Nội dung quy luật Quan hệ sản xuất - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Nội dung quy luật Quan hệ sản xuất - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Đề bài:
1. Trình bày nội dung quy luật QHSX phù hợp với trình độ LLSX. Từ đó rút ra ý nghĩa
phương pháp luận?
Nội dung:
Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất lực lượng sản xuất hai mặt hợp thành của
phương thức sản xuất tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy quan hệ sản xuất
lên quá xa so với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất một hiện tượng
tương đối phổ biến nhiều nước xây dựng hội chủ nghĩa. Nguồn gốc của tưởng sai
lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn nhanh chủ nghĩa hội thuần nhất bất chấp
qui luật khách quan. Về mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm
dụng mối quan hệ tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện Nhà nước chuyên chính sản có khả năng
chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới để mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất”.
Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự “chủ động” không đồng nghĩa với sự chủ
quan tuỳ tiện, con người không thể tự do tạo ra bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất
mà mình muốn có. Ngược lại quan hệ sản xuất luôn luôn bị qui định một cách nghiêm ngặt
bởi trạng thái của lực lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển khi được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời
những mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất con người muốn
giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải tiến công cụ lao
động. Chế tạo ra công cụ lao động mới. Lực lượng lao động qui định sự hình thành và biến
đổi quan hệ sản xuất ki quan hệ sản xuất không thích ứng với trình độ, tính chất của lực
lượng sản xuất thì kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất thì kìm hãm thậm
chí phá hoại lực lượng sản xuất và ngược lại.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở
thành những cơ sở những thể chế hội và không thể biến đổi đồng thời đối với lực
lượng sản xuất. Thường lạc hậu so với lực lượng sản xuất và nếu quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ sản xuất, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất tạm thời thì kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Sở quan hệ sản xuất thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng
sản xuất vì nó qui định mục đích của sản xuất qui định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất
quản xã hội, qui định phương thức phân phối phần của cải ít hay nhiều người lao
động được hưởng. Do đó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động. tạo ra
những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành
tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao động quốc tế.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa
phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ
phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động.
Muốn xoá bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không phải là kết quả của mệnh lệnh hành chính,
của mọi sắc lệnh từ trên ban xuống, mà từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy
luật kinh tế, chống tuỷ tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí.
Nhận thức đúng đắn quy luật này ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan
điểm, đường lối, chính sách, cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh
tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm
hàng đầu đến việc nhận thức vận dụng dùng dẫn sáng tạo quy luật này, đã đem lại hiệu
quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa hình
kinh tế tổng quát, sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
2. Trình bày nội dung quy luật CSHT quyết định KTTT. Từ đó rút ra ý nghĩa phương
pháp luận?
Nội dung:
Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó. Do đó, cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về
kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan hệ sản xuất nào thống
trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế
quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.
Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng: nhà nước, pháp
luật, đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều không thể giải thích từ chính nó, bởi vì,
chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào sở hạ tầng do sở hạ tầng quyết
định.
Những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản
trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế-xã hội và rõ
rệt hơn khi chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác. Sự
biến mất của một kiến trúc thượng tầng không diễn ra một cách nhanh chóng, có những yếu
tố của kiến trúc thượng tầng còn tồn tại dai dẳng sau khi sở kinh tế của nó đã bị tiêu
diệt. những yếu tố của kiến trúc thượng tầng được giai cấp cầm quyền mới sử dụng
để xây dựng kiến trúc thượng tầng mới.
Do đó, tính quyết định củasở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp
trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với sở hạ tầng được thể hiện chức
năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng
sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.
Trong xã hộigiai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị
tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng,
tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư tưởng mà còn dựa
vào chức năng kiểm soát hội để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị.
Ăngghen viết: “bạo lực (nghĩa quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế”. Các
bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác
động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường thường phải thông qua nhà nước, pháp luật.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ kiến trúc thượng tầng tiến bộ nảy sinh trong
quá trình của cơ sở kinh tế mới – mới phản ánh nhu cầu của sự phát triển kinh tế, mới có thể
thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng là sản phẩm của cơ sở kinh
tế đã lỗi thời thì gây tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội. Tất nhiên sự kìm hãm
chỉ là tạm thời, sớm muộn nó sẽ bị cách mạng khắc phục.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng sở
khoa học cho việc nhận thức một cách dùng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Kinh
tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế quyết định chính trị, chính trị tác động
trở lại to lớn đối với kinh tế. Thực chất của vai trò kiến trúc thượng tầng là vai trò hoạt động
tự giác tích cực của các giai cấp, đảng phái vì lợi ích kinh tế sống còn của mình. Sự tác động
của kiến trúc thượng tầng đối với sở hạ tầng trước hết chủ yếu thông qua đường lối,
chính sách của đăng, nhà nước. Chính vậy V.I Lênin viết: "Chính trị sự biểu hiện tập
trung của kinh tế ... Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế"
Trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời hoặc tuyệt đối hoá một yếu tố nào giữa kinh tế và
chính trị đều là sai lầm. Tuyệt đối hóa kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố chính trị là rơi
vào quan điểm duy vật tầm thưởng, duy vật kinh tế sẽ dẫn đến chính phủ, bất chấp kỷ
cương pháp luật và không tránh khỏi thất bại, đổ vỡ. Nếu tuyệt đối hóa về chính trị, hạ thấp
hoặc phủ định vai trò của kinh tế sẽ dẫn đến duy tâm, duy ý chí, nôn nóng, chủ quan, đốt
cháy giai đoạn và cũng không tránh khỏi thất bai.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất quan tâm đến nhận
thức vận dụng quy luật này. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
chủ trương đối mới toàn diện cả kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế trung tâm,
đồng thời đổi mới chính trị từng bước thận trọng vững chắc bằng những hình thức, bước đi
thích hợp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát triển, giữ vững định
huớng xã hội chủ nghĩa.
| 1/4

Preview text:

Đề bài:
1. Trình bày nội dung quy luật QHSX phù hợp với trình độ LLSX. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận? Nội dung:
Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành của
phương thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy quan hệ sản xuất
lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một hiện tượng
tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc của tư tưởng sai
lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội thuần nhất bất chấp
qui luật khách quan. Về mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm
dụng mối quan hệ tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện ở “Nhà nước chuyên chính vô sản có khả năng
chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới để mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất”.
Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự “chủ động” không đồng nghĩa với sự chủ
quan tuỳ tiện, con người không thể tự do tạo ra bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất
mà mình muốn có. Ngược lại quan hệ sản xuất luôn luôn bị qui định một cách nghiêm ngặt
bởi trạng thái của lực lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển khi mà nó được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời
những mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
 Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất con người muốn
giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải tiến công cụ lao
động. Chế tạo ra công cụ lao động mới. Lực lượng lao động qui định sự hình thành và biến
đổi quan hệ sản xuất ki quan hệ sản xuất không thích ứng với trình độ, tính chất của lực
lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm
chí phá hoại lực lượng sản xuất và ngược lại.
 Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở
thành những cơ sở và những thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời đối với lực
lượng sản xuất. Thường lạc hậu so với lực lượng sản xuất và nếu quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ sản xuất, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng
sản xuất vì nó qui định mục đích của sản xuất qui định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và
quản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao
động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động. Nó tạo ra
những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành
tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao động quốc tế.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa
phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ
phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động.
Muốn xoá bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không phải là kết quả của mệnh lệnh hành chính,
của mọi sắc lệnh từ trên ban xuống, mà từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy
luật kinh tế, chống tuỷ tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí.
Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan
điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh
tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm
hàng đầu đến việc nhận thức và vận dụng dùng dẫn sáng tạo quy luật này, đã đem lại hiệu
quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát, là sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
2. Trình bày nội dung quy luật CSHT quyết định KTTT. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận? Nội dung:
Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó. Do đó, cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định.
 Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về
kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan hệ sản xuất nào thống
trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế
quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.
Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng: nhà nước, pháp
luật, đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều không thể giải thích từ chính nó, bởi vì,
chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định.
Những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản
trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế-xã hội và rõ
rệt hơn khi chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác. Sự
biến mất của một kiến trúc thượng tầng không diễn ra một cách nhanh chóng, có những yếu
tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại dai dẳng sau khi cơ sở kinh tế của nó đã bị tiêu
diệt. Có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp cầm quyền mới sử dụng
để xây dựng kiến trúc thượng tầng mới.
Do đó, tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp
trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác.
 Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức
năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng
sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và
tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có
tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư tưởng mà còn dựa
vào chức năng kiểm soát xã hội để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị.
Ăngghen viết: “bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế”. Các
bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác
động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường thường phải thông qua nhà nước, pháp luật.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến bộ nảy sinh trong
quá trình của cơ sở kinh tế mới – mới phản ánh nhu cầu của sự phát triển kinh tế, mới có thể
thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng là sản phẩm của cơ sở kinh
tế đã lỗi thời thì gây tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội. Tất nhiên sự kìm hãm
chỉ là tạm thời, sớm muộn nó sẽ bị cách mạng khắc phục.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là cơ sở
khoa học cho việc nhận thức một cách dùng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Kinh
tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế quyết định chính trị, chính trị tác động
trở lại to lớn đối với kinh tế. Thực chất của vai trò kiến trúc thượng tầng là vai trò hoạt động
tự giác tích cực của các giai cấp, đảng phái vì lợi ích kinh tế sống còn của mình. Sự tác động
của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng trước hết và chủ yếu thông qua đường lối,
chính sách của đăng, nhà nước. Chính vì vậy V.I Lênin viết: "Chính trị là sự biểu hiện tập
trung của kinh tế ... Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế"
Trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời hoặc tuyệt đối hoá một yếu tố nào giữa kinh tế và
chính trị đều là sai lầm. Tuyệt đối hóa kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố chính trị là rơi
vào quan điểm duy vật tầm thưởng, duy vật kinh tế sẽ dẫn đến vô chính phủ, bất chấp kỷ
cương pháp luật và không tránh khỏi thất bại, đổ vỡ. Nếu tuyệt đối hóa về chính trị, hạ thấp
hoặc phủ định vai trò của kinh tế sẽ dẫn đến duy tâm, duy ý chí, nôn nóng, chủ quan, đốt
cháy giai đoạn và cũng không tránh khỏi thất bai.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất quan tâm đến nhận
thức và vận dụng quy luật này. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
chủ trương đối mới toàn diện cả kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm,
đồng thời đổi mới chính trị từng bước thận trọng vững chắc bằng những hình thức, bước đi
thích hợp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát triển, giữ vững định
huớng xã hội chủ nghĩa.