Nội dung trọng tâm ôn tập tự luận - Kinh tế chính trị | Đại Học Hà Nội

Nội dung trọng tâm ôn tập tự luận - Kinh tế chính trị | Đại Học Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

NỘI DUNG TRỌNG TÂM ÔN TẬP TỰ LUẬN
1. SẢN XUẤT HÀNG HÓA
a) Khái niệm sản xuất hàng hóa
Theo C. Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó, những người
sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán.
b) Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài người. Nền
kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có các điều kiện:
Dưới đấy là hai ưu điểm của sane xuất hàng hóa:
Một là, phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các ngành, các lĩnh
vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành
những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người thực hiện sản xuất một hoặc một số loại
sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của họ lại yêu cầu nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để
thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho những người sản xuất độc
lập với nhau có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng sản
phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức
hàng hóa. C. Mác viết: “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không
phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa” . Sự tách biệt về mặt
kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản xuất hàng hóa ra đời và phát
triển.
Ba là, sản xuất hàng hóa quy mô lớn có ưu thế so với sản xuất tự cấp tự túc về quy mô,
trình độ kỹ thuật, Công nghệ, về khả năng thỏa mãn nhu cầu... Vì vậy, sản xuất hàng hóa
quy mô lớn là hình thức tổ chức kinh tế xã hội hiện đại phù hợp với xu thế thời đại ngày
nay.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt
trái của nó như phân hóa giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa, tiềm ẩn
những khả năng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá hoại môi trường sinh thái, v.v..
ƯU ĐIỂM VÀ KHUYẾT ĐIỂM CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA TẠI VIỆT NAM VÀ
GIẢI PHÁP.
Ưu điểm.
Sản xuất hàng hóa ra đời khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng
người, từng địa phương, từng vùng ở Việt Nam. Ví dụ như vùng đồng đồng bằng sông Cửu
Long, vì thuận lợi cho phát triển nông nghiệp lúa nước nên đây là nơi cung cấp lương thực
chủ yếu cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Sản xuất hàng hoá là để trao đổi đáp ứng nhu cầu của xã hội nên người sản xuất có điều
kiện để chuyên môn hoá cao. Trình độ tay nghề được nâng lên do tích luỹ kinh nghiệm,
tiếp thu được tri thức mới. Công cụ chuyên dùng được cải tiến, kỹ thuật mới được áp dụng
do đó cạnh cạnh tranh ngày càng gay gắt khiến cho năng suất lao động được nâng lên, chất
lượng sản phẩm ngày càng được cải thiện và tốt hơn. Hiệu quả kinh tế được trú trọng làm
mục tiêu đánh giá sự hoạt động của các thành phần kinh tế. Quy mô sản xuất được mở
rộng tạo điều kiện cho việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Sự tác động của các quy luật: Quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh…
buộc người sản xuất phải luôn năng động, nhạy bén, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất
lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho đời sống
vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng được tăng cao, phong phú và đa dạng. Quan hệ
hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường ngày càng được chủ thể sản xuất hàng hoá vận dụng
có hiệu quả hơn và từ đó ngoài các quan hệ kinh tế phát triển mà các quan hệ pháp lý xã
hội, tập quán, tác phong cũng thay đổi.
Bình quân GDP của Việt Nam khi chuyển sang nền sản xuất hàng hóa sau thời kỳ đổi mới
tăng qua các năm. Từ năm 1986 – 1990, GDP của KV1 là 2,7%, KV2 là 4,7% và KV3 là
5,7%. Từ năm 1991 – 1995, GDP của KV1 là 4,1%, KV2 là 12%, KV3 là 8,6%. Từ năm
1996 – 2000, GDP của KV1 là 4,4%, KV2 là 10,6%, KV3 là 5,7%.
Sản xuất hàng hóa làm cho Việt Nam từ một đất nước kém phát triển trở thành một đất
nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đời sống vật chất càng
ngày càng đầy đủ cũng như đời sống tinh thần được cải thiện và ngày càng phong phú.
Khuyết điểm.
Làm Phân hóa đời sống dân cư, phân hóa giàu nghèo dẫn đến khủng hoảng kinh tế, thất
nghiệp, lạm phát. Xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội gắn liền với hiện trạng
kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội
Vì chạy theo lợi nhuận tối đa dẫn đến sử dụng bừa bãi, tàn phá tài nguyên và hủy diệt môi
trường ,sinh thái( điển hình là các công ty xả thải bừa bãi ra ngoài môi trường làm ô nhiễm
môi trường). Năm 2004, 5 doanh nghiệp tư nhân đã nhập khẩu 230 tấn phế liệu không
đúng với thực tế khai báo về cảng sài gòn đã vi phạm về quy định bảo vệ môi trường. Đặc
biệt phải kể đến đó là vụ Formosa Hà Tĩnh năm 2016 đã dội lên một làn sóng phẫn nộ của
người dân trên cả nước. Nước thải công nghiệp của công ty TNHH gang thép Hưng
Nghiệp Formusa Hà Tĩnh thải trái phép chưa qua xử lý ra môi trường biển đã làm cho hải
sản chết hàng loạt ven biển bốn tỉnh miền Trung, gây thiệt hại nặng nề về tài sản và môi
trường sinh thái dưới biển, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh, du lịch và đời sống cũng
như sức khỏe của người dân. Ở Việt Nam, các “làng ung thư” xuất hiện ngày càng nhiều.
Để tối thiểu hóa đầu tư, tối đa hóa lợi nhuân, các doanh nghiệp bất chấp sức khỏe người
tiêu dùng, làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Các vụ việc làm sữa lậu, trà sữa
làm từ nguyên liệu kém chất lượng, ngộ độc trà sữa,… ngày càng nhiều.
Giải pháp.
Để khắc phục những khuyết tật, hạn chế của nền sản xuất hàng hóa thì vai trò của nhà
nước rất quan trọng. Chính từ tính ưu việt rất riêng, rất có lợi (tuy bên cạnh đó vẫn còn
những khuyết tật) của sản xất hàng hoá mà tại Đại hội VII Đảng ta đã xác định phương
hướng : Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Nhà nước cần phải tăng cường điều chỉnh và quản lý vĩ mô một cách kiên quyết và khôn
khéo để mọi hoạt dộng vào khuôn khổ và đều tuân theo pháp luật. Nhà nước cần thiết lập
khuôn khổ pháp luật về kinh tế kết hợp với các luật về bảo vệ môi trường sinh thái để xác
định hành vi kinh doanh là hợp pháp hay không và có biện pháp xử lý khi có cá nhân hoặc
tổ chức vi phạm. Thêm vào đó, Nhà nước phải sử dụng có ý thức các quy luật kinh tế
khách quan vào quản lý nền kinh tế sản xuất hàng hóa để phát huy những ưu thế vốn có và
ngăn ngừa, hạn chế những mặt trái khuyết tật của nó. Chính vì vậy, sử dụng "Bàn tay hữu
hình" của Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo ra hành lang và bước đi cho nền
kinh tế thị trường vận động theo định hướng XHCN.
Phân tích các điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa và những ưu thế của sản xuất
hàng hóa so với kinh tế tự nhiên
.Bài làm:
Trước hết, để hiểu sản xuất hàng hoá, ta cần hiểu thế nào là kinh tế tự nhiên. Kinh tế tự
nhiên là kiểu sản xuất tự cung tự cấp, sản phẩm làm ra nhằm thoả mãn nhu cầu của
người trực tiếp sản xuất ra nó. Kiểu sản xuất này gắn liền với nền sản xuất nhỏ, lực
lượng lao động phát triển thấp, phân công lao động kém phát triển.Sản xuất hàng hoálà
kiểu tổ chức sản xuất trong đó sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng nhu cầu của
người trực tiếp sản xuất mà đáp ứng nhu cầu của xã hội thông qua trao đổi mua bán
Để sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại cần có hai điều kiện:
Thứ nhất là phải có sự phân công lao động xã hội, tức là có sự chuyên môn hoá sản
xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác. Sự phân
chia lao động xã hội sẽ làm cho việc trao đổi sản phẩm trở nên tất yếu vì khi đó mỗi
người khi đó sẽ chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm trong khi họ có nhu cầu sử
dụng nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó, tất yếu dẫn đến trao đổi mua bán. Sự
phân công lao động cũng làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư
ngày càng nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến.. Đây là tiền đề,cơ sở cho
sản xuất hàng hoá.Thứ hai là phải có sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất
về mặt kinh tế, tức là những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập
nhất định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối. Trong lịch
sử, sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định còn trong nền sản
xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệusản xuất quy
định.Đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai điều
kiện trên sẽ không có sản xuất hàng hoá.
So với sản xuất tự cung tự cấp thì sản xuất hàng hoácó những ưu thế hơn hẳn.Do sản
xuất hàng hoádựa trên sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất nên nó
khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở
cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sản xuất hàng hoácũng tác động trở
lại làm cho phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng tăng, mối
quan hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó, làm cho
năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ
hơn.Trong nền sản xuất hàng hoá, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nguồn
lực và nhu cầu của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng mà nó được mở rộng,
dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực xã hội. Từ đó, tạo điều kiện cho việc ứng dụNg
những thành tựu khoa học- kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, chuyển
từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.Trong nền sản xuất hàng hóa, để tồn tại và sản xuất
có lãi, người sản xuất phải luôn luôn năng động, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất,
nângcao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của
người tiêu dùng. Nhờ đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động
tăng, hiệu quả kinh tế ngày càng cao.Sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh
tế giữa các cá nhân, các vùng, các nước... không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả
đời sống văn hoá, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.Tóm
lại, trong khi sản xuất tự cung tự cấp bị giới hạn bởi như cầu và nguồn lực cá nhân, gia
đình, quy mô sản xuất nhỏ, không tạo được động lực thúc đẩy sản xuất phát triển thì
sản xuất hàng hoá lại tạo được động lực sản xuất phát triển, làm chosản xuất phù hợp
với nhu cầu, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mỗi cá nhân và toàn
xã hội.
2. TIỀN TỆ
a- Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi
hàng hoá, của các hình thái giá trị hàng hoá.
b- Các hình thái giá trị hàng hoá - Hình thái giản đơn (hay ngẫu nhiên). ở hình thái
này, hàng hoá thứ nhất biểu hiện giá trị của nó ở hàng hoá thứ hai, còn hàng hoá
thứ hai đóng vai trò là vật ngang giá. - Hình thái giá trị mở rộng. Khi số hàng hoá
trao đổi trên thị trường nhiều hơn, thì một hàng hoá có thể trao đổi với nhiều hàng
hoá khác. - Hình thái giá trị chung. Khi hàng hoá phát triển hơn, trao đổi hàng hoá
trở nên rộng rãi hơn, thì có một hàng hoá được tách ra làm vật ngang giá chung.
Vật ngang giá chung có thể trao đổi với bất kỳ hàng hoá nào. Vật ngang giá chung
trở thành phương tiện trao đổi. Mỗi địa phương, mỗi dân tộc thường có những vật
ngang giá chung khác nhau. - Hình thái tiền tệ. Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá
phát triển cao hơn nữa, vật ngang giá chung được cố định ở vàng và bạc thì hình
thái tiền tệ ra đời. Khi tiền tệ ra đời, thế giới hàng hoá chia ra hai cực: một cực là
các hàng hoá thông thường, một cực là hàng hoá đóng vai trò tiền tệ. Vậy tiền tệ là
hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò và vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hoá
khác.
c- Chức năng của tiền tệ
Kinh tế hàng hoá phát triển, tiền tệ có 5 chức năng: - : Giá trị của Thước đo giá trị
một hàng hoá được biểu hiện bằng một số lượng tiền nhất định. Sở dĩ có thể làm
thước đo giá trị vì bản thân tiền cũng có giá trị. Giá trị của hàng hoá biểu hiện bằng
tiền là giá cả. Do đó, giá trị là cơ sở của giá cả. Giá cả hàng hoá thay đổi lên xuống
xoay quanh giá trị tuỳ theo quan hệ cung - cầu về hàng hoá, nhưng tổng số giá cả luôn
bằng tổng số giá trị hàng hoá. - . Tiền tệ làm môi giới trung Phương tiện lưu thông
gian trong trao đổi hàng hoá và phải là tiền mặt, việc trao đổi hàng hoá vận động theo
công thức H-T-H - : Làm chức năng này, tiền tệ phải có đủ giá trị Phương tiện cất trữ
như vàng, bạc. - Kinh tế hàng hoá phát triển đến một trình độ Phương tiện thanh toán.
nào đó sẽ sinh ra việc mua, bán chịu. Tiền tệ sẽ là phương tiện thanh toán, thực hiện
trả tiền mua, bán chịu, trả nợ... Chức năng này phát triển làm tăng thêm sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá. - Tiền tệ thế giới. Khi quan hệ trao đổi,
mua, bán hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia và quan hệ buốn bán giữa các nước
hình thành, thì chức năng này xuất hiện. Tiền tệ thế giới phải là tiền có đủ giá trị, tức
là vàng, bạc...
Tóm lại, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá, tiền có 5chức năng.
Những chức năng này có quan hệ mật thiết và thông thường tiền làm nhiều chức năng
một lúc.
VÌ SAO VÀNG ĐƯỢC GỌI LÀ MỘT ĐƠN VỊ TIỀN TỆ. HÃY GIẢI THÍCH SỰ
XUẤT HIỆN CỦA TIỀN GIẤY TRONG LƯU THÔNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ.
1. Vì sao vàng được gọi là một đơn vị tiền tệ.
Vàng được chọn làm đơn vị tiền tệ trước hết do vàng cũng là hàng hóa và có hai thuộc
tính là giá trị và giá trị sử dụng. Mặt khác, vật liệu vàng có những đặc tính rất phù hợp
với việc sử dụng nó làm của cải và phương tiện trao đổi.
Giá trị sử dụng của vàng là công dụng của vàng nhằm thoả mãn nhu cầu của con
người. Giá trị sử dụng của vàng do chính những thuộc tính tự nhiên của vàng quy
định, như: dễ dát mòng, chia nhỏ; ít hao mòn; không bị ôxy hoá trong môi trường tự
nhiên, khối lượng riêng lớn... Những thuộc tỉnh đó làm cho vàng có ưu thế hơn tất cả
các hàng hoá khác, vì vậy vàng được chọn làm đơn vị tiền tệ, làm thước đo giá trị cho
tất cả các hàng hoá khác.
Giá trị của vàng là hao phí lao động xã hội của ng khai thác và chế tác vàng kết tinh
trong đó. Do điều kiện tự nhiên, vàng khan hiềm (tổng lượng vàng mà con người đã
khai thác cho đến nay chỉ khoảng 125 ngàn tấn) và khó khai thác nên vàng là hàng
hóa chứa đựng một lượng giá trị lớn và ổn định. Vàng có giá trị nên vàng có khả năng
làm thước đo giá trị cho tất cả các hàng hoá khác.
Để thực hiện được vai trò của mình, tiền tệ phải có những đặc điểm như: được chấp
nhận rộng rãi, dễ nhận biết, dễ bảo quản và vận chuyển, khan hiếm, đồng nhất... Vàng
có đầy đủ những đặc tính trên nên đã được chọn làm tiền tệ.
2. Sự xuất hiện của tiền giấy trong lưu thông và tác động của nó.
Tiền giấy xuất hiện trong lưu thông là do nên sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển
trong khi vàng ngày càng trở nên khan hiếm. Vì vậy việc sử dụng vàng làm thước đo
giá trị cho những hàng hoá có giá trị nhỏ gặp nhiều khó khăn. Để giải quyết khó khăn
này, người ta đưa tiền giấy và tiền kim loại giá trị nhỏ hơn vàng vào lưu thông. Tuy
nhiên tiền được làm bằng các kim loại tỏ ra không ưu thế bằng tiền giấy. khó cất trữ,
khó vận chuyển, khó đưa vào tiền những dấu hiệu bảo hiểm... Ban đầu, tiền giấy còn
phụ thuộc vào chế độ bản vị vàng nhưng ngày nay, nó trở nên độc lập và được sử
dụng phổ biến ở các nền kinh tế.
Tác động của việc xuất hiện tiền giấy trong lưu thông.
Tiền giấy được đưa vào lưu thông mang lại nhiều lợi ích cho hoạt động sản xuất và
trao đổi hàng hóa của con người như: giải quyết được tình trạng khan hiếm tiền trong
lưu thông, quá trình trao đổi trở nên thuận tiện hơn, tiền giấy dễ sử dụng, in ăn, vận
chuyển, cất giữ…
Tuy nhiên, việc sử dụng tiền giấy cũng dẫn đến nhiều mặt hạn chế như tiền giấy bản
thân nó không có giá trị nội tại nên không có khả năng làm chức năng cắt trữ mặt
khác nó lại thoát li khỏi giá trị của vàng. Đây chính là nguyên nhân của làm phát, gây
ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế, xã hội. Ngoài ra còn xuất hiện tỉnh trang làm tiền
già gây nhiều loạn nền kinh tế
2. Tại sao các chuyên gia kinh tế thường đưa ra lời khuyên: “nên cất giữ của cải
bằng vàng”?
Giải thích câu nói “nên cất giữ của cải bằng vàng”- khẳng định này nhấn mạnh chức
năng cất trữ của tiền. Chức năng này được thực hiện giúp xã hội cất giữ được của cải
để phục vụ cho những hoạt động trong tương lai. Tuy nhiên, tiền tệ ngày nay chủ yếu
là tiền ký hiệu (tiền giấy, tiền kim loại) – là những loại tiền mà giá trị nội tại xa rời giá
trị đại diện (thường là thấp hơn rất nhiều) và không ổn định. Vì vậy, khi cất trữ tiền ký
hiệu, giá trị của cải tích trữ sẽ không ổn định. Trong khi đó, tiền vàng với giá trị nội
tại lớn, ổn định, được thừa nhận rộng rãi, tiền vàng thực hiện tốt nhất chức năng
phương tiện cất trữ. Cất trữ của cải bằng vàng sẽ giúp bảo tồn giá trị của của cải tốt
nhất.
3.THỊ TRƯỜNG
a) Khái niệm và phân loại thị trường
- Khái niệm thị trường
Thị trường là tổng hòa những quan hệ kinh tế, trong đó nhu cầu của các chủ thể được
đáp ứng thông qua việc trao đổi, mua bán với sự xác định giá cả và số lượng hàng
hóa, dịch vụ tương ứng với trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội.
Như vậy, thị trường có thể được nhận diện ở cấp độ cụ thể, quan sát được như chợ,
cửa hàng, quầy hàng lưu động, phòng giao dịch hay siêu thị và nhiều hình thức tổ
chức giao dịch, mua bán khác.
Ở cấp độ trừu tượng hơn, thị trường cũng có thể được nhận diện thông qua các mối
quan hệ liên quan đến trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ trong xã hội, được hình
thành do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội nhất định. Theo nghĩa này, thị trường
là tổng thể các mối quan hệ kinh tế gồm cung, cầu, giá cả; quan hệ hàng - tiền; quan
hệ giá trị, giá trị sử dụng; quan hệ hợp tác, cạnh tranh; quan hệ trong nước, ngoài
nước... Đây cũng là các yếu tố của thị trường.
- Phân loại thị trường
Căn cứ vào đối tượng trao đổi, mua bán cụ thể, có các loại thị trường như: thị trường
hàng hóa, thị trường dịch vụ. Trong mỗi loại thị trường này lại có thể chia cụ thể
thành các thị trường theo các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau.
Căn cứ vào phạm vi các quan hệ, có thị trường trong nước và thị trường thế giới.
Căn cứ vào vai trò của các yếu tố được trao đổi, mua bán, có thị trường tư liệu tiêu
dùng và thị trường tư liệu sản xuất.
Căn cứ vào tính chất và cơ chế vận hành, có thể chia thành : thị trường tự do, thị
trường có điều tiết, thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường cạnh tranh không
hoàn hảo (độc quyền).
Ngày nay, các nền kinh tế phát triển ngày càng nhanh và phức tạp hơn, do đó hệ thống
thị trường cũng biến đổi cho phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của nền kinh
tế. Vì vậy, để tổ chức có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi phải hiểu rõ
bản chất của hệ thống thị trường, những quy luật kinh tế cơ bản của thị trường và các
vấn đề liên quan khác.
b) Vai trò của thị trường
Xét trong mối quan hệ với thúc đẩy sản xuất và trao đổi hàng hóa (dịch vụ) cũng
như thúc đẩy tiến bộ xã hội, vai trò chủ yếu của thị trường có thể được khái quát như
sau:
Một là, thị trường thực hiện giá trị hàng hóa, là điều kiện, môi trường cho sản
xuất phát triển.
Giá trị hàng hóa được thực hiện thông qua trao đổi. Việc trao đổi phải được diễn ra
ở thị trường. Thị trường là môi trường để các chủ thể thực hiện giá trị hàng hóa. Sản
xuất hàng hóa càng phát triển, sản xuất ra càng nhiều hàng hóa, dịch vụ thì càng đòi
hỏi thị trường tiêu thụ phải rộng lớn hơn. Sự mở rộng thị trường đến lượt nó lại thúc
đẩy trở lại sản xuất phát triển. Vì vậy, thị trường là môi trường, là điều kiện không thể
thiếu của quá trình sản xuất kinh doanh.
Thị trường là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng. Thị trường đặt ra các nhu cầu
cho sản xuất cũng như nhu cầu cho tiêu dùng. Vì vậy, thị trường có vai trò thông tin,
định hướng cho mọi nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Hai là, thị trường kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội, tạo ra
cách thức phân bổ nguồn lực hiệu quả trong nền kinh tế.
Thị trường thúc đẩy các quan hệ kinh tế không ngừng phát triển. Do đó, đòi hỏi
các thành viên trong xã hội phải không ngừng nỗ lực, sáng tạo để thích ứng với sự
phát triển của thị trường. Khi sự sáng tạo được thị trường chấp nhận, chủ thể sáng tạo
sẽ được thụ hưởng lợi ích tương xứng. Khi lợi ích được đáp ứng, động lực cho sự
sáng tạo được thúc đẩy. Cứ như vậy sẽ kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên
trong xã hội.
Thông qua thị trường, các nguồn lực cho sản xuất được điều tiết, phân bổ tới các
chủ thể sử dụng hiệu quả, thị trường tạo ra cơ chế để lựa chọn các chủ thể có năng lực
sử dụng nguồn lực hiệu quả trong nền sản xuất.
Ba là, thị trường gắn kết nền kinh tế thành một chỉnh thể, gắn kết nền kinh tế quốc gia
với nền kinh tế thế giới.
Xét trong phạm vi quốc gia, thị trường làm cho các quan hệ sản xuất lưu thông, phân
phối, tiêu dùng trở thành một thể thống nhất. Thị trường không phụ thuộc vào địa giới
hành chính. Thị trường gắn kết mọi chủ thể giữa các khâu, giữa các vùng, miền vào
một chỉnh thể thống nhất.
Xét trong quan hệ với nền kinh tế thế giới, thị trường tạo ra sự gắn kết nền kinh tế
trong nước với nền kinh tế thế giới. Các quan hệ sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu
dùng không chỉ bó hẹp trong phạm vi nội bộ quốc gia, mà thông qua thị trường, các
quan hệ đó có sự kết nối, liên thông với các quan hệ trên phạm vi thế giới. Với vai trò
này, thị trường góp phần thúc đẩy sự gắn kết nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế
giới.
Vai trò của thị trường luôn không tách rời với cơ chế thị trường. Thị trường trở nên
sống động bởi có sự vận hành của cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ mang tính tự điều chỉnh tuân theo yêu
cầu của các quy luật kinh tế.
Cơ chế thị trường là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các nguồn vốn,
tài nguyên, công nghệ, sức lao động, thông tin, trí tuệ... trong nền kinh tế thị trường.
Đây là một kiểu cơ chế vận hành nền kinh tế mang tính khách quan, do bản thân nền
sản xuất hàng hóa hình thành. Cơ chế thị trường được A. Smith ví như là một "bàn tay
vô hình" có khả năng tự điều chỉnh các quan hệ kinh tế.
Câu 14: Trình bầy thị trường và cơ chế thị trường. Phân tích các chức năng cơ bản
của thị trường?
a- Thị trường.
Theo nghĩa hẹp là nơi gặp nhau giữa người mua và người bán để trao đổi hàng hoá và
dịch vụ. Hiểu rộng hơn, thị trường là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ theo
yêu cầu của quy luật sản xuất và lưu thông hàng hoá, là tổng hợp các mối quan hệ lưu
thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.
Căn cứ vào nội dung quan hệ thị trường, có thị trường hàng tiêu dùng, thị trường sức
lao động, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán. Căn
cứ vào phạm vi hoạt động, có thị trường địa phương, thị trường dân tộc, thị trường
khu vực và thị trường thế giới.
b- Cơ chế thị trường. Đó là cơ chế hoạt động của kinh tế hàng hoá, cơ chế tự điều tiết
quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá theo những yêu cầu khách quan của các quy
luật kinh tế vốn có của nó như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung -
cầu, quy luật lưu thông tiền tệ. Cơ chế thị trường là tổng thể hữu cơ của các nhân tố
kinh tế: cung, cầu, giá cả trong đó người sản xuất và người tiêu dùng tác động lẫn
nhau thông qua thị trường để xác định 3 vấn đề cơ bản là: sản xuất cái gì? sản xuất
như thế nào? sản xuất cho ai?
c- Các chức năng cơ bản của thị trường
- Thừa nhận công dụng xã hội của sản phẩm và lao động chi phí sản xuất nó. Sản xuất
hàng hoá là việc riêng của từng người, có tính độc lập tương đối với người sản xuất
khác. Nhưng hàng hoá của họ có đáp ứng nhu cầu xã hội về chất lượng, hình thức, thị
hiếu người tiêu dùng không? giá trị của hàng hoá có được thừa nhận không? Chỉ có
trên thị trường và thông qua thị trường các vấn đề trên mới được khẳng định.
- Là đòn bẩy kích thích và hạn chế sản xuất và tiêu dùng. Trên thị trường mọi hàng
hoá đều mua, bán theo giá cả thị trường. Cạnh tranh và cung cầu làm cho giá cả thị
trường biến đổi. Thông qua sự biến đổi đó, thị trường có tác dụng kích thích hoặc hạn
chế sản xuất đối với người sản xuất, kích thich hoặc hạn chế tiêu dùng đối với người
tiêu dùng.
- Cung cấp thông tin cho người sản xuất và người tiêu dùng. thị trường cho biết những
biến động về nhu cầu xã hội, số lượng, giá cả, cơ cấu và xu hướng thay đổi của nhu
cầu các loại hàng hoá, dịch vụ. Đó là những thông tin cực kỳ quan trọng đối với người
sản xuất hàng hoá, giúp họ điều chỉnh sản xuất cho phù hợp với những thông tin của
thị trường.
Có rất nhiều chủ thể khác nhau tham gia trị trường và mỗi chủ thể có những vai trò
quan trọng riêng. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét vai trò của một số chủ thể chính, đó là:
người sản xuất, người tiêu dùng, các chủ thể trung gian trong thị trường và nhà nước.
1. Người sản xuất
Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ ra
thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao gồm các
nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ... Họ là những người trực tiếp tạo
ra của cải vật chất, sản phẩm cho xã hội để phục vụ tiêu dùng.
Người sản xuất là những người sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất, kinh doanh và
thu lợi nhuận. Nhiệm vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu hiện tại của xã hội,
mà còn tạo ra và phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục tiêu đạt lợi
nhuận tối đa trong điều kiện nguồn lực có hạn. Vì vậy, người sản xuất luôn phải quan
tâm đến việc lựa chọn sản xuất hàng hóa nào, số lượng bao nhiêu, sản xuất với các
yếu tố nào để có lợi nhất.
Ngoài mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, người sản xuất cần phải có trách nhiệm đối với
con người; trách nhiệm cung cấp những hàng hóa, dịch vụ không làm tổn hại tới sức
khỏe và lợi ích của con người trong xã hội.
2. Người tiêu dùng
Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường để thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự phát triển bền
vững của người sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu cầu của người tiêu dùng là
động lực quan trọng của sự phát triển sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất.
Người tiêu dùng có vai trò rất quan trọng trong định hướng sản xuất. Do đó, trong
điều kiện nền kinh tế thị trường, ngoài việc thỏa mãn nhu cầu của mình, người tiêu
dùng cần phải có trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững của xã hội.
Lưu ý: Việc phân chia người sản xuất, người tiêu dùng chỉ có tính chất tương đối để
thấy được chức năng chính của các chủ thể này khi tham gia thị trường. Trên thực tế,
doanh nghiệp luôn đóng vai trò vừa là người mua cũng vừa là người bán.
3. Các chủ thể trung gian trong thị trường
Chủ thể trung gian là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa các chủ
thể sản xuất, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
Do sự phát triển của sản xuất và trao đổi dưới tác động của phân công lao động xã
hội, làm cho sự tách biệt tương đối giữa sản xuất và trao đổi ngày càng sâu sắc; trên
cơ sở đó xuất hiện những chủ thể trung gian trong thị trường. Những chủ thể này có
vai trò ngày càng quan trọng để kết nối, trao đổi thông tin trong các quan hệ mua -
bán.
Nhờ vai trò của các chủ thể trung gian này mà nền kinh tế thị trường trở nên sống
động, linh hoạt hơn. Hoạt động của các chủ thể trung gian trong thị trường làm tăng
cơ hội thực hiện giá trị của hàng hóa cũng như thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng.
Các chủ thể trung gian làm tăng sự kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm cho sản
xuất và tiêu dùng trở nên ăn khớp với nhau.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, các chủ thể trung gian thị
trường không chỉ có các trung gian thương nhân mà còn rất nhiều các chủ thể trung
gian phong phú trên tất cả các quan hệ kinh tế như: trung gian môi giới chứng khoán,
trung gian môi giới nhà đất, trung gian môi giới khoa học - công nghệ... Các trung
gian trong thị trường không những hoạt động trên phạm vi thị trường trong nước mà
còn trên phạm vi quốc tế. Bên cạnh đó cũng có nhiều loại hình trung gian không phù
hợp với các chuẩn mực đạo đức (lừa đảo, môi giới bất hợp pháp...) và cần được loại
trừ.
4. Nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường, xét về vai trò kinh tế, nhà nước thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế, đồng thời thực hiện những biện pháp để khắc phục
những khuyết tật của thị trường.
Với trách nhiệm như vậy, một mặt, nhà nước thực hiện quản trị phát triển nền kinh tế
thông qua việc tạo lập môi trường kinh tế tốt nhất cho các chủ thể kinh tế phát huy
sức sáng tạo của họ. Việc tạo ra các rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh từ
phía nhà nước sẽ kìm hãm động lực sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Các
rào cản như vậy phải được loại bỏ. Việc này đòi hỏi mỗi cá nhân có trách nhiệm trong
bộ máy quản lý nhà nước cần phải nhận thức được trách nhiệm của mình là thúc đẩy
phát triển, không gây cản trở sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Cùng với đó, nhà nước còn sử dụng các công cụ kinh tế để khắc phục các khuyết tật
của nền kinh tế thị trường, làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả.
4.GIÁ TRỊ THẶNG
1. Phân tích quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa trước hết là quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng.
Nhưng mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mả là giá
trị, hơn nữa là giả trị thặng dư. Bất kì một nhà tư bản nào cũng đều hướng đến mục
đích đạt được càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt, nói cách khác, sản xuất giá trị
thăng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB. Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
là một quá trình hai mặt quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra
giá trị thặng dư. Vấn đề ở đây là xét mặt thứ hai của quá trình sản xuất TBCN.
Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản xuất sợi cản một
nhà bản làm ví dụ. Đây là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị củ dụng
quá trình lớn lên của giá trị hay là quá trình sản xuất giá thị thặng dư:
Giả sử để sản xuất ra 10kg sợi cần tư liệu sản xuất là 10kg bằng với giá 105. Để biến
số bảng trên thành sợi, một người công nhân cầu lao động trong vòng 4 giờ, đồng
thời, chỉ phi hao mòn máy móc là 25 và giá trị sức lao động trong một ngày (8 giả lao
động) là 35.
Với ví dụ trên, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong 4 giờ thì nhà tư bản
phải ủng ra 15S và giá trị của sản phẩm mới (10kg sợi) mà nhà tư bản thu được cũng
là 15$. Vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến điểm bù đáp lại giá trị sức lao
động (4 giờ) thỉ chưa thể tạo ra giá trị tháng dư
Tuy nhiên, quá trình lao động không chỉ dừng lại ở điểm đó. Việc sử dụng sức lao
động trong ngay thuộc quyền của nhà tư bản. Nhà tư bản đã trả tiền mua hàng hóa sức
lao động của công nhân trong một ngày (8 giờ). Do đó, khi bất công nhân làm thêm 4
giờ nữa, toàn bộ chi phí sản xuất mà nhà từ ho ra là 275 còn giá trị sản phẩm mới
(20kg sơn) là 305. 275 ứng trước trên đã chuyển hóa thành 305 con số dõi ra (35)
chính là giá trị tháng dư Tiên tệ img ra ban đầu đã chuyển hóa thành tư bản
3. Liên hệ với quá trình sản xuất trong kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam hiện nay kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lợi ích cá nhân. Kinh tế tư nhân gồm những hộ gia
đình, những doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các hoạt động sản xuất như nông
nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ, đánh bắt và chế bên thủy hải sản.
Trong 30 năm đổi mới của đất nước, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của
nền kinh tế Kinh tế tư nhân đóng góp gần 40% GDP và thu hút hơn 80% lực lượng lao
động xã hội”. Sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua không
chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động mà còn tạo ra
những doanh nghiệp nổi tiếng trong khu vực và quốc tế. VD Tập đoàn Hòa Phát. Ô tô
Trường Hải,…
Bởi vậy,Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là
trong những ngành, những lĩnh vực có lợi cho quốc kê dân sinh và khuyến khích làm
ăn theo đúng pháp luật. Phát triển kinh tế tư nhân nhằm mục đích khuyến khích làm
giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo.
Câu 2 : Phân tích hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư. Nếu ý nghĩa thực
tiễn của việc nghiên cứu vấn đề?
1. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
Đề có khối lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn các nhà tư bản sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế kỹ thuật trong từng giai đoạn phát triển của
CNTB. Có hai phương pháp cơ bản sản xuất giá trị thặng dư: sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Thứ nhất, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Khái niệm: Là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian
lao động vượt quả thời gian lao động cần thiết, trong khả năng suất lao động, giá trị
sức lao động và thời gian lao động cần thiết không thay đổi.
VD Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao đồng
thăng du là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị, thì giá trị
thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là: m' – 40 40 x 100 % = 100%.
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, mọi điều kiện khác vẫn như cũ, thì giá trị
thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và tỉ suất giá thị thặng dư cũng tăng lên thành m'-60/40
x 100% = 150%.
Như vậy, trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, ngày lao động kéo
dài, tức là thời gian lao động thặng dư tăng lên và kéo theo tỷ suất giá trị thặng dư
cũng tăng theo. Bởi vậy mà các nhà tư bản đã tìm mọi cách kéo dài ngày lao động
nhằm mục đích sản xuất ra ở mức tối đa nhất
Khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không
thay đổi, thì thời gian lao động tháng dư tăng lên, tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên.
Phương pháp nâng cao trình độ bóc lột bằng cách kéo dài toàn bộ ngày lao động một
cách tuyệt đối gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải giới hạn về thể chất và tinh thần, đồng thời
vấp phải sức đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của công nhân. Nhà tư bản luôn cố gắng
tìm mọi cách để kéo dài ngày làm việc của công nhân, nhưng việc kéo dài ngày lao
động không thể vượt quá giới hạn sinh lý (vi công nhẫn còn phải có thời gian ăn, ngủ,
nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khoẻ) thì gặp phải sự phản khủng gay gắt của giai
cấp công nhân đòi giảm giờ làm. Điều này cũng chính là hạn chế của việc kéo dài
ngày lao động của các nhà tư bản.
Khi đô dài ngày lao động không thay đổi, nhà tư bản sẽ nâng cao trình độ bóc lột bang
việc tăng cường độ lao động. Thực chất tăng cường độ lao động cũng giống như kéo
dài ngày lao động Vì vậy, kéo dài thời gian lao động và tăng cường độ lao động là để
sản xuất giả trị thang dư tuyệt đối.
Thứ hai, sản xuất giá trị thặng dư tương đói
Khái niệm: Là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong
điều kiện độ dài của ngày lao động không đối, nhờ đó tăng thời gian lao động thang
du.
VD: ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu
và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư thì tỷ suất giả trị thặng dư là m' = 4/4 x 100 %
- 100%
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3 giờ
lao động đã tạo ra được một lượng giả trị mới bằng với giá trị sức lao động của minh.
Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi 3 giờ là thời gian lao động tất yếu và
5 giờ là thời gian lao động thăng dư. Như vậy, tỷ suất giá trị thăng dư đã tăng từ 100%
lên 166%.
Phương pháp: Sản xuất giá trị tương đối là phương pháp nâng cao trình độ bóc lột
bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo dài thời gian động thăng dư
trong điều kiện độ dài của ngày lao động vẫn như cũ gọi là phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư tương đối.
Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yểu thì phải hạ thấp giá trị sức lao động, bằng
cách giảm giá trị tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Do đó
phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt, các
ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu
dùng.
Nếu trong giai đoạn đầu của CNTB, sản xuất giá trị tháng dư tuyệt đối là phương
pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng
dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Bởi vì việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn
về thể chất và tinh thần của người lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày cảng
mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất TBCN phát triển đến giai
đoạn đại công nghiệp cơ khi kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên
nhanh chóng thì các nhà từ ban chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng
năng suất lao động bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới
CNTB đã trải qua ba giai đoạn hợp tác giản đơn công trường thủ công và đại công
nghiệp cơ khi, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương
đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị tháng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết
hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê. Dưới chủ nghĩa tư bản
việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân,
mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hoá sản
xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới sự căng tháng
của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp
2. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu các quy luật giả trị thặng dư.
Quá trình nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị tháng dư cho thấy, khi gạt bỏ
mục đích và tinh chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản thì sản xuất ra giá trị tháng du
chỉnh là khoa học sử dụng lao động có hiệu quả nhất mà bất kỳ Xã hội nào cũng cần
phải quan tâm. Bởi vậy, các phương pháp sản xuất giá trị tháng du có thể vận dụng
trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất tăng năng suất lao động xã
hội, sử dụng kĩ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lí, tiết kiệm chi phí sản xuất.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản
xuất giá trị thặng dư gợi ra cho nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của
cải thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp,
để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao động
và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao
động xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là giải
pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội.
Quy luật giá trị thặng dư đã phát huy vai trò to lớn của nó, đem lại những tiến bộ vượt
bác và thành tựu kinh tế cho CNTB. Nước ta nói riêng và các nước XHCN nói chung
cần nỗ lực không ngừng trên con đường của mình để xây dựng CNXH trên thế giới.
Riêng nước ta, đang trong giai đoạn quá độ lên CNXH từ chế độ phong kiến bỏ qua
giai đoạn TBCN với xuất phát điểm là một nền kinh tế lạc hậu chủ yếu là dựa vào
nông nghiệp. Yêu cầu đặt ra là phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.
vậy, chúng ta phải học tập những thành tựu mà CNTB đã đạt được trọng đó quan tâm
đặc biệt đến quy luật kinh tế cơ bản của nó là giả trị thông dư, sửa chữa quan niệm sai
lầm trước kia trong xây dựng kinh tế.
5, LỢI NHUẬN, CHI PHÍ SẢN XUẤT. LỢI NHUẬN BÌNH QUÂN
a, Lý thuyết:
1. Lợi nhuận
Để làm rõ bản chất của lợi nhuận, C. Mác bắt đầu phân tích làm rõ chi phí sản xuất.
a) Chi phí sản xuất
Mục đích của nhà tư bản là thu hồi được giá trị tư bản đã ứng ra từ giá trị hàng hóa đã
bán được. Khái niệm chi phí sản xuất xuất hiện trong mối quan hệ đó.
Ví dụ:
Để sản xuất ra hàng hóa nhà tư bản phải đầu tư khối lượng tổng tư bản có giá trị là
1.000.000 USD, trong đó:
- Mua máy móc: 500.000 USD. Máy móc này được sử dụng trong 10 chu kỳ sản xuất
(giả định là 10 năm), nghĩa là mỗi năm sẽ khấu hao 50.000 USD, phần này sẽ được
chuyển vào giá trị hàng hóa của 1 năm.
- Nguyên, nhiên, vật liệu: 400.000 USD/năm
- Tư bản khả biến: 100.000 USD/năm;
- Tỷ suất giá trị thặng dư: 100%
Trong trường hợp như vậy, giá trị hàng hóa được tạo ra trong một năm là:
400.000 USD + 50.000 USD + 100.000 USD + 100.000 USD = 650.000 USD
Nếu trong giá trị 650.000 USD trừ đi 100.000 USD là giá trị thặng dư thì chỉ còn lại
550.000 USD. Phần này được gọi là chi phí sản xuất.
Khái niệm chi phí sản xuất:
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị của hàng hóa, bù lại giá cả của
những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và giá cả của sức lao động đã được sử dụng để
sản xuất ra hàng hóa ấy. Đó là chi phí mà nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất ra hàng
hóa.
Chi phí sản xuất được ký hiệu là k.
Về mặt lượng: k = c + v.
Khi xuất hiện phạm trù chi phí sản xuất thì giá trị hàng hóa G = c + (v+m) sẽ biểu
hiện thành: G = k + m.
Chi phí sản xuất có vai trò quan trọng: bù đắp tư bản về giá trị và hiện vật, đảm bảo
điều kiện cho tái sản xuất trong kinh tế thị trường; tạo cơ sở cho cạnh tranh, là căn cứ
quan trọng cho cạnh tranh về giá bán hàng giữa các nhà tư bản.
b) Bản chất lợi nhuận
Trong thực tế sản xuất kinh doanh, giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất có một
khoản chênh lệch. Do đó sau khi bán hàng hóa (bán ngang giá), nhà tư bản không
những bù đắp đủ số chi phí đã ứng ra mà còn thu được số chênh lệch bằng giá trị
thặng dư. Số chênh lệch này C. Mác gọi là lợi nhuận (ký hiệu là p).
Khi đó giá trị hàng hóa được viết là: G = k + p
Từ đó p = G - k.
Từ cách tính toán trên thực tế như vậy, người ta chỉ quan tâm tới khoản chênh lệch
giữa giá trị hàng hóa bán được với chi phí phải bỏ ra mà không quan tâm đến nguồn
gốc sâu xa của khoản chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư chuyển hóa thành. Thậm
chí, với nhà tư bản, lợi nhuận còn được quan niệm là do tư bản ứng trước sinh ra.
C. Mác khái quát: “Giá trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
trước, mang hình thái chuyển hóa là lợi nhuận” .
Điều đó có nghĩa, lợi nhuận chẳng qua chỉ là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư
trên bề mặt nền kinh tế thị trường.
Nhà tư bản cá biệt chỉ cần bán hàng hóa với giá cả cao hơn chi phí sản xuất là đã có
lợi nhuận. Trong trường hợp bán đúng bằng chi phí sản xuất là không có lợi nhuận.
Bán hàng hóa thấp hơn giá trị và cao hơn chi phí sản xuất cũng có thể đã có lợi nhuận.
Trong trường hợp này, lợi nhuận nhỏ hơn giá trị thặng dư. Lợi nhuận chính là mục
tiêu, động cơ, động lực của hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường.
SÁCH GIÁO TRÌNH TRANG 107,108
So sánh giá trị thặng dư với lợi nhuận, tỷ suất giá trị thặng dư và tỷ suất lợi nhuận.
Tốc độ chu chuyển của tư bản có ảnh hưởng như thế nào tới nhu cầu về tư bản, tỷ
suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hằng năm?
1. Ta biết rằng, nhà tư bản bỏ ra tư bản bao gồm tư bản bất biến c và tư bản khả biến
v để sản xuất ra giá trị thặng dư m. Nhưng các nhà tư bản đã đưa ra một khái niệm
mới là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa K–đó là phần giá trị bù lại giá cả của
những tư liệu sản xuất © và giá cả sức lao động (v) đã tiêu dùng để sản xuất ra
hàng hoá cho nhà tư bản, nghĩa là K = c + v.Khi c + v chuyển thành K như vậy thì
số tiền nhà tư bản thu được trội hơn so với chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa được
gọi là lợi nhuận P. Như vậy, lợi luận thực chất là giá trị thặng dư được quan niệm
là kết quả của toàn bộ tư bản ứng trước. Khi đó, giá trị hàng hoá G = c + v + m
biến thành G = K + P.Về bản chất thì P chính là m nhưng cái khác nhau ở chỗ, m
hàm ý so sánh với v còn P lại hàm ý so sánh nó với K = c + v. P và m thường
không bằng nhau. P có thể cao hơn hoặc thấp hơn m, phụ thuộc vào giá cả hàng
hoá do quan hệ cung -cầu quy định. Nhưng nếu xét trên phạm vi toàn XH, tổng lợi
nhuận luôn bằng tổng giá trị thặng dư
.2. Khi giá trị thặng dư chuyển thành lợi nhuận thì tỷ suất giá trị thặng dư cũng
chuyển thành tỷ suất lợi nhuận.Tỷ suất giá trị thặng dư m’ là tỷ lệ phần trăm giữa
số lượng giá trị thặng dư m với tư bản khả biến v: m’ = m/v . 100(%)Tỷ suất lợi
nhuận P’ là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng
trước: P’ = m/(c + v) . 100(%). Trong thực tế người ta thường tính P’ bằng tỷ lệ
phần trăm giữa lợi nhuân thu được P với tổng tư bản ứng trước K: P’ = P/K .
100(%).Xét về lượng thì tỷ suất lợi nhuận P’ luôn nhỏ hơn tỷ suất giá trị thặng dư
m’.Về chất, tỷ suất giá trị thặng dư biểu hiện đúng mức độ bóc lột của nhà tư bản
đối với lao động còn tỷ suất lợi nhuận chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư
bản. P’ chỉ cho nhà đầu tư tư bản biết đầu tư vào đâu là có lợi.Tỷ suất lợi nhuận
phụthuộc vào tỷ suất thặng dư: tỷ suất thặng dư tăng thì tỷ suất lợi nhuận tăng; tốc
độ chu chuyển tư bản, cấu tạo hữu cơ của tư bản và tiết kiệm tư bản bất biến.
2. Chu chuyển tư bản là sự tuần hoàn của tư bản được lặp đi lặp lại định kỳ, đổi
mớIkhông ngừng. Tốc độ chu chuyển tư bản là số vòng chu chuyển của tư bản
trong một năm. Tốc độ chu chuyển của tư bản có ảnh hưởng rất lớn tới nhu cầu về
tư bản, tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư.Tăng tốc độ chu
chuyển của tư bản cố định làm tăngquỹ khấu hao tài sản cố định, lượng tư bản sử
dụng tăng lên và tránh được những thiệt hai do hao mòn hữu hình và vô hình gây
ra. Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động
được sử dụng trong một năm, nhờ đó, sẽ tiết kiệm được tư bản ứng trước. Mặt
khác, do tăng tỷ suất của tư bản khả biến mà tỷ suất giá trị thặng dư trong năm sẽ
tăng lên.Tóm lại, tăng tốc đọ chu chuyển tư bản khả biến giúp cho các nhà tư bản
tiết kiệm được tư bản ứng trước, nâng cao tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư
trong năm.
Các khái niệm về lợi nhuận đã che dấu bản chất bóc lột của tư bản chủ nghĩa
như thế nào?
Đối với nhà tư bản, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là giới hạn hiệu quả sản xuất
kinh doanh của nhà tư bản. Sự xuất hiện khái niệm này đã xoá đi danh giới giữa tư
bản bất biếnc và tư bản khả biến v, che dấu đi nguồn gốc của giá trị thặng dư (đó
là tư bản khả biến v).Khái niệm lợi nhuận thực chất cũng chỉ là biến tướng của giá
trị thặng dư. Nó phản ánh sai lệch bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Theo khái
niệm này thì phầndôi ra đó không phải là do giá trị sức lao động (v) của công nhân
làm thuê tạo ra mà là do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa của nhà tư bản tạo
ra.Khái niệm tỷ suất lợi nhuận cũng vậy. Nó không biểu hiện đúng mức độ bóc lột
của nhà tư bản đối với lao động như tỷ suất giá trị thặng dư m’ (m’ càng tăng,
chứng tỏ nhà tư bản bóc lột càng nhiều). Tỷ suất lợi nhuận chỉ nói lên mức doanh
lợi của việc đầu tư tư bản. P’ càng tăng thì đầu tư càng có lợi.
Tóm lại, bằng việc đưa ra ba khái niệm trên, các nhà tư bản đã che dấu bản chất
bóc lột của mình, che dấu đi cái thực chất sinh ra giá trị thặng dư là lao động
không công của người công nhân làm thuê.
Phân tích sự hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu vấn đề này?
Bài làm:
1. Trong xã hội có nhiều ngành sản xuất khác nhau, với những điều kiện sản xuất không
giống nhau, lợi nhuận thu được và tỷ suất lợi nhuận cũng sẽ không giống nhau. Điều
này dẫn đến việc cạnh tranh giữa các ngành. Đó là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư
bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có
lợi hơn. Chính vì điều này mà dẫn đến việc các nhà tư bản di chuyển từ các ngành lợi
nhuận ít sang những ngành có lợi nhuận cao hơn.Sự tự do di chuyển tư bản từ ngành
này sang ngành khác làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận ngành và dẫn đến hình thành tỷ suất
lợi nhuận ngành ngang nhau. Đó là tỷ suất lợi nhuận chung hay tỷ suất lợi nhuận bình
quân.Tỷ suất lợi nhuận bình quân là “con số trung bình” của tất cả các tỷ suất lợi nhuận
khác nhau hay là tỷ số phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng tư bản XH.
Khi hình thành tỷ xuất lợi nhuận bình quân, ta có thể tính được lợi nhuận bình quân của
từng ngành. Đây là lợi nhuận bằng nhau của tư bản bằng nhau đầu tư vào những ngành
khác nhau. Nó chính là lợi nhuận mà nhà tư bản thu được căn cứ vào tổng tư bản đầu tư,
nhân với tỷ suất lợi nhuận bình quân, không quan tâm đến cấu thành hữu cơ của nó. Sự
xuất hiện của lợi nhuận bình quân đã biến quy luật giá trị thặng dư trở thành luật lợi
nhuận bình quân (Tổng lợi nhuận bình quân bằng tổng giá trị thặng dư).
2. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân đã
làm giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất là giá cả bằng chi phí
sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân. Giá trị là cơ sở của giá cả sản xuất. Giá cả sản
xuất là phàm trù kinh tế tương đương với giá cả, là cơ sở của giá cả trên thị trường, nó
điều tiết giá cả thị trường, giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất. Lúc
này, quy luật giá trị đã biểu hiện ra thành quy luật giá cả sản xuất (Tổng giá cả sản xuất
bằng tổng giá trị).
3. Việc nghiên cứu sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân và
giá cả sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng.
Về mặt lý luận, nó giúp ta thấy được sự phát triển lý luận giá trị và giá trị thặng dư của
Mác theo tiến trình đi từ trừu tượng đến cụ thể. Mặt khác, nó còn phản ánh quan hệ cạnh
tranh giữa các nhà tư bản trong việc giành giật lợi nhuận với nhau.
Về mặt thực tiến, nó vạch rõ toàn bộ giai cấp tư sản đã bóc lột toàn bộ giai cấp công
nhân. Vì vậy, muốn giành thắng lợi, giai cấp công nhân phải đoàn kết, đấu tranh với tư
cách là một giai cấp, kết hợp đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị.
6. CẠNH TRANH MỘT CÁCH ĐỌC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
( giáo trình 130)
1. Lý luận của V.I. Lênin về đặc điểm kinh tế của độc quyền
Tổng kết thực tiễn vai trò của độc quyền trong nền kinh tế các nước tư bản phát triển nhất
giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin khái quát năm đặc điểm của độc
quyền tư bản chủ nghĩa như sau:
a) Các tổ chức độc quyền có quy mô tích tụ và tập trung tư bản lớn
Dưới chủ nghĩa tư bản, tích tụ và tập trung sản xuất cao, biểu hiện ở số lượng các xí
nghiệp tư bản lớn chiếm tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế, nhưng nắm giữ và chi phối thị
trường.
Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hình thành các
tổ chức độc quyền. Vì một mặt, do số lượng các doanh nghiệp lớn ít nên có thể dễ dàng
thỏa thuận với nhau; mặt khác, các doanh nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật cao nên cạnh
tranh sẽ rất gay gắt, quyết liệt, khó đánh bại nhau, do đó đã dẫn đến khuynh hướng thỏa
hiệp với nhau để nắm lấy địa vị độc quyền.
Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các tổ chức độc quyền hình thành theo liên kết
ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau
theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở
rộng ra nhiều ngành khác nhau.
Về mặt lịch sử, các hình thức tổ chức độc quyền cơ bản từ thấp đến cao, bao gồm: cartel
(các-ten), syndicate (xanhđica), trust (tờrớt), consortium (côngxoócxiom).
Cartel là hình thức tổ chức độc quyền trong đó các xí nghiệp tư bản lớn ký các hiệp nghị
thỏa thuận với nhau về giá cả, sản lượng hàng hóa, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán,...
Các xí nghiệp tư bản tham gia cartel vẫn độc lập cả về sản xuất và lưu thông hàng hóa. Họ
chỉ cam kết thực hiện đúng hiệp nghị đã ký, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của
hiệp nghị. Vì vậy, cartel là liên minh độc quyền không vững chắc. Trong nhiều trường hợp,
những thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi đã rút ra khỏi cartel, làm cho cartel thường tan vỡ
trước kỳ hạn.
Syndicate là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cartel. Các xí nghiệp tư
bản tham gia syndicate vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ không độc lập ở khâu lưu thông
hàng hóa (mọi việc mua, bán do một ban quản trị chung của syndicate đảm nhận). Mục
đích của syndicate là thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán
hàng hoá với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
Trust là hình thức độc quyền cao hơn cartel và syndicate. Trong trust thì cả việc sản xuất,
tiêu thụ hàng hóa đều do một ban quản trị chung thống nhất quản lý. Các xí nghiệp tư bản
tham gia trust trở thành những cổ đông để thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.
Consortium là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức
độc quyền trên. Tham gia consortium không chỉ có các xí nghiệp tư bản lớn mà còn có cả
các syndicate, các trust, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế,
kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy, một consortium có thể có hàng trăm xí nghiệp liên
kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm các nhà tư bản kếch xù.
Liên kết ngang là sự liên kết để sx một chủng loại hàng hóa.
Liên kết dọc là sư liên kết giữa các dooanh nghiệp trong các ngàng sản xuất với nhau có
liên uan với nhau về khoa học kỹ thuật
b) Sức mạnh của các tổ chức độc quyền do tư bản tài chính và hệ thống tài phiệt chi phối
Song song với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp, trong ngân hàng
cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong
ngân hàng.
Quy luật tích tụ, tập trung trong ngân hàng cũng giống như trong công nghiệp, do quá trình
cạnh tranh các ngân hàng vừa và nhỏ bị phá sản hoặc bị thôn tính và hình thành những
ngân hàng lớn.
Khi sản xuất trong ngành công nghiệp tích tụ, tập trung ở mức độ cao, thì các ngân hàng
nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín để phục vụ cho công việc kinh doanh của các doanh
nghiệp công nghiệp lớn. Trong điều kiện đó, các ngân hàng vừa và nhỏ phải tự sáp nhập
vào các ngân hàng lớn hoặc phải phá sản trước quy luật khốc liệt của cạnh tranh. Quá trình
này đã thúc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.
Sự xuất hiện, phát triển của các tổ chức độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đổi quan
hệ giữa các ngân hàng và doanh nghiệp công nghiệp, làm cho ngân hàng có vai trò mới: từ
chỗ ngân hàng chỉ là trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, thì nay đã nắm được hầu
hết lượng tiền tệ của xã hội nên có quyền lực “vạn năng”, khống chế mọi hoạt động của
nền kinh tế - xã hội.
Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền ngân hàng “cử” đại diện của mình vào các
cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay hoặc các tổ
chức độc quyền ngân hàng còn trực tiếp đầu tư vào công nghiệp. Trước sự khống chế và
chi phối ngày càng mạnh mẽ của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương ứng trở lại của
các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra. Các tổ chức độc quyền công
nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần của các ngân
hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng. Quá trình độc quyền hoá trong công nghiệp
và ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với nhau làm nảy sinh một loại hình tư bản mới, gọi là
tư bản tài chính. Thống trị trong mọi xã hội vì tư bản tài chính nắm cả tưu bản tiền tệ tổ
chức độc quyền trong ngân hàng và tư bản sản xuất trong công nghiệp. Trược tiếp nắm cả
wuyeenf lực chính trị và kinh tế. Biến nhà nước thành các công cụ phục vụ cho các tổ chức
dộc quyền
V.I. Lênin viết: "... tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của
một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà
công nghiệp" .
1
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.27, tr.489.
Sự phát triển của tư bản tài chính dần dần dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ những nhà
tư bản kếch xù chi phối toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị của toàn xã hội, gọi là tài phiệt
(hay đầu sỏ tài chính, trùm tài chính).
Các tài phiệt thực hiện sự thống trị của mình thông qua “chế độ tham dự”. Thực chất của
“chế độ tham dự” là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính mua số cổ phiếu
khống chế, chi phối một công ty lớn nhất - công ty gốc gọi là "công ty mẹ"; công ty này lại
mua được cổ phiếu khống chế, thống trị các "công ty con"; "công ty con" đến lượt nó lại
chi phối các "công ty cháu",.. tông qua số lượng cổ phiếu nắm giữ.. bởi vậy chỉ cần tâu
tóm được cổ phiếu thì sẽ thâu tóm được thị trường.
Nhờ có “chế độ tham dự” và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy,
bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, mà tài phiệt có thể khống chế và điều tiết được một
lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.
Ngoài "chế độ tham dự", tài phiệt còn sử dụng những thủ đoạn như lập công ty mới, phát
hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng
đất... để thu lợi nhuận độc quyền cao. Về mặt chính trị, hệ thống các nhà tài phiệt chi phối
mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là chi phối các chính sách đối nội, đối
ngoại của nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng, do
chúng thống trị được về kinh tế.
c) Xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến
Đối với các tập đoàn độc quyền, việc đưa tư bản ra nước ngoài để tìm kiếm nơi đầu tư có
lợi nhất trở thành phổ biến, gắn liền với sự tồn tại của các tổ chức độc quyền.
Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm
mục đích thu được giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư
bản.
Xuất khẩu tư bản có thể được thực hiện dưới hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián
tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua
lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư để trực tiếp kinh doanh thu lợi
nhuận cao, biến nó thành một chi nhánh của “công ty mẹ” ở chính quốc. Các xí nghiệp
mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương, nhưng
cũng có những xí nghiệp toàn bộ vốn là của công ty nước ngoài.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc cho vay để thu lợi tức, mua cổ phần, cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định
chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động
đầu tư.
d) Cạnh tranh để phân chia thị trường thế giới là tất yếu giữa các tập đoàn độc quyền
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy
mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản
độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ thị trường trong nước luôn gắn với thị
trường ngoài nước. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thị trường ngoài
nước còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước tư bản. V.I. Lênin nhận xét: "Bọn
tư sản chia nhau thế giới, không phải do tính độc ác đặc biệt của chúng, mà do sự tập trung
đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm lời" .
2
Sự đụng độ trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền có sức mạnh kinh tế hùng hậu
lại được sự ủng hộ của nhà nước "của mình" và các cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chúng
tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp, ký kết các hiệp định, để củng cố địa vị độc quyền của
chúng trong những lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ đó hình thành các liên minh
độc quyền quốc tế dưới dạng cartel, syndicate, trust quốc tế.
đ) Lôi kéo, thúc đẩy các chính phủ vào việc phân định khu vực lãnh thổ ảnh hưởng là cách
thức để bảo vệ lợi ích độc quyền
V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: "Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên liệu càng thiếu
thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trên toàn thế giới
càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càng quyết liệt hơn" .
3
Do sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của các cường quốc tư bản, tất yếu dẫn
đến cuộc đấu tranh đòi chia lại lãnh thổ thế giới. Đó là một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến các cuộc chiến tranh, thậm chí chiến tranh thế giới. V.I. Lênin viết: "Khi nói
đến chính sách thực dân trong thời đại chủ nghĩa đế quốc tư bản, thì cần chú ý rằng tư bản
tài chính và chính sách quốc tế thích ứng với nó... đã tạo nên hàng loạt hình thức lệ thuộc
có tính chất quá độ của các nước. Tiêu biểu cho thời đại đó, không những chỉ có hai loại
nước chủ yếu: những nước chiếm thuộc địa và những thuộc địa, mà còn có nhiều nước phụ
thuộc với những hình thức khác nhau, những nước này trên hình thức thì được độc lập về
chính trị, nhưng thực tế lại mắc vào cái lưới phụ thuộc về tài chính và ngoại giao" . Từ
4
những năm 50 của thế kỷ XX, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ đã làm
sụp đổ và tan rã hệ thống thuộc địa kiểu cũ, nhưng điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa
thực dân đã bị thủ tiêu. Trái lại, các cường quốc tư bản chuyển sang thi hành chính sách
thực dân mới với nội dung chủ yếu là dùng viện trợ kinh tế, kỹ thuật, quân sự để duy trì sự
lệ thuộc của các nước đang phát triển. Đứng đằng sau, hậu thuẫn cho các hoạt động của
các quốc gia tư bản luôn có vai trò của các tập đoàn tư bản độc quyền.
Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của độc quyền dưới chủ nghĩa tư bản có quan hệ chặt chẽ với
nhau, nói lên bản chất sự thống trị của tư bản độc quyền. Đó cũng là biểu hiện của phương
thức thực hiện lợi ích của các tập đoàn độc quyền trong giai đoạn phát triển độc quyền của
chủ nghĩa tư bản.
2. Lý luận của V.I. Lênin về đặc điểm kinh tế của độc quyền nhà nước trong chủ
nghĩa tư bản
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.27, tr.472.
3. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.27, tr.481.
4. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.27, tr.485.
Sự thống trị và bành trướng sức mạnh của độc quyền tư nhân trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa, một mặt thúc đẩy nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển, mặc khác, kìm
hãm và đe dọa sự ổn định của chế độ chính trị. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong
tình hình đó, thúc đẩy trình độ độc quyền lên trạng thái cao hơn - độc quyền nhà nước.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản có các đặc trưng kinh tế chủ yếu sau:
a) Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước
V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng với công
nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng và công nghiệp với
chính phủ: "Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay là chủ ngân hàng,
ngày mai là bộ trưởng" . Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các đảng phái.
5
Chính các đảng phái này đã tạo cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự
thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước.
Đứng đằng sau các đảng phái này là một lực lượng có quyền lực rất hùng hậu, đó chính là
các hội chủ xí nghiệp độc quyền, như: Hội Công nghiệp toàn quốc Mỹ, Tổng Liên đoàn
công nghiệp Italia, Liên đoàn các nhà kinh tế Nhật Bản, Liên minh Liên bang công nghiệp
Đức, Hội đồng quốc gia giới chủ Pháp, Tổng Liên đoàn công thương Anh,... Chính các hội
chủ xí nghiệp này trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là chỗ dựa cho nhà nước tư
sản. Các hội chủ xí nghiệp hoạt động thông qua các đảng phái của giai cấp tư sản, cung
cấp kinh phí cho các đảng, quyết định về mặt nhân sự và đường lối chính trị, kinh tế của
các đảng, tham gia vào việc thành lập bộ máy nhà nước ở các cấp. Vai trò của các hội lớn
đến mức mà dư luận thế giới đã gọi chúng là “những chính phủ đằng sau chính phủ”, “một
quyền lực thực tế đằng sau quyền lực” của chính quyền. Thông qua các hội chủ, một mặt
các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị
khác nhau; mặt khác, các quan chức và nhân viên chính phủ được “cài cắm” vào ban quản
trị của các tổ chức độc quyền, nắm giữ những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự,
hoặc trở thành những người đỡ đầu cho các tổ chức độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này
(còn gọi là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức
độc quyền và cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.
b) Sự hình thành, phát triển sở hữu nhà nước
Sở hữu trong độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản, của tư bản độc
quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại,
phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên
mà còn ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân.
Hai loại sở hữu này đan kết với nhau trong quá trình tuần hoàn của tổng tư bản xã hội. Sở
hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cần cho hoạt động của
bộ máy nhà nước, mà còn gồm cả những doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp và
trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, như: giao thông vận tải, giáo dục, y tế,
bảo hiểm xã hội,... Sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: xây
dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách; quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư
51. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.31, tr.275.
nhân bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ phần của các doanh nghiệp tư nhân; mở rộng
doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp tư nhân...
Sở hữu nhà nước thực hiện được các chức năng cơ bản sau: mở rộng sản xuất tư Thứ nhất,
bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của độc quyền. tạo Thứ hai,
điều kiện thuận lợi nhất cho việc di chuyển tư bản của các tổ chức độc quyền đầu tư vào
các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau, chuyển từ những ngành ít lãi sang những ngành
kinh doanh có hiệu quả hơn một cách dễ dàng, thuận lợi. làm chỗ dựa cho sự điều Thứ ba,
tiết kinh tế của nhà nước theo những chương trình nhất định.
Cùng với sự phát triển của sở hữu nhà nước, thị trường độc quyền cũng hình thành và phát
triển. Sự hình thành thị trường nhà nước thể hiện ở việc nhà nước chủ động mở rộng thị
trường trong nước bằng việc bao mua sản phẩm của các doanh nghiệp độc quyền thông
qua những hợp đồng được ký kết. Việc ký kết các hợp đồng giữa nhà nước và các tổ chức
độc quyền tư nhân đã giúp các tổ chức độc quyền tư nhân khắc phục được một phần khó
khăn trong thời kỳ khủng hoảng thừa, góp phần bảo đảm cho quá trình tái sản xuất được
diễn ra bình thường. Các hợp đồng ký kết với nhà nước giúp cho các tổ chức độc quyền tư
nhân vừa tiêu thụ được hàng hoá vừa đảm bảo lợi nhuận ổn định, vừa khắc phục được tình
trạng thiếu nhiên liệu, nguyên liệu chiến lược. Sự tiêu thụ của nhà nước được thực hiện
qua những đơn đặt hàng của nhà nước với độc quyền tư nhân, quan trọng hơn cả là các
đơn đặt hàng quân sự do ngân sách chi mỗi ngày một tăng. Các hợp đồng này đảm bảo cho
các độc quyền tư nhân kiếm được một khối lượng lợi nhuận lớn và ổn định, vì tỷ suất lợi
nhuận của việc sản xuất các loại hàng hoá đó cao hơn hẳn tỷ suất lợi nhuận thông thường.
c) Độc quyền nhà nước trở thành công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế
Để điều tiết nền kinh tế, nhà nước tư sản sử dụng nhiều công cụ, trong đó có công cụ độc
quyền nhà nước. Hệ thống điều tiết của nhà nước tư sản hình thành một tổng thể những
thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống
chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được thực hiện dưới
nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc bằng các công cụ kinh
tế và các công cụ hành chính - pháp lý, bằng cả ưu đãi và trừng phạt; bằng những giải pháp
chiến lược dài hạn như lập chương trình, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế, khoa học,
công nghệ, bảo vệ môi trường, bảo hiểm xã hội,...; và bằng cả các giải pháp ngắn hạn.
Nhà nước tư sản điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế thông qua các công cụ
chủ yếu như ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ, tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế
hoạch hoá hay chương trình hoá kinh tế và các công cụ hành chính, pháp lý.
Bộ máy điều tiết kinh tế gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về mặt nhân sự có
sự tham gia của những đại biểu của tập đoàn tư bản độc quyền lớn và các quan chức nhà
nước. Bên cạnh bộ máy này còn có hàng loạt các tiểu ban được tổ chức dưới những hình
thức khác nhau, thực hiện "tư vấn" nhằm "lái" đường lối phát triển kinh tế theo mục tiêu
riêng của các tổ chức độc quyền.
Cơ chế điều tiết kinh tế độc quyền nhà nước là sự dung hợp cả ba cơ chế: thị trường, độc
quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước ( cơ chế kiềng ba chân) nhằm phát huy mặt tích
cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Hay nói cách khác, đó là cơ chế thị trường có
sự điều tiết của nhà nước nhằm phục vụ lợi ích của….
CÂU HỎI THÊM:
: Phân tích nguyên nhân hình thành CNTB độc quyền Nhà nước và vai trò kinh tế của Nhà
nước trong CNTB hiện đại
a- Nguyên nhân hình thành CNTB độc quyền Nhà nước Cơ sở nền tảng của sự chuyển từ
CNTB độc quyền sang CNTB độc quyền Nhà nước là mâu thuẫn sâu sắc giữa tính chất
xã hội hoá của sản xuất và sự chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Sự xã hội
hoá cao đó của lực lượng sản xuất đòi hỏi có sự điều tiết xã hội đối với quá trình sản
xuất từ một trung tâm (đó là Nhà nước), nếu không nền kinh tế sẽ bị khủng hoảng dữ
dội. Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại như hoá dầu,
hàng không, nguyên tử, tên lửa, vũ trụ... để ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất
và đời sống thì không một công ty độc quyền khổng lồ nào đủ vốn để làm, chỉ có Nhà
nước mới có đủ khả năng giải quyết
. - Do cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã
hội, đặc biệt công cuộc xây dựng chủ nghĩa Xã hội ở các nước Xã hội chủ nghĩa buộc
CNTB phải đối phó. Do đó, tư bản độc quyền phải nắm lấy bộ máy nhà nước để đối
phó với các cuộc đấu tranh trên. Vậy Chủ nghĩa Tư bản độc quyền nhà nước là sự kết
hợp sức mạnh của Tư bản độc quyền với sức mạnh của nhà nước vào một bộ máy duy
nhất, nhằm sử dụng bộ máy nhà nước như một trung tâm của toàn bộ đời sống kinh tế,
điều tiết có mục đích các quá trình kinh tế, bảo đảm lợi nhuận độc quyền cao cho các
tổ chức độc quyền và bảo vệ, phát triển quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa.
b- Vai trò kinh tế của nhà nước trong CNTB hiện đại Cơ chế điều tiết nền kinh tế trong
CNTB tự do cạnh tranh và CNTB độc quyền là cơ chế thị trường. Trong CNTB độc
quyền nhà nước, cơ chế điều tiết nền kinh tế là kết hợp giữa cơ chế thị trường và sự tác
động tập trung của Nhà nước, tạo ra một hệ thống thống nhất của sự điều tiết độc
quyền nhà nước. Nhà nước giữa vai trò điều tiết vĩ mô bằng các công cụ có hiệu quả
như hệ thống tài chính nhà nước, điều tiết hệ thống tiền tệ, tín dụng, các chính sách
cấu và chương trình hoá kinh tế
. - Nhà nước điều tiết các quá trình sản xuất, định hướng mục tiêu phát triển kinh tế từng
thời kỳ. Tính tự phát của thị trường bị giới hạn bởi sự tác động của các cơ quan Nhà nước,
làm cho nền kinh tế có tính chất tổ chức hơn, cân đối hơn nên đã chống được các cuộc
khủng hoảng kinh tế dữ dội, làm kinh tế phát triển nhanh hơn trước.
7. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM( giáo trình trang 165)
Câu hỏi thêm:
: Phân tích tính tất yếu của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và xu hướng
vận động của chúng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
a- Tính tất yếu của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam
Thời kỳ quá độ còn tồn tại những thành phần kinh tế do lịch sử để lại và còn có lợi cho sự
phát triển kinh tế của CNXH (kinh tế Tư bản tư nhân, kinh tế cá thể)
- Do chính sách cải tạo XHCN nền kinh tế cũ, nảy sinh những thành phần kinh tế mới
(kinh
tế tư bản nhà nước, các loại hình hợp tác xã)
- Do yêu cầu xây dựng xã hội mới và nền kinh tế mới, các thành phần kinh tế mới ra đời
(kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể)
- Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần khắc phục được tình trạng ộc quyền, tạo ra động
lực cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế để thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế quá độ vừa
là tất yếu, cần thiết, vừa là phương tiện để đạt được mục đích của nền sản xuất xã hội. Nó
vừa tạo cơ sở làm chủ về kinh tế vừa bảo đảm kết hợp hài hoà hệ thống lợi ích kinh tế. Đó
chính là động lực của sự phát triển.
b- Xu hướng vận động của nền kinh tế nhiều thành phần:
- Xã hội hoá nền sản xuất là xu hướng vận động cơ bản của nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng XHCN với vai trò chủ đạo là kinh tế quốc doanh.
- Xã hội hoá sản xuất hiểu theo nghĩa đơn giản là sự phân công lao động đi đôi với chuyên
môn hoá, mở rộng thêm nhiều ngành nghề sản xuất mới, hợp thành một quá trình sản
xuất xã hội.
- Xã hội hoá sản xuất hiểu theo nghĩa chung nhất là sự liên kết nhiều quá trình kinh tế
riêng biệt thành quá trình kinh tế xã hội.
- Xã hội hoá XHCN nền sản xuất phải xem xét trên 3 mặt sau:
+ Kinh tế - xã hội (mà nội dung là quan hệ sở hữu về TLSX)
+ Kinh tế - kỹ thuật hay công nghệ (mà nội dung thể hiện ở trình độ lực lượng sản xuất và
cơ sở vật chất của nó)
+ Kinh tế tổ chức (mà nội dung thể hiện ở tổ chức và quản lý nền sản xuất xã hội)
- Đối với nước ta trong thời kỳ quá độ, thực hiện xã hội hoá sản xuất theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa. Xã hội hoá sản xuất là quá trình có tính quy luật để xây dựng nền kinh tế
sản xuất lớn hiện đại. Đó cũng là xu hướng vận động cơ bản của nền kinh tế nước ta trong
thời kỳ quá độ.
Trình bầy các thành phần kinh tế và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế ở
nước ta hiện nay. Vì sqao kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo?
a- Các thành phần kinh tế và vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh
- Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ còn đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế
và mỗi thành phần có đặc điểm riêng của nó.
- Thành phần kinh tế quốc doanh (KTQD) bao gồm các xí nghiệp quốc doanh, các nông
trường quốc doanh, thương nghiệp quốc doanh.
Thành phần kinh tế quốc doanh dựa trên sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất (TLSX). Kinh
tế quốc doanh có số lượng vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật mạnh hơn hẳn các thành phần
kinh tế khác: số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế và
công nhân kỹ thuật lành nghề đông đảo, kinh tế quốc doanh có khả năng liên doanh, liên
kết với các đơn vị kinh tế trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, kinh tế
quốc doanh nắm các ngành, các khâu và các sản phẩm then chốt của nền kinh tế quốc dân.
Với những đặc điểm đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế và định hướng
phát triển các thành phần kinh tế.
- Thành phần kinh tế tập thể (KTTT) bao gồm các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ. Kinh tế tập thể dựa trên sở hữu tập thể về tư
liệu sản xuất (trừ ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân). Đây là thành phần kinh tế tuy trình
độ hoá lực lượng sản xuất, tổ chức và quản lý sản xuất còn thấp hơn kinh tế quốc doanh
nhưng sản xuất với lượng hàng hoá rất lớn cung ứng cho sản xuất và tiêu dùng đời sống
xã hội. Sản phẩm của kinh tế tập thể trong nông, lâm, thổ sản và thuỷ sản là nguồn nguyên
liệu cho sản xuất công nghiệp chế biến và là nguồn lương thực thực phẩm quan trọng cho
tiêu dùng đời sống xã hội.
- Thành phần kinh tế tư bản tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân TBCN về tư
liệu sản xuất và quan hệ bóc lột sức lao động làm thuê. Dưới CNXH sự tồn tại thành
phần kinh tế tư bản tư nhân là một tất yếu khách quan. Nhà tư bản được phép hoạt
động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn và kỹ thuật, sử dụng năng lực tổ chức và
quản lý sản xuất kinh doanh để tạo ra của cải vật chất làm giầu cho nền kinh tế
XHCN. Trong thời kỳ quá độ, kinh tế tư bản tư nhân có thể liên doanh với Nhà nước
XHCN bằng nhiều hình thức như kinh tế tư bản nhà nước.
- Thành phần kinh tế cá thể dựa trên hình thức sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất và lao
động trực tiếp của bản thân người lao động. Kinh tế cá thể có đặc điểm kỹ thuật thủ công,
năng suất lao động thấp, sản xuất nhỏ phân tán. Đây là thành phần kinh tế hoạt động trên
phạm vi rộng trong phạm vi cả nước, có mặt ở các vùng kinh tế, sản xuất trong nhiều lĩnh
vực.Trong cơ chế cạnh tranh thường bị phân hoá. Khi có chính sách kinh tế đúng, kinh tế
cá thể có khả năng đóng góp nhiều lợi ích cho xã hội như tiền vốn, sức lao động, kinh
nghiệm truyền thống sản xuất... Tuy nhiên nhà nước cũng cần có những biện pháp quản
lý thị trường chặt chẽ để hạn chế và khắc phục tính tự phát cuả nó.
- Ngoài các thành phần kinh tế chủ yếu trên đây, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ còn có
kinh tế gia đình. Đây là bộ phận kinh tế có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thêm
việc làm và thu nhập cho người lao động trong điều kiện các thành phần kinh tế chưa giải
quyết được thoả mãn nhu cầu. Nhà nước ta chủ trương duy trì và phát triển bộ phận kinh
tế gia đình vừa thực hiện chủ trương tự do sản xuất kinh doanh theo pháp luật vừa thực
hiện quyền của công dân về kinh tế theo mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng
và văn minh.
b- Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân thời kỳ quá độ
Các thành phần kinh tế có mối quan hệ vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn
- Tính thống nhất thể hiện ở chỗ là các thành phần kinh tế đều hoạt động trong cùng một
hệ thống phân công lao động xã hội. Sự hoạt động của mỗi thành phần kinh tế đều hướng
vào việc thực hiện mục tiêu chung của nền kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu sản xuất và
nhu cầu đời sống tiêu dùng của nhân dân. Sự phát triển của các thành phần kinh tế là quá
trình thực hiện sự kết hợp các lợi ích kinh tế xã hội, tập thể và người lao động ngày càng
cao hơn.
- Tính mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế là ở chỗ: do lợi ích lâu dài giữa các thành
phần kinh tế khác nhau, mỗi thành phần kinh tế có lợi ích riêng. Giữa kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể mâu thuẫn với kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể, đây là mâu thuẫn
giữa các thành phần trong nội bộ nền kinh tế. Ngay trong nội bộ thành phần kinh tế cũng
có mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp với nhau. Quá trình phát triển mạnh mẽ nền sản
xuất xã hội, quá trình phát triển sức sản xuất, cải tiến kỹ thuật, công nghệ, đổi mới tổ chức
và quản lý kinh tế, thực hiện mạnh mẽ sự phân công lao động sẽ khắc phục được tính mâu
thuẫn giữa các thành phần
8. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ NỘI DUNG CỦA CNH,HDH( giáo trình 215)
Trình bầy mục tiêu, quan điểm cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
a- Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế
- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 Khoá VII đã xác định mục tiêu tổng
quát của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến nền kinh tế đất nước thành một nền
kinh tế công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ và hoàn thiện phù hợp với trình độ phát triển sức sản xuất, mức sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giầu nước mạnh, xã hội công
bằng và văn minh.
- Để thực hiện mục tiêu tổng quát trên, từ nay đến năm 2000 chúng ta cần đạt được mục
tiêu cụ thể: nền kinh tế ổn định và phát triển từng bước. Phấn đấu tăng thu nhập quốc
dân để vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển. Trên cơ sở đó mà nâng cao dần
đời sống nhân dân. Không ngừng củng cố nền quốc phòng và an ninh nhân dân. Chỉ tiêu
phấn đấu nền kinh tế là tăng tổng sản phẩm trong nước từ 2 đến 2,5 so với năm 1990
trong đó công nghiệp tăng bình quân hàng năm 13-15% đưa tỷ trọng công nghiệp trong
tổng sản phẩm quốc dân lên 30% đến năm 2000.
b- Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế
Mục tiêu tổng quát và cụ thể trên đây đã phần nào định hướng phát triển nền kinh tế xã
hội nước ta trước mắt và lâu dài. Để có cơ sở định hướng đúng đắn cho việc xây dựng nội
dung, phương hướng, biện pháp, bước đi trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nền kinh tế, Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 7 Khoá VII đã nêu lên những
quan điểm cơ bản có tính chỉ đạo:
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế phải phát triển theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa.
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế: địa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ với nước ngoài, kết hợp phát triển kinh tế với việc củng cố quốc phòng và an
ninh, xây dựng nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu
bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế Nhà nước là chủ đạo, được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước: tăng trưởng kinh tế gắn với
cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội.
- Khoa học và công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết hợp công
nghệ
truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào kỹ thuật và công nghệ hiện
đại ở những ngành kinh tế, những khâu có đủ điều kiện và có tính quyết định năng lực
của nền kinh tế - xã hội.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển,
lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ: đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa nguồn lực của
nền sản xuất xã hội
Trình bầy tính tất yếu và tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
a- Tính tất yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
- Mỗi phương thức sản xuất của xã hội chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc trên
một cơ sở vật chất - kỹ thuật thích ứng nhất định và chính cơ sở vật chất - kỹ thuật này là
một trong những nhân tố quan trọng nhất để xác định phương thức sản xuất đó thuộc
loại hình xã hội - lịch sử nào và thuộc thời đại kinh tế nào. Công nghiệp hoá là quá trình
tạo dựng nên cơ sở vật chất - kỹ thuật đó.
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, một mặt là sự kế thừa những thành quả đạt được
trong xã hội Tư bản, mặt khác nó được phát triển và hoàn thiện trên cơ sở những thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại và theo yêu cầu của chế độ xã hội
mới.
Đó chính là một nền công nghiệp có công nghệ tiên tiến. Công nghiệp hoá là một tất yếu
khách quan mang lại thành tựu đó cho nền sản xuất xã hội.
- Các nước đxa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa bước vào thời kỳ quá độ xây
dựng CNXH, tiến hành thực hiện quá trình tái công nghiệp hoá nhằm điều chỉnh, bổ xung
và hoàn thiện cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ hiện đại theo yêu cầu của chế độ xã
hội mới.
- Các nước có nền kinh tế chưa phát triển cao, nhất là các nước nông nghiệp lạc hậu thì
tiến lên CNXH, tiến hành công nghiệp hoá Xã hội chủ nghĩa để xây dựng cơ sở vật chất
kỹ
thuật của CNXH là một tất yếu khách quan. Không tiến hành công nghiệp hoá thì không
thể xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, không thể thực hiện phân công lao động xã
hội, không có Chủ nghĩa Xã hội.
b- Tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình làm biến đổi về chất lựclượng sản
xuất và là quá trình xã hội hoá nền sản xuất. Nhờ đó mà năng suất lao động xã hội tăng
lên cao góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân và tích luỹ cho nền kinh tế, nhờ
đó mà nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
- Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra được những cơ sở vật chất - kỹ thuật
công nghệ hiện đại làm cơ sở kinh tế vững chắc cho việc xây dựng, củng cố và phát huy
vai trò kinh tế của Nhà nước.
- Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình thực hiện phân công lại lao động xã
hội, phân vùng kinh tế theo hướng chuyên môn hoá sản xuất, làm cho nền sản xuất xã hội
phát triển đồng đều khắp mọi miền và mọi vùng. Từ đó tạo tiền đề xoá bỏ sự bất bình
đẳng về kinh tế giữa đồng bào các dân tộc, giữa thành thị và nông thôn.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo tiền đề vật chất xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ
làm cơ sở vững chắc thực hiện sự phân công và hợp tác kinh tế Quốc tế.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện cho việc tăng cường, củng cố và hiện đại
hoá nền quốc phòng và an ninh nhân dân.
| 1/33

Preview text:

NỘI DUNG TRỌNG TÂM ÔN TẬP TỰ LUẬN 1. SẢN XUẤT HÀNG HÓA
a) Khái niệm sản xuất hàng hóa
Theo C. Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó, những người
sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán.
b) Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài người. Nền
kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có các điều kiện:
Dưới đấy là hai ưu điểm của sane xuất hàng hóa:
Một là, phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các ngành, các lĩnh
vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành
những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người thực hiện sản xuất một hoặc một số loại
sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của họ lại yêu cầu nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để
thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho những người sản xuất độc
lập với nhau có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng sản
phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức
hàng hóa. C. Mác viết: “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không
phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa” . Sự tách biệt về mặt
kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển.
Ba là, sản xuất hàng hóa quy mô lớn có ưu thế so với sản xuất tự cấp tự túc về quy mô,
trình độ kỹ thuật, Công nghệ, về khả năng thỏa mãn nhu cầu... Vì vậy, sản xuất hàng hóa
quy mô lớn là hình thức tổ chức kinh tế xã hội hiện đại phù hợp với xu thế thời đại ngày nay.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt
trái của nó như phân hóa giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa, tiềm ẩn
những khả năng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá hoại môi trường sinh thái, v.v..
ƯU ĐIỂM VÀ KHUYẾT ĐIỂM CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP. Ưu điểm.
Sản xuất hàng hóa ra đời khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng
người, từng địa phương, từng vùng ở Việt Nam. Ví dụ như vùng đồng đồng bằng sông Cửu
Long, vì thuận lợi cho phát triển nông nghiệp lúa nước nên đây là nơi cung cấp lương thực
chủ yếu cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Sản xuất hàng hoá là để trao đổi đáp ứng nhu cầu của xã hội nên người sản xuất có điều
kiện để chuyên môn hoá cao. Trình độ tay nghề được nâng lên do tích luỹ kinh nghiệm,
tiếp thu được tri thức mới. Công cụ chuyên dùng được cải tiến, kỹ thuật mới được áp dụng
do đó cạnh cạnh tranh ngày càng gay gắt khiến cho năng suất lao động được nâng lên, chất
lượng sản phẩm ngày càng được cải thiện và tốt hơn. Hiệu quả kinh tế được trú trọng làm
mục tiêu đánh giá sự hoạt động của các thành phần kinh tế. Quy mô sản xuất được mở
rộng tạo điều kiện cho việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển.
Sự tác động của các quy luật: Quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh…
buộc người sản xuất phải luôn năng động, nhạy bén, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất
lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho đời sống
vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng được tăng cao, phong phú và đa dạng. Quan hệ
hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường ngày càng được chủ thể sản xuất hàng hoá vận dụng
có hiệu quả hơn và từ đó ngoài các quan hệ kinh tế phát triển mà các quan hệ pháp lý xã
hội, tập quán, tác phong cũng thay đổi.
Bình quân GDP của Việt Nam khi chuyển sang nền sản xuất hàng hóa sau thời kỳ đổi mới
tăng qua các năm. Từ năm 1986 – 1990, GDP của KV1 là 2,7%, KV2 là 4,7% và KV3 là
5,7%. Từ năm 1991 – 1995, GDP của KV1 là 4,1%, KV2 là 12%, KV3 là 8,6%. Từ năm
1996 – 2000, GDP của KV1 là 4,4%, KV2 là 10,6%, KV3 là 5,7%.
Sản xuất hàng hóa làm cho Việt Nam từ một đất nước kém phát triển trở thành một đất
nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đời sống vật chất càng
ngày càng đầy đủ cũng như đời sống tinh thần được cải thiện và ngày càng phong phú. Khuyết điểm.
Làm Phân hóa đời sống dân cư, phân hóa giàu nghèo dẫn đến khủng hoảng kinh tế, thất
nghiệp, lạm phát. Xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội gắn liền với hiện trạng
kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội
Vì chạy theo lợi nhuận tối đa dẫn đến sử dụng bừa bãi, tàn phá tài nguyên và hủy diệt môi
trường ,sinh thái( điển hình là các công ty xả thải bừa bãi ra ngoài môi trường làm ô nhiễm
môi trường). Năm 2004, 5 doanh nghiệp tư nhân đã nhập khẩu 230 tấn phế liệu không
đúng với thực tế khai báo về cảng sài gòn đã vi phạm về quy định bảo vệ môi trường. Đặc
biệt phải kể đến đó là vụ Formosa Hà Tĩnh năm 2016 đã dội lên một làn sóng phẫn nộ của
người dân trên cả nước. Nước thải công nghiệp của công ty TNHH gang thép Hưng
Nghiệp Formusa Hà Tĩnh thải trái phép chưa qua xử lý ra môi trường biển đã làm cho hải
sản chết hàng loạt ven biển bốn tỉnh miền Trung, gây thiệt hại nặng nề về tài sản và môi
trường sinh thái dưới biển, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh, du lịch và đời sống cũng
như sức khỏe của người dân. Ở Việt Nam, các “làng ung thư” xuất hiện ngày càng nhiều.
Để tối thiểu hóa đầu tư, tối đa hóa lợi nhuân, các doanh nghiệp bất chấp sức khỏe người
tiêu dùng, làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Các vụ việc làm sữa lậu, trà sữa
làm từ nguyên liệu kém chất lượng, ngộ độc trà sữa,… ngày càng nhiều. Giải pháp.
Để khắc phục những khuyết tật, hạn chế của nền sản xuất hàng hóa thì vai trò của nhà
nước rất quan trọng. Chính từ tính ưu việt rất riêng, rất có lợi (tuy bên cạnh đó vẫn còn có
những khuyết tật) của sản xất hàng hoá mà tại Đại hội VII Đảng ta đã xác định phương
hướng : Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Nhà nước cần phải tăng cường điều chỉnh và quản lý vĩ mô một cách kiên quyết và khôn
khéo để mọi hoạt dộng vào khuôn khổ và đều tuân theo pháp luật. Nhà nước cần thiết lập
khuôn khổ pháp luật về kinh tế kết hợp với các luật về bảo vệ môi trường sinh thái để xác
định hành vi kinh doanh là hợp pháp hay không và có biện pháp xử lý khi có cá nhân hoặc
tổ chức vi phạm. Thêm vào đó, Nhà nước phải sử dụng có ý thức các quy luật kinh tế
khách quan vào quản lý nền kinh tế sản xuất hàng hóa để phát huy những ưu thế vốn có và
ngăn ngừa, hạn chế những mặt trái khuyết tật của nó. Chính vì vậy, sử dụng "Bàn tay hữu
hình" của Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo ra hành lang và bước đi cho nền
kinh tế thị trường vận động theo định hướng XHCN.
Phân tích các điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa và những ưu thế của sản xuất
hàng hóa so với kinh tế tự nhiên
.Bài làm:
Trước hết, để hiểu sản xuất hàng hoá, ta cần hiểu thế nào là kinh tế tự nhiên. Kinh tế tự
nhiên là kiểu sản xuất tự cung tự cấp, sản phẩm làm ra nhằm thoả mãn nhu cầu của
người trực tiếp sản xuất ra nó. Kiểu sản xuất này gắn liền với nền sản xuất nhỏ, lực
lượng lao động phát triển thấp, phân công lao động kém phát triển.Sản xuất hàng hoálà
kiểu tổ chức sản xuất trong đó sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng nhu cầu của
người trực tiếp sản xuất mà đáp ứng nhu cầu của xã hội thông qua trao đổi mua bán
Để sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại cần có hai điều kiện:
Thứ nhất là phải có sự phân công lao động xã hội, tức là có sự chuyên môn hoá sản
xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác. Sự phân
chia lao động xã hội sẽ làm cho việc trao đổi sản phẩm trở nên tất yếu vì khi đó mỗi
người khi đó sẽ chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm trong khi họ có nhu cầu sử
dụng nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó, tất yếu dẫn đến trao đổi mua bán. Sự
phân công lao động cũng làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư
ngày càng nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến.. Đây là tiền đề,cơ sở cho
sản xuất hàng hoá.Thứ hai là phải có sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất
về mặt kinh tế, tức là những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập
nhất định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối. Trong lịch
sử, sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định còn trong nền sản
xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệusản xuất quy
định.Đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai điều
kiện trên sẽ không có sản xuất hàng hoá.
So với sản xuất tự cung tự cấp thì sản xuất hàng hoácó những ưu thế hơn hẳn.Do sản
xuất hàng hoádựa trên sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất nên nó
khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở
cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sản xuất hàng hoácũng tác động trở
lại làm cho phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng tăng, mối
quan hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó, làm cho
năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ
hơn.Trong nền sản xuất hàng hoá, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nguồn
lực và nhu cầu của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng mà nó được mở rộng,
dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực xã hội. Từ đó, tạo điều kiện cho việc ứng dụNg
những thành tựu khoa học- kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, chuyển
từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.Trong nền sản xuất hàng hóa, để tồn tại và sản xuất
có lãi, người sản xuất phải luôn luôn năng động, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất,
nângcao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của
người tiêu dùng. Nhờ đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động
tăng, hiệu quả kinh tế ngày càng cao.Sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh
tế giữa các cá nhân, các vùng, các nước... không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả
đời sống văn hoá, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.Tóm
lại, trong khi sản xuất tự cung tự cấp bị giới hạn bởi như cầu và nguồn lực cá nhân, gia
đình, quy mô sản xuất nhỏ, không tạo được động lực thúc đẩy sản xuất phát triển thì
sản xuất hàng hoá lại tạo được động lực sản xuất phát triển, làm chosản xuất phù hợp
với nhu cầu, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mỗi cá nhân và toàn xã hội. 2. TIỀN TỆ
a- Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi
hàng hoá, của các hình thái giá trị hàng hoá.
b- Các hình thái giá trị hàng hoá - Hình thái giản đơn (hay ngẫu nhiên). ở hình thái
này, hàng hoá thứ nhất biểu hiện giá trị của nó ở hàng hoá thứ hai, còn hàng hoá
thứ hai đóng vai trò là vật ngang giá. - Hình thái giá trị mở rộng. Khi số hàng hoá
trao đổi trên thị trường nhiều hơn, thì một hàng hoá có thể trao đổi với nhiều hàng
hoá khác. - Hình thái giá trị chung. Khi hàng hoá phát triển hơn, trao đổi hàng hoá
trở nên rộng rãi hơn, thì có một hàng hoá được tách ra làm vật ngang giá chung.
Vật ngang giá chung có thể trao đổi với bất kỳ hàng hoá nào. Vật ngang giá chung
trở thành phương tiện trao đổi. Mỗi địa phương, mỗi dân tộc thường có những vật
ngang giá chung khác nhau. - Hình thái tiền tệ. Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá
phát triển cao hơn nữa, vật ngang giá chung được cố định ở vàng và bạc thì hình
thái tiền tệ ra đời. Khi tiền tệ ra đời, thế giới hàng hoá chia ra hai cực: một cực là
các hàng hoá thông thường, một cực là hàng hoá đóng vai trò tiền tệ. Vậy tiền tệ là
hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò và vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hoá khác.
c- Chức năng của tiền tệ
Kinh tế hàng hoá phát triển, tiền tệ có 5 chức năng: - Thước đo giá trị: Giá trị của
một hàng hoá được biểu hiện bằng một số lượng tiền nhất định. Sở dĩ có thể làm
thước đo giá trị vì bản thân tiền cũng có giá trị. Giá trị của hàng hoá biểu hiện bằng
tiền là giá cả. Do đó, giá trị là cơ sở của giá cả. Giá cả hàng hoá thay đổi lên xuống
xoay quanh giá trị tuỳ theo quan hệ cung - cầu về hàng hoá, nhưng tổng số giá cả luôn
bằng tổng số giá trị hàng hoá. - Phương tiện lưu thông. Tiền tệ làm môi giới trung
gian trong trao đổi hàng hoá và phải là tiền mặt, việc trao đổi hàng hoá vận động theo
công thức H-T-H - Phương tiện cất trữ: Làm chức năng này, tiền tệ phải có đủ giá trị
như vàng, bạc. - Phương tiện thanh toán. Kinh tế hàng hoá phát triển đến một trình độ
nào đó sẽ sinh ra việc mua, bán chịu. Tiền tệ sẽ là phương tiện thanh toán, thực hiện
trả tiền mua, bán chịu, trả nợ... Chức năng này phát triển làm tăng thêm sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá. - Tiền tệ thế giới. Khi quan hệ trao đổi,
mua, bán hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia và quan hệ buốn bán giữa các nước
hình thành, thì chức năng này xuất hiện. Tiền tệ thế giới phải là tiền có đủ giá trị, tức là vàng, bạc...
Tóm lại, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá, tiền có 5chức năng.
Những chức năng này có quan hệ mật thiết và thông thường tiền làm nhiều chức năng một lúc.
VÌ SAO VÀNG ĐƯỢC GỌI LÀ MỘT ĐƠN VỊ TIỀN TỆ. HÃY GIẢI THÍCH SỰ
XUẤT HIỆN CỦA TIỀN GIẤY TRONG LƯU THÔNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ.
1. Vì sao vàng được gọi là một đơn vị tiền tệ.
Vàng được chọn làm đơn vị tiền tệ trước hết do vàng cũng là hàng hóa và có hai thuộc
tính là giá trị và giá trị sử dụng. Mặt khác, vật liệu vàng có những đặc tính rất phù hợp
với việc sử dụng nó làm của cải và phương tiện trao đổi.
Giá trị sử dụng của vàng là công dụng của vàng nhằm thoả mãn nhu cầu của con
người. Giá trị sử dụng của vàng do chính những thuộc tính tự nhiên của vàng quy
định, như: dễ dát mòng, chia nhỏ; ít hao mòn; không bị ôxy hoá trong môi trường tự
nhiên, khối lượng riêng lớn... Những thuộc tỉnh đó làm cho vàng có ưu thế hơn tất cả
các hàng hoá khác, vì vậy vàng được chọn làm đơn vị tiền tệ, làm thước đo giá trị cho
tất cả các hàng hoá khác.
Giá trị của vàng là hao phí lao động xã hội của ng khai thác và chế tác vàng kết tinh
trong đó. Do điều kiện tự nhiên, vàng khan hiềm (tổng lượng vàng mà con người đã
khai thác cho đến nay chỉ khoảng 125 ngàn tấn) và khó khai thác nên vàng là hàng
hóa chứa đựng một lượng giá trị lớn và ổn định. Vàng có giá trị nên vàng có khả năng
làm thước đo giá trị cho tất cả các hàng hoá khác.
Để thực hiện được vai trò của mình, tiền tệ phải có những đặc điểm như: được chấp
nhận rộng rãi, dễ nhận biết, dễ bảo quản và vận chuyển, khan hiếm, đồng nhất... Vàng
có đầy đủ những đặc tính trên nên đã được chọn làm tiền tệ.
2. Sự xuất hiện của tiền giấy trong lưu thông và tác động của nó.
Tiền giấy xuất hiện trong lưu thông là do nên sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển
trong khi vàng ngày càng trở nên khan hiếm. Vì vậy việc sử dụng vàng làm thước đo
giá trị cho những hàng hoá có giá trị nhỏ gặp nhiều khó khăn. Để giải quyết khó khăn
này, người ta đưa tiền giấy và tiền kim loại giá trị nhỏ hơn vàng vào lưu thông. Tuy
nhiên tiền được làm bằng các kim loại tỏ ra không ưu thế bằng tiền giấy. khó cất trữ,
khó vận chuyển, khó đưa vào tiền những dấu hiệu bảo hiểm... Ban đầu, tiền giấy còn
phụ thuộc vào chế độ bản vị vàng nhưng ngày nay, nó trở nên độc lập và được sử
dụng phổ biến ở các nền kinh tế.
Tác động của việc xuất hiện tiền giấy trong lưu thông.
Tiền giấy được đưa vào lưu thông mang lại nhiều lợi ích cho hoạt động sản xuất và
trao đổi hàng hóa của con người như: giải quyết được tình trạng khan hiếm tiền trong
lưu thông, quá trình trao đổi trở nên thuận tiện hơn, tiền giấy dễ sử dụng, in ăn, vận chuyển, cất giữ…
Tuy nhiên, việc sử dụng tiền giấy cũng dẫn đến nhiều mặt hạn chế như tiền giấy bản
thân nó không có giá trị nội tại nên không có khả năng làm chức năng cắt trữ mặt
khác nó lại thoát li khỏi giá trị của vàng. Đây chính là nguyên nhân của làm phát, gây
ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế, xã hội. Ngoài ra còn xuất hiện tỉnh trang làm tiền
già gây nhiều loạn nền kinh tế
2. Tại sao các chuyên gia kinh tế thường đưa ra lời khuyên: “nên cất giữ của cải bằng vàng”?
Giải thích câu nói “nên cất giữ của cải bằng vàng”- khẳng định này nhấn mạnh chức
năng cất trữ của tiền. Chức năng này được thực hiện giúp xã hội cất giữ được của cải
để phục vụ cho những hoạt động trong tương lai. Tuy nhiên, tiền tệ ngày nay chủ yếu
là tiền ký hiệu (tiền giấy, tiền kim loại) – là những loại tiền mà giá trị nội tại xa rời giá
trị đại diện (thường là thấp hơn rất nhiều) và không ổn định. Vì vậy, khi cất trữ tiền ký
hiệu, giá trị của cải tích trữ sẽ không ổn định. Trong khi đó, tiền vàng với giá trị nội
tại lớn, ổn định, được thừa nhận rộng rãi, tiền vàng thực hiện tốt nhất chức năng
phương tiện cất trữ. Cất trữ của cải bằng vàng sẽ giúp bảo tồn giá trị của của cải tốt nhất. 3.THỊ TRƯỜNG
a) Khái niệm và phân loại thị trường
- Khái niệm thị trường
Thị trường là tổng hòa những quan hệ kinh tế, trong đó nhu cầu của các chủ thể được
đáp ứng thông qua việc trao đổi, mua bán với sự xác định giá cả và số lượng hàng
hóa, dịch vụ tương ứng với trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội.
Như vậy, thị trường có thể được nhận diện ở cấp độ cụ thể, quan sát được như chợ,
cửa hàng, quầy hàng lưu động, phòng giao dịch hay siêu thị và nhiều hình thức tổ
chức giao dịch, mua bán khác.
Ở cấp độ trừu tượng hơn, thị trường cũng có thể được nhận diện thông qua các mối
quan hệ liên quan đến trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ trong xã hội, được hình
thành do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội nhất định. Theo nghĩa này, thị trường
là tổng thể các mối quan hệ kinh tế gồm cung, cầu, giá cả; quan hệ hàng - tiền; quan
hệ giá trị, giá trị sử dụng; quan hệ hợp tác, cạnh tranh; quan hệ trong nước, ngoài
nước... Đây cũng là các yếu tố của thị trường.
- Phân loại thị trường
Căn cứ vào đối tượng trao đổi, mua bán cụ thể, có các loại thị trường như: thị trường
hàng hóa, thị trường dịch vụ. Trong mỗi loại thị trường này lại có thể chia cụ thể
thành các thị trường theo các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau.
Căn cứ vào phạm vi các quan hệ, có thị trường trong nước và thị trường thế giới.
Căn cứ vào vai trò của các yếu tố được trao đổi, mua bán, có thị trường tư liệu tiêu
dùng và thị trường tư liệu sản xuất.
Căn cứ vào tính chất và cơ chế vận hành, có thể chia thành : thị trường tự do, thị
trường có điều tiết, thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường cạnh tranh không hoàn hảo (độc quyền).
Ngày nay, các nền kinh tế phát triển ngày càng nhanh và phức tạp hơn, do đó hệ thống
thị trường cũng biến đổi cho phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của nền kinh
tế. Vì vậy, để tổ chức có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi phải hiểu rõ
bản chất của hệ thống thị trường, những quy luật kinh tế cơ bản của thị trường và các vấn đề liên quan khác.
b) Vai trò của thị trường
Xét trong mối quan hệ với thúc đẩy sản xuất và trao đổi hàng hóa (dịch vụ) cũng
như thúc đẩy tiến bộ xã hội, vai trò chủ yếu của thị trường có thể được khái quát như sau:
Một là, thị trường thực hiện giá trị hàng hóa, là điều kiện, môi trường cho sản xuất phát triển.
Giá trị hàng hóa được thực hiện thông qua trao đổi. Việc trao đổi phải được diễn ra
ở thị trường. Thị trường là môi trường để các chủ thể thực hiện giá trị hàng hóa. Sản
xuất hàng hóa càng phát triển, sản xuất ra càng nhiều hàng hóa, dịch vụ thì càng đòi
hỏi thị trường tiêu thụ phải rộng lớn hơn. Sự mở rộng thị trường đến lượt nó lại thúc
đẩy trở lại sản xuất phát triển. Vì vậy, thị trường là môi trường, là điều kiện không thể
thiếu của quá trình sản xuất kinh doanh.
Thị trường là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng. Thị trường đặt ra các nhu cầu
cho sản xuất cũng như nhu cầu cho tiêu dùng. Vì vậy, thị trường có vai trò thông tin,
định hướng cho mọi nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Hai là, thị trường kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội, tạo ra
cách thức phân bổ nguồn lực hiệu quả trong nền kinh tế.
Thị trường thúc đẩy các quan hệ kinh tế không ngừng phát triển. Do đó, đòi hỏi
các thành viên trong xã hội phải không ngừng nỗ lực, sáng tạo để thích ứng với sự
phát triển của thị trường. Khi sự sáng tạo được thị trường chấp nhận, chủ thể sáng tạo
sẽ được thụ hưởng lợi ích tương xứng. Khi lợi ích được đáp ứng, động lực cho sự
sáng tạo được thúc đẩy. Cứ như vậy sẽ kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội.
Thông qua thị trường, các nguồn lực cho sản xuất được điều tiết, phân bổ tới các
chủ thể sử dụng hiệu quả, thị trường tạo ra cơ chế để lựa chọn các chủ thể có năng lực
sử dụng nguồn lực hiệu quả trong nền sản xuất.
Ba là, thị trường gắn kết nền kinh tế thành một chỉnh thể, gắn kết nền kinh tế quốc gia
với nền kinh tế thế giới.

Xét trong phạm vi quốc gia, thị trường làm cho các quan hệ sản xuất lưu thông, phân
phối, tiêu dùng trở thành một thể thống nhất. Thị trường không phụ thuộc vào địa giới
hành chính. Thị trường gắn kết mọi chủ thể giữa các khâu, giữa các vùng, miền vào
một chỉnh thể thống nhất.
Xét trong quan hệ với nền kinh tế thế giới, thị trường tạo ra sự gắn kết nền kinh tế
trong nước với nền kinh tế thế giới. Các quan hệ sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu
dùng không chỉ bó hẹp trong phạm vi nội bộ quốc gia, mà thông qua thị trường, các
quan hệ đó có sự kết nối, liên thông với các quan hệ trên phạm vi thế giới. Với vai trò
này, thị trường góp phần thúc đẩy sự gắn kết nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới.
Vai trò của thị trường luôn không tách rời với cơ chế thị trường. Thị trường trở nên
sống động bởi có sự vận hành của cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ mang tính tự điều chỉnh tuân theo yêu
cầu của các quy luật kinh tế.
Cơ chế thị trường là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các nguồn vốn,
tài nguyên, công nghệ, sức lao động, thông tin, trí tuệ... trong nền kinh tế thị trường.
Đây là một kiểu cơ chế vận hành nền kinh tế mang tính khách quan, do bản thân nền
sản xuất hàng hóa hình thành. Cơ chế thị trường được A. Smith ví như là một "bàn tay
vô hình" có khả năng tự điều chỉnh các quan hệ kinh tế.
Câu 14: Trình bầy thị trường và cơ chế thị trường. Phân tích các chức năng cơ bản của thị trường? a- Thị trường.
Theo nghĩa hẹp là nơi gặp nhau giữa người mua và người bán để trao đổi hàng hoá và
dịch vụ. Hiểu rộng hơn, thị trường là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ theo
yêu cầu của quy luật sản xuất và lưu thông hàng hoá, là tổng hợp các mối quan hệ lưu
thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.
Căn cứ vào nội dung quan hệ thị trường, có thị trường hàng tiêu dùng, thị trường sức
lao động, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán. Căn
cứ vào phạm vi hoạt động, có thị trường địa phương, thị trường dân tộc, thị trường
khu vực và thị trường thế giới.
b- Cơ chế thị trường. Đó là cơ chế hoạt động của kinh tế hàng hoá, cơ chế tự điều tiết
quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá theo những yêu cầu khách quan của các quy
luật kinh tế vốn có của nó như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung -
cầu, quy luật lưu thông tiền tệ. Cơ chế thị trường là tổng thể hữu cơ của các nhân tố
kinh tế: cung, cầu, giá cả trong đó người sản xuất và người tiêu dùng tác động lẫn
nhau thông qua thị trường để xác định 3 vấn đề cơ bản là: sản xuất cái gì? sản xuất
như thế nào? sản xuất cho ai?
c- Các chức năng cơ bản của thị trường
- Thừa nhận công dụng xã hội của sản phẩm và lao động chi phí sản xuất nó. Sản xuất
hàng hoá là việc riêng của từng người, có tính độc lập tương đối với người sản xuất
khác. Nhưng hàng hoá của họ có đáp ứng nhu cầu xã hội về chất lượng, hình thức, thị
hiếu người tiêu dùng không? giá trị của hàng hoá có được thừa nhận không? Chỉ có
trên thị trường và thông qua thị trường các vấn đề trên mới được khẳng định.
- Là đòn bẩy kích thích và hạn chế sản xuất và tiêu dùng. Trên thị trường mọi hàng
hoá đều mua, bán theo giá cả thị trường. Cạnh tranh và cung cầu làm cho giá cả thị
trường biến đổi. Thông qua sự biến đổi đó, thị trường có tác dụng kích thích hoặc hạn
chế sản xuất đối với người sản xuất, kích thich hoặc hạn chế tiêu dùng đối với người tiêu dùng.
- Cung cấp thông tin cho người sản xuất và người tiêu dùng. thị trường cho biết những
biến động về nhu cầu xã hội, số lượng, giá cả, cơ cấu và xu hướng thay đổi của nhu
cầu các loại hàng hoá, dịch vụ. Đó là những thông tin cực kỳ quan trọng đối với người
sản xuất hàng hoá, giúp họ điều chỉnh sản xuất cho phù hợp với những thông tin của thị trường.
Có rất nhiều chủ thể khác nhau tham gia trị trường và mỗi chủ thể có những vai trò
quan trọng riêng. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét vai trò của một số chủ thể chính, đó là:
người sản xuất, người tiêu dùng, các chủ thể trung gian trong thị trường và nhà nước. 1. Người sản xuất
Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ ra
thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao gồm các
nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ... Họ là những người trực tiếp tạo
ra của cải vật chất, sản phẩm cho xã hội để phục vụ tiêu dùng.
Người sản xuất là những người sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất, kinh doanh và
thu lợi nhuận. Nhiệm vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu hiện tại của xã hội,
mà còn tạo ra và phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục tiêu đạt lợi
nhuận tối đa trong điều kiện nguồn lực có hạn. Vì vậy, người sản xuất luôn phải quan
tâm đến việc lựa chọn sản xuất hàng hóa nào, số lượng bao nhiêu, sản xuất với các
yếu tố nào để có lợi nhất.
Ngoài mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, người sản xuất cần phải có trách nhiệm đối với
con người; trách nhiệm cung cấp những hàng hóa, dịch vụ không làm tổn hại tới sức
khỏe và lợi ích của con người trong xã hội. 2. Người tiêu dùng
Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường để thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự phát triển bền
vững của người sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu cầu của người tiêu dùng là
động lực quan trọng của sự phát triển sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất.
Người tiêu dùng có vai trò rất quan trọng trong định hướng sản xuất. Do đó, trong
điều kiện nền kinh tế thị trường, ngoài việc thỏa mãn nhu cầu của mình, người tiêu
dùng cần phải có trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững của xã hội.
Lưu ý: Việc phân chia người sản xuất, người tiêu dùng chỉ có tính chất tương đối để
thấy được chức năng chính của các chủ thể này khi tham gia thị trường. Trên thực tế,
doanh nghiệp luôn đóng vai trò vừa là người mua cũng vừa là người bán.
3. Các chủ thể trung gian trong thị trường
Chủ thể trung gian là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa các chủ
thể sản xuất, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
Do sự phát triển của sản xuất và trao đổi dưới tác động của phân công lao động xã
hội, làm cho sự tách biệt tương đối giữa sản xuất và trao đổi ngày càng sâu sắc; trên
cơ sở đó xuất hiện những chủ thể trung gian trong thị trường. Những chủ thể này có
vai trò ngày càng quan trọng để kết nối, trao đổi thông tin trong các quan hệ mua - bán.
Nhờ vai trò của các chủ thể trung gian này mà nền kinh tế thị trường trở nên sống
động, linh hoạt hơn. Hoạt động của các chủ thể trung gian trong thị trường làm tăng
cơ hội thực hiện giá trị của hàng hóa cũng như thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng.
Các chủ thể trung gian làm tăng sự kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm cho sản
xuất và tiêu dùng trở nên ăn khớp với nhau.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, các chủ thể trung gian thị
trường không chỉ có các trung gian thương nhân mà còn rất nhiều các chủ thể trung
gian phong phú trên tất cả các quan hệ kinh tế như: trung gian môi giới chứng khoán,
trung gian môi giới nhà đất, trung gian môi giới khoa học - công nghệ... Các trung
gian trong thị trường không những hoạt động trên phạm vi thị trường trong nước mà
còn trên phạm vi quốc tế. Bên cạnh đó cũng có nhiều loại hình trung gian không phù
hợp với các chuẩn mực đạo đức (lừa đảo, môi giới bất hợp pháp...) và cần được loại trừ. 4. Nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường, xét về vai trò kinh tế, nhà nước thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế, đồng thời thực hiện những biện pháp để khắc phục
những khuyết tật của thị trường.
Với trách nhiệm như vậy, một mặt, nhà nước thực hiện quản trị phát triển nền kinh tế
thông qua việc tạo lập môi trường kinh tế tốt nhất cho các chủ thể kinh tế phát huy
sức sáng tạo của họ. Việc tạo ra các rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh từ
phía nhà nước sẽ kìm hãm động lực sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Các
rào cản như vậy phải được loại bỏ. Việc này đòi hỏi mỗi cá nhân có trách nhiệm trong
bộ máy quản lý nhà nước cần phải nhận thức được trách nhiệm của mình là thúc đẩy
phát triển, không gây cản trở sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Cùng với đó, nhà nước còn sử dụng các công cụ kinh tế để khắc phục các khuyết tật
của nền kinh tế thị trường, làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả. 4.GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Phân tích quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa trước hết là quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng.
Nhưng mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mả là giá
trị, hơn nữa là giả trị thặng dư. Bất kì một nhà tư bản nào cũng đều hướng đến mục
đích đạt được càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt, nói cách khác, sản xuất giá trị
thăng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB. Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
là một quá trình hai mặt quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra
giá trị thặng dư. Vấn đề ở đây là xét mặt thứ hai của quá trình sản xuất TBCN.
Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản xuất sợi cản một
nhà bản làm ví dụ. Đây là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị củ dụng và
quá trình lớn lên của giá trị hay là quá trình sản xuất giá thị thặng dư:
Giả sử để sản xuất ra 10kg sợi cần tư liệu sản xuất là 10kg bằng với giá 105. Để biến
số bảng trên thành sợi, một người công nhân cầu lao động trong vòng 4 giờ, đồng
thời, chỉ phi hao mòn máy móc là 25 và giá trị sức lao động trong một ngày (8 giả lao động) là 35.
Với ví dụ trên, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong 4 giờ thì nhà tư bản
phải ủng ra 15S và giá trị của sản phẩm mới (10kg sợi) mà nhà tư bản thu được cũng
là 15$. Vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến điểm bù đáp lại giá trị sức lao
động (4 giờ) thỉ chưa thể tạo ra giá trị tháng dư
Tuy nhiên, quá trình lao động không chỉ dừng lại ở điểm đó. Việc sử dụng sức lao
động trong ngay thuộc quyền của nhà tư bản. Nhà tư bản đã trả tiền mua hàng hóa sức
lao động của công nhân trong một ngày (8 giờ). Do đó, khi bất công nhân làm thêm 4
giờ nữa, toàn bộ chi phí sản xuất mà nhà từ ho ra là 275 còn giá trị sản phẩm mới
(20kg sơn) là 305. 275 ứng trước trên đã chuyển hóa thành 305 con số dõi ra (35)
chính là giá trị tháng dư Tiên tệ img ra ban đầu đã chuyển hóa thành tư bản
3. Liên hệ với quá trình sản xuất trong kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam hiện nay kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lợi ích cá nhân. Kinh tế tư nhân gồm những hộ gia
đình, những doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các hoạt động sản xuất như nông
nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ, đánh bắt và chế bên thủy hải sản.
Trong 30 năm đổi mới của đất nước, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của
nền kinh tế Kinh tế tư nhân đóng góp gần 40% GDP và thu hút hơn 80% lực lượng lao
động xã hội”. Sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua không
chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động mà còn tạo ra
những doanh nghiệp nổi tiếng trong khu vực và quốc tế. VD Tập đoàn Hòa Phát. Ô tô Trường Hải,…
Bởi vậy,Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là
trong những ngành, những lĩnh vực có lợi cho quốc kê dân sinh và khuyến khích làm
ăn theo đúng pháp luật. Phát triển kinh tế tư nhân nhằm mục đích khuyến khích làm
giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo.
Câu 2 : Phân tích hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư. Nếu ý nghĩa thực
tiễn của việc nghiên cứu vấn đề?
1. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
Đề có khối lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn các nhà tư bản sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế kỹ thuật trong từng giai đoạn phát triển của
CNTB. Có hai phương pháp cơ bản sản xuất giá trị thặng dư: sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Thứ nhất, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Khái niệm: Là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian
lao động vượt quả thời gian lao động cần thiết, trong khả năng suất lao động, giá trị
sức lao động và thời gian lao động cần thiết không thay đổi.
VD Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao đồng
thăng du là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị, thì giá trị
thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là: m' – 40 40 x 100 % = 100%.
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, mọi điều kiện khác vẫn như cũ, thì giá trị
thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và tỉ suất giá thị thặng dư cũng tăng lên thành m'-60/40 x 100% = 150%.
Như vậy, trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, ngày lao động kéo
dài, tức là thời gian lao động thặng dư tăng lên và kéo theo tỷ suất giá trị thặng dư
cũng tăng theo. Bởi vậy mà các nhà tư bản đã tìm mọi cách kéo dài ngày lao động
nhằm mục đích sản xuất ra ở mức tối đa nhất
Khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không
thay đổi, thì thời gian lao động tháng dư tăng lên, tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên.
Phương pháp nâng cao trình độ bóc lột bằng cách kéo dài toàn bộ ngày lao động một
cách tuyệt đối gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải giới hạn về thể chất và tinh thần, đồng thời
vấp phải sức đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của công nhân. Nhà tư bản luôn cố gắng
tìm mọi cách để kéo dài ngày làm việc của công nhân, nhưng việc kéo dài ngày lao
động không thể vượt quá giới hạn sinh lý (vi công nhẫn còn phải có thời gian ăn, ngủ,
nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khoẻ) thì gặp phải sự phản khủng gay gắt của giai
cấp công nhân đòi giảm giờ làm. Điều này cũng chính là hạn chế của việc kéo dài
ngày lao động của các nhà tư bản.
Khi đô dài ngày lao động không thay đổi, nhà tư bản sẽ nâng cao trình độ bóc lột bang
việc tăng cường độ lao động. Thực chất tăng cường độ lao động cũng giống như kéo
dài ngày lao động Vì vậy, kéo dài thời gian lao động và tăng cường độ lao động là để
sản xuất giả trị thang dư tuyệt đối.
Thứ hai, sản xuất giá trị thặng dư tương đói
Khái niệm: Là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong
điều kiện độ dài của ngày lao động không đối, nhờ đó tăng thời gian lao động thang du.
VD: ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu
và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư thì tỷ suất giả trị thặng dư là m' = 4/4 x 100 % - 100%
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3 giờ
lao động đã tạo ra được một lượng giả trị mới bằng với giá trị sức lao động của minh.
Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi 3 giờ là thời gian lao động tất yếu và
5 giờ là thời gian lao động thăng dư. Như vậy, tỷ suất giá trị thăng dư đã tăng từ 100% lên 166%.
Phương pháp: Sản xuất giá trị tương đối là phương pháp nâng cao trình độ bóc lột
bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo dài thời gian động thăng dư
trong điều kiện độ dài của ngày lao động vẫn như cũ gọi là phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư tương đối.
Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yểu thì phải hạ thấp giá trị sức lao động, bằng
cách giảm giá trị tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Do đó
phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt, các
ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
Nếu trong giai đoạn đầu của CNTB, sản xuất giá trị tháng dư tuyệt đối là phương
pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng
dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Bởi vì việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn
về thể chất và tinh thần của người lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày cảng
mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất TBCN phát triển đến giai
đoạn đại công nghiệp cơ khi kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên
nhanh chóng thì các nhà từ ban chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng
năng suất lao động bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới
CNTB đã trải qua ba giai đoạn hợp tác giản đơn công trường thủ công và đại công
nghiệp cơ khi, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị tháng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết
hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê. Dưới chủ nghĩa tư bản
việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân,
mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hoá sản
xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới sự căng tháng
của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp
2. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu các quy luật giả trị thặng dư.
Quá trình nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị tháng dư cho thấy, khi gạt bỏ
mục đích và tinh chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản thì sản xuất ra giá trị tháng du
chỉnh là khoa học sử dụng lao động có hiệu quả nhất mà bất kỳ Xã hội nào cũng cần
phải quan tâm. Bởi vậy, các phương pháp sản xuất giá trị tháng du có thể vận dụng
trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất tăng năng suất lao động xã
hội, sử dụng kĩ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lí, tiết kiệm chi phí sản xuất.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản
xuất giá trị thặng dư gợi ra cho nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của
cải thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp,
để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao động
và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao
động xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là giải
pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội.
Quy luật giá trị thặng dư đã phát huy vai trò to lớn của nó, đem lại những tiến bộ vượt
bác và thành tựu kinh tế cho CNTB. Nước ta nói riêng và các nước XHCN nói chung
cần nỗ lực không ngừng trên con đường của mình để xây dựng CNXH trên thế giới.
Riêng nước ta, đang trong giai đoạn quá độ lên CNXH từ chế độ phong kiến bỏ qua
giai đoạn TBCN với xuất phát điểm là một nền kinh tế lạc hậu chủ yếu là dựa vào
nông nghiệp. Yêu cầu đặt ra là phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Vì
vậy, chúng ta phải học tập những thành tựu mà CNTB đã đạt được trọng đó quan tâm
đặc biệt đến quy luật kinh tế cơ bản của nó là giả trị thông dư, sửa chữa quan niệm sai
lầm trước kia trong xây dựng kinh tế.
5, LỢI NHUẬN, CHI PHÍ SẢN XUẤT. LỢI NHUẬN BÌNH QUÂN a, Lý thuyết: 1. Lợi nhuận
Để làm rõ bản chất của lợi nhuận, C. Mác bắt đầu phân tích làm rõ chi phí sản xuất.
a) Chi phí sản xuất
Mục đích của nhà tư bản là thu hồi được giá trị tư bản đã ứng ra từ giá trị hàng hóa đã
bán được. Khái niệm chi phí sản xuất xuất hiện trong mối quan hệ đó. Ví dụ:
Để sản xuất ra hàng hóa nhà tư bản phải đầu tư khối lượng tổng tư bản có giá trị là 1.000.000 USD, trong đó:
- Mua máy móc: 500.000 USD. Máy móc này được sử dụng trong 10 chu kỳ sản xuất
(giả định là 10 năm), nghĩa là mỗi năm sẽ khấu hao 50.000 USD, phần này sẽ được
chuyển vào giá trị hàng hóa của 1 năm.
- Nguyên, nhiên, vật liệu: 400.000 USD/năm
- Tư bản khả biến: 100.000 USD/năm;
- Tỷ suất giá trị thặng dư: 100%
Trong trường hợp như vậy, giá trị hàng hóa được tạo ra trong một năm là:
400.000 USD + 50.000 USD + 100.000 USD + 100.000 USD = 650.000 USD
Nếu trong giá trị 650.000 USD trừ đi 100.000 USD là giá trị thặng dư thì chỉ còn lại
550.000 USD. Phần này được gọi là chi phí sản xuất.
Khái niệm chi phí sản xuất:
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị của hàng hóa, bù lại giá cả của
những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và giá cả của sức lao động đã được sử dụng để
sản xuất ra hàng hóa ấy. Đó là chi phí mà nhà tư bản đã bỏ ra để sản xuất ra hàng hóa.

Chi phí sản xuất được ký hiệu là k.
Về mặt lượng: k = c + v.
Khi xuất hiện phạm trù chi phí sản xuất thì giá trị hàng hóa G = c + (v+m) sẽ biểu hiện thành: G = k + m.
Chi phí sản xuất có vai trò quan trọng: bù đắp tư bản về giá trị và hiện vật, đảm bảo
điều kiện cho tái sản xuất trong kinh tế thị trường; tạo cơ sở cho cạnh tranh, là căn cứ
quan trọng cho cạnh tranh về giá bán hàng giữa các nhà tư bản.
b) Bản chất lợi nhuận
Trong thực tế sản xuất kinh doanh, giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất có một
khoản chênh lệch. Do đó sau khi bán hàng hóa (bán ngang giá), nhà tư bản không
những bù đắp đủ số chi phí đã ứng ra mà còn thu được số chênh lệch bằng giá trị
thặng dư. Số chênh lệch này C. Mác gọi là lợi nhuận (ký hiệu là p).
Khi đó giá trị hàng hóa được viết là: G = k + p Từ đó p = G - k.
Từ cách tính toán trên thực tế như vậy, người ta chỉ quan tâm tới khoản chênh lệch
giữa giá trị hàng hóa bán được với chi phí phải bỏ ra mà không quan tâm đến nguồn
gốc sâu xa của khoản chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư chuyển hóa thành. Thậm
chí, với nhà tư bản, lợi nhuận còn được quan niệm là do tư bản ứng trước sinh ra.
C. Mác khái quát: “Giá trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
trước, mang hình thái chuyển hóa là lợi nhuận” .
Điều đó có nghĩa, lợi nhuận chẳng qua chỉ là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư
trên bề mặt nền kinh tế thị trường.
Nhà tư bản cá biệt chỉ cần bán hàng hóa với giá cả cao hơn chi phí sản xuất là đã có
lợi nhuận. Trong trường hợp bán đúng bằng chi phí sản xuất là không có lợi nhuận.
Bán hàng hóa thấp hơn giá trị và cao hơn chi phí sản xuất cũng có thể đã có lợi nhuận.
Trong trường hợp này, lợi nhuận nhỏ hơn giá trị thặng dư. Lợi nhuận chính là mục
tiêu, động cơ, động lực của hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
SÁCH GIÁO TRÌNH TRANG 107,108
So sánh giá trị thặng dư với lợi nhuận, tỷ suất giá trị thặng dư và tỷ suất lợi nhuận.
Tốc độ chu chuyển của tư bản có ảnh hưởng như thế nào tới nhu cầu về tư bản, tỷ
suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hằng năm?
1. Ta biết rằng, nhà tư bản bỏ ra tư bản bao gồm tư bản bất biến c và tư bản khả biến
v để sản xuất ra giá trị thặng dư m. Nhưng các nhà tư bản đã đưa ra một khái niệm
mới là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa K–đó là phần giá trị bù lại giá cả của
những tư liệu sản xuất © và giá cả sức lao động (v) đã tiêu dùng để sản xuất ra
hàng hoá cho nhà tư bản, nghĩa là K = c + v.Khi c + v chuyển thành K như vậy thì
số tiền nhà tư bản thu được trội hơn so với chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa được
gọi là lợi nhuận P. Như vậy, lợi luận thực chất là giá trị thặng dư được quan niệm
là kết quả của toàn bộ tư bản ứng trước. Khi đó, giá trị hàng hoá G = c + v + m
biến thành G = K + P.Về bản chất thì P chính là m nhưng cái khác nhau ở chỗ, m
hàm ý so sánh với v còn P lại hàm ý so sánh nó với K = c + v. P và m thường
không bằng nhau. P có thể cao hơn hoặc thấp hơn m, phụ thuộc vào giá cả hàng
hoá do quan hệ cung -cầu quy định. Nhưng nếu xét trên phạm vi toàn XH, tổng lợi
nhuận luôn bằng tổng giá trị thặng dư
.2. Khi giá trị thặng dư chuyển thành lợi nhuận thì tỷ suất giá trị thặng dư cũng
chuyển thành tỷ suất lợi nhuận.Tỷ suất giá trị thặng dư m’ là tỷ lệ phần trăm giữa
số lượng giá trị thặng dư m với tư bản khả biến v: m’ = m/v . 100(%)Tỷ suất lợi
nhuận P’ là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng
trước: P’ = m/(c + v) . 100(%). Trong thực tế người ta thường tính P’ bằng tỷ lệ
phần trăm giữa lợi nhuân thu được P với tổng tư bản ứng trước K: P’ = P/K .
100(%).Xét về lượng thì tỷ suất lợi nhuận P’ luôn nhỏ hơn tỷ suất giá trị thặng dư
m’.Về chất, tỷ suất giá trị thặng dư biểu hiện đúng mức độ bóc lột của nhà tư bản
đối với lao động còn tỷ suất lợi nhuận chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư
bản. P’ chỉ cho nhà đầu tư tư bản biết đầu tư vào đâu là có lợi.Tỷ suất lợi nhuận
phụthuộc vào tỷ suất thặng dư: tỷ suất thặng dư tăng thì tỷ suất lợi nhuận tăng; tốc
độ chu chuyển tư bản, cấu tạo hữu cơ của tư bản và tiết kiệm tư bản bất biến.
2. Chu chuyển tư bản là sự tuần hoàn của tư bản được lặp đi lặp lại định kỳ, đổi
mớIkhông ngừng. Tốc độ chu chuyển tư bản là số vòng chu chuyển của tư bản
trong một năm. Tốc độ chu chuyển của tư bản có ảnh hưởng rất lớn tới nhu cầu về
tư bản, tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư.Tăng tốc độ chu
chuyển của tư bản cố định làm tăngquỹ khấu hao tài sản cố định, lượng tư bản sử
dụng tăng lên và tránh được những thiệt hai do hao mòn hữu hình và vô hình gây
ra. Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động
được sử dụng trong một năm, nhờ đó, sẽ tiết kiệm được tư bản ứng trước. Mặt
khác, do tăng tỷ suất của tư bản khả biến mà tỷ suất giá trị thặng dư trong năm sẽ
tăng lên.Tóm lại, tăng tốc đọ chu chuyển tư bản khả biến giúp cho các nhà tư bản
tiết kiệm được tư bản ứng trước, nâng cao tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư trong năm.
Các khái niệm về lợi nhuận đã che dấu bản chất bóc lột của tư bản chủ nghĩa như thế nào?
Đối với nhà tư bản, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là giới hạn hiệu quả sản xuất
kinh doanh của nhà tư bản. Sự xuất hiện khái niệm này đã xoá đi danh giới giữa tư
bản bất biếnc và tư bản khả biến v, che dấu đi nguồn gốc của giá trị thặng dư (đó
là tư bản khả biến v).Khái niệm lợi nhuận thực chất cũng chỉ là biến tướng của giá
trị thặng dư. Nó phản ánh sai lệch bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Theo khái
niệm này thì phầndôi ra đó không phải là do giá trị sức lao động (v) của công nhân
làm thuê tạo ra mà là do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa của nhà tư bản tạo
ra.Khái niệm tỷ suất lợi nhuận cũng vậy. Nó không biểu hiện đúng mức độ bóc lột
của nhà tư bản đối với lao động như tỷ suất giá trị thặng dư m’ (m’ càng tăng,
chứng tỏ nhà tư bản bóc lột càng nhiều). Tỷ suất lợi nhuận chỉ nói lên mức doanh
lợi của việc đầu tư tư bản. P’ càng tăng thì đầu tư càng có lợi.
Tóm lại, bằng việc đưa ra ba khái niệm trên, các nhà tư bản đã che dấu bản chất
bóc lột của mình, che dấu đi cái thực chất sinh ra giá trị thặng dư là lao động
không công của người công nhân làm thuê.
Phân tích sự hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu vấn đề này? Bài làm:
1. Trong xã hội có nhiều ngành sản xuất khác nhau, với những điều kiện sản xuất không
giống nhau, lợi nhuận thu được và tỷ suất lợi nhuận cũng sẽ không giống nhau. Điều
này dẫn đến việc cạnh tranh giữa các ngành. Đó là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư
bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có
lợi hơn. Chính vì điều này mà dẫn đến việc các nhà tư bản di chuyển từ các ngành lợi
nhuận ít sang những ngành có lợi nhuận cao hơn.Sự tự do di chuyển tư bản từ ngành
này sang ngành khác làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận ngành và dẫn đến hình thành tỷ suất
lợi nhuận ngành ngang nhau. Đó là tỷ suất lợi nhuận chung hay tỷ suất lợi nhuận bình
quân.Tỷ suất lợi nhuận bình quân là “con số trung bình” của tất cả các tỷ suất lợi nhuận
khác nhau hay là tỷ số phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng tư bản XH.
Khi hình thành tỷ xuất lợi nhuận bình quân, ta có thể tính được lợi nhuận bình quân của
từng ngành. Đây là lợi nhuận bằng nhau của tư bản bằng nhau đầu tư vào những ngành
khác nhau. Nó chính là lợi nhuận mà nhà tư bản thu được căn cứ vào tổng tư bản đầu tư,
nhân với tỷ suất lợi nhuận bình quân, không quan tâm đến cấu thành hữu cơ của nó. Sự
xuất hiện của lợi nhuận bình quân đã biến quy luật giá trị thặng dư trở thành luật lợi
nhuận bình quân (Tổng lợi nhuận bình quân bằng tổng giá trị thặng dư).
2. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân đã
làm giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất là giá cả bằng chi phí
sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân. Giá trị là cơ sở của giá cả sản xuất. Giá cả sản
xuất là phàm trù kinh tế tương đương với giá cả, là cơ sở của giá cả trên thị trường, nó
điều tiết giá cả thị trường, giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất. Lúc
này, quy luật giá trị đã biểu hiện ra thành quy luật giá cả sản xuất (Tổng giá cả sản xuất bằng tổng giá trị).
3. Việc nghiên cứu sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân và
giá cả sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng.
Về mặt lý luận, nó giúp ta thấy được sự phát triển lý luận giá trị và giá trị thặng dư của
Mác theo tiến trình đi từ trừu tượng đến cụ thể. Mặt khác, nó còn phản ánh quan hệ cạnh
tranh giữa các nhà tư bản trong việc giành giật lợi nhuận với nhau.
Về mặt thực tiến, nó vạch rõ toàn bộ giai cấp tư sản đã bóc lột toàn bộ giai cấp công
nhân. Vì vậy, muốn giành thắng lợi, giai cấp công nhân phải đoàn kết, đấu tranh với tư
cách là một giai cấp, kết hợp đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị.
6. CẠNH TRANH MỘT CÁCH ĐỌC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ( giáo trình 130)
1. Lý luận của V.I. Lênin về đặc điểm kinh tế của độc quyền
Tổng kết thực tiễn vai trò của độc quyền trong nền kinh tế các nước tư bản phát triển nhất
giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin khái quát năm đặc điểm của độc
quyền tư bản chủ nghĩa như sau:
a) Các tổ chức độc quyền có quy mô tích tụ và tập trung tư bản lớn
Dưới chủ nghĩa tư bản, tích tụ và tập trung sản xuất cao, biểu hiện ở số lượng các xí
nghiệp tư bản lớn chiếm tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế, nhưng nắm giữ và chi phối thị trường.
Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hình thành các
tổ chức độc quyền. Vì một mặt, do số lượng các doanh nghiệp lớn ít nên có thể dễ dàng
thỏa thuận với nhau; mặt khác, các doanh nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật cao nên cạnh
tranh sẽ rất gay gắt, quyết liệt, khó đánh bại nhau, do đó đã dẫn đến khuynh hướng thỏa
hiệp với nhau để nắm lấy địa vị độc quyền.
Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các tổ chức độc quyền hình thành theo liên kết
ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau
theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở
rộng ra nhiều ngành khác nhau.
Về mặt lịch sử, các hình thức tổ chức độc quyền cơ bản từ thấp đến cao, bao gồm: cartel
(các-ten), syndicate (xanhđica), trust (tờrớt), consortium (côngxoócxiom).
Cartel là hình thức tổ chức độc quyền trong đó các xí nghiệp tư bản lớn ký các hiệp nghị
thỏa thuận với nhau về giá cả, sản lượng hàng hóa, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán,...
Các xí nghiệp tư bản tham gia cartel vẫn độc lập cả về sản xuất và lưu thông hàng hóa. Họ
chỉ cam kết thực hiện đúng hiệp nghị đã ký, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của
hiệp nghị. Vì vậy, cartel là liên minh độc quyền không vững chắc. Trong nhiều trường hợp,
những thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi đã rút ra khỏi cartel, làm cho cartel thường tan vỡ trước kỳ hạn.
Syndicate là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cartel. Các xí nghiệp tư
bản tham gia syndicate vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ không độc lập ở khâu lưu thông
hàng hóa (mọi việc mua, bán do một ban quản trị chung của syndicate đảm nhận). Mục
đích của syndicate là thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán
hàng hoá với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
Trust là hình thức độc quyền cao hơn cartel và syndicate. Trong trust thì cả việc sản xuất,
tiêu thụ hàng hóa đều do một ban quản trị chung thống nhất quản lý. Các xí nghiệp tư bản
tham gia trust trở thành những cổ đông để thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.
Consortium là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức
độc quyền trên. Tham gia consortium không chỉ có các xí nghiệp tư bản lớn mà còn có cả
các syndicate, các trust, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế,
kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy, một consortium có thể có hàng trăm xí nghiệp liên
kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm các nhà tư bản kếch xù.
Liên kết ngang là sự liên kết để sx một chủng loại hàng hóa.
Liên kết dọc là sư liên kết giữa các dooanh nghiệp trong các ngàng sản xuất với nhau có
liên uan với nhau về khoa học kỹ thuật
b) Sức mạnh của các tổ chức độc quyền do tư bản tài chính và hệ thống tài phiệt chi phối
Song song với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp, trong ngân hàng
cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng.
Quy luật tích tụ, tập trung trong ngân hàng cũng giống như trong công nghiệp, do quá trình
cạnh tranh các ngân hàng vừa và nhỏ bị phá sản hoặc bị thôn tính và hình thành những ngân hàng lớn.
Khi sản xuất trong ngành công nghiệp tích tụ, tập trung ở mức độ cao, thì các ngân hàng
nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín để phục vụ cho công việc kinh doanh của các doanh
nghiệp công nghiệp lớn. Trong điều kiện đó, các ngân hàng vừa và nhỏ phải tự sáp nhập
vào các ngân hàng lớn hoặc phải phá sản trước quy luật khốc liệt của cạnh tranh. Quá trình
này đã thúc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.
Sự xuất hiện, phát triển của các tổ chức độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đổi quan
hệ giữa các ngân hàng và doanh nghiệp công nghiệp, làm cho ngân hàng có vai trò mới: từ
chỗ ngân hàng chỉ là trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, thì nay đã nắm được hầu
hết lượng tiền tệ của xã hội nên có quyền lực “vạn năng”, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội.
Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền ngân hàng “cử” đại diện của mình vào các
cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay hoặc các tổ
chức độc quyền ngân hàng còn trực tiếp đầu tư vào công nghiệp. Trước sự khống chế và
chi phối ngày càng mạnh mẽ của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương ứng trở lại của
các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra. Các tổ chức độc quyền công
nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần của các ngân
hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng. Quá trình độc quyền hoá trong công nghiệp
và ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với nhau làm nảy sinh một loại hình tư bản mới, gọi là
tư bản tài chính. Thống trị trong mọi xã hội vì tư bản tài chính nắm cả tưu bản tiền tệ tổ
chức độc quyền trong ngân hàng và tư bản sản xuất trong công nghiệp. Trược tiếp nắm cả
wuyeenf lực chính trị và kinh tế. Biến nhà nước thành các công cụ phục vụ cho các tổ chức dộc quyền
V.I. Lênin viết: "... tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của
một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà công nghiệp"1.
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.27, tr.489.
Sự phát triển của tư bản tài chính dần dần dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ những nhà
tư bản kếch xù chi phối toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị của toàn xã hội, gọi là tài phiệt
(hay đầu sỏ tài chính, trùm tài chính).
Các tài phiệt thực hiện sự thống trị của mình thông qua “chế độ tham dự”. Thực chất của
“chế độ tham dự” là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính mua số cổ phiếu
khống chế, chi phối một công ty lớn nhất - công ty gốc gọi là "công ty mẹ"; công ty này lại
mua được cổ phiếu khống chế, thống trị các "công ty con"; "công ty con" đến lượt nó lại
chi phối các "công ty cháu",.. tông qua số lượng cổ phiếu nắm giữ.. bởi vậy chỉ cần tâu
tóm được cổ phiếu thì sẽ thâu tóm được thị trường.
Nhờ có “chế độ tham dự” và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy,
bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, mà tài phiệt có thể khống chế và điều tiết được một
lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.
Ngoài "chế độ tham dự", tài phiệt còn sử dụng những thủ đoạn như lập công ty mới, phát
hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng
đất... để thu lợi nhuận độc quyền cao. Về mặt chính trị, hệ thống các nhà tài phiệt chi phối
mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là chi phối các chính sách đối nội, đối
ngoại của nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng, do
chúng thống trị được về kinh tế.
c) Xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến
Đối với các tập đoàn độc quyền, việc đưa tư bản ra nước ngoài để tìm kiếm nơi đầu tư có
lợi nhất trở thành phổ biến, gắn liền với sự tồn tại của các tổ chức độc quyền.
Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm
mục đích thu được giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.
Xuất khẩu tư bản có thể được thực hiện dưới hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua
lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư để trực tiếp kinh doanh thu lợi
nhuận cao, biến nó thành một chi nhánh của “công ty mẹ” ở chính quốc. Các xí nghiệp
mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương, nhưng
cũng có những xí nghiệp toàn bộ vốn là của công ty nước ngoài.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc cho vay để thu lợi tức, mua cổ phần, cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định
chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
d) Cạnh tranh để phân chia thị trường thế giới là tất yếu giữa các tập đoàn độc quyền
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy
mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản
độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ thị trường trong nước luôn gắn với thị
trường ngoài nước. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thị trường ngoài
nước còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước tư bản. V.I. Lênin nhận xét: "Bọn
tư sản chia nhau thế giới, không phải do tính độc ác đặc biệt của chúng, mà do sự tập trung
đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm lời"2.
Sự đụng độ trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền có sức mạnh kinh tế hùng hậu
lại được sự ủng hộ của nhà nước "của mình" và các cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chúng
tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp, ký kết các hiệp định, để củng cố địa vị độc quyền của
chúng trong những lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ đó hình thành các liên minh
độc quyền quốc tế dưới dạng cartel, syndicate, trust quốc tế.
đ) Lôi kéo, thúc đẩy các chính phủ vào việc phân định khu vực lãnh thổ ảnh hưởng là cách
thức để bảo vệ lợi ích độc quyền
V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: "Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên liệu càng thiếu
thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trên toàn thế giới
càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càng quyết liệt hơn" . 3
Do sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của các cường quốc tư bản, tất yếu dẫn
đến cuộc đấu tranh đòi chia lại lãnh thổ thế giới. Đó là một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến các cuộc chiến tranh, thậm chí chiến tranh thế giới. V.I. Lênin viết: "Khi nói
đến chính sách thực dân trong thời đại chủ nghĩa đế quốc tư bản, thì cần chú ý rằng tư bản
tài chính và chính sách quốc tế thích ứng với nó... đã tạo nên hàng loạt hình thức lệ thuộc
có tính chất quá độ của các nước. Tiêu biểu cho thời đại đó, không những chỉ có hai loại
nước chủ yếu: những nước chiếm thuộc địa và những thuộc địa, mà còn có nhiều nước phụ
thuộc với những hình thức khác nhau, những nước này trên hình thức thì được độc lập về
chính trị, nhưng thực tế lại mắc vào cái lưới phụ thuộc về tài chính và ngoại giao" . Từ 4
những năm 50 của thế kỷ XX, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ đã làm
sụp đổ và tan rã hệ thống thuộc địa kiểu cũ, nhưng điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa
thực dân đã bị thủ tiêu. Trái lại, các cường quốc tư bản chuyển sang thi hành chính sách
thực dân mới với nội dung chủ yếu là dùng viện trợ kinh tế, kỹ thuật, quân sự để duy trì sự
lệ thuộc của các nước đang phát triển. Đứng đằng sau, hậu thuẫn cho các hoạt động của
các quốc gia tư bản luôn có vai trò của các tập đoàn tư bản độc quyền.
Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của độc quyền dưới chủ nghĩa tư bản có quan hệ chặt chẽ với
nhau, nói lên bản chất sự thống trị của tư bản độc quyền. Đó cũng là biểu hiện của phương
thức thực hiện lợi ích của các tập đoàn độc quyền trong giai đoạn phát triển độc quyền của chủ nghĩa tư bản.
2. Lý luận của V.I. Lênin về đặc điểm kinh tế của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.27, tr.472.
3. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.27, tr.481.
4. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.27, tr.485.
Sự thống trị và bành trướng sức mạnh của độc quyền tư nhân trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa, một mặt thúc đẩy nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển, mặc khác, kìm
hãm và đe dọa sự ổn định của chế độ chính trị. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong
tình hình đó, thúc đẩy trình độ độc quyền lên trạng thái cao hơn - độc quyền nhà nước.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản có các đặc trưng kinh tế chủ yếu sau:
a) Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước
V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng với công
nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng và công nghiệp với
chính phủ: "Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay là chủ ngân hàng,
ngày mai là bộ trưởng"5. Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các đảng phái.
Chính các đảng phái này đã tạo cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự
thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước.
Đứng đằng sau các đảng phái này là một lực lượng có quyền lực rất hùng hậu, đó chính là
các hội chủ xí nghiệp độc quyền, như: Hội Công nghiệp toàn quốc Mỹ, Tổng Liên đoàn
công nghiệp Italia, Liên đoàn các nhà kinh tế Nhật Bản, Liên minh Liên bang công nghiệp
Đức, Hội đồng quốc gia giới chủ Pháp, Tổng Liên đoàn công thương Anh,... Chính các hội
chủ xí nghiệp này trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là chỗ dựa cho nhà nước tư
sản. Các hội chủ xí nghiệp hoạt động thông qua các đảng phái của giai cấp tư sản, cung
cấp kinh phí cho các đảng, quyết định về mặt nhân sự và đường lối chính trị, kinh tế của
các đảng, tham gia vào việc thành lập bộ máy nhà nước ở các cấp. Vai trò của các hội lớn
đến mức mà dư luận thế giới đã gọi chúng là “những chính phủ đằng sau chính phủ”, “một
quyền lực thực tế đằng sau quyền lực” của chính quyền. Thông qua các hội chủ, một mặt
các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị
khác nhau; mặt khác, các quan chức và nhân viên chính phủ được “cài cắm” vào ban quản
trị của các tổ chức độc quyền, nắm giữ những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự,
hoặc trở thành những người đỡ đầu cho các tổ chức độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này
(còn gọi là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức
độc quyền và cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.
b) Sự hình thành, phát triển sở hữu nhà nước
Sở hữu trong độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản, của tư bản độc
quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại,
phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên
mà còn ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân.
Hai loại sở hữu này đan kết với nhau trong quá trình tuần hoàn của tổng tư bản xã hội. Sở
hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cần cho hoạt động của
bộ máy nhà nước, mà còn gồm cả những doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp và
trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, như: giao thông vận tải, giáo dục, y tế,
bảo hiểm xã hội,... Sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: xây
dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách; quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư
51. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.31, tr.275.
nhân bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ phần của các doanh nghiệp tư nhân; mở rộng
doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp tư nhân...
Sở hữu nhà nước thực hiện được các chức năng cơ bản sau: Thứ nhất, mở rộng sản xuất tư
bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của độc quyền. Thứ hai, tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho việc di chuyển tư bản của các tổ chức độc quyền đầu tư vào
các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau, chuyển từ những ngành ít lãi sang những ngành
kinh doanh có hiệu quả hơn một cách dễ dàng, thuận lợi. Thứ
làm chỗ dựa cho sự điều ba,
tiết kinh tế của nhà nước theo những chương trình nhất định.
Cùng với sự phát triển của sở hữu nhà nước, thị trường độc quyền cũng hình thành và phát
triển. Sự hình thành thị trường nhà nước thể hiện ở việc nhà nước chủ động mở rộng thị
trường trong nước bằng việc bao mua sản phẩm của các doanh nghiệp độc quyền thông
qua những hợp đồng được ký kết. Việc ký kết các hợp đồng giữa nhà nước và các tổ chức
độc quyền tư nhân đã giúp các tổ chức độc quyền tư nhân khắc phục được một phần khó
khăn trong thời kỳ khủng hoảng thừa, góp phần bảo đảm cho quá trình tái sản xuất được
diễn ra bình thường. Các hợp đồng ký kết với nhà nước giúp cho các tổ chức độc quyền tư
nhân vừa tiêu thụ được hàng hoá vừa đảm bảo lợi nhuận ổn định, vừa khắc phục được tình
trạng thiếu nhiên liệu, nguyên liệu chiến lược. Sự tiêu thụ của nhà nước được thực hiện
qua những đơn đặt hàng của nhà nước với độc quyền tư nhân, quan trọng hơn cả là các
đơn đặt hàng quân sự do ngân sách chi mỗi ngày một tăng. Các hợp đồng này đảm bảo cho
các độc quyền tư nhân kiếm được một khối lượng lợi nhuận lớn và ổn định, vì tỷ suất lợi
nhuận của việc sản xuất các loại hàng hoá đó cao hơn hẳn tỷ suất lợi nhuận thông thường.
c) Độc quyền nhà nước trở thành công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế
Để điều tiết nền kinh tế, nhà nước tư sản sử dụng nhiều công cụ, trong đó có công cụ độc
quyền nhà nước. Hệ thống điều tiết của nhà nước tư sản hình thành một tổng thể những
thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống
chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được thực hiện dưới
nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc bằng các công cụ kinh
tế và các công cụ hành chính - pháp lý, bằng cả ưu đãi và trừng phạt; bằng những giải pháp
chiến lược dài hạn như lập chương trình, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế, khoa học,
công nghệ, bảo vệ môi trường, bảo hiểm xã hội,...; và bằng cả các giải pháp ngắn hạn.
Nhà nước tư sản điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế thông qua các công cụ
chủ yếu như ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ, tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế
hoạch hoá hay chương trình hoá kinh tế và các công cụ hành chính, pháp lý.
Bộ máy điều tiết kinh tế gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về mặt nhân sự có
sự tham gia của những đại biểu của tập đoàn tư bản độc quyền lớn và các quan chức nhà
nước. Bên cạnh bộ máy này còn có hàng loạt các tiểu ban được tổ chức dưới những hình
thức khác nhau, thực hiện "tư vấn" nhằm "lái" đường lối phát triển kinh tế theo mục tiêu
riêng của các tổ chức độc quyền.
Cơ chế điều tiết kinh tế độc quyền nhà nước là sự dung hợp cả ba cơ chế: thị trường, độc
quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước ( cơ chế kiềng ba chân) nhằm phát huy mặt tích
cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Hay nói cách khác, đó là cơ chế thị trường có
sự điều tiết của nhà nước nhằm phục vụ lợi ích của…. CÂU HỎI THÊM:
: Phân tích nguyên nhân hình thành CNTB độc quyền Nhà nước và vai trò kinh tế của Nhà
nước trong CNTB hiện đại

a- Nguyên nhân hình thành CNTB độc quyền Nhà nước Cơ sở nền tảng của sự chuyển từ
CNTB độc quyền sang CNTB độc quyền Nhà nước là mâu thuẫn sâu sắc giữa tính chất
xã hội hoá của sản xuất và sự chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Sự xã hội
hoá cao đó của lực lượng sản xuất đòi hỏi có sự điều tiết xã hội đối với quá trình sản
xuất từ một trung tâm (đó là Nhà nước), nếu không nền kinh tế sẽ bị khủng hoảng dữ
dội. Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại như hoá dầu,
hàng không, nguyên tử, tên lửa, vũ trụ... để ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất
và đời sống thì không một công ty độc quyền khổng lồ nào đủ vốn để làm, chỉ có Nhà
nước mới có đủ khả năng giải quyết
. - Do cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã
hội, đặc biệt công cuộc xây dựng chủ nghĩa Xã hội ở các nước Xã hội chủ nghĩa buộc
CNTB phải đối phó. Do đó, tư bản độc quyền phải nắm lấy bộ máy nhà nước để đối
phó với các cuộc đấu tranh trên. Vậy Chủ nghĩa Tư bản độc quyền nhà nước là sự kết
hợp sức mạnh của Tư bản độc quyền với sức mạnh của nhà nước vào một bộ máy duy
nhất, nhằm sử dụng bộ máy nhà nước như một trung tâm của toàn bộ đời sống kinh tế,
điều tiết có mục đích các quá trình kinh tế, bảo đảm lợi nhuận độc quyền cao cho các
tổ chức độc quyền và bảo vệ, phát triển quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa.
b- Vai trò kinh tế của nhà nước trong CNTB hiện đại Cơ chế điều tiết nền kinh tế trong
CNTB tự do cạnh tranh và CNTB độc quyền là cơ chế thị trường. Trong CNTB độc
quyền nhà nước, cơ chế điều tiết nền kinh tế là kết hợp giữa cơ chế thị trường và sự tác
động tập trung của Nhà nước, tạo ra một hệ thống thống nhất của sự điều tiết độc
quyền nhà nước. Nhà nước giữa vai trò điều tiết vĩ mô bằng các công cụ có hiệu quả
như hệ thống tài chính nhà nước, điều tiết hệ thống tiền tệ, tín dụng, các chính sách cơ
cấu và chương trình hoá kinh tế
. - Nhà nước điều tiết các quá trình sản xuất, định hướng mục tiêu phát triển kinh tế từng
thời kỳ. Tính tự phát của thị trường bị giới hạn bởi sự tác động của các cơ quan Nhà nước,
làm cho nền kinh tế có tính chất tổ chức hơn, cân đối hơn nên đã chống được các cuộc
khủng hoảng kinh tế dữ dội, làm kinh tế phát triển nhanh hơn trước.
7. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM( giáo trình trang 165) Câu hỏi thêm:
: Phân tích tính tất yếu của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và xu hướng
vận động của chúng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
a- Tính tất yếu của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Thời kỳ quá độ còn tồn tại những thành phần kinh tế do lịch sử để lại và còn có lợi cho sự
phát triển kinh tế của CNXH (kinh tế Tư bản tư nhân, kinh tế cá thể)
- Do chính sách cải tạo XHCN nền kinh tế cũ, nảy sinh những thành phần kinh tế mới (kinh
tế tư bản nhà nước, các loại hình hợp tác xã)
- Do yêu cầu xây dựng xã hội mới và nền kinh tế mới, các thành phần kinh tế mới ra đời
(kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể)
- Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần khắc phục được tình trạng ộc quyền, tạo ra động
lực cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế để thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế quá độ vừa
là tất yếu, cần thiết, vừa là phương tiện để đạt được mục đích của nền sản xuất xã hội. Nó
vừa tạo cơ sở làm chủ về kinh tế vừa bảo đảm kết hợp hài hoà hệ thống lợi ích kinh tế. Đó
chính là động lực của sự phát triển.
b- Xu hướng vận động của nền kinh tế nhiều thành phần:
- Xã hội hoá nền sản xuất là xu hướng vận động cơ bản của nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng XHCN với vai trò chủ đạo là kinh tế quốc doanh.
- Xã hội hoá sản xuất hiểu theo nghĩa đơn giản là sự phân công lao động đi đôi với chuyên
môn hoá, mở rộng thêm nhiều ngành nghề sản xuất mới, hợp thành một quá trình sản xuất xã hội.
- Xã hội hoá sản xuất hiểu theo nghĩa chung nhất là sự liên kết nhiều quá trình kinh tế
riêng biệt thành quá trình kinh tế xã hội.
- Xã hội hoá XHCN nền sản xuất phải xem xét trên 3 mặt sau:
+ Kinh tế - xã hội (mà nội dung là quan hệ sở hữu về TLSX)
+ Kinh tế - kỹ thuật hay công nghệ (mà nội dung thể hiện ở trình độ lực lượng sản xuất và
cơ sở vật chất của nó)
+ Kinh tế tổ chức (mà nội dung thể hiện ở tổ chức và quản lý nền sản xuất xã hội)
- Đối với nước ta trong thời kỳ quá độ, thực hiện xã hội hoá sản xuất theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa. Xã hội hoá sản xuất là quá trình có tính quy luật để xây dựng nền kinh tế
sản xuất lớn hiện đại. Đó cũng là xu hướng vận động cơ bản của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ.
Trình bầy các thành phần kinh tế và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế ở
nước ta hiện nay. Vì sqao kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo?
a- Các thành phần kinh tế và vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh
- Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ còn đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế
và mỗi thành phần có đặc điểm riêng của nó.
- Thành phần kinh tế quốc doanh (KTQD) bao gồm các xí nghiệp quốc doanh, các nông
trường quốc doanh, thương nghiệp quốc doanh.
Thành phần kinh tế quốc doanh dựa trên sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất (TLSX). Kinh
tế quốc doanh có số lượng vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật mạnh hơn hẳn các thành phần
kinh tế khác: số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế và
công nhân kỹ thuật lành nghề đông đảo, kinh tế quốc doanh có khả năng liên doanh, liên
kết với các đơn vị kinh tế trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, kinh tế
quốc doanh nắm các ngành, các khâu và các sản phẩm then chốt của nền kinh tế quốc dân.
Với những đặc điểm đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế và định hướng
phát triển các thành phần kinh tế.
- Thành phần kinh tế tập thể (KTTT) bao gồm các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ. Kinh tế tập thể dựa trên sở hữu tập thể về tư
liệu sản xuất (trừ ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân). Đây là thành phần kinh tế tuy trình
độ hoá lực lượng sản xuất, tổ chức và quản lý sản xuất còn thấp hơn kinh tế quốc doanh
nhưng sản xuất với lượng hàng hoá rất lớn cung ứng cho sản xuất và tiêu dùng đời sống
xã hội. Sản phẩm của kinh tế tập thể trong nông, lâm, thổ sản và thuỷ sản là nguồn nguyên
liệu cho sản xuất công nghiệp chế biến và là nguồn lương thực thực phẩm quan trọng cho
tiêu dùng đời sống xã hội.
- Thành phần kinh tế tư bản tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân TBCN về tư
liệu sản xuất và quan hệ bóc lột sức lao động làm thuê. Dưới CNXH sự tồn tại thành
phần kinh tế tư bản tư nhân là một tất yếu khách quan. Nhà tư bản được phép hoạt
động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn và kỹ thuật, sử dụng năng lực tổ chức và
quản lý sản xuất kinh doanh để tạo ra của cải vật chất làm giầu cho nền kinh tế
XHCN. Trong thời kỳ quá độ, kinh tế tư bản tư nhân có thể liên doanh với Nhà nước
XHCN bằng nhiều hình thức như kinh tế tư bản nhà nước.
- Thành phần kinh tế cá thể dựa trên hình thức sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất và lao
động trực tiếp của bản thân người lao động. Kinh tế cá thể có đặc điểm kỹ thuật thủ công,
năng suất lao động thấp, sản xuất nhỏ phân tán. Đây là thành phần kinh tế hoạt động trên
phạm vi rộng trong phạm vi cả nước, có mặt ở các vùng kinh tế, sản xuất trong nhiều lĩnh
vực.Trong cơ chế cạnh tranh thường bị phân hoá. Khi có chính sách kinh tế đúng, kinh tế
cá thể có khả năng đóng góp nhiều lợi ích cho xã hội như tiền vốn, sức lao động, kinh
nghiệm truyền thống sản xuất... Tuy nhiên nhà nước cũng cần có những biện pháp quản
lý thị trường chặt chẽ để hạn chế và khắc phục tính tự phát cuả nó.
- Ngoài các thành phần kinh tế chủ yếu trên đây, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ còn có
kinh tế gia đình. Đây là bộ phận kinh tế có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thêm
việc làm và thu nhập cho người lao động trong điều kiện các thành phần kinh tế chưa giải
quyết được thoả mãn nhu cầu. Nhà nước ta chủ trương duy trì và phát triển bộ phận kinh
tế gia đình vừa thực hiện chủ trương tự do sản xuất kinh doanh theo pháp luật vừa thực
hiện quyền của công dân về kinh tế theo mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
b- Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân thời kỳ quá độ
Các thành phần kinh tế có mối quan hệ vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn
- Tính thống nhất thể hiện ở chỗ là các thành phần kinh tế đều hoạt động trong cùng một
hệ thống phân công lao động xã hội. Sự hoạt động của mỗi thành phần kinh tế đều hướng
vào việc thực hiện mục tiêu chung của nền kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu sản xuất và
nhu cầu đời sống tiêu dùng của nhân dân. Sự phát triển của các thành phần kinh tế là quá
trình thực hiện sự kết hợp các lợi ích kinh tế xã hội, tập thể và người lao động ngày càng cao hơn.
- Tính mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế là ở chỗ: do lợi ích lâu dài giữa các thành
phần kinh tế khác nhau, mỗi thành phần kinh tế có lợi ích riêng. Giữa kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể mâu thuẫn với kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể, đây là mâu thuẫn
giữa các thành phần trong nội bộ nền kinh tế. Ngay trong nội bộ thành phần kinh tế cũng
có mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp với nhau. Quá trình phát triển mạnh mẽ nền sản
xuất xã hội, quá trình phát triển sức sản xuất, cải tiến kỹ thuật, công nghệ, đổi mới tổ chức
và quản lý kinh tế, thực hiện mạnh mẽ sự phân công lao động sẽ khắc phục được tính mâu
thuẫn giữa các thành phần
8. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ NỘI DUNG CỦA CNH,HDH( giáo trình 215)
Trình bầy mục tiêu, quan điểm cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
a- Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế
- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 Khoá VII đã xác định mục tiêu tổng
quát của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến nền kinh tế đất nước thành một nền
kinh tế công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ và hoàn thiện phù hợp với trình độ phát triển sức sản xuất, mức sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
- Để thực hiện mục tiêu tổng quát trên, từ nay đến năm 2000 chúng ta cần đạt được mục
tiêu cụ thể: nền kinh tế ổn định và phát triển từng bước. Phấn đấu tăng thu nhập quốc
dân để vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển. Trên cơ sở đó mà nâng cao dần
đời sống nhân dân. Không ngừng củng cố nền quốc phòng và an ninh nhân dân. Chỉ tiêu
phấn đấu nền kinh tế là tăng tổng sản phẩm trong nước từ 2 đến 2,5 so với năm 1990
trong đó công nghiệp tăng bình quân hàng năm 13-15% đưa tỷ trọng công nghiệp trong
tổng sản phẩm quốc dân lên 30% đến năm 2000.
b- Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế
Mục tiêu tổng quát và cụ thể trên đây đã phần nào định hướng phát triển nền kinh tế xã
hội nước ta trước mắt và lâu dài. Để có cơ sở định hướng đúng đắn cho việc xây dựng nội
dung, phương hướng, biện pháp, bước đi trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nền kinh tế, Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 7 Khoá VII đã nêu lên những
quan điểm cơ bản có tính chỉ đạo:
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế phải phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế: địa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ với nước ngoài, kết hợp phát triển kinh tế với việc củng cố quốc phòng và an
ninh, xây dựng nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu
bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế Nhà nước là chủ đạo, được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước: tăng trưởng kinh tế gắn với
cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Khoa học và công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết hợp công nghệ
truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào kỹ thuật và công nghệ hiện
đại ở những ngành kinh tế, những khâu có đủ điều kiện và có tính quyết định năng lực
của nền kinh tế - xã hội.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển,
lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ: đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa nguồn lực của nền sản xuất xã hội
Trình bầy tính tất yếu và tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
a- Tính tất yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
- Mỗi phương thức sản xuất của xã hội chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc trên
một cơ sở vật chất - kỹ thuật thích ứng nhất định và chính cơ sở vật chất - kỹ thuật này là
một trong những nhân tố quan trọng nhất để xác định phương thức sản xuất đó thuộc
loại hình xã hội - lịch sử nào và thuộc thời đại kinh tế nào. Công nghiệp hoá là quá trình
tạo dựng nên cơ sở vật chất - kỹ thuật đó.
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, một mặt là sự kế thừa những thành quả đạt được
trong xã hội Tư bản, mặt khác nó được phát triển và hoàn thiện trên cơ sở những thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại và theo yêu cầu của chế độ xã hội mới.
Đó chính là một nền công nghiệp có công nghệ tiên tiến. Công nghiệp hoá là một tất yếu
khách quan mang lại thành tựu đó cho nền sản xuất xã hội.
- Các nước đxa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa bước vào thời kỳ quá độ xây
dựng CNXH, tiến hành thực hiện quá trình tái công nghiệp hoá nhằm điều chỉnh, bổ xung
và hoàn thiện cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ hiện đại theo yêu cầu của chế độ xã hội mới.
- Các nước có nền kinh tế chưa phát triển cao, nhất là các nước nông nghiệp lạc hậu thì
tiến lên CNXH, tiến hành công nghiệp hoá Xã hội chủ nghĩa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của CNXH là một tất yếu khách quan. Không tiến hành công nghiệp hoá thì không
thể xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, không thể thực hiện phân công lao động xã
hội, không có Chủ nghĩa Xã hội.
b- Tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình làm biến đổi về chất lựclượng sản
xuất và là quá trình xã hội hoá nền sản xuất. Nhờ đó mà năng suất lao động xã hội tăng
lên cao góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân và tích luỹ cho nền kinh tế, nhờ
đó mà nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
- Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra được những cơ sở vật chất - kỹ thuật và
công nghệ hiện đại làm cơ sở kinh tế vững chắc cho việc xây dựng, củng cố và phát huy
vai trò kinh tế của Nhà nước.
- Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình thực hiện phân công lại lao động xã
hội, phân vùng kinh tế theo hướng chuyên môn hoá sản xuất, làm cho nền sản xuất xã hội
phát triển đồng đều khắp mọi miền và mọi vùng. Từ đó tạo tiền đề xoá bỏ sự bất bình
đẳng về kinh tế giữa đồng bào các dân tộc, giữa thành thị và nông thôn.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo tiền đề vật chất xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ
làm cơ sở vững chắc thực hiện sự phân công và hợp tác kinh tế Quốc tế.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện cho việc tăng cường, củng cố và hiện đại
hoá nền quốc phòng và an ninh nhân dân.