












Preview text:
lOMoAR cPSD| 61591627
NỘI DUNG ÔN TẬP LỊCH SỬ VIỆT NAM 1.
Sự ra đời của nhà nước Văn Lang và đời sống vật chất và tinh thần của cư
dân Văn Lang – Âu Lạc
1.1 Sự ra đời nhà nước Văn Lang:
- Nhà nước Văn Lang ra đời vào khoảng thế kỉ VII TCN, đây là nhà nước đầu tiên của đất
nước ta. Nhờ sự phát triển của công cụ bằng đồng và sắt, đời sống sản xuất của người
Việt cổ đã có sự chuyển biến rõ rệt. Nhu cầu chung sống, cùng làm thuỷ lợi và chống
ngoại xâm đã thúc đẩy sự ra đời của nhà nước đầu tiên ở Việt Nam – Nhà nước Văn Lang.
- Địa bàn chủ yếu của nhà nước Văn Lang là ở lưu vực các dòng sông thuộc Bắc Bộvà
Bắc Trung Bộ Việt Nam ngày nay.
- Kinh đô Văn Lang được đặt ở Bạc Hầu, nay là Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
Đây là nơi hợp lưu của ba dòng sông lớn Hồng- Lô- Đà đến chân núi Nghĩa Lĩnh ( Núi
Hùng- Núi Cả). Là một vùng đất địa linh có hình thế, rất thuận lợi cho việc phát triển
nghề nông, giao lưu kinh tế, văn hoá và xây dựng, phòng thủ đất nước. - Có thể thấy
rằng: Địa bàn thành phố Việt Trì ngày nay là địa bàn sinh tụ từ rất sớm của cư dân
người Việt cổ sinh sống qua các giai đoạn văn hoá nối tiếp nhau từ thời kỳ tiền Hùng
Vương- văn hoá Phùng Nguyên- văn hoá Đồng Đậu- văn hoá Gò Mun đến văn hóa Đông
Sơn- Đỉnh cao của nền văn minh sông Hồng gắn với thời kỳ phát triển rực rỡ của thời
kỳ Hùng Vương dựng nước Văn Lang ( Tổng số 23 địa điểm di tích khảo cổ).
- Trong các bộ Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh nhất kể cả về sản xuất lẫn người chỉ
đạo. Lãnh thổ của bộ lạc nay trải rộng từ chân núi Ba Vì tới sườn Tam Đảo.Do đó, bộ
Văn Lang đã đứng ra thống nhất các bộ Lạc Việt khác thành lập nhà nước
Văn Lang để cùng nhau phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và chống giặc ngoại xâm. Đứng
đầu nhà nước Văn Lang là Hùng Vương, giúp việc là lạc hầu và lạc tướng. Cả nước chia
thành 15 bộ, hay còn gọi là quận. Đứng đầu mỗi bộ là lạc tướng. Như vậy một mặt thể
hiện sự phân chia cư dân theo sự áp đặt của nhà nước, mặt khác thể hiện đó là đơn vị
bộ mang tính nửa vời: vùng – bộ lạc hoặc thị tộc, bộ lạc – đơn vị hành chính. Dưới bộ là lOMoAR cPSD| 61591627
các công xã nông thôn, lúc bấy giờ có tên là kẻ, chiềng, chạ. Đứng đầu kẻ, chiềng, chạ là
các bồ chính, tức già làng.
Ý nghĩa sự ra đời của nhà nước Văn Lang:
Sự ra đời của nhà nước Văn Lang đã:
+ Mở đầu thời kì dựng nước và giữ nước của người Việt; mở đầu cho nền văn minh sông Hồng.
+ Chứng tỏ quốc gia cổ đại của người Việt được hình thành từ sớm, nước Việt Nam có
lịch sử và truyền thống lâu đời.
+ Đặt cơ sở cho sự phát triển cao hơn của nhà nước Âu Lạc (ở giai đoạn sau). – Ý
nghĩa sự ra đời của Nhà nước Văn Lang: Tuy còn sơ khai, chưa có pháp luật thành
văn và chữ viết,… nhưng sự ra đời của Nhà nước Văn Lang đã mở ra thời kì dựng
nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Cư dân Văn Lang- Âu Lạc có đời sống vật chất và tinh thần khá phong phú:
1.2 Đời sống vật chất tinh thần của người Văn Lang Âu Lạc a. Vật chất
- Ăn: Nguồn lương thực chính là thóc gạo (gạo nếp và gạo tẻ), ngoài ra còn có khoai, sắn. Thức ăn có các
loại cá, thịt, rau, củ.
- Ở: Tập quán ở nhà sàn.
- Nghề sản suất chính: trồng lúa nước, chăn nuôi, nghề thủ công.
- Đi lại chủ yếu bằng thuyền bè trên sông
- Mặc: Nữ mặc áo, váy. Nam đóng khố. b. Tinh thần: - Tín ngưỡng:
+ Sùng bái tự nhiên (thờ thần Mặt Trời, thần Sông, thần Núi và tục phồn thực)
+ Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng kính các anh hùng, người có công với làng nước
là nét đặc sắc của người Việt cổ.
- Dần dần hình thành một số tục lệ: cưới xin, ma chay. lOMoAR cPSD| 61591627
- Lễ hội khá phổ biến (vui chơi, ăn trầu cau, gói bánh chưng, bánh giầy), nhất là hội mùa.- Có tập quán
nhuộm răng đen, nhai trầu, xăm mình; cả nam lẫn nữ đều thích đeo đồ trang sức.
2. Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đối với lịch sử dân tộc 2.1 Thân thế Ngô Quyền
Ngô Quyền sinh ngày 12-3-898, ở tại Đường Lâm (Ba Vì - Hà Tây), cha là Ngô Mân một Hào trưởng có
tài đức. Ngô Quyền thông minh, văn võ song toàn, được Dương Đình Nghệ gả con gái là Dương Thị Ngọc
và cho cai quản đất Ái Châu (Thanh Hóa). Nhà Hán có con là Vạn Vương Hoằng Thao, đưa quân sang xâm
lược nước ta, Ngô Quyền đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, đem quân giết tên phản bội là Kiêu Công
Tiễn và đón đánh quân Nam Hán.
Để đánh thắng quân Nam Hán, lợi dụng thủy triều lên xuống ông cho bố trí một trận địa cọc nhọn
bịt sắt, cắm xuống lòng sông Bạch Đằng. Khi chiến thuyền của giặc hùng hổ tiến vào sông Bạch Đằng,
quân ta nhử cho giặc vượt qua trận địa cọc, đợi cho nước thủy triều xuống, đánh trước mặt và hai bên
bờ sông làm cho thuyền giặc tháo chạy va vào cọc nhọn bịt sắt bị đắm chìm gần hết. Thái tử Hoằng Thao
chết tại trận, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ quân Nam Hán.
Sau chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền lên ngôi vua, đóng đô ở Cổ Loa (Hà Nội),
mở ra một kỷ nguyên mới dựng nền độc lập tự chủ, tức là đặt nền móng cho một quốc gia độc lập, Ngô
Quyền làm vua từ năm 939 đến 944 thì mất.
Ngô Quyền (17/4/ 898 – 14/2/ 944), còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô Vương là vị vua đầu tiên
của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 938, ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán
trong trận Bạch Đằng, chính thức kết thúc gần một ngàn năm Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu
dài của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vu a, lập ra nhà Ngô, trị vì từ năm 939 đến năm 944.
Ngô Quyền nằm trong danh sách mười bốn anh hùng dân tộc Việt Nam. Phan Bội Châu xem ông là
vị Tổ Trung hưng của Việt Nam. Thân thế
Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (17 tháng 4 năm 898) trong một dòng họ hào trưởng có thế
lực. Cha là Ngô Mân làm chức châu mục Đường Lâm. Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, "có trí dũng"
2.2 Chiến thắng Bạch Đằng (vở học)
2.3 Ý nghĩa chiến thắng Bạch Đằng
- Đánh dấu cho việc chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc của Việt Nam, nối lại quốc thống cho người Việt.
– Đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của nhà Nam Hán.
– Thể hiện ý chí quyết tâm đấu tranh chống xâm lược của dân tộc ta.
– Đã bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và mở ra thời đại độc lập đối với dân tộc ta. lOMoAR cPSD| 61591627
– Chấm dứt thời kì Bắc thuộc, mở ra một thời đại mới – thời đại độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc Việt
Nam. Đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc và kết thúc hoàn toàn thời kì đấu tranh giành lại độc lập
hàng chục thế kỉ. Đưa dân tộc bước sang một kỉ nguyên mới.
– Để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các cuộc đấu tranh yêu nước sau này.
-Chiến thắng Bạch Đằng để lại bài học kinh nghiệm đầu tiên là quyết định đánh giặc sớm, đúng đắn và
sáng tạo. Người lãnh đạo kháng chiến phải luôn nắm chắc điểm mạnh, điểm yếu của địch như lực lượng,
vũ khí, trang bị,… của địch để đề ra chiến lược phù hợp, đúng đắn. Bài học kinh nghiệm thứ hai mà chiến
thắng Bạch Đằng năm 938 để lại là phải chủ động nắm chắc địa hình cũng như thời tiết, khí hậu, thủy văn
để lập thế trận, đánh thắng địch. . Bài học kinh nghiệm tiếp theo mà chiến thắng Bạch Đằng năm 938 để
lại là sự tổ chức chỉ huy tài tình, linh hoạt, khéo léo, biết tận dụng thế mạnh của địa hình chiến đấu. Không
những vậy, họ còn phải biết chớp thời cơ để tiến hành các cuộc tấn công tiêu diệt địch nhanh chóng, ít hao tổn binh lực.
3. Chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn và hệ quả đối với tình hình Đại Nam nửa cuối thế kỉ 19
3.1 Chính sách đối ngoại nhà Nguyễn nửa cuối thế kỉ 19 (vở học)
3.2 Hệ quả từ chính sách đối ngoại đối với tình hình Đại Nam nửa cuối thế kỉ 19 -
Tích cực: Duy trì quan hệ thân thiện với các nước láng giềng, nhất là Trung Quốc. -
Hạn chế: Thực hiện chính sách ngoại giao "đóng cửa", khước từ mọi quan hệ với các nước phương Tây.
=> Thể hiện sự bảo thủ, lạc hậu, không tạo điều kiện cho đất nước giao lưu với các nước và các nền văn
hóa tiên tiến trên thế giới, dẫn đến đất nước trì trệ. Hậu quả: -
Gây mâu thuẫn trong quan hệ với phương Tây, làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc, bất lợi cho sự nghiệp kháng chiến •
Mặt tích cực trong chính sách đối ngoại, ngoại giao của các chúa Nguyễn, triều Nguyễn
- Thứ nhất, lãnh thổ là một trong các yếu tố quan trọng tạo nên quốc gia và sức mạnh quốc gia.
Các chúa Nguyễn đã có công góp phần mở mang bờ cõi nước ta. Đất nước lớn hơn, quốc gia mạnh
hơn, ảnh hưởng đối với khu vực và quốc tế sẽ mạnh hơn. -
Các chúa Nguyễn đã có công mở rộng cương vực nước ta từ Quảng Ngãi đến Cà Mau. Diện tích
của khu vực mở rộng này là 136.131 km2, chiếm hơn 40% diện tích nước ta hiện nay. -
Các chúa Nguyễn và triều Nguyễn đã có chính sách giao thương với nước ngoài đúng đắn, nhất là
các chúa Nguyễn ở Đàng trong. Bắt đầu từ chúa Nguyễn Hoàng đã thực thi chính sách thúc
đẩy thương mại với các nước trước hết là Nhật Bản, Trung Quốc. Số thương thuyền buôn bán với
Đàng trong vào đầu thế kỷ 17 đã vượt xa số thương thuyền đến Xiêm, Cao Miên. Đàng trong đứng
đầu danh sách các nước Đông Nam Á trong buôn bán với Nhật Bản nhờ chính sách thông thoáng lOMoAR cPSD| 61591627
và vị trí địa lý thuận lợi. Đó cũng chính là nhân tố quan trọng giúp kinh tế Đàng trong phát triển mạnh. -
Đi liền với ngoại thương, việc bang giao với nước ngoài của Đàng trong cũng khá sôi động. Chúa
Nguyễn Phúc Nguyên đã gả con gái cho thương gia Nhật, nhận một thương gia Nhật làm con nuôi,
thường xuyên trao đổi thư từ, tiếp xúc với Nhật Bản. Người phương Tây được đối xử tốt nhất:
Thiên chúa giáo không bị cấm đoán, thừa sai được sử dụng ngay trong Phủ Chúa, làm bác sĩ riêng,
làm thầy giáo dạy toán, thiên văn, cố vấn cho các chúa Nguyễn… -
Triều Nguyễn cũng có chính sách thúc đẩy thương mại với Trung Quốc, Nhật Bản. Quan hệ buôn
bán khá phát triển với vai trò thương nhân người Hoa. •
Tiêu cực, thiếu sót trong chính sách đối ngoại, ngoại giao của triều Nguyễn -
Các vua Nguyễn đã để đất nước rơi vào tay thực dân Pháp, khiến nhân dân ta lâm vào vòng nô lệ
hơn 80 năm. Nguyên nhân thất bại trong việc chống xâm lược nằm ở đường lối, chính sách của
vua quan nhà Nguyễn, trước hết là vua Tự Đức. Họ đi từ sai lầm này đến sai lầm khác như quá
cảnh giác với bọn thực dân nên đã tiến hành chính sách cấm đạo, bế quan tỏa cảng, không tổ chức
toàn dân chống giặc, mà còn quá nhu nhược, ngoài ra lại dựa vào nhà Thanh để chống Pháp. Song
nhà Thanh đã thỏa hiệp với thực dân Pháp trên số phận của Đại Nam, đi từ nhượng bộ này đến
nhượng bộ khác (Hòa ước năm Nhâm Tuất 1862, Hòa ước Giáp Tuất năm 1874 và cuối cùng là
Hòa ước Patơnốt năm 1884). Với Hòa ước 1884, Đại Nam hoàn toàn mất độc lập, bị xóa tên trên
bản đồ thế giới, trở thành thuộc địa của Pháp, bị Pháp đô hộ -
Về việc chia cắt đất nước, đây là vấn đề đối nội song có liên quan đến đối ngoại vì chủ quyền quốc
gia bị chia cắt đã làm suy yếu sức mạnh quốc gia. Trong phân tranh Trịnh - Nguyễn và trong cuộc
nội chiến giữa Đàng trong và Đàng ngoài có trách nhiệm của cả họ Trịnh cũng như họ Nguyễn. Ích
kỷ, vì lợi ích dòng tộc là bản chất của giai cấp phong kiến đồng thời cũng là xu thế trên thế giới từ
trước khi hình thành các quốc gia dân tộc. Tất cả những hành động trên đều đáng phê phán, song
đó là hạn chế của giai cấp và lịch sử.
4.Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 4.1 Bối cảnh Trong nước
Tình hình đầu thế kỉ XX hết sức biến động, đặc biệt sau Thế chiến thứ 1, Pháp là quốc gia thắng trận
nhưng kinh tế gần như bị sụp đổ; để khôi phục nền kinh tế, Pháp ra sức gia tăng bóc lột các quốc gia
thuộc địa để làm giàu cho chính quốc.
Các phong trào cứu quốc trong nước đã chuyển từ giai cấp phong kiến sang giai cấp tư sản, hàng loạt các
tổ chức chính trị bí mật ra đời. Nhiều tờ báo có chủ trương cứu quốc cũng được thành lập tại khắp cả nước. lOMoAR cPSD| 61591627
Đầu năm 1930, cuộc Khởi nghĩa Yên Bái thất bại dẫn tới sự sụp đổ của Việt Nam Quốc dân Đảng, đồng
thời đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam. Tổ chức Cộng sản
Trước năm 1929 tổ chức Cộng sản đầu tiên là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (thường gọi là Việt
Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội) được thành lập tại Trung Quốc, tuyên truyền quảng bá con
đường đấu tranh trong nước đồng thời truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê. Nhưng tới đầu năm 1929 các đảng
viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phân rã một cách sâu sắc về đường lối chính trị.
Ngày 1 tháng 5 năm 1929, Đại hội toàn quốc Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp ở Hương Cảng
(Hồng Kông), đoàn đại biểu Bắc Kỳ do đại biểu Ngô Gia Tự ra đề nghị giải tán Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên, thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Đề nghị đó không được Đại hội chấp nhận nên đoàn
đại biểu Bắc Kỳ bỏ hội nghị ra về; đến ngày 17 tháng 6 năm 1929 thì Đông Dương Cộng sản Đảng được
thành lập bởi Kỳ bộ Bắc Kỳ.
Tháng 8 năm 1929, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Nam Kỳ họp Đại hội tuyên bố giải tán
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Sau khi thành lập, hai đảng phê phán và chia rẽ nhau.
Tháng 9 năm 1929, bộ phận đảng viên tiên tiến của Đảng Tân Việt thành lập Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn, hoạt động chủ yếu tại Trung Kỳ. Quốc tế
Sau Cách mạng Tháng 10 Nga và việc thành lập Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô) đã
chỉ hướng cho nhân dân các quốc gia bị áp bức và các nước thuộc địa về con đường đấu tranh giải phóng dân tộc.
Quốc tế Cộng sản được thành lập với nhiệm vụ giải phóng dân tộc các quốc gia bị áp bức bóc lột trên toàn
thế giới với giai cấp vô sản là nòng cốt.
Ngày 27 tháng 10 năm 1929 Quốc tế Cộng sản gửi cho người Cộng sản tại Đông Dương về việc thành lập
một Đảng Cộng sản tại Đông Dương: “
Việc thiếu một Đảng Cộng sản duy nhất trong lúc phong trào công nhân và nông dân ngày càng
phát triển, đã trở thành một điều nguy hiểm vô cùng cho tương lai trước mắt cuộc
cách mạng ở Đông Dương ”
Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh: “
Nhiệm vụ quan trọng nhất của tất cả những người Cộng sản Đông Dương là thành lập một Đảng
cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất quần
chúng Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương ” lOMoAR cPSD| 61591627 4.2 Hội nghị
Nhận thấy tình hình trong nước đồng thời nhận được tài liệu của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc, Ủy
viên Bộ phương Đông phụ trách Cục phương Nam, với tư cách phái viên Quốc tế Cộng sản đã bí mật từ
Xiêm La tới Trung Quốc vào ngày 23 tháng 12 năm 1929.
Phái viên đã triệu tập đại biểu họp tại Hồng Kông ngày 6-1-1930 để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị kéo dài đến tuần đầu tháng 2-1930. Ngày 8-2-1930, các đại biểu về nước. Các đại biểu tham dự
việc hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam gồm: Nguyễn Ái Quốc - An Nam Cộng sản Đảng: Châu Văn Liêm Nguyễn Thiệu -
Đông Dương Cộng sản Đảng: Trịnh Đình Cửu Nguyễn Đức Cảnh -
Nhóm đại biểu hải ngoại: Hồ Tùng Mậu Lê Hồng Sơn
Phái viên Quốc tế Cộng sản Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị. Nghị trình
Hội nghị tổ chức từ ngày 6 tháng 1 năm 1930,[1] bí mật diễn ra tại Cửu Long, Hồng Kông, Trung Quốc. Tại
Hội nghị Nguyễn Ái Quốc phê phán các tổ chức Cộng sản đã chia rẽ, thiếu tinh thần đoàn kết, chỉ rõ những sai lầm và hệ quả.
Hội nghị đã thống nhất thành lập một Đảng chung, hợp nhất An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng
sản Đảng và lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị cũng thống nhất thông qua Cương lĩnh chính trị
gồm Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt
Nam do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Hội nghị cũng thành lập Ban Chấp hành Trung ương Đảng lâm thời, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Hội Tương
tế, Hội Phản đế,... và thông qua Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc.
Hội nghị chính thức bầu Trịnh Đình Cửu làm Phụ trách Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau hội nghị, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đề nghị xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 24
tháng 2 năm 1930 Ban Chấp hành Trung ương lâm thời nhóm họp và đã chính thức chấp thuận đề nghị. 4.3 Kết quả lOMoAR cPSD| 61591627
Hội nghị đã thống nhất chung các tổ chức Cộng sản thành một đảng thống nhất và duy nhất dẫn dắt đường
lối cách mạng tới con đường giải phóng dân tộc, đánh đổ đế quốc, phong kiến.
5. Tình hình Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Toàn quốc kháng chiến bùng nổ
19-12-1946 (vở học)
6. Hiệp định Gioneve 1954 về Đông Dương 6.1 Khái quát:
Hiệp định Genève 1954 hiệp định đình chiến được ký kết tại thành phố Genève, Thụy Sĩ nhằm khôi phục
hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định dẫn đến chấm dứt sự hiện diện của quân đội Pháp trên bán đảo Đông
Dương và chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương.
Hội nghị Genève khai mạc ngày 26 tháng 4 năm 1954 nhằm mục đích ban đầu để bàn về vấn đề khôi
phục hòa bình tại Triều Tiên và Đông Dương. Do vấn đề Triều Tiên không đạt được kết quả nên từ ngày
8 tháng 5, vấn đề Đông Dương được đưa ra thảo luận.
Hiệp định hình thành sau 75 ngày đàm phán với 8 phiên họp rộng và 23 phiên họp hẹp cùng các hoạt động
tiếp xúc ngoại giao dồn dập đằng sau các hoạt động công khai. Hiệp định được ký ngày 20 tháng 7 năm 1954
6.2 Nội dung cơ bản của Hiệp định Giơnevơ
- Các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của các nước Việt Nam, Lào và
Cam-pu-chia là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
- Các bên tham chiến ngừng bắn, lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương.
- Các bên tham chiến thực hiện tập kết, chuyển quân theo khu vực và thời gian quy định.
- Việt Nam sẽ thống nhất bằng một cuộc tuyển cử tự do vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ủy ban quốc tế.
Trận Điện Biên Phủ đã đánh bại ý chí duy trì Đông Dương là lãnh thổ thuộc Liên hiệp Pháp của Pháp và
buộc nước này ra khỏi Đông Dương. Ngày 8 tháng 5, hội nghị Geneva bắt đầu họp bàn về vấn đề khôi phục
hòa bình ở Đông Dương.
7. Hiệp định Paris 1973 về Việt Nam 7.1 Khái niệm
Hiệp định Paris về Việt Nam (hay hiệp định Paris 1973, Hiệp định Ba Lê) là hiệp định chấm dứt chiến tranh,
lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền
Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973. lOMoAR cPSD| 61591627 7.2 Bối cảnh (vở học)
7.3 Diễn biến (vở học)
7.4 Nội dung cơ bản hiệp định Paris
Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam có 9 chương, 23 điều, gồm 4 loại điều khoản chính. I)
Các điều khoản chính trị ghi các cam kết của Mỹ: tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản, tôn trọng
quyền tự quyết của nhân dân miền nam Việt Nam; Mỹ không tiếp tục dính líu quân sự, không can thiệp
công việc nội bộ của miền nam Việt Nam. II)
Các điều khoản về quân sự: ngừng bắn, Mỹ rút hết quân trong 60 ngày; chấm dứt bắn phá miền
bắc Việt Nam; nhận tháo gỡ mìn do Mỹ đã rải ở miền bắc Việt Nam. III)
Các điều khoản về nội bộ miền nam: nguyên tắc hòa hợp dân tộc, bảo đảm tự do dân chủ, tổ chức
tổng tuyển cử tự do, thành lập Hội đồng quốc gia hòa giải, hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần để tổ chức tổng tuyển cử. IV)
Các điều khoản về thống nhất Việt Nam, về Lào và Campuchia, về cơ cấu thi hành Hiệp định Ủy
ban liên hợp và Ủy ban quốc tế; về Hội nghị quốc tế xác nhận Hiệp định và điều khoản về việc Mỹ đóng
góp hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
7.5 Ý nghĩa hiệp định Paris ( có trong vở học + bổ sung thêm)
Hiệp định Paris được ký kết cách đây nửa thế kỷ đã kết thúc thắng lợi cuộc đàm phán dài nhất, phức tạp
nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam để chấm dứt cuộc chiến tranh dài nhất trong thế kỷ XX.
Hiệp định Paris là thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao;
là đỉnh cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời kỳ chống Mỹ, cứu nước; là mốc son trong trang
sử vàng của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam; đánh dấu bước trưởng thành tột bậc của nền ngoại giao
cách mạng thời đại Hồ Chí Minh.
Hiệp định này là bước ngoặt lịch sử, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và sự lãnh đạo đúng đắn sáng suốt của
Đảng, phát huy cao độ thắng lợi trên các mặt trận ngoại giao, chính trị, quân sự, kết hợp thành công sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo ra thế và lực mới cho cuộc chiến đấu của dân tộc ta, tạo thế
xoay chuyển có lợi cho cách mạng, đi đến đại thắng mùa Xuân 1975.
Hiệp định Paris là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên, toàn diện nhất, đầy đủ nhất ghi nhận các quyền cơ
bản của nhân dân Việt Nam; là sự công nhận chính thức của quốc tế đối với nền độc lập, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Văn kiện lịch sử này không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam, mà còn đi vào lịch sử cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, tự do, tiến bộ và công lý. lOMoAR cPSD| 61591627
Thắng lợi của Hiệp định Paris và việc Mỹ rút khỏi Việt Nam đã góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng
của nhân dân Lào và Campuchia; góp phần mở ra một giai đoạn mới ở khu vực Đông Nam Á - giai đoạn
hòa bình, ổn định, khép lại quá khứ, hướng đến xây dựng cộng đồng ASEAN.
Hiệp định Paris là sự minh chứng hùng hồn cho chân lý đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay
cường bạo; củng cố niềm tin của nhân dân yêu chuộng hòa bình và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế
giới vào sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của mình.
8. Cuộc tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975:
Sau Hiệp định Paris (1973), Mỹ đã cam kết chấm dứt chiến tranh ở nước ta nhưng chính quyền tay sai
dưới tay chúng vẫn không buông bỏ cuộc chiến tranh xâm lược vô nghĩa đó. Trong 2 năm đó, các cuộc
kháng chiến nhỏ lẻ liên tục nổ ra ở khắp nơi trên đất Nam Kỳ, cuối cùng Đảng ta đã đua ra quyết định quan
trọng: Mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Chiến dịch Tây Nguyên (04/03 – 03/04/1975):
- Mở đầu cho cuộc Tổng tiến công, quân ta đã chọn nam Tây Nguyên, đặc biệt là Buôn Ma Thuột làm
nơidiễn ra đòn đầu tiên. Sở dĩ chọn nơi này là do đây được xem là “mái nhà Đông Dương”, ai chiếm được
khu vực này sẽ có thể làm chủ cả Đông Dương. Chính vì thế, khi từng bước thay chân Pháp, Mỹ luôn
không ngừng tăng cường khống chế, kìm kẹp đồng bào các dân tộc, áp chế các phong trào cách mạng tại
đây. Nhưng dù trong tình thế khắc nghiệt như thế, quân và dân ta vẫn chưa từng từ bỏ, khuất phục, các
cuộc đấu tranh vẫn không ngừng nổ ra ở toàn khu vực. Sau các hoạt động nghi binh thu hút địch lên phía
Bắc, ngày 4/3/1975, quân đội ta chính thức nổ phát súng đầu cho Chiến dịch Tây Nguyên:
- 04/03, bộ đội ta bước vào thời kỳ tác chiến tạo thế, chặt đứt giao thông của địch, cô lập Tây Nguyên với đồng bằng.
- 09/03, Sư đoàn số 10 tiêu diệt và đánh chiếm căn cứ Đức Lập, thành công cô lập triệt để Buôn Ma Thuột.
- Trận Buôn Ma Thuột: Thừa thắng xông lên, ngày 10 và ngày 11 tháng 3, quân ta phát động tiến công vào
thị xã Buôn Ma Thuột, mở ra trận đánh then chốt chủ yếu đầu tiên của chiến dịch. Ta đã tiêu diệt hoàn
toàn Sư đoàn 23 và Liên đoàn biệt động quân 21, đập tan ý đồ phản kích của địch.
- Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên mùa xuân năm 1975 đã phá vỡ thế trận về lực lượng và chiến lược
thành một tình thế có lợi cho ta. Quân địch thì trở nên suy sụp, tan rã và bị động. Đây là thời cơ cho ta
thực hiện các đòn tấn công trên toàn miền Nam, đem đến thắng lợi hoàn toàn cho cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Chiến dịch Huế - Đà Nẵng (mặt trận 475): Chiến dịch diễn ra trên chiến trường Trị Thiên – Huế và Quảng
Nam – Đà Nẵng (vùng 1 chiến thuật). Sau Hiệp định Paris, Mỹ - Ngụy luôn coi nơi này là “cánh cửa sắt” của
toàn chiến trường miền Nam.
Chiến dịch được chia làm thành hai giai đoạn:
- Đợt 1: 21 – 25/03 tiến công bao vây, chia cắt chiến lược, giải phóng toàn tỉnh Thừa Thiên và Quảng Ngãi. lOMoAR cPSD| 61591627
- Đợt 2: 26 – 29/03, tổng công kích vào Đà Nẵng.
Diễn biến của chiến dịch:
- 21/03/1975, từ các hướng Bắc, Tây, Nam, quân ta đồng loạt tiến công, hình thành nhiều mũi bao vây
địch, mở màn cuộc tiến công Huế.
- 24/03/1975, quân ta đã bao vây chặt toàn bộ tập đoàn phòng ngự của địch ở Huế; cũng trong ngày 243,
quân ta đập tan tuyến phòng thủ của địch ở Tam Kỳ (Quảng Ngãi), giải phóng hoàn toàn thị xã Tam Kỳ.
- 25/03/1975, quân ta vây kín cả 4 phía và thần tốc tiến vào trung tâm thành phố Huế.
- 10 giờ 30 phút ngày 25/03/1975, quân giải phóng cắm cờ chiến thắng trên đỉnh Phu Văn Lâu, thành phố Huế được giải phóng.
- Tiếp bước đòn đầu tiên của quân ta ở Tây Nguyên, chiến dịch này đã làm thay đổi so sánh lực lượng về
mặt chiến lược hoàn toàn có lợi cho ta, đập tan ý đồ co cụm chiến lược của địch, từ đó tạo thuận lợi cho
quân ta thừa thắng xông lên, đẩy mạnh tiến độ tấn công giải phóng toàn miền Nam. Qua chiến dịch này,
bộ đội ta cũng dần trưởng thành hơn trong công tác tổ chức các chiến dịch tiến công gấp rút trong hành
tiến, biết chớp lấy thời cơ thuận lợi, cũng như tích lũy thêm kinh nghiệm chỉ huy, nghệ thuật tác chiến
nhằm chuẩn bị tốt nhất cho trận chiến cuối cùng.
Chiến dịch Hồ Chí Minh:
- Ngày 25/03/1975, Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã khẳng định thời cơ đã đến, ta cần
phải tập trung toàn lực cho cuộc chiến. Xuyên suốt chiến dịch, quân và dân ta luôn giữ vững tinh thần
đánh “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.
- 9/4, mở đầu chiến dịch bằng trận đánh ở thị trấn Xuân Lộc, phá vỡ phòng tuyến Đông Bắc của địch.
-18/04, tiến công Phan Rang, đập tan phòng ngự, bắt sống Trung tướng Tư lệnh mặt trận Nguyễn Vĩnh Nghi.
-20/04, trước sự tiến công của ta, Sư đoàn 18 của Ngụy tháo chạy, Xuân Lộc thất thủ. Các tuyến phòng
ngự từ xa của chúng đã bị phá vỡ hoàn toàn, chúng đành lui về thủ tại Sài Gòn.
-Chiều 26/04, chiến dịch chính thức bắt đầu. Các quân đoàn đồng loạt tấn côngtừ 5 hướng.
- Đêm 29, rạng sáng 30/04/1975, các binh đoàn tiến thẳng vào nội đô, đánh chiếm các mục tiêu, cơ
quanđầu não của địch. Sư đoàn 10, Quân đoàn 3 lần lượt chiếm lấy sân bay Tân Sơn Nhất, đánh chiếm Dinh Độc lập.
- 10h45p ngày 30/04, xe tăng ta đã húc đổ cánh cổng Dinh, bắt sống toàn bộ Ngụy quyền Sài Gòn.
- 11h30 cùng ngày, lá cờ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã bay phấp
phới trên nóc Dinh, đánh dấu cho sự toàn thắng của quân ta.
- Chiến thắng mùa Xuân năm 1975 đã đập tan hơn 1 triệu quân Ngụy, lật đổ hoàn toàn chế độ Ngụy quyền
tay sai của Mỹ ở miền Nam, cố vấn Mỹ phải rời khỏi miền Nam, Tổng thống Ngụy quyền Dương Văn Minh
phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đánh dấu kết thúc 21 năm kháng
chiến chống Mỹ, đồng thời kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt lOMoAR cPSD| 61591627
vĩnh viễn ách thống trị của đế quốc Pháp – Mỹ và chế độ phong kiến, rửa sạch nỗi nhục và nỗi đau mất
nước hơn 1 thế kỷ của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng oanh liệt đó mãi là niềm tự hào của mỗi thế hệ
người dân Việt Nam, là động lực tinh thần to lớn để chúng ta kiên định, vững bước trên con đường mà
Đảng, Bác Hồ kính yêu và nhân dân ta đã chọn: Độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; tiếp tục
công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng và phát triển đất nước, sánh vai với bạn bè
thế giới như Bác Hồ kính yêu vẫn hằng mong muốn.
9. Hoàn cảnh và nội dung Công cuộc đổi mới ở Việt Nam năm 1986:
Hoàn cảnh lịch sử: trong tập
Phân tích nội dung đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986): -
Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội, từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, trong bối cảnh cuộc cách
mạngkhoa học-kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối thoại trên thế giới đang dần thay thế xu thế đối
đầu. Đối mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đang bị các đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận
và ở tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng đều khan hiếm; lạm
phát tăng 300% năm 1985 lên 774% năm 1986. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái
phép diễn ra khá phổ biến. Đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước. Nội dung cơ
bản đường lối đổi đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986): -
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý, xóa
bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch
với thị trường. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu
tiên là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt
chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó
là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. -
Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho quan
hệ sảnxuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, giải quyết cho được
những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực, có
hiệu quả các chính sách xã hội. Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh. -
Năm phương hướng lớn phát triển kinh tế là: Bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều chỉnh cơ cấu đầu tư
xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; sử dụng và cải tạo đúng đan các thành phần kinh
tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại. -
Đại hội VI nhấn mạnh: “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi
năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp
đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã
hội chú nghĩa”. Đại hội khẳng định, chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, cần có
chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ, phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. lOMoAR cPSD| 61591627 -
Bốn nhóm chính sách xã hội là: Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người lao động. Thực
hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực xã hội.
Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân. Xây dựng
chính sách bảo trợ xã hội. Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước,
quyết đánh thắng kiếu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc. -
Đối ngoại góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở
Đông Nam Á và trên thế giới. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững
hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông
Dương, quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa. -
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng cần phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đối mới công
tác tư tưởng; đổi mới công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt Đảng; tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đảng cần phát huy quyền làm chủ tập thế của nhân
dân lao động, thực hiện ‘Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà
nước là điều kiện tất yếu để huy động lực lượng của quần chúng. -
Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu ngoặt phát triển
mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các Văn kiện của Đại hội mang tính chất khoa học và cách
mạng, tạo bước ngoặt cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, hạn chế của Đại hội VI là
chưa tìm ra những giải pháp hiệu quả tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối lưu thông.