác
- Lênin, chúng ta đã giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản của quá trình đổi mới như mối
quan hệ giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị, đây là mối quan hệ cốt lõi, mang tính nền tảng cho việc giải quyết các mối quan hệ khác.
Câu 4: Nêu và pt nd định nghĩa vật chất của Lenin
Định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
1 là) Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng vừa có tính cụ thể.
a)Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất- đó
là đặc tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đây cũng là tiêu chí duy
nhất để phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất. b) Tính cụ thể của vật
chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất bằng các giác quan của con người;
chỉ có thể nhận thức được vật chất thông qua việc nghiên cứu các sự vật, hiện tượng vật chất cụ thể. lOMoAR cPSD| 48302938
2 là) Vật chất là “thực tại khách quan” có đặc tính cơ bản (cũng là đặc trưng cơ bản) là
tồn tại không phụ thuộc vào ý thức. Dù con người có nhận thức được hay chưa nhận
thức được nó nó vẫn tồn tại.
3 là) Vật chất có tính khách thể - con người có thể nhận biết được vật chất bằng các giác quan.
4 là) Ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách quan. Bằng các giác
quan của mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được thực tại khách
quan; chỉ có những sự vật, hiện tượng của thực tại khách quan chưa được nhận biết biết
chứ không thể không biết.
5 là) được suy ra từ nội dung trên để xác định mối quan hệ biện chứng giữa thực tại
khách quan (vật chất) với cảm giác (ý thức). Vật chất (cái thứ nhất) là cái có trước, tồn
tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức và quy định ý thức. Ý thức (cái thứ hai) là cái
có sau vật chất, phụ thuộc vào vật chất và như vậy, vật chất là nội dung, là nguồn gốc
khách quan của ý thức, là nguyên nhân làm cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên, ý thức tồn
tại độc lập tương đối so với vật chất và có tác động, thậm chí chuyển thành sức mạnh
vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng và được quần chúng vận dụng.
c. Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa vật chất của V.I.
Lênin đối với hđ nhận thức và thực tiễn
Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học. Về mặt thứ nhất, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là
nguồn gốc khách quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục được quan điểm về vật chất
của chủ nghĩa duy vật cổ và cận đại). Về mặt thứ hai, định nghĩa khẳng định ý thức con
người có khả năng nhận thức được thế giới vật chất (chống lại thuyết không thể biết và
hoài nghi luận). Thế giới quan duy vật biện chứng xác định được vật chất và mối quan hệ
của nó với ý thức trong lĩnh vực xã hội; đó là tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội, kinh
tế quy định chính trị v.v tạo cơ sở lý luận cho các nhà khoa học tự nhiên, đặc biệt là các
nhà vật lý vững tâm nghiên cứu thế giới vật chất.
Định nghĩa đưa lại phương pháp luận biện chứng duy vật của mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất với ý thức. Theo đó, vật chất có trước ý thức, là nguồn gốc và quy
định ý thức nên trong mọi hoạt động cần xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng các
quy luật vốn có của sự vật, hiện tượng; đồng thời cần thấy được tính năng động, tích cực
của ý thức để phát huy tính năng động chủ quan nhưng tránh chủ quan duy ý chí mà biểu
hiện là tuyệt đối hoá vai trò, tác dụng của ý thức, cho rằng con người có thể làm được tất
cả mà không cần đến sự tác động của các quy luật khách quan, các điều kiện vật chất cần thiết.
Câu 5: PT nguồn gốc,bản chất và kết cấu của ý thức: Ý thức là gì? lOMoAR cPSD| 48302938
Triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, ý thức là một phạm trù triết học dùng để
chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn ra trong não người, hình
thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (yếu tố cần) 1)
Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ tới
hữu cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi đến con người- sinh vật-xã hội. Hoạt động ý
thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ não càng hoàn
thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu
sắc. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên
ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức. 2)
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Sự phản ánh
của vật chất là một trong những nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Phản ánh của vật chất có
quá trình phát triển lâu dài và từ hình thức thấp lên hình thức cao- tùy thuộc vào kết cấu
của tổ chức vật chất. Các hình thức phản ánh.
a) Phản ánh của giới vô cơ (gồm phản ánh vật lý và phản ánh hoá học) là những phản ánh
thụ động, không định hướng và không lựa chọn. b) Phản ánh của thực vật là tính kích thích
c) Phản ánh của động vật đã có định hướng, lựa chọn để nhờ đó mà động vật thích nghi với môi trường sống.
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức (yếu tố đủ) 1)
Lao động là hoạt động có mục đích, có tính lịch sử-xã hội của con người nhằm tạo
ra của cải để tồn tại và phát triển. Lao động làm cho ý thức không ngừng phát triển (bằng
cách tích lũy kinh nghiệm), tạo cơ sở cho con người nhận thức những tính chất mới
(được suy ra từ những kinh nghiệm đã có) của giới tự nhiên; dẫn đến năng lực tư duy
trừu tượng, khả năng phán đoán, suy luận dần được hình thành và phát triển. 2)
Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết). Trong quá trình lao động con người liên kết với
nhau, tạo thành các mối quan hệ xã hội tất yếu và các mối quan hệ của các thành viên của
xã hội không ngừng được củng cố và phát triển dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao đổi
với nhau điều gì đấy” nên ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ ra đời trở thành “cái vỏ vật chất
của ý thức”, thành phương tiện thể hiện ý thức. Nhờ ngôn ngữ, con người khái quát hoá,
trừu tượng hoá những kinh nghiệm để truyền lại cho nhau. Ngôn ngữ là sản phẩm của lao
động, đến lượt nó, ngôn ngữ lại thúc đẩy lao động phát triển.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý
thức là lao động, là thực tiễn xã hội lOMoAR cPSD| 48302938
Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào
bộ não người; là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới khách
quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không còn y
nguyên như nó vốn có, mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông qua tâm tư,
tình cảm, nguyện vọng, nhu cầu v.v Có thể nói, ý thức phản ánh hiện thực, còn ngôn ngữ
thì diễn đạt hiện thực và nói lên tư tưởng. Các tư tưởng đó được tín hiệu hoá trong một
dạng cụ thể của vật chất- là ngôn ngữ- cái mà con người có thể cảm giác được. Không có
ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và tồn tại được.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới có
chọn lọc- tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm nắm bắt
bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng vượt trước (dự
báo) của ý thức tạo nên sự lường trước những tình huống sẽ gây tác động tốt, xấu lên kết
quả của hoạt động mà con người đang hướng tới. Có dự báo đó, con người điều chỉnh
chương trình của mình sao cho phù hợp với dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, hiện
tượng (dự báo thời tiết, khí hậu…); xây dựng các mô hình lý tưởng, đề ra phương pháp
thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu. Như vậy, ý thức không chỉ phản ánh thế giới
khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức
gắn liền với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học, mà
chủ yếu còn của các quy luật xã hội; do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh
hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động của mình, ý thức sáng tạo lại hiện
thực theo nhu cầu của bản thân và thực tiễn xã hội. ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở
cùng một thời đại, sự phản ánh (ý thức) về cùng một sự vật, hiện tượng có sự khác nhau-
theo các điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.
Có thể nói quá trình ý thức gồm các giai đoạn. 1)
Trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể với khách thể phản ánh; định hướng và
chọn lọc các thông tin cần thiết. 2)
Mô hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng tạo lại
khách thể phản ánh theo cách mã hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý tưởng tinh thần phi vật chất. 3)
Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực hóa tư tưởng,
thông qua hoạt động thực tiễn biến các ý tưởng tinh thần phi vật chất trong tư duy thành
các sự vật, hiện tượng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn
phương pháp, công cụ tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Kết cấu của ý thức: lOMoAR cPSD| 48302938
- Các lớp cấu trúc của ý thức :
+ Tri thức: là toàn bộ những hiểu biết của con người về thế giới, là kết quả của quá trình
con người nhận thức về thế giới
+ Tình cảm: là những rung động của con người, biểu hiện thái độ của con người trong
quan hệ với thế giới khách quan và với chính bản thân con người + Niềm tin: tri thức
kết hợp với tình cảm làm hình thành nên niềm tin
+ Ý chí: là sức mạnh tinh thần, giúp con người vượt qua những trở ngại trong quá trình
thực hiện mục đích - Các cấp độ của ý thức :
+ Tự ý thức: là hoạt động của tinh thần, ở đó diễn ra sự trao đổi tranh luận nội tâm
+ Tiềm thức: là những tri thức mà chủ thể đã có từ trước nhưng đã trở thành kỹ năng, kỹ
xảo nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể
+ Vô thức: là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi của
con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm hay sự kiểm tra, tính toán của lý trí Câu
6: PT mqh giữa vật chất và ý thức:
a) Định nghĩa: -
Theo Lênin vật chất “là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan,
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Vật chất tồn tại bằng cách vận
động và thông qua vận động để thể hiện sự tồn tại của mình.Không thể có vật chất không
vận động và không có vận động ở ngoài vật chất.Đồng thời vật chất vận động trong
không gian và thời gian.Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, là
thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể . -
Ý thức: Ý thức lẩn phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã
hội.Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của TG khách quan, là sự phản ánh tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn.
Chính vì vậy, không thể xem xét hai phạm trù này tách rời, cứng nhắc, càng không thể
coi ý thức (bao gồm cảm xúc,ý chí,tri thức,….) là cái có trước, cái sinh ra và quyết định
sự tồn tại, phát triển của thế giới vật chất.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
- Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức :
Vật chất là cái có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức. Nguồn gốc của ý thức chính là
vật chất : bộ não người – cơ quan phản ánh thế giới xung quanh,sự tác động của thế giới
vật chất vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên. lOMoAR cPSD| 48302938
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức :
+ Ý thức luôn là sự phản ánh lại hiện thực khách quan (thế giới vật chất) vào đầu óc của
con người. Do đó, nội dung của ý thức luôn bị quy định bởi hiện thực khách quan.
+ Hoạt động thực tiễn của con người là hoạt động vật chất, nó chính là động lực làm nên
sự phong phú và sâu sắc trong nội dung của ý thức. - Vật chất quyết định sự vận động
và phát triển của ý thức :
Sự vận động biến đổi không ngừng của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết
định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức của con người - Ý thức có quy luật vận
động và phát triển riêng của nó :
+ Ý thức thay đổi theo từng chủ thể, qua lăng kính của chủ thể nội dung của ý thức sẽ thay đổi khác nhau.
+ Nó có thể thay đổi nhanh hơn, chậm hơn, không phải lúc nào nó cũng song hành với
thế giới vật chất. Nhìn chung, ý thức thường thay đổi chậm hơn so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
- Ý thức quay trở lại chỉ đạo trực tiếp hành động của con người :
+ Khi những quan điểm được xác lập, nó sẽ quay trở thành chỉ đạo hành vi của con người.
+ Nếu ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan sẽ có tác động tích cực đến hoạt
động của con người. Nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực thì sẽ tác động tiêu cực đến
nhận nhận thức và hành động của con người.
- Ý thức cải biến thế giới vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người
+ Dựa trên tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết quy luật khách quan, từ đó con
người đề ra mục tiêu, phương hướng, phương pháp thực hiện để đạt được mục tiêu. +
Điều đó được minh chứng bằng toàn bộ sự phát triển của nền văn minh nhân loại.
c) Ý nghĩa phương pháp luận: Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý
thức, cho nên để nhận thức cái đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét
nguyên nhân vật chất, tồn tại xã hội để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm
nguồn gốc, nguyên nhân từ những nguyên nhân tinh thần nào.“tính khách quan của sự
xem xét” chính là ở chỗ đó . Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại
đối với vật chất, cho nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò
của nhân tố tinh thần. Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách
quan và giải quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng
thời cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân lOMoAR cPSD| 48302938
tố tinh thần, tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả
cao. Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ tiêu
cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách rời và
thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.
Câu 7: PT nd nguyên lí về mối liên hệ phổ biến: Định nghĩa
Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các
sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới.
MLH phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự
vật và hiện tượng của thế giới.
Tính chất của các mối liên hệ phổ biến
Tính khách quan. Phép biện chứng duy vật khẳng định tính khách quan của các mối liên
hệ, tác động của bản thân thế giới vật chất. Các mối liên hệ thể hiện mình trong sự tác
động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất với nhau. Có mối liên hệ giữa sự vật, hiện
tượng với cái tinh thần. Có cái liên hệ giữa những hiện tượng tinh thần với nhau, như mối
liên hệ và tác động giữa các hình thức của quá trình nhận thức. Các mối liên hệ, tác động
đó, suy cho đến cùng, đều là sự phản ánh mối liên hệ lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng
của thế giới khách quan.
Tính phổ biến. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn ra ở
mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với
các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
Tính đa dạng, phong phú. Có nhiều mối liên hệ. Có mối liên hệ về mặt không gian và
cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung
tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới. Có mối liên hệ riêng
chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực
tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng, nhưng cũng có những mối liên hệ gián tiếp. Có mối
liên hệ tất nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ bản chất cũng có mối
liên hệ chỉ đóng vai trò phụ thuộc (không bản chất). Có mối liên hệ chủ yếu và có mối
liên hệ thứ yếu v.v chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng. Do vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát được toàn
cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính
vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ
có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ
có hình thức, vai trò khác nhau.
Ý nghĩa phương pháp luận lOMoAR cPSD| 48302938
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc
toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này yêu cầu xem
xét sự vật, hiện tượng 1)
trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc
tính cùng các mối liên hệ của chúng. 2)
trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với
môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp. 3)
trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động
của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó. Nguyên
tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không thấy các mặt
khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy mặt bản
chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật ngụy biện (cố ý đánh tráo các mối liên hệ cơ bản
thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các
mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, còn rút ra nguyên tắc
lịch sử-cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này yêu cầu
xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối liên hệ cụ thể, có tính đến lịch sử hình thành,
tồn tại, dự báo xu hướng phát triển của sự vật hiện tượng. Cơ sở lý luận của nguyên tắc
này là nguồn gốc , thời gian với vận động của vật chất, là quan niệm chân lý là cụ thể và
chính nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Vận dụng vào cuộc sống
Trong hoàn cảnh hiện nay, giáo dục còn đối mặt nhiều thách thức khó khăn từ đại dịch
Covid-19, biết vận dụng đúng đắn quan điểm toàn diện còn có thể giúp học sinh, sinh
viên tìm ra phương pháp học tập tích cực, chủ động, tối ưu và hiệu quả cho mình. Đối với
bản thân em, có thể khái quát lại như sau: Thứ nhất, cần phải có ý thức cao cùng một sức
khỏe tốt, tạo cho mình mục tiêu để chiến đấu cùng với tinh thần mạnh mẽ, kiên trì, bền bỉ
vượt qua những khó khăn; một ý chí vững vàng để có thể vượt qua những cám dỗ từ bên
ngoài. Đồng thời bên cạnh đó, mỗi người học cần phải tích cực tập luyện thể dục thể
thao, ăn uống lành mạnh để có thể bảo đảm sức khỏe trong quá trình học. Thứ hai, cần
tận dụng tối đa nguồn lực hiện có. Hiện nay trên mạng có vô số nguồn tài nguyên, bài
giảng quý báu để người học có thể sử dụng hay những sự trợ giúp từ thầy cô, bạn bè
thông qua những ứng dụng thông minh và vô kể những nguồn lực khác. Và cuối cùng, để
có thể thể xây dựng cho mình một phương pháp học tập tích cực, thì một không gian học
tập phù hợp đóng vai trò không nhỏ. Bởi vậy, thông qua quá trình học tập, người học cần
tự tìm hiểu xem đâu là không gian học tập phù hợp nhất với mình, từ đó tạo cho mình
một thời khóa biểu hợp lý để việc học có thể diễn ra một cách hiệu quả và trơn tru. lOMoAR cPSD| 48302938
Câu 8: PT cặp phạm trù cái chung cái riêng a. Khái niệm 1.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những
mối quan hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ. 2.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định. 3.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định.
Cặp phạm trù cái riêng và cái chung trong triết học gắn liền với “bộ ba” phạm trù là cái
đơn nhất, cái đặc thù, cái phổ biến. Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những
mặt, những thuộc tính… chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất. Những mặt, những
thuộc tính ấy không được lặp lại ở bất kỳ sự vật, hiện tượng hay kết cấu vật chất nào
khác. Cái đặc thù là phạm trù triết học chỉ những thuộc tính… chỉ lặp lại ở một số sự vật,
hiện tượng hay kết cấu vật chất nhất định của một tập hợp nhất định. Cái phổ biến là
phạm trù triết học được hiểu như cái chung của tập hợp tương ứng.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, cái đơn nhất
Phép biện chứng duy vật cho rằng, cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan và giữa
chúng có sự thống nhất biện chứng. 1.
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là
không có cái chung thuần tuý, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái riêng. Ví dụ: Thuộc tính
cơ bản của vật chất là vận động. Vận động lại tồn tại dưới các hình thức riêng biệt như
vận động vật lý, vận động hoá học, vận động xã hội v.v.. 2.
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Điều đó có nghĩa là không có
cái riêng độc lập thuần tuý không có cái chung với những cái riêng khác. Ví dụ: Các chế
độ kinh tế – chính trị riêng biệt đều bị chi phối với các quy luật chung của xã hội như quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất. 3.
Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái
chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung, vì ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái
chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có. Cái chung là cái
sâu sắc hơn cái riêng bởi vì nó phản ánh những mặt, những thuộc tính, nhưng mối liên hệ
bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại. Cái chung gắn
liên hệ với cái bản chất, quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật. 4.
Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau; có thể coi đây là sự chuyển
hoá giữa hai mặt đối lập. Sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái chung diễn ra theo hai lOMoAR cPSD| 48302938
hướng: cái đơn nhất biến thành cái chung, làm sự vật phát triển và ngược lại, cái chung
biến thành cái đơn nhất làm cho sự vật dần dần mất đi.
Mối quan hệ này được cái chung, cái riêng và cái đơn nhất thể hiện: Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Cái chung chỉ tồn tại thông qua cái riêng. Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng chứ
không thể ở ngoài cái riêng.
- Bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hoá.
Nếu đem áp dụng nguyên xi cái chung, tuyệt đối hoá cái chung dễ dẫn đến sai lầm tả
khuynh giáo điều. Nếu xem thường cái chung, chỉ chú ý đến cái đơn nhất dễ dẫn đến sai
lầm hữu khuynh xét lại.
- Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có
thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn nhất. Trong
hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất chuyển thành cái chung
nếu cái đơn nhất có lợi cho con người. Và ngược lại biến cái chung thành cái đơn nhất
nếu cái chung tồn tại bất lợi cho con người
d. Liên hệ bản thân, vận dụng vào cuộc sống
Xét về mối quan hệ giữa bản thân với xã hội, ta thấy cái riêng là cá nhân, cái chung là xã
hội. Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất
gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp lại, khác với những cá nhân khác về
cơ chế, tâm lý, trình độ... Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành, những cá nhân
này sống và hoạt động trong nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều kiện lịch
sử quy định. Trong quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan hệ với xã hội, cá nhân
biểu hiện ra với tư cách như sau: Cá nhân là phương thức tồn tại của loài người. Không có
con người nói chung. loài người tồn tại độc lập. một Cá nhân là cá thể riêng rẽ, là phần tử
tạo thành cộng đồng xã hội, là chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách. Cá nhân được hình thành
và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội. Giữa cá nhân và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ gắn
bó với nhau, chuyển hóa lẫn nhau giữa cái chung và cái riêng. Mác cho rằng: “Chỉ có trong
tập thể mới có những phương tiện làm cho mỗi cá nhân có khả năng phát triển toàn diện
những năng khiếu của mình... chỉ có trong tập thể mới có tự do cá nhân.” . Mỗi cá nhân
trong một tập thể phải biết phát huy điểm mạnh của mình, biến cái đơn nhất có lợi thành
cái chung, biến cái chung bất lợi thành cái đơn nhất. Khi làm bất cứ một vấn đề gì cũng
phải xem xét giải quyết vấn đề sao cho hợp lý nhất. Có như thế thì con đường đến thành
công của bạn sẽ ngắn đi rất nhiều. Câu 9: PT cặp phạm trù nguyên nhân kết quả a. Khái niệm lOMoAR cPSD| 48302938 1.
Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định. 2.
Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động
lẫn nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
- Khác với nguyên nhân, nguyên cớ cũng là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết
quả, nhưng không sinh ra kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng là mối liên hệ bên ngoài
không bản chất. VD: “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, vào tháng 8/1964, từ đó Mỹ ném bom miền
Bắc là nguyên cơ, còn nguyên nhân thực sự là do bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ. -
Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân, nhưng có tác
dụng đối với sự nảy sinh kết quả. VD: Nhiệt độ, áp suất, chất xúc tác là những điều kiện
không thể thiếu của một số phản ứng hoá học
b. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả 1.
Nguyên nhân sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả.
Còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Chỉ những mối liên hệ trước sau về
mặt thời gian có quan hệ sản sinh mới là mối liên hệ nhân quả. 2.
Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp: một kết quả có thể
do nhiều nguyên nhân và một số nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả.
– Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn.
– Nếu các nguyên nhân tđ ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kq chậm hơn.
Thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
3. Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối, có sự chuyển hoá, tác động qua lại tạo
thành chuỗi liên hệ nhân – quả vô cùng vô tận. c. Ý nghĩa phương pháp luận –
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính khách quan của mối liên hệ nhân quả. –
Muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo nguyên nhân cùng những điều kiện
cho nguyên nhân đó phát huy tác dụng. Ngược lại, muốn hiện tượng nào đó mất đi thì
phải làm mất nguyên nhân tồn tại của nó. –
Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các nguyên
nhân có vai trò không như nhau. –
Kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân. Do đó, trong hoạt động thực tiễn cần
khai thác, tận dụng những kết quả đã đạt được để thúc đẩy nguyên nhân tác động theo hướng tích cực.
d. Liên hệ, vận dụng vào cuộc sống lOMoAR cPSD| 48302938
Bạo lực học đường do một số nguyên nhân như sau:
Thứ nhất: Có thể thấy tình trạng bạo lực diễn ở môi trường học tập chủ yếu ở độ tuổi
1217 tuổi. Đây là độ tuổi thay đổi tâm sinh lý của của học sinh – độ tuổi vô cùng nhạy
cảm. Bản thân các em chưa làm chủ được nhận thức và hành động của bản thân mà dễ
cáu gắt, bực tức và có những hành vi gây bạo lực học đường.
Thứ hai: Từ phía gia đình. Cuộc sống ngày nay ngày càng đòi hỏi vật chất nên phụ huynh
bận rộn kiếm tiền, ít quan tâm đến con cái, thậm chí vì áp lực cuộc sống hay trút giận lên
chính đứa con của mình. Nhiều gia đình lục đục nên con cái chứng kiến và bị ảnh hưởng.
Thứ ba: Từ nhà trường. Nhiều trường học chỉ chú trọng đào tạo giáo dục mà ko để ý giáo
dục nhân cách, kỹ năng cư xử phẩm chất cho học sinh. Hoặc khi có bạo lực không có
hướng giải quyết nên học sinh không sợ.
Thứ tư: Từ phía xã hội. Sự ảnh hưởng do thời đại 4.0 internet phát triển mạnh mẽ và
không được kiểm duyệt. Văn hóa bạo lực trong các bộ phim ảnh, sách báo và các trò
chơi, game mang xu hướng bạo lực tràn lan trên mạng và không được kiểm duyệt đàng
hoàng dẫn đến những đối tượng ở độ tuổi vị thành niên này bị tò mò và tiếp xúc nên có
tâm lý bạo hành học đường ở ngoài đời.
Thứ năm: Do biến chất về mặt tâm lý. Nhiều học sinh, giáo viên suy thoái đạo đức nghề
nghiệp, có những cách nhìn nhận méo mó, lệch lạc biến thái.
Kết quả là nạn bạo lực học đường ngày càng gia tăng với sự phức tạp. Các hành vi đánh
đập, bứt tóc, xô đẩy, cắt tóc, xé quần áo, đổ đồ ăn lên người, trấn lột cướp đồ giữa học
sinh với nhau hết sức phổ biến trong các trường. Không chỉ vậy mà học sinh còn sử dụng
những hành vi hoặc lời nói gây xúc phạm, gán ghép hoặc bôi nhọ, sỉ nhục, chế nhạo hoặc
bắt người khác làm theo ý mình. Hành vi này có thể ở giáo viên đối với học sinh hoặc
học sinh với nhau. Việc xâm phạm tình dục, có thể động chạm những bộ phận nhạy cảm
hoặc thậm chí có những hành vi cưỡng ép tình dục, hiếp dâm, … gây rúng động dư luận
thời gian qua cũng rất báo động và cần được xử lý nghiêm.
Có thể thấy mối quan hệ giữa nguyên nhân của bạo lực học đường dẫn đến những hậu
quả đáng tiếc trên thực tế. Từ những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan mà học
sinh có các hành vi đánh đập, chế nhạo hoặc xâm phạm, xúc phạm,… bạn bè thầy cô. Từ
đó mà bỏ học, nghỉ học đuổi học kéo theo hệ lụy phía sau.
Câu 10: PT nd quy luật từ sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại
- Định nghĩa quy luật: Là mối liên hệ phổ biến, khách quan, bản chất, bền vững,tất
yếu giữa các đối tượng và nhất định tác động khi có điều kiện phù hợp. lOMoAR cPSD| 48302938 Chất - Khái niệm về chất
Là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,hiện tượng
Là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính,yếu tố tạo nên sự vật,hiện tượng khác - Đặc điểm
Thể hiện tính tương đối ổn định của sự vật,hiện tượng.Nghĩa là khi nó chưa chuyển hóa
thành sự vật,hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi
Mỗi sự vật,hiện tượng đều có quá trình ổn tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn,trong
mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng
—-> Mỗi sự vật,hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có thể có nhiều chất. Nhờ
đó,con người có thể phân biệt sự vật,hiện tượng này với sự vật,hiện tượng khác.
VD: Con người khác với động vật chính là nhờ những tính quy định vốn có của con
người,khả năng chế tạo vũ khí,máy móc và khả năng sử dụng công cụ,tư duy…
Chất của sự vật không những quy định bởi chất của những nguyên tố tạo thành mà còn
bởi những phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành mà,nghĩa là bởi kết cấu của sự
vật. Trong hiện thực của sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau,song chất của chúng lại khác
VD: Kim cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học là nguyên tố Cacbon tạo
nên,nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tố Cacbon là khác nhau nên chất của
chúng hoàn toàn khác nhau —--> Kim cương rất cứng còn than chì rất mềm. Lượng: - Khái niệm :
Là phạm trù triết học dùng để chỉ thuộc tính vốn có của sự vật về mặt số lượng,quy
mô,trình độ,nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật
Lượng là cái khách quan,vốn có của sự vật,quy định sự vật ấy là nó.Lượng của sự vật
không phụ thuộc vào ý chí,ý thức của con người - Biểu hiện
Lượng của sự vật biểu hiện kích thước dài hay ngắn,số lượng ít hay nhiều,quy mô lớn
hay nhỏ,trình độ cao hay thấp,nhịp điệu nhanh hay chậm…
VD: Đơn vị đo lường cụ thể như vận tốc ánh sáng là 300 000km trong 1 giây… Bên cạnh
đó lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát
VD: trình độ nhận thức của một người,ý thức trách nhiệm cao hay thấp của 1 công dân lOMoAR cPSD| 48302938
Lượng còn biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật ( số lượng nguyên tử hợp thành
nguyên tố hóa học,số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) hoặc có những lượng
còn vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật ( chiều dài,rộng,cao của sự vật )
Phân biệt lượng và chất: chỉ mang tính tương đối. Điều này phụ thuộc vào từng mối quan
hệ cụ thể xác định. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật,song
trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại .
VD: con số 16 có nhiều cách xác định khác nhau: tích của 2 và 8, bình phương của 4,....
- Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
+ Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thay đổi thống nhất giữa mặt chất và
mặt lượng. Chúng tác động qua lại với nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao
giờ tồn tại nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
+ Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, sự thay
đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật hiện tượng đã tích lũy những thay đổi về lượng đến một ngưỡng nhất định.
+ Quy luật này cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển, cho thấy sự
thay đổi về lượng của sự vật hiện tượng diễn ra từng bước và kết hợp với sự thay đổi
nhảy vọt về chất làm cho sự vật hiện tượng vừa có những bước tiến tuần tự, vừa có những bước tiến đột phá.
a. Chất và lượng có mối quan hệ thống nhất với nhau.
- Chất và lượng không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng
bởi vì mỗi sự vật hiện tượng đều phải phải có tính quy định về chất lại vừa vừa có
tính quy định về lượng, nên không có chất thiếu lượng và ngược lại.
- Tuy nhiên không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đển sự thay đổi
về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi
về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là
Độ.(Độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự
vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó,
chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.) lOMoAR cPSD| 48302938
Vd: Người sống lâu nhất trên thế giới theo Guinness công nhận có tuổi thọ là
118 tuổi. Như vậy giới hạn từ 0→118 năm là “độ” của con người xét về mặt tuổi. b.
Lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất.
- Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về
lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự
thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là Điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới
điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất
mới(sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút). Đây chính là bước nhảy trong quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Vd: 0°C, 100°C, 118 tuổi là điểm nút,...
- Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình
phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức
bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của
mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ,
tự phát và tự giác,... Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển;
đồng thời, đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong
quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng.
Vd: Sự chuyển hóa từ nước lỏng thành hơi nước là 1 bước nhảy. Có bước nhảy
này là do nước lỏng có sự thay đổi về nhiệt độ và đạt đến 100°C
- Các hình thức của bước nhảy :
Bước nhảy đột biến: Là bước nhảy làm thay đổi căn bản về chất nhanh chóng ở tất cả các
bộ phận cấu thành sự vật.
Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra trong thời gian dài.
Bước nhảy toàn bộ: làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ở tất cả các mặt các bộ phận
các yếu tố cấu thành nên sự vật.
Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi một số yếu tố 1 số bộ phận của sự vật
c. Lượng tác động trở lại chất. lOMoAR cPSD| 48302938
- Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động
tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Vd: Nếu bạn tăng thời gian tự học ở nhà, giảm thời gian chơi Game online thì sẽ
thu nhận được nhiều kiến thức hơn, làm bài sẽ đạt được nhiều điểm cao hơn.
→ Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa
hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút lất yếu sẽ dẫn
đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời, chất mới sẽ tác động trở
lại lượng, tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng. Quá trình
đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. d) Liên hệ nè
Mỗi học sinh, sinh viên cần phải tích đủ lượng. Thể hiện với các lộ trình bài giảng theo
chương trình học. Đảm bảo các tiếp cận với các dạng, các mức độ bài tập khác nhau.
Tương ứng với các cấp học theo chương trình đào tạo, Khi lượng đạt tới giới hạn điểm
nút thì mới được thực hiện bước nhảy. Nó đảm bảo mang đến hiệu quả của cả một giai
đoạn. Không được nôn nóng, đốt cháy giai đoạn. Vì sẽ không mang đến chất lượng học
nếu không chăm chỉ, chịu khó. Hiện nay, kiểu học tín chỉ đã tạo điều kiện lựa chọn cho
sinh viên. Cân nhắc với chương trình học đảm bảo khả năng. Nhiều sinh viên cảm thấy
mình đủ năng lực có thể đăng kí học vượt để ra trường sớm. Do đó thực hiện khối lượng
lớn kiến thức trong thời gian không đảm bảo. Nó tùy vào khả năng của từng người.
Câu 11: PT nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập 1 . Cơ sở lý luận
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập thể hiện bản chất, là hạt nhân của
phép biện chứng duy vật, bởi quy luật đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của
phép biện chứng duy vật – vấn đề nguyên nhân, động lực của sự vận động và phát triển.