Nội dung ôn tập 2 quy luật - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, khicho thấy sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ nhữngthay đổi về lượng đạt đến ngưỡng nhất định. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Quy luật chất lượng
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động phát triển, khi
cho thấy sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ những
thay đổi về lượng đạt đến ngưỡng nhất định.
Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận động phát triển, khi cho thấy sự
thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng diễn ra từ từ kết hợp với sự thay đổi nhảy
vọt về chất làm cho sự vật, hiện ợng vừa tiến bước tuần tự, vừa những bước
đột phá vượt bậc.
Khái niệm:
Chất khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn của sự vật,
hiện tượng; sự thống nhất hữu của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện
tượng làm cho sự vật, hiện tượng không phải sự vật, hiện tượng khác
Vd: Thuộc tính của muối là mặn
Lượng khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn của sự vật, hiện tượng
về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện số lượng các thuộc tính,
tổng số các bộ phận, đại lượng, tốc độ nhịp điệu vận động phát triển
của sự vật, hiện tượng. Vd: Nguyên tử đồng có nguyên tử khối là 63,54đvC
Nội dung quy luật:
+ Mối quan hệ giữa các khái niệm cấu thành quy luật chỉ ra rằng, mỗi sự vật,
hiện tượng một thể thống nhất giữa hai mặt chất ợng, chúng tác động biện
chứng lẫn nhau theo chế khi sự vật, hiệnợng đang tồn tại. Trong sự vật, quy
định về lượng không bao giờ tồn tại nếu không tính quy định về chất ngược
lại.
+ Sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho chất đổi kết quả sự vật, hiện
tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời:
Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau giữa
chất với lượng; là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng.
Điểm giới hạn tại đó, sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm
cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời điểm tại
đó bắt đầu xảy ra bước nhảy, gọi là điểm nút.
Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa bản về chất của
sự vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, bước ngoặt
bản trong sự biến đổi về lượng
dụ: Xét “nước” (H20) nguyên chất, trong điều kiện atmotphe trạng thái
thể lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C (độ).
Khi lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C đó
(điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ trạng thái
lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy).
+ Quy luật lượng đổi - chất đổi còn nói lên chiều ngược lại, nghĩa khi chất
mới đã khẳng định mình, tạo ra lượng mới phù hợp để sự thống nhất mới
giữa chất với lượng.
+ Như vậy, quy luật chỉ ra rằng quan hệ lượng - chất quan hệ biện chứng.
Những thay đổi về lượng chuyển thành những thay đổi về chất ngược lại; chất
là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt dễ biến đổi hơn. Lượng biến đổi, mâu thuẫn
với chất cũ, phá vỡ độ cũ, chất mới hình thành vớiợng mới; lượng mới lại tiếp
tục biến đổi, đến độ nào đó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm nó.
+ Mọi đối tượng đều sự thống nhất của hai mặt đối lập chất ợng,
những sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay
đổi căn bản về chất của thông qua bước nhảy, chất mới ra đời tiếp tục tác động
trở lại duy trì sự thay đổi của lượng.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức hoạt động thực tiễn phải biết tích luỹ
về lượng để biến đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo
thủ
Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút t thực hiện bước nhảy yêu cầu
khách quan của sự vận động của sự vật, hiện tượng; tưởng nôn nóng thường
biểu hiện ở chỗ không chú ý thỏa đáng đến sự tích luỹ về lượng
Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải có thái độ khách quan, khoa
học và quyết tâm thực hiện bước nhảy; tuy đều có tính khách quan, nhưng quy luật
xã hội chỉ diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con người, khi thực hiện bước
nhảy trong lĩnh vực hội, tuy vẫn phải tuân theo điều kiện khách quan, nhưng
cũng phải chú ý đến điều kiện chủ quan.
Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó,
phải biết lựa chọn phươngpháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó
trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
Vận dụng quy luật lượng-chất vào trong học tập, cuộc sống
Quá trình học tập của em một quá trình dài, khó khăn cần sự cố gắng
không biết mệt mỏi, không ngừng nghỉ của bản thân. Quy luật chuyển hóa từ sự
thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện chỗ: em tích lũy lượng
kiến thức cho mình bằng việc nghe các thầy giảng trên lớp, làm bài tập nhà,
đọc thêm sách, tài liệu tham khảo,… thành quả của quá trình tích lũy đó được đánh
giá qua những bài kiểm tra thường kỳ, những bài thi giữa kỳ và kỳ thi cuối kỳ. Khi
còn một học sinh, em đã nổ lực học tập hết mình để chuyển sang một cấp học
mới cao hơn đó là Đại học. Như vậy, quá trình học tập, tích lũy kiến thức là độ, các
bài kiểm tra, các kì thi là điểm nút và việc được sang một cấp học cao hơn là bước
nhảy. Trong suốt 12 năm học, em phải thực hiện nhiều bước nhảy khác nhau.
Trước hết bước nhảy để chuyển từ một học sinh trung học sở lên học sinh
trung học phổ thông kỳ thi lên cấp 3 điểm nút, đồng thời cũng điểm
khởi đầu mới trong việc tích lũy lượng tri thức mới để thực hiện một bước nhảy
cùng quan trọng trong cuộc đời: vượt qua kì thi đại học để trở thành một sinh viên.
Sau khi thực hiện được bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình thành
và tác động trở lại lượng. Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách
hành động của mỗi sinh viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học
sinh trung học hay một học sinh phổ thông. tại đây, một quá trình tích lũy về
lượng kiến thức mới lại bắt đầu, quá trình này khác hẳn so với quá trình tích lũy
lượng bậc trung học hay phổ thông. Bởi đó không đơn thuần việc lên giảng
đường để tiếp thu bài giảng của thầy mả phần lớn sự tự nghiên cứu, tìm tòi,
tích lũy kiến thức, bên cạnh những kiến thức trong sách vở những kiến thức
hội từ các công việc làm thêm hoặc từ các hoạt động trong những câu lạc bộ. Tiếp
đến các nhiệm vụ trong học tập, nếu học phổ thông hoạt động chủ yếu trên
lớp còn học đại học còn đi kiến tập, thực tập,...Đây hội cũng nhưng cũng
thách thức cho em.Ở đây sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ sự thay đổi
về hình thức, bởi vậy thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng
giống như quá trình biến đổi tlượng thành chất. Chính vậy một người sinh
viên, em cần phải thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại,
phù hợp với yêu cầu của ngành giáo dục đối với Đại học. Chỉ khi nào làm được
như vậy em mới hy vọng đạt được những thành tích rực rỡ trong quá trình học tập
nghiên cứu của mình.Sau khi đã tích lũy được một lượng đầy đủ, em sẽ thực
hiện một bước nhảy mới, bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt qua
kì thi tốt nghiệp để nhận được tấm bằng cử nhân và tìm được một công việc.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
lượng chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của vai trò to lớn trong
việc học tập rèn luyện của sinh viên các trường Đại học Việt Nam hiện nay.
Lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ khi nào lượng được
tích lũy tới một độ nhất đinh mới làm thay đổi về chất, do đó trong hoạt động nhận
thức, hoạt động học tập của sinh viên phải tích lũy dần về lượng đồng thời phải
biết thực hiện và thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi để
biến đổi về chất. Những việc làm đại của con người bao giờ cũng tổng hợp
những việc làm bình thường, vậy mỗi sinh viên phải luôn tích cực học tập, chủ
động trong công việc học tập và rèn luyện của mình cả đức và tài, để trở thành một
con người phát triển toàn diện, tránh tưởng chủ quan, nóng vội không chịu
tích lũy về kiến thức (lượng)
Quy luật thể hiện bản chất, hạt
nhân của phép biện chứng duy vật, bởi đề cập tới vấn đề bản quan trọng
nhất của phép biện chứng duy vật - vấn đề nguyên nhân, nguồn gốc, động lực của
sự vận động, phát triển, sự thống nhất của các mặt đối lặp nhau.
là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách
vừa thống nhất, vừa đấu tranh.
khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa
chúng được thể hiện việc: , các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa
vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại, không có mặt này thì không có mặt kia;
, các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa
cái mới đang hình thành với cái chưa mất hẳn; , giữa các mặt đối lập
sự tương đồng, đồng nhất do trong các mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống
nhau.
khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại
theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng sự tác động đó cũng không
tách rời sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng trong một mâu thuẫn. So
với đấu tranh giữa các mặt đối lập thì thống nhất giữa chúng tính tạm thời,
tương đối, điều kiện, nghĩa sự thống nhất đó chỉ tồn tại trong trạng thái đứng
im tương đối của sự vật, hiện tượng.
dụ thống nhất giữa các mặt đối lập: trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và
tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính là
việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để thể đáp ứng được nhu cầu của người
tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản
phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng.
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu
dùng. Nếu như không quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ
không thể có tiêu dùng. Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng
cho tiêu dùng, đây không phải đối tượng nói chúng đối với những đối
tượng nhất định do bản thân sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó còn quyết định về
phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng tạo ra
nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều này có nghĩachỉ khi sản xuất ra một loại sản
phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm đó. Nên có thể thấy
được rằng sản xuất tiêu dùng chính sự thống nhất của hai mặt đối lập, chúng
nh chất tương đồng mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ đó tạo
điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
Căn cứ vào sự tồn tại phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng, mâu
thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại phát triển của sự vật,
hiện tượng trong mỗi giai đoạn nhất định, thể phân chia thành mâu thuẫn chủ
yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật, hiện tượng, mâu
thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Căn cứ vào tính chất của lợi ích cơ bản là đối lập nhau trong mối quan hệ giữa
các giai cấp ở một giai đoạn lịch sử nhất định, trong xã hội có mâu thuẫn đối kháng
và mâu thuẫn không đối kháng.
Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng tự thân. Khái quát lại, nội
dung của quy luật thống nhất đấu tranh các mặt đối lập là: Mọi đối tượng đều
bao gồm những mặt, những khuynh hướng, lực lượng... đối lập nhau tạo thành
những mâu thuẫn trong chính nó; sự thống nhất đấu tranh giữa các mặt đối lập
này là nguyên nhân, động lực bên trong của sự vận động và phát triển, làm cho cái
cũ mất đi và cái mới ra đời.
, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng;
từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Muốn
phát hiện mâu thuẫn, cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật,
hiện tượng; từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động nhận thức
và thực tiễn.
, phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh,
phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí mối quan hệ giữa các
mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu
thuẫn cụ thể và đề ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó.
, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa
các mặt đối lập, không điều hoà mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ.
Trong học tập:
Mỗi sinh viên sẽ từng trải qua việc đăng nguyện vọng thì lúc đó trong
tưởng của mình đã xảy ra mâu thuẫn, đó chính là học tiếp hay nghỉ học. Mình
muốn học tiếp như vậy sẽ tiếp thu kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn sẽ
bằng cấp để phục vụ cho công việc của mình. Nhưng lúc đó công việc gia đình,
điều kiện kinh tế khó khăn mà học phí thì cũng khá cao nên cũng khó để có thể học
tiếp. Sau khi những tưởng đó đấu tranh thống nhất lại với nhau thì chọn học
tiếp, cố gắng để theo học vì tương lai của mình có một công việc ổn định.
Trong cuộc sống:
Một quá trình sản xuất kinh doanh bao giờ cũng chứa đựng trong nó rất nhiều
mâu thuẫn như; mâu thuẫn giữa sản xuất tiêu thụ sản phẩm, mâu thuẫn giữa
cung cầu về sản phẩm, mâu thuẫn giữa chủ quản với công nhân, mâu thuẫn
giữa tính kế hoạch trong nghiệp với tính tự phát của chế thị trường, mâu
thuẫn giữa sức phát triển nhanh của công cụ sản xuấtcông nghệ tiên tiến với sự
cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên nguyên liệu của sản xuất,mâu thuẫn giữa
lợi nhuận rủi ro....và mối quan hệ mâu thuẫn giữa lợi nhuận doanh nghiệp
thu được với rủi ro doanh nghiệp thể gặp phải. Chúng ta đã biết hoạt động
chính của ngân hàng nhận gửi cho vay với mục đích cuối cùng lợi nhuận.
Mối quan hệ mâu thuẫn giữa lợi nhuận rủi ro một mâu thuẫn biện chứng,
hai mặt của một vấn đề. Bất cứ quá trình sản xuất, kinh doanh nào cũng vậy, lợi
nhuận và rủi ro luôn tồn tại song song với nhau, mâu thuẫn với nhau. Kết thúc một
quá trình sản xuất, kinh doanh chúng ta thể thu được lợi nhuận nhưng có khi
gặp phải rủi ro. Lợi nhuận dự kiến mang lại càng cao thì độ rủi ro nếu gặp phải
cũng sẽ rất lớn ngược lại. Nhưng mục đích của người kinh doanh bao giờ cũng
hướng tới lợi nhuận, họ tìm mọi cách để hạn chế được rủi ro như, cải tiến kỹ
thuật và phương pháp sản xuất, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý nhanh
nhạy năng động, kịp thời nắm bắt phân tích những biến động của thị trường,
dự báo tình hình thị trường nhằm hạn chế tối đa rủi ro hoặc nếu gặp rủi ro thì
thiệt hại rất nhỏ.... Do đó thể nói mâu thuẫn giữa lợi nhuận vả rủi ro một
trong những mâu thuẫn bản của quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, và là động lực để các doanh nghiệp ngày một phát triển về trình độ quản
doanh nghiệp.
| 1/9

Preview text:

Quy luật chất lượng
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, khi
cho thấy sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ những
thay đổi về lượng đạt đến ngưỡng nhất định.
Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự
thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng diễn ra từ từ kết hợp với sự thay đổi nhảy
vọt về chất làm cho sự vật, hiện tượng vừa tiến bước tuần tự, vừa có những bước đột phá vượt bậc.  Khái niệm:
Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện
tượng làm cho sự vật, hiện tượng là nó mà không phải là sự vật, hiện tượng khác
Vd: Thuộc tính của muối là mặn
Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng
về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính,
ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng. Vd: Nguyên tử đồng có nguyên tử khối là 63,54đvC  Nội dung quy luật:
+ Mối quan hệ giữa các khái niệm cấu thành quy luật chỉ ra rằng, mỗi sự vật,
hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng, chúng tác động biện
chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang tồn tại. Trong sự vật, quy
định về lượng không bao giờ tồn tại nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
+ Sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quả là sự vật, hiện
tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời:
Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau giữa
chất với lượng; là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng.
Điểm giới hạn mà tại đó, sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm
cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời điểm mà tại
đó bắt đầu xảy ra bước nhảy, gọi là điểm nút.
Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của
sự vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ
bản trong sự biến đổi về lượng
Ví dụ: Xét “nước” (H20) nguyên chất, trong điều kiện atmotphe ở trạng thái
thể lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C (độ).
Khi lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C đó
(điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ trạng thái
lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy).
+ Quy luật lượng đổi - chất đổi còn nói lên chiều ngược lại, nghĩa là khi chất
mới đã khẳng định mình, nó tạo ra lượng mới phù hợp để có sự thống nhất mới giữa chất với lượng.
+ Như vậy, quy luật chỉ ra rằng quan hệ lượng - chất là quan hệ biện chứng.
Những thay đổi về lượng chuyển thành những thay đổi về chất và ngược lại; chất
là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt dễ biến đổi hơn. Lượng biến đổi, mâu thuẫn
với chất cũ, phá vỡ độ cũ, chất mới hình thành với lượng mới; lượng mới lại tiếp
tục biến đổi, đến độ nào đó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm nó.
+ Mọi đối tượng đều là sự thống nhất của hai mặt đối lập chất và lượng,
những sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay
đổi căn bản về chất của nó thông qua bước nhảy, chất mới ra đời tiếp tục tác động
trở lại duy trì sự thay đổi của lượng.
 Ý nghĩa phương pháp luận:
Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích luỹ
về lượng để có biến đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ
Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu
khách quan của sự vận động của sự vật, hiện tượng; tư tưởng nôn nóng thường
biểu hiện ở chỗ không chú ý thỏa đáng đến sự tích luỹ về lượng
Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải có thái độ khách quan, khoa
học và quyết tâm thực hiện bước nhảy; tuy đều có tính khách quan, nhưng quy luật
xã hội chỉ diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con người, khi thực hiện bước
nhảy trong lĩnh vực xã hội, tuy vẫn phải tuân theo điều kiện khách quan, nhưng
cũng phải chú ý đến điều kiện chủ quan.
Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó,
phải biết lựa chọn phươngpháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó
trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
Vận dụng quy luật lượng-chất vào trong học tập, cuộc sống
Quá trình học tập của em là một quá trình dài, khó khăn và cần sự cố gắng
không biết mệt mỏi, không ngừng nghỉ của bản thân. Quy luật chuyển hóa từ sự
thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở chỗ: em tích lũy lượng
kiến thức cho mình bằng việc nghe các thầy cô giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà,
đọc thêm sách, tài liệu tham khảo,… thành quả của quá trình tích lũy đó được đánh
giá qua những bài kiểm tra thường kỳ, những bài thi giữa kỳ và kỳ thi cuối kỳ. Khi
còn là một học sinh, em đã nổ lực học tập hết mình để chuyển sang một cấp học
mới cao hơn đó là Đại học. Như vậy, quá trình học tập, tích lũy kiến thức là độ, các
bài kiểm tra, các kì thi là điểm nút và việc được sang một cấp học cao hơn là bước
nhảy. Trong suốt 12 năm học, em phải thực hiện nhiều bước nhảy khác nhau.
Trước hết là bước nhảy để chuyển từ một học sinh trung học cơ sở lên học sinh
trung học phổ thông và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút, đồng thời nó cũng là điểm
khởi đầu mới trong việc tích lũy lượng tri thức mới để thực hiện một bước nhảy vô
cùng quan trọng trong cuộc đời: vượt qua kì thi đại học để trở thành một sinh viên.
Sau khi thực hiện được bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình thành
và tác động trở lại lượng. Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách
hành động của mỗi sinh viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học
sinh trung học hay một học sinh phổ thông. Và tại đây, một quá trình tích lũy về
lượng kiến thức mới lại bắt đầu, quá trình này khác hẳn so với quá trình tích lũy
lượng ở bậc trung học hay phổ thông. Bởi đó không đơn thuần là việc lên giảng
đường để tiếp thu bài giảng của thầy cô mả phần lớn là sự tự nghiên cứu, tìm tòi,
tích lũy kiến thức, bên cạnh những kiến thức trong sách vở là những kiến thức xã
hội từ các công việc làm thêm hoặc từ các hoạt động trong những câu lạc bộ. Tiếp
đến là các nhiệm vụ trong học tập, nếu học phổ thông hoạt động chủ yếu là ở trên
lớp còn học đại học còn đi kiến tập, thực tập,...Đây là cơ hội cũng nhưng cũng là
thách thức cho em.Ở đây là sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi
về hình thức, bởi vậy có thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng
giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy là một người sinh
viên, em cần phải thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại,
phù hợp với yêu cầu của ngành giáo dục đối với Đại học. Chỉ khi nào làm được
như vậy em mới hy vọng đạt được những thành tích rực rỡ trong quá trình học tập
và nghiên cứu của mình.Sau khi đã tích lũy được một lượng đầy đủ, em sẽ thực
hiện một bước nhảy mới, bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt qua
kì thi tốt nghiệp để nhận được tấm bằng cử nhân và tìm được một công việc.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
lượng và chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong
việc học tập và rèn luyện của sinh viên các trường Đại học Việt Nam hiện nay.
Lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ khi nào lượng được
tích lũy tới một độ nhất đinh mới làm thay đổi về chất, do đó trong hoạt động nhận
thức, hoạt động học tập của sinh viên phải tích lũy dần về lượng và đồng thời phải
biết thực hiện và thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi để
biến đổi về chất. Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng tổng hợp
những việc làm bình thường, vì vậy mỗi sinh viên phải luôn tích cực học tập, chủ
động trong công việc học tập và rèn luyện của mình cả đức và tài, để trở thành một
con người phát triển toàn diện, tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội mà không chịu
tích lũy về kiến thức (lượng) Quy luật
thể hiện bản chất, là hạt
nhân của phép biện chứng duy vật, bởi nó đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng
nhất của phép biện chứng duy vật - vấn đề nguyên nhân, nguồn gốc, động lực của
sự vận động, phát triển, sự thống nhất của các mặt đối lặp nhau.
là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách
vừa thống nhất, vừa đấu tranh.
là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa
chúng và được thể hiện ở việc:
, các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa
vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại, không có mặt này thì không có mặt kia;
, các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa
cái mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn;
, giữa các mặt đối lập có
sự tương đồng, đồng nhất do trong các mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau.
là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại
theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng và sự tác động đó cũng không
tách rời sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng trong một mâu thuẫn. So
với đấu tranh giữa các mặt đối lập thì thống nhất giữa chúng có tính tạm thời,
tương đối, có điều kiện, nghĩa là sự thống nhất đó chỉ tồn tại trong trạng thái đứng
im tương đối của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ thống nhất giữa các mặt đối lập: trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và
tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính là
việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu của người
tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản
phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng.
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu
dùng. Nếu như không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ
không thể có tiêu dùng. Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng
cho tiêu dùng, đây không phải là đối tượng nói chúng mà là đối với những đối
tượng nhất định do bản thân sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó còn quyết định về
phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra
nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại sản
phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm đó. Nên có thể thấy
được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của hai mặt đối lập, chúng
có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ đó tạo
điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
Căn cứ vào sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng, có mâu
thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật,
hiện tượng trong mỗi giai đoạn nhất định, có thể phân chia thành mâu thuẫn chủ
yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật, hiện tượng, có mâu
thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Căn cứ vào tính chất của lợi ích cơ bản là đối lập nhau trong mối quan hệ giữa
các giai cấp ở một giai đoạn lịch sử nhất định, trong xã hội có mâu thuẫn đối kháng
và mâu thuẫn không đối kháng.
Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là tự thân. Khái quát lại, nội
dung của quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập là: Mọi đối tượng đều
bao gồm những mặt, những khuynh hướng, lực lượng... đối lập nhau tạo thành
những mâu thuẫn trong chính nó; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
này là nguyên nhân, động lực bên trong của sự vận động và phát triển, làm cho cái
cũ mất đi và cái mới ra đời.
, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng;
từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Muốn
phát hiện mâu thuẫn, cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật,
hiện tượng; từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
, phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh,
phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các
mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu
thuẫn cụ thể và đề ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó.
, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa
các mặt đối lập, không điều hoà mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ. Trong học tập:
Mỗi sinh viên sẽ từng trải qua việc đăng ký nguyện vọng thì lúc đó trong tư
tưởng của mình đã xảy ra mâu thuẫn, đó chính là học tiếp hay nghỉ học. Mình
muốn học tiếp như vậy sẽ tiếp thu kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn và sẽ
có bằng cấp để phục vụ cho công việc của mình. Nhưng lúc đó công việc gia đình,
điều kiện kinh tế khó khăn mà học phí thì cũng khá cao nên cũng khó để có thể học
tiếp. Sau khi những tư tưởng đó đấu tranh và thống nhất lại với nhau thì chọn học
tiếp, cố gắng để theo học vì tương lai của mình có một công việc ổn định. Trong cuộc sống:
Một quá trình sản xuất kinh doanh bao giờ cũng chứa đựng trong nó rất nhiều
mâu thuẫn như; mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, mâu thuẫn giữa
cung và cầu về sản phẩm, mâu thuẫn giữa chủ quản lý với công nhân, mâu thuẫn
giữa tính kế hoạch trong xí nghiệp với tính tự phát của cơ chế thị trường, mâu
thuẫn giữa sức phát triển nhanh của công cụ sản xuất và công nghệ tiên tiến với sự
cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên là nguyên liệu của sản xuất,mâu thuẫn giữa
lợi nhuận và rủi ro....và mối quan hệ mâu thuẫn giữa lợi nhuận mà doanh nghiệp
thu được với rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải. Chúng ta đã biết hoạt động
chính của ngân hàng là nhận gửi và cho vay với mục đích cuối cùng là lợi nhuận.
Mối quan hệ mâu thuẫn giữa lợi nhuận và rủi ro là một mâu thuẫn biện chứng, là
hai mặt của một vấn đề. Bất cứ quá trình sản xuất, kinh doanh nào cũng vậy, lợi
nhuận và rủi ro luôn tồn tại song song với nhau, mâu thuẫn với nhau. Kết thúc một
quá trình sản xuất, kinh doanh chúng ta có thể thu được lợi nhuận nhưng có khi là
gặp phải rủi ro. Lợi nhuận dự kiến mang lại càng cao thì độ rủi ro nếu gặp phải
cũng sẽ rất lớn và ngược lại. Nhưng mục đích của người kinh doanh bao giờ cũng
là hướng tới lợi nhuận, và họ tìm mọi cách để hạn chế được rủi ro như, cải tiến kỹ
thuật và phương pháp sản xuất, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý nhanh
nhạy và năng động, kịp thời nắm bắt và phân tích những biến động của thị trường,
dự báo tình hình thị trường nhằm hạn chế tối đa rủi ro hoặc nếu có gặp rủi ro thì
thiệt hại là rất nhỏ.... Do đó có thể nói mâu thuẫn giữa lợi nhuận vả rủi ro là một
trong những mâu thuẫn cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, và là động lực để các doanh nghiệp ngày một phát triển về trình độ quản lý doanh nghiệp.