



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 59960339
MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN 1.
Từ quan điểm duy vật biện chứng về vật chất, ý thức, mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức. Anh/chị rút ra ý nghĩa phương pháp luận cơ bản nào? Vận dụng ý
nghĩa phương pháp luận này vào trong việc học tập và làm việc của bản thân.
- Từ quan điểm duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ chặt chẽ và biện
chứng với nhau. Vật chất được coi là cái có trước, cái quyết định, còn ý thức là sự phản
ánh của vật chất trong não bộ con người. Tuy nhiên, ý thức không phải là một phản ánh
thụ động mà có tính chủ động, sáng tạo, có thể tác động trở lại và làm thay đổi vật chất.
- Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
+ Vật chất quyết định ý thức: Các điều kiện vật chất, môi trường sống, và hoạt động thực
tiễn của con người tạo ra nền tảng cho sự hình thành và phát triển của ý thức. Ví dụ,
điều kiện kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến tư tưởng, nhận thức và hành động của con người.
+ Ý thức tác động trở lại vật chất: Ý thức có thể dẫn đến hành động, quyết định, và thay
đổi trong thực tiễn. Con người có khả năng nhận thức, đánh giá và cải tạo thế giới vật
chất xung quanh mình. Ví dụ, sự phát triển của khoa học công nghệ là kết quả của quá
trình tư duy, sáng tạo của con người.
*Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động, sáng
tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy
vật biện chứng xây dựng nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất, phổ
biến đối với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn.
- Khái quát nội dung ý nghĩa phương pháp luận:
• Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động, sáng tạo
của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy vật biện
chứng xây dựng nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất, phổ biến đối với mọi
hoạt động nhận thức và thực tiễn. Nguyên tắc đó là: trong mọi hoạt động nhận thức
và thực tiễn cần phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách
quan, đồng thời cần phải phát huy tính năng động chủ quan. Theo nguyên tắc
phương pháp luận này, mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người chỉ có thể
đúng đắn, thành công và có hiệu quả khi và chỉ khi thực hiện đồng thời giữa việc xuất
phát từ thực tế khách quan, tôn trọng thực tế khách quan với phát huy tính năng động
chủ quan; phát huy tính năng động chủ quan phải là trên cơ sở và trong phạm vi điều
kiện khách quan, chống chủ quan duy ý chí trong nhận thức và thực tiễn. lOMoAR cPSD| 59960339
• Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách quan
của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan mà căn bản là tôn trọng
quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng vai trò quyết định của đời sông
vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, của xã hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận
thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục
đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế
khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những
nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.
• Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của
ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng
động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực
học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng để trở
thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặt khác
phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình
cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân
văn trong định hướng hành động.
• Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trong
nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí;
đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy
ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách
lược, ... Đây cũng phải là quá trình chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức
khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động, v.v. trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
- Vận dụng phương pháp này vào việc học tập và làm việc của bản thân:
• Tích cực nghiên cứu thực tiễn: Trong quá trình học tập, tôi sẽ chú trọng đến việc nghiên
cứu thực tiễn, tìm hiểu các vấn đề xã hội, kinh tế để có cái nhìn sâu sắc hơn về kiến thức mình đang học.
• Khuyến khích tư duy sáng tạo: Tôi sẽ không ngừng tìm kiếm và áp dụng những ý tưởng
mới, cách làm mới trong học tập và công việc, từ đó cải thiện hiệu quả và chất lượng công việc.
• Phát triển kỹ năng phản biện: Tôi sẽ rèn luyện khả năng phân tích, đánh giá các thông
tin và quan điểm khác nhau, từ đó đưa ra quyết định đúng đắn và hợp lý.
• Thực hành tính biện chứng: Trong quá trình làm việc nhóm, tôi sẽ luôn lắng nghe ý kiến
của người khác, xem xét các yếu tố ảnh hưởng và tìm ra giải pháp tốt nhất, đồng thời
biết cách điều chỉnh hành động của mình để phù hợp với thực tiễn. lOMoAR cPSD| 59960339
Bằng cách áp dụng những phương pháp luận này, tôi hy vọng có thể nâng cao hiệu quả
học tập và làm việc của bản thân, đồng thời đóng góp tích cực vào sự phát triển của cộng đồng.
2. Trên cơ sở lý luận của phép biện chứng duy vật, anh/chị hãy giải thích vì sao trong
cuộc sống con người cần phải thực hiện quan điểm toàn diện, tránh phiến diện. Nếu
vận dụng quan điểm toàn diện trong học tập, rèn luyện hiện nay thì anh/chị sẽ làm như thế nào?
- Cần phải thực hiện quan điểm toàn diện, tránh phiến diện:
+ Vì quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ nó chú ý tới
nhiều mặt, nhiều mối liên hệ mà còn giúp ta tránh được những lối tư duy cāng nhắc và hời
hợt. Phát hiện nhiều mối liên hệ đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật sẽ xem xét
được sự vật từ nhiều góc độ, từ nhiều phương diện. Mọi người chắc hẳn ai cũng biết nếu tri
thức nhân loại là cả đại dương mênh mông thì tri thức hay kinh nghiệm mà ta học được chỉ
như hạt muối bỏ bể. Vậy, ta không thể kết luận hay phán xét một sự vật, hiện tượng khi chưa
biết được thông tin cốt lõi của nó. Các danh nhân thường gọi đó là chỉ thấy bề nổi của tảng băng chìm.
+ Quan điểm toàn diện không chỉ giúp ta nhìn nhận vấn đề hiện tại một cách bao quát mà
còn rèn luyện chí cầu tiến khi kiến thức nhân loại có sự biến đổi theo thời gian. Một vài ví dụ
khác về quan điểm toàn diện trong cuộc sống, tiêu biểu nhất là các vấn đề mạng xã hội hay
truyền thông. Vụ việc các nghệ sĩ như Thủy Tiên hay Đàm Vĩnh Hưng làm từ thiện cho nhân
dân miền Trung có lẽ là một vấn đề gây xôn xao cộng đồng mạng nhất trong năm 2021 . Tuy
rằng các cơ quan mặt trận tổ quốc ở các tỉnh miền Trung đã xác nhận về số tiền quyên góp
và gửi thư cảm ơn nhưng đâu đó ta vẫn bắt gặp những lời chỉ trích từ cộng đồng mạng với
những từ ngữ không mấy tốt đẹp như tham lam, lừa gạt, đánh bóng tên tuổi… hay thậm chí
là tồi tệ hơn. Vụ việc của các nghệ sĩ trong mùa dịch COVID-19 cũng như vậy. Nhiều nghệ
sĩ đã tổ chức các hoạt động từ thiện để hỗ trợ người dân trong thời gian dịch bệnh, nhưng
cũng không ít người đã chỉ trích họ về việc "đánh bóng tên tuổi" hay không minh bạch trong
việc sử dụng quỹ. Phải chăng những người đã từng dũng cảm đăng những lời lẽ lăng mạ,
xúc phạm danh dự của người khác như vậy phải chăng đã có một cái nhìn phiến diện? Như
nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã từng chia sẻ. -
Vận dung quan điểm toàn diện trong học tập và rèn luyện:
+ Kết hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực: Thay vì chỉ tập trung vào một môn học duy nhất, tôi
sẽ nỗ lực liên kết các kiến thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về
kinh tế, tôi sẽ mở rộng tầm nhìn bằng cách tìm hiểu thêm về xã hội học và tâm lý học, từ đó
có cái nhìn toàn diện hơn về các vấn đề kinh tế. lOMoAR cPSD| 59960339
+ Rèn luyện kỹ năng mềm: Ngoài việc học chuyên môn, tôi cũng sẽ chú trọng đến việc phát
triển các kỹ năng mềm như giao tiếp, làm việc nhóm và quản lý thời gian. Những kỹ năng
này rất quan trọng để tôi có thể làm việc hiệu quả trong môi trường đa dạng và luôn thay đổi.
+ Phát triển khả năng tư duy phản biện: Tôi sẽ rèn luyện khả năng nhìn nhận vấn đề một
cách sâu sắc, không chỉ tiếp nhận thông tin mà còn đặt câu hỏi, phân tích và đánh giá mọi
thứ xung quanh. Điều này giúp tôi có cái nhìn toàn diện và có khả năng đưa ra những đánh giá chính xác hơn.
+ Tham gia các hoạt động ngoài lớp học: Tôi sẽ tích cực tham gia các hoạt động ngoài giờ
học, công tác tình nguyện hoặc các câu lạc bộ, từ đó mở rộng các mối quan hệ và học hỏi
thêm từ những người có kinh nghiệm. Những trải nghiệm này sẽ giúp tôi nhìn nhận cuộc
sống với nhiều góc độ khác nhau.
+ Đánh giá và cải thiện liên tục: Tôi sẽ thường xuyên tự xem xét lại quá trình học tập và
phát triển của mình để điều chỉnh phương pháp học cho phù hợp với mục tiêu cá nhân
cũng như hoàn cảnh hiện tại.
Tóm lại, áp dụng một phương pháp học tập và sống toàn diện sẽ không chỉ giúp tôi hiểu rõ
hơn về thế giới mà còn tạo cơ hội cho sự phát triển toàn diện của bản thân.
3. Trên cơ sở lý luận của phép biện chứng duy vật, anh/chị hãy giải thích vì sao trong
cuộc sống con người cần phải thực hiện quan điểm phát triển, tránh bảo thủ. Nếu
vận dụng quan điểm phát triển trong học tập, rèn luyện hiện nay thì anh/chị sẽ làm như thế nào?
- Theo phép biện chứng duy vật, mọi sự vật, hiện tượng đều vận động và biến đổi không
ngừng và phát triển chính là kết quả của những thay đổi ấy. Phát triển là điều vô cùng
quan trọng và thiết yếu đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân trong xã hội hiện đại. Để
đảm bảo sự phát triển tiến bộ, cần phải loại bỏ những quan niệm bảo thủ, lạc hậu, những
tư tưởng trì trệ, vì chúng không chỉ cản trở sự phát triển của cá nhân mà còn có thể kìm
hãm sự tiến bộ của cả xã hội, là rào cản cho sự thích nghi và tìm tòi tri thức mới. Một xã
hội chỉ có thể thực sự phát triển khi những quan niệm này bị xóa bỏ, tạo điều kiện cho sự
đổi mới và sáng tạo. Cân bằng giữa phát triển và suy nghĩ tiến bộ sẽ giúp ta hướng tới
một xã hội hoàn thiện và tiến bộ hơn.
- Quan điểm phát triển là quan điểm cho rằng con người cần phải thực hiện sự phát triển
và tránh bảo thủ. Điều này có nghĩa là con người cần phải thay đổi, cải tiến và phát triển
bản thân, cũng như xã hội và môi trường xung quanh. Việc từ bỏ tư duy bảo thủ là một
yêu cầu cấp bách để tạo ra những bước tiến mới, thúc đẩy xã hội tiến lên phía trước. Sự lOMoAR cPSD| 59960339
phát triển không chỉ dừng lại ở việc cải thiện bản thân mà còn bao gồm việc tìm kiếm giải
pháp cho các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, bất bình đẳng xã hội, và các thách thức công nghệ.
- Lý do con người cần thực hiện quan điểm phát triển là vì sự phát triển là một quá trình
không ngừng nghỉ và tất yếu trong cuộc sống. Nếu con người không thực hiện sự phát
triển, họ sẽ bị tồn tại trong trạng thái bảo thủ, bế tắc, không thể tiếp cận với các cơ hội
mới, không thể vượt qua được những thách thức trong xã hội và không thể tiến bộ. Hậu
quả là họ sẽ dễ dàng trở nên lạc hậu và không thể thích nghi với những tiến bộ của nhân loại.
- Bên cạnh đó, quan điểm phát triển cũng giúp con người thích ứng với những thay đổi trong
xã hội và môi trường. Trong thế giới ngày nay, công nghệ và xã hội đang phát triển với tốc
độ nhanh chóng. Nếu con người không thực hiện sự phát triển, họ sẽ bị tụt hậu và không
thể thích ứng với những thay đổi này.
Ví dụ: (1) Các quốc gia như Hàn Quốc và Singapore là minh chứng rõ ràng cho việc áp
dụng quan điểm phát triển. Trước đây, Hàn Quốc và Singapore đều là những quốc gia
nghèo và kém phát triển. Tuy nhiên, nhờ vào việc không ngừng cải tiến và phát triển trong
các lĩnh vực giáo dục, công nghệ, và hạ tầng, họ đã trở thành những nền kinh tế mạnh
mẽ và tiên tiến trên thế giới. Nếu các quốc gia này bảo thủ và không thay đổi, họ chắc
chắn sẽ không đạt được sự phát triển như ngày hôm nay.
(2) Ví dụ, trong bối cảnh công nghệ 4.0 và sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, những người
không chủ động học hỏi và phát triển kỹ năng mới sẽ gặp phải khó khăn trong việc duy trì
công việc của mình hoặc không thể tham gia vào những ngành nghề mới đầy triển vọng.
Do đó, sự phát triển là yếu tố quan trọng giúp con người không chỉ tồn tại mà còn vươn
lên và phát triển trong một thế giới đang thay đổi không ngừng.
Tóm lại, trên cơ sở lý luận của phép biện chứng duy vật, con người cần thực hiện quan
điểm phát triển để tiến bộ và thích ứng với sự phát triển của xã hội và môi trường.
- Vận dụng quan điểm phát triển trong học tập và rèn luyện
+ Tích cực tham gia học tập: Việc chủ động tìm kiếm kiến thức mới là yếu tố quan trọng
giúp nâng cao khả năng tư duy và mở rộng vốn hiểu biết. Không chỉ dừng lại ở sách vở,
việc tham gia các khóa học, hội thảo và các hoạt động học thuật khác giúp tôi tiếp cận
những quan điểm mới mẻ, làm giàu thêm kiến thức và cải thiện khả năng học hỏi. Điều
này không chỉ giúp tôi nắm bắt kịp thời những thay đổi trong lĩnh vực mình quan tâm mà
còn tạo điều kiện để kết nối với các chuyên gia, học hỏi từ những kinh nghiệm thực tế.
Tích cực tham gia học tập cũng giúp tôi duy trì sự linh hoạt và sẵn sàng tiếp nhận thử thách mới. lOMoAR cPSD| 59960339
+ Khuyến khích tư duy phản biện: Tư duy phản biện là một kỹ năng quan trọng trong quá
trình học tập và phát triển. Việc phát triển khả năng phân tích và đánh giá thông tin một
cách khách quan giúp tôi tránh được những sai sót trong việc tiếp thu kiến thức. Thay vì
chỉ tiếp nhận thông tin một cách thụ động, tôi sẽ luôn tìm cách đặt câu hỏi, so sánh và
đánh giá các luận điểm để có cái nhìn rõ ràng hơn về vấn đề. Điều này giúp tôi có thể
phát hiện ra những lỗ hổng trong các lập luận, đồng thời học hỏi được những quan điểm
mới mẻ và sâu sắc. Khả năng tư duy phản biện còn giúp tôi đưa ra những quyết định
đúng đắn hơn trong công việc và cuộc sống.
+ Thực hành đổi mới sáng tạo: Việc áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn giúp tôi
không chỉ củng cố những gì đã biết mà còn tạo ra cơ hội để sáng tạo và cải tiến. Khi học,
tôi không chỉ tiếp thu thông tin mà còn suy nghĩ về cách thức áp dụng những kiến thức
đó vào các tình huống cụ thể trong cuộc sống và công việc. Đổi mới sáng tạo không chỉ
giúp tôi giải quyết vấn đề hiệu quả hơn mà còn thúc đẩy sự sáng tạo trong quá trình làm
việc. Đổi mới là chìa khóa giúp cá nhân phát triển và đóng góp vào sự phát triển chung
của cộng đồng và xã hội.
+ Chia sẻ và hợp tác: Hợp tác và chia sẻ là yếu tố không thể thiếu trong quá trình phát
triển. Tham gia vào các hoạt động nhóm, chia sẻ ý tưởng và học hỏi từ người khác giúp
tôi không chỉ phát triển bản thân mà còn đóng góp vào sự phát triển của nhóm hoặc cộng
đồng. Khi chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm với người khác, tôi cũng nhận được sự phản
hồi và học hỏi từ họ, từ đó tạo ra một môi trường học tập và làm việc tích cực. Hợp tác
không chỉ giúp nâng cao hiệu quả công việc mà còn tạo ra sự gắn kết, thúc đẩy sự sáng
tạo và phát triển chung.
Tóm lại, việc thực hiện quan điểm phát triển trong học tập và rèn luyện không chỉ giúp cá
nhân hoàn thiện bản thân mà còn đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội. Khi mỗi
cá nhân biết phát triển toàn diện, từ việc học tập, tư duy phản biện, sáng tạo đến chia sẻ
và hợp tác, chúng ta sẽ cùng nhau tạo ra một môi trường phát triển bền vững, nơi mỗi
người đều có thể đóng góp vào sự tiến bộ của cộng đồng và xã hội.
4. Trên cơ sở lý luận nhận thức duy vật biện chứng, anh/chị hãy giải thích: “Thực
tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không
có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H.
2000, T.8, tr.486)
- Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý luận là hệ thống những tri thức, được khái
quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên,
mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong thế giới và được biểu đạt bằng lOMoAR cPSD| 59960339
hệ thống, nguyên lý, quy luật, phạm trù. Lý luận là kết quả của quá trình phát triển cao
của nhận thức, là trình độ cao của nhận thức.
- Thực tiễn: “Thực tiễn là hoạt động sáng tạo, chủ động của con người nhằm tác động và
biến đổi thế giới khách quan. Khác với các hoạt động bản năng của động vật chỉ nhằm
thích nghi thụ động với môi trường, thực tiễn của con người mang đậm dấu ấn của mục
đích, ý thức và sự sáng tạo”
- Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn: Giữa lý luận và thực tiễn có sự
thống nhất biện chứng với nhau, bổ sung, thâm nhập, chuyển hóa cho nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
+ Trong mối quan hệ với lý luận, thực tiễn quyết định lý luận. Thực tiễn như thế nào thì
lý luận phản ánh như thế đó. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi không ngừng vì vậy lý
luận cũng phải biến đổi theo. Trình độ lý luận càng cao, nhận thức thực tiễn càng sâu sắc.
(+ Những nhu cầu khách quan mà còn người tạo ra đó chính là cải tạo thế giới và phải
giải thích. Chính nhu cầu này mà bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự
vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Đồng thời sẽ làm cho sự vật biến đổi
và vận động qua đó bộc lộ các thuộc tính, những mối liên hệ bên trong giúp con người
nhận thức được bản chất, quy luật vận động và phát triển của thế giới. Từ những điểm
trên, chúng ta cần quán triệt những điểm vận dụng sau: Nhận thức phải xuất phát từ thực
tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ thực tiễn, học phải đi đôi với hành.
Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm, chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc. Ngược
lại, nếu tuyệt đối hóa thực tiễn bỏ qua nghiên cứu lý luận sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng,
kinh nghiệm chủ nghĩa. Lý luận và thực tiễn luôn phải thống nhất với nhau và trở thành
nguyên tắc tối cao của hoạt động con người.)
+ Trong câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” đã
chỉ ra mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Có thể hiểu câu nói đó của Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho thấy mối quan hệ đó giữa lý luận và thực tiễn được thể hiện trên 2 khía cạnh:
Thứ nhất, thực tiễn phải được lý luận hướng dẫn soi đường, nếu không sẽ trở thành thực
tiễn mù quáng. Thứ hai, lý luận phải liên hệ với thực tiễn, vận dụng vào thực tiễn nếu
không sẽ trở thành lý luận suông.
*Thực tiễn phải được lý luận hướng dẫn soi đường, nếu không sẽ trở thành thực tiến mù quáng: lOMoAR cPSD| 59960339
Thực tiễn mù quáng, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là việc “hành động một
cách mò mẫm, không có sự dẫn đường của lý luận”. Giống như việc đi tàu trên biển mà
không có la bàn, người thực hiện hành động theo cách này dễ bị lạc lối và gặp phải
những rủi ro không lường trước được. Ví dụ, một người nông dân chỉ trồng trọt theo kinh
nghiệm ông bà truyền lại, không tìm hiểu về các kỹ thuật canh tác mới, sẽ khó có thể đạt
được năng suất cao và chất lượng sản phẩm tốt.
Vai trò của lý luận đối với thực tiễn:
- Là kim chỉ nam, giúp ta định hướng và đi đến đích một cách chính xã
- Lý luận cung cấp cho chúng ta những kiến thức cơ bản, những nguyên tắc chung để
giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn.
- Nhờ có lý luận, chúng ta có thể xác định rõ mục tiêu, phân tích tình hình, lựa chọn
phương pháp hành động phù hợp, từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn và đạt được
hiệu quả cao trong công việc. Ví dụ, trong lĩnh vực kinh tế, lý luận kinh tế chính trị Mác-
Lênin đã cung cấp cho chúng ta những công cụ phân tích để hiểu rõ quy luật vận động
của nền kinh tế thị trường, từ đó đưa ra những chính sách điều hành phù hợp.
- Không chỉ vậy, lý luận còn giúp chúng ta dự báo những rủi ro có thể xảy ra trong
tương lai, giúp chúng ta chủ động phòng tránh và giảm thiểu thiệt hại. Nhờ đó, chúng ta
có thể đưa ra những quyết định sáng suốt, tránh được những sai lầm đáng tiếc.
- Lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định phương pháp, biện pháp thực hiện
từ đó giúp cho hoạt động thực tiễn trở nên hiệu quả và có mục đích rõ ràng. Bên cạnh
đó, lý luận còn có khả năng dự đoán những rủi ro và thất bại thế nên ta có thể nhận thấy
lý luận còn là cơ sở giúp khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt động của con người.
- Lý luận có vai trò giác ngộ lý tưởng, hòa giải mâu thuẫn, liên kết cộng đồng tạo thành
sức mạnh vô cùng lớn cho con người trong việc cải cách xã hội. Lý luận có tính lịch sử
cụ thể nên vận dụng lý luận cũng phải phụ thuộc vào tình hình cụ thể.
- Lý luận còn có khả năng vượt trước thời đại, đem đến những tư tưởng vô cùng tiên tiến
có khả năng thay đổi cả một thời đại và thúc đẩy sự phát triển của cả thế giới. Một ví dụ
điển hình cho việc lý luận có khả năng thay đổi thế giới là học thuyết chủ nghĩa duy vật
và phép biện chứng của Mác và Ăng ghen đã đi trước thời đại vì đã tạo tiền đề cho sự
đấu tranh cho giai cấp nô lệ và bảo vệ họ khỏi giai cấp cầm quyền, đây là một lý luận rất
tiên tiến về quyền con người đã giúp thay đổi thế giới theo hướng tốt đẹp hơn.
Ví dụ: Trong khuôn khổ Đại Nhảy Vọt, Chiến dịch diệt chim sẻ là một phần của kế hoạch
tiêu diệt bốn loài gây hại: chuột, ruồi, muỗi, và chim sẻ. Mao Trạch Đông tin rằng chim sẻ lOMoAR cPSD| 59960339
là nguyên nhân chính gây ra mất mùa vì chúng ăn hạt ngũ cốc. Vì vậy, chính phủ phát
động chiến dịch toàn quốc để tiêu diệt chim sẻ. Tuy nhiên, chính sách này thiếu nghiên
cứu sinh thái học, không tính đến vai trò quan trọng của chim sẻ trong việc kiểm soát số
lượng côn trùng có hại. Khi chim sẻ bị tiêu diệt gần hết, số lượng côn trùng, đặc biệt là
châu chấu, bùng phát, tàn phá mùa màng và gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất
nông nghiệp. Chính sách này đã góp phần làm trầm trọng thêm nạn đói trong thời kỳ Đại Nhảy Vọt.
*Lý luận phải liên hệ với thực tiễn, vận dụng vào thực tiễn nếu không sẽ trở thành lý luận suông:
- Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Theo Hồ Chí Minh, "lý luận
suông" là tình trạng lý luận không được vận dụng vào thực tiễn, trở nên vô ích và thậm
chí có hại. Người đã chỉ rõ: "Dù xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lý luận, nếu không
biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách”.
- "Lý luận suông" thường biểu hiện ở việc học lý luận một cách máy móc, thuộc lòng mà
không hiểu sâu sắc, không kết hợp với thực tiễn để rút ra những bài học kinh nghiệm.
Việc áp dụng lý luận một cách cứng nhắc, không phù hợp với hoàn cảnh cũng là một
biểu hiện của "lý luận suông”. Khi lý luận không gắn với thực tiễn, nó sẽ trở thành những
lý thuyết trừu tượng, không có sức thuyết phục và không thể giải quyết được những vấn đề thực tế.
- Hồ Chí Minh đã cảnh báo về những hậu quả nghiêm trọng của "lý luận suông". Khi lý
luận tách rời thực tiễn, nó sẽ làm giảm hiệu quả của quá trình học tập và nghiên cứu,
dẫn đến những quyết định sai lầm trong thực tiễn và làm mất đi tính sáng tạo và linh hoạt trong tư duy.
- Một trong những lý do chính khiến lý luận trở nên "suông" khi không có thực tiễn là vì lý
luận cần được thử thách và kiểm chứng trong thực tế. Nếu không được áp dụng vào
thực tiễn, lý luận chỉ là những lý thuyết khô khan, không có khả năng giải quyết vấn đề.
Như Hồ Chí Minh đã từng nói, lý luận phải "liên hệ với thực tế" và không thể chỉ là "lý
luận thuần túy sách vở, xa rời cuộc sống”.
- Thực tiễn không chỉ là nơi để kiểm chứng lý luận mà còn là nguồn gốc để bổ sung, hoàn
thiện lý luận. Khi áp dụng lý luận vào thực tiễn, chúng ta sẽ phát hiện ra những hạn chế
của lý luận và từ đó tìm ra những cách thức để hoàn thiện nó.
- Hơn nữa, việc áp dụng máy móc lý luận vào thực tiễn mà không xét đến tình hình cụ
thể cũng là một nguyên nhân dẫn đến "lý luận suông". Như Hồ Chí Minh đã cảnh báo,
việc áp dụng kinh nghiệm của các nước khác một cách máy móc vào Việt Nam mà không
tính đến những đặc điểm riêng của đất nước sẽ dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng. lOMoAR cPSD| 59960339
- Tác hại của "Lý luận suông" không chỉ làm giảm giá trị của lý luận mà còn cản trở sự
phát triển của thực tiễn. Khi lý luận không gắn với thực tiễn, chúng ta sẽ khó đưa ra
những quyết định đúng đắn và hiệu quả. Điều này có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm
trọng, đặc biệt là trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Ví dụ: Cải cách ruộng đất tại miền Bắc năm 1953 - 1956 là một giai đoạn lịch sử mang ý
nghĩa quan trọng, nhằm giải quyết vấn đề ruộng đất, xóa bỏ chế độ phong kiến và tạo
điều kiện cho nông dân phát triển sản xuất. “Tuy nhiên, quá trình thực hiện cải cách này
đã bộc lộ nhiều hạn chế và sai sót, từ việc thiếu sự linh hoạt trong điều chỉnh chính sách,
không đánh giá đúng tình hình xã hội nông thôn, cho đến sự tàn bạo trong việc kết án
người dân vô tội. Khiến chính sách này trở thành một ví dụ điển hình cho việc áp dụng
lý luận một cách cứng nhắc, không phù hợp với điều kiện thực tế, dẫn đến những tổn
thương sâu sắc cho người dân Việt Nam thời bấy giờ”
*Qua sự phân tích trên có thể thấy được ý nghĩa câu nói và hàm ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Theo Người, lý luận đóng vai trò như một ngọn hải đăng soi sáng con đường đi đến mục
tiêu. Lý luận cung cấp cho chúng ta những kiến thức cơ bản, những nguyên tắc chung
để giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn. Tuy nhiên, lý luận chỉ thực sự có ý nghĩa
khi nó được vận dụng vào cuộc sống, được kiểm nghiệm bằng thực tiễn. Nếu lý luận
tách rời khỏi thực tiễn, nó sẽ trở nên khô khan, trừu tượng và không có sức sống. Mặt
khác, thực tiễn là thước đo chân lý của lý luận. Thực tiễn luôn vận động, luôn thay đổi,
do đó lý luận cũng cần phải không ngừng được bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với yêu
cầu mới của thực tiễn. Nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm thực tiễn mà không có sự hướng
dẫn của lý luận, chúng ta dễ mắc phải những sai lầm ngẫu nhiên, thiếu tính hệ thống.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn hoàn toàn phù hợp
với quan điểm của triết học Mác- Lênin. Mác và Ăngghen đã nhấn mạnh rằng lý luận chỉ
có thể trở thành sức mạnh vật chất khi nó được quần chúng nắm vững và vận dụng vào
cuộc đấu tranh thực tế để cải biến thế giới.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến việc kết
hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận Mác-Lênin với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người đã
sáng tạo ra những đường lối, chủ trương, sách lược phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của
đất nước, đồng thời không ngừng học hỏi, rút kinh nghiệm từ thực tiễn để hoàn thiện lý luận của mình.
Câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một chân
lý sâu sắc, có ý nghĩa định hướng cho mọi hoạt động của con người. Việc giữ được sự
cân bằng giữa lý luận và thực tiễn là điều kiện tiên quyết để đạt được thành công trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề này vẫn còn lOMoAR cPSD| 59960339
nguyên giá trị lý luận và thực tiễn cho đến ngày nay, đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta
đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
5. Trên cơ sở lý luận về mâu thuẫn của triết học Mác-Lênin và thực tiễn quá trình
đổi mới ở Việt Nam, anh/chị hãy nêu và phân tích một số mâu thuẫn biện chứng
đang tồn tại trong xã hội ta hiện nay và chỉ ra phương hướng để giải quyết.
*Cơ sở lý luận về mâu thuẫn của Triết Học Mác- Lênin
-Về khái niệm, mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa
giữa các mặt đối lập của một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
-Về Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập ( Quy luật mâu thuẫn ).
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt dối lập thể hiện bản chất, là hạt nhân của
phép biện chứng duy vật, bởi nó đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của phép
biện chứng duy vật – vấn đề nguyên nhân, động lực của sự vận động, phát triển. Theo
V.I. Lênin, “có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của
các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng...” (Bút ký triết học, toàn tập/29, Sdd/240)
- Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là các mặt đối lập. Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ
những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động, biến đổi trái ngược nhau
nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau. Các mặt đối lập nằm trong sự
liên hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau (thống nhất, đấu tranh, chuyển hóa) tạo thành mâu thuẫn biện chứng
Ví dụ: - Trong mỗi con người đều có mặt đối lập theo tự nhiên như di truyền và đột biến,
hoạt động ăn và hoạt động bài tiết.
- Trong nguyên tử có điện tích âm và điện tích dương
- Mối quan hệ của các mặt đối lập có tính tất yếu, phổ biến, lặp đi lặp lại, được phépbiện
chứng coi là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng - quy luật thốngnhất và
đấu tranh của các mặt đối - Mâu thuẫn có các tính chất sau : + Tính khách quan + Tính phổ biến
+ Tính đa dạng, phong phú lOMoAR cPSD| 59960339
-Quá trình vận động của mâu thuẫn (đây chính là nguồn gốc, động lực của sự phát triển):
+ Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa
giữa chúng. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới hình thành, quá trình tác động, chuyển
hóa giữa các sự vật được tiếp diễn làm cho hiện tượng luôn vận động và phát triển không
ngừng. Chỉ có đấu tranh của các mặt đối lập khi phát triển đến một trình độ nhất định mới
xảy ra sự chuyển hóa giữa chúng, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Sự chuyển hóa đó diễn
ra rất phong phú, đa dạng, phụ thuộc vào tính chất các mặt đối lập cũng như điều kiện
lịch sử, cụ thể. Chẳng hạn: Sự phát triển kinh tế trong chủ nghĩa tư bản phục vụ lợi ích
của giai cấp tư sản nhưng lại tạo ra tiền đề cho sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã
+ Tóm gọn lại, trong thế giới hiện thực, bất kì sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng
trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều
nhau. Sự đấu tranh chuyển hóa của các mặt đối lập trong đk cụ thể tạo ra những mâu
thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến, đa dạng và phong phú. Khi mâu
thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại nảy sinh
các mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lạ iđấu tranh chuyển hóa và phủ định lẫn nhau
tạo thành sự vật mới hơn cứ như vậymà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan thường xuyên biến đổi không ngừng *Thực tiễn quá trình đổi mới tại Việt Nam: - Về chính trị :
+ Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn vận dụng
sáng tạo phép biện chứng duy vật trong đó có việc vận dụng quy luật thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập trong việc nhận thức và giải quyết các vấn đề của Cách mạng Việt Nam - Về kinh tế :
+ Từ theo đuổi mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, dẫn đến tình trạng thiếu thốn,
kém hiệu quả và khủng hoảng kinh tế. Cho đến thực hiện các chính sách cải cách kinh
tế, khuyến khích sản xuất hàng hóa, tự do hóa thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài.
Từ đó giúp tăng trường nền kinh tế, tập trung vào phát triển bền vững
Quá trình đổi mới ở Việt Nam đã tạo ra những thay đổi tích cực trong mọi lĩnh vực, giúp
đất nước vượt qua khó khăn và phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, để tiếp tục phát triển bền
vững, Việt Nam cần phải giải quyết các thách thức hiện tại và tiếp tục cải cách trong tương lai.
*Một số mâu thuẫn biện chứng đang tồn tại trong xã hội ta hiện nay phương hướng để giải quyết: lOMoAR cPSD| 59960339
- Mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập với hội nhập quốc tế :
+ Toàn cầu hóa là một xu thể tất yếu, khách quan, có lịch sử phát triển lâu dài và không
thể đảo ngược. Hiện nay, các quốc gia không thể tẩy chay hoàn toàn toàn cầu hóa hoặc
đứng ngoài toàn cầu hóa nên việc thiết lập chiến lược thích ứng, đồng thời phải có ý thức
giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ để đất nước có
thể phát triển là vấn đề trọng yếu. Quá trình đó chứa đựng những mâu thuẫn, vừa có
mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác và đấu tranh, vừa tạo ra cơ hội vừa
tạo ra thách thức, nhất là các đất nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta
+ Thực hiện chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong đường lối
chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế (trước Đại hội XI là hội nhập kinh tế quốc tế),
quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam gần 30 năm qua đã, đang đạt được nhiều kết
quả to lớn, đưa Việt Nam bước vào một giai đoạn hội nhập quốc tế sâu sắc và toàn diện
hơn như: Gia nhập ASEAN (7/1995), Thành viên APEC (1996),…)
+ Về kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: tùy thuộc vào tình
hình thị trường thế giới, áp dụng một cách thích hợp vào nhu cầu kinh tếcủa mỗi quốc
gia. Chấp nhận sự tùy thuộc lẫn nhau trên cơ sở cùng có lợi trong các quan hệ giữa các quốc gia. ++Ưu điểm:
• Đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
• Đổi mới tư duy kinh tế của Nhà nước trong quản trị nền kinh tế trong nước và hoạt động kinh
tế đối ngoại, thông qua trao đổi khoa học, nghiên cứu học thuật ,đào tạo và giáo dục, Việt
Nam có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế → phát
triển tư duy thị trường trong việc tiếp cận chính sách và vận hành chính sách phát triển trong
điều kiện hội nhập toàn cầu.
• - Có nhiều cơ hội tiếp nhận nền khoa học hiện đại và công nghệ tiên tiến trên thế giới giúp
củng cố nền kinh tế quốc gia ++ Khuyết điểm :
• - Phân phối lợi ích không đều cho các quốc gia. Ở đây các quốc gia phát triển sẽ có ưu thế
lớn vì sản phẩm họ tạo ra có lợi thế cạnh tranh về cả giá cả và chất lượng. Trong khi các
quốc gia đang pt như VN lại gặp bất lợi về giá cả và chất lượng hàng hóa dịch vụ (lao động thô, ít chất xám,…)
• - Hội nhập qt tạo dk thu hút vốn đt nước ngoài, tuy nhiên sẽ xảy ra mâu thuẫn: Vốn đt nước
ngoài bao giờ cũng gắn liền với những điều kiện nhất định ( các thể chế, thi hành hệ thống
pháp luật quốc tế..). Dẫn đến các nước nhận đầu tư đã bị chi phối, khống chế về kinh tế,
chính trị và từ đó làm nảy sinh mâu thuẫn bên ngoài giữa nước nhận đầu tư và nước chủđầu
tư, nước nhận đầu tư mất tính độc lập lOMoAR cPSD| 59960339
PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT: - Phương diện kinh tế :
+ Cần có cơ cấu kinh tế hợp lí, nền kinh tế cần phát triển ổn định,… Đầu tư nước ngoài cũng
quan trọng nhưng không thể để nó chiếm lĩnh toàn bộ nền kinh tế trong nước. - Phương diện xã hội :
+ Yêu cầu của một quốc gia độc lập, tự chủ hàm chứa năng lực thực hành thuần thục hai
cách thức quản trị xã hội: chính thức (tức là bằng pháp luậtvà các quy định thành văn) và phi
chính thức (bằng con đường tuyên truyền, vận động, giáo dục,…) - Phương diện chính trị :
+ Quốc phòng, anninh và đối ngoại, độc lập, tự chủ là yêu cầu có tính nguyên tắc trong quá
trình hội nhập quốc tế của nước ta. Độc lập tự chủ về chính trị có nghĩa là tự mình xác định
mục tiêu, con đường phát triển đất nước; tự mình hoạch định đường lối, chủ trương, chiến
lược phát triển; tự mình xác lập và duy trì thể chế chính trị, không chấp nhận bất cứ sự can
thiệp nào từ bên ngoài, kiên quyết giữ vững chủ quyền, lãnh thổ đất nước và trật tự, antoàn
xã hội. Độc lập tự chủ về chính trị được thể hiện cả trong đối nội và đối ngoại, cả kinh tế, văn
hoá, quốc phòng, an ninh,… Ngoài ra cần phải độc lập tự chủ về cả đối ngoại và quan hệ quốc tế.
-Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và vấn đề phân hóa giàu nghèo:
+ Nước ta có sự phân hóa giàu nghèo lớn và ngày càng lan rộng, người giàu thì sẽ có xu
hướng giàu thêm nhờ đk thuận lợi, trong khi người nghèo tuy có thể không nghèo hơn, nhưng
rất khó có sự cải thiện lớn về thu nhập do hạn chế về vốn, trình độ học thức…
PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT:
+Duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững, tạo điều kiện để nhân dân có việc làm.
+Để cải thiện đời sống người dân cần nâng cao mức an sinh xã hội và phúc lợi.
+Phát triển nông thôn cùng với đó là nông nghiệp.
+ Tăng cường các chính sách hỗ trợ người nghèo phát triển sản xuất và vươn lên làm giàu.
+Tạo những điều kiện cơ hội cho người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội.
+ Đảng và nhà nước cùng nhân dân thực hiện chủ trương xóa đói giảm nghèo
- Mâu thuẫn giữa pt kinh tế và vấn đề bảo vệ mt lOMoAR cPSD| 59960339
+ Khi xh pt, nhờ vào tbo khkt nà kinh te tăng trưởng nhanh. Song bên cạnh đó lại khiến tài
nguyên cạn kiệt, mất cân bằng sinh thái, chất lượng môi trường sống suy thoái thì quản lí
môi trường đã trở thành một hoạt động cụ thể của quản lí nhà nước. Đây là vấn đề quan
trọng được đặt ra không chỉ ở Việt Nam mà cả trên toàn thế giới. Nó đòi hỏi cần phải được
giải quyết triệt để nếu không môi trường bị phá hủy là con người sẽ tự hủy hoại môi trường
sống của chính bản thân mình. Sự phát triển của mỗi quốc gia chỉ có thể bền vững khi môi
trường sống và thiên nhiên được bảo vệ tốt, duy trì được mối cân bằng sinh thái, tránh ô
nhiễm, bt cách khai thác, sử dụng phục hồi hp li tntn
PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT:
+ Bảo vệ và cải tạo môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, tăng cường quảnlí Nhà nước
đi đôi với nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi người dân. Chủ động gắn kết yêu cầu cải
thiện môi trường trong mỗi quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dựán phát triển kinh tế- xã
hội, coi yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọngđánh giá các giải pháp phát triển.
+ Trong quy hoạch và thực hiện chính sách kinh tế vùng, mặc dù còn rất nhiều điểm cần
phải hoàn chỉnh nhưng xu thế cách biệt giữa miền núi, hải đảo, trung du, đồng bằng, … đang
từng bước được thu hẹp. Đồng thời với việc hoạch định những chủ trương, chính sách, biện
pháp cụ thể nhằm bảo vệ môi trường, xác lập các vùng kinh tế chuyên ngành, chúng ta đã
ban hành hàng loạt những văn bản pháp luật cần thiết cótính khả thi để bảo vệ tài nguyên và môi trường
+ Giáo dục tư tưởng và ý thức bảo vệ môi trường
+ Tuyên truyền, truyền thông về bảo vệ môi trường
+ Kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu bảo vệ môi trường
+ Áp dụng những qui luật, luật pháp về bảo vệ môi trường đi đôi với phát triểnkinh tế.
+Sản xuất theo chu kỳ khép kín; xử lí các chất, khí ra môi trường.
+ Phải có qui hoạch tổng thể khoa học, vừa khai thác vừa trồng và bảo vệ rừng, xây dựng
các nơi bảo tồn vườn quốc gia.
6. V.I.Lênin viết: “Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết
các vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi “vấp phải”
những vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn
đề đó trong từng trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến
chỗ những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc” (V.I.Lênin: Toàn tập,
Nxb. Tiến bộ, M. 1979, T.15, tr.437). Trên cơ sở lý luận về mối quan hệ biện chứng
giữa phạm trù cái riêng và cái chung, anh/chị hãy giải thích luận điểm nêu trên và
liên hệ với thực tế quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. lOMoAR cPSD| 59960339
- Lênin đã từng viết: “…” (Câu trên). Nhận định này xuất phát từ mối quan hệ biện
chứng giữa phạm trù cái riêng và cái chung. Để làm rõ luận điểm này chúng ta cần
phải làm rõ mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
-Mối quan hệ biện chứng giữa phạm trù cái riêng và cái chung:
+ Cái chung là những quy luật, nguyên tắc, và xu hướng lớn hơn, có ảnh hưởng đến nhiều
lĩnh vực và vấn đề cụ thể. Cái riêng là những trường hợp, tình huống cụ thể, có thể khác nhau và đa dạng.
+ Việc giải quyết cái chung trước giúp định hướng cho cái riêng, đảm bảo rằng các quyết
định cụ thể không đi ngược lại với các nguyên tắc và mục tiêu lớn hơn.
+ Mối quan hệ biện chứng giữa “cái chung”, “cái riêng” là vấn đề trung tâm, phản ánh sự
vận động và phát triển của thế giới vật chất trong quan điểm của Triết học Mác - Lênin.
Tính biện chứng của mối quan hệ thể hiện qua sự phản ánh, ảnh hưởng lẫn nhau của “cái
chung” và “cái riêng”. “Cái chung” là bộ phận nhưng tồn tại trong mọi “cái riêng” có thuộc
tính giống nhau, “cái riêng” là cái toàn bộ bao hàm của “cái chung” và “cái đơn nhất”. Do
đó, có thể kết luận mọi sự vật, hiện tượng tồn tại độc lập đều là sự thống nhất giữa “cái
chung” và “cái riêng”, “cái chung” không tồn tại độc lập, riêng lẻ với “cái riêng”, mà chỉ biểu
hiện thông qua “cái riêng”. Ngược lại, “cái riêng” cũng không thể tồn tại độc lập mà luôn
kèm với thuộc tính biểu hiện của “cái chung”.
Ví dụ, loài người là một cái chung, nhưng mỗi cá nhân lại mang những đặc điểm riêng biệt
về ngoại hình, tính cách và khả năng. Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều có những đặc điểm
chung như khả năng tư duy, ngôn ngữ và xã hội hóa.
- Qua đó phân tích luận điểm của Lênin
+ Luận điểm này có thể được giải thích bằng việc sử dụng mối quan hệ biện chứng giữa
“cái chung” và “cái riêng”, và qua đó phản ánh tầm quan trọng của việc nhận thức các vấn
đề chung trong việc giải quyết các vấn đề riêng và ngược lại.
+ Khi con người bắt đầu xuất hiện ý thức cũng là lúc hình thành nên nhân sinh quan riêng
biệt của mỗi người, từ đó hình thành cái riêng và “vấn đề riêng” của mỗi người. “Vấn đề
riêng” chính là những tình huống, quyết định hoặc hành động cụ thể mà một cá nhân hoặc
tổ chức phải giải quyết, thể hiện lối suy nghĩ, hành động độc lập và cá tính riêng biệt của mỗi người.
+ Ngược lại với “vấn đề riêng”, “vấn đề chung” vừa là một mặt của “vấn đề riêng”, là một
biểu hiện của rất nhiều “vấn đề riêng”, vừa là nhân tố giúp định hình và tạo nền tảng vững lOMoAR cPSD| 59960339
chắc cho các quyết định và hành động cụ thể, hợp lý. Vậy nên có thể khẳng định rằng việc
nhận thức rõ các “vấn đề chung” cần được đưa lên hàng đầu nhằm xây dựng nên một hệ
thống ổn định và bền vững, cũng như xác lập tính nguyên tắc và nhất quán của hệ thống.
+ Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng không phải là mối quan hệ tách biệt, mà là sự
tương tác chặt chẽ, trong đó cái chung định hình cái riêng và ngược lại
- Hệ quả của việc bỏ qua cái chung :
+ Khi chỉ tập trung vào cái riêng, người ta có thể rơi vào tình trạng "mù quáng" và không
nhận ra rằng những quyết định của mình có thể ảnh hưởng đến bức tranh lớn hơn. Điều
này có thể dẫn đến những chính sách không đồng bộ, thiếu tính khả thi và không bền vững.
+ Về lợi ích chung (lợi ích của cả tập thể, cộng đồng và xã hội) và lợi ích riêng (lợi ích của
một cá nhân): nếu con người ta chỉ quan tâm đến lợi ích riêng mà bỏ qua lợi ích chung thì
đây được xem là chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi. Người mang trong mình chủ nghĩa
cá nhân trên sẽ gây nhiều tác hại đối với chính bản thân họ và xã hội, từ sự suy yếu tinh
thần đoàn kết cho đến giảm hiệu quả trong công việc và sự phát triển của xã hội.
- Liên hệ với thực tế quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam HIỆN NAY :
+ Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, việc áp dụng lý luận của
Lênin về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung (bằng cách đảm bảo các vấn đề chung
này được giải quyết đúng đắn và hiệu quả, giúp tạo ra một nền tảng vững chắc để giải
quyết các vấn đề riêng) có thể thấy rõ qua một số khía cạnh:
*Chính sách phát triển kinh tế:
+ Việt Nam đã xây dựng nhiều chính sách phát triển kinh tế dựa trên các chiến lược dài
hạn như "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm" hay "Đề án tái cơ cấu nền kinh
tế". Những chính sách này không chỉ hướng tới sự phát triển các ngành cụ thể mà còn
xem xét đến bối cảnh kinh tế toàn cầu, xu hướng phát triển bền vững.
*Đầu tư và phát triển hạ tầng:
+ Trong quá trình phát triển hạ tầng, nếu chỉ chú trọng vào từng dự án cụ thể mà không
có sự đồng bộ với quy hoạch tổng thể, sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn lực, không
phát huy được hiệu quả. Ví dụ, việc xây dựng các khu công nghiệp cần phải gắn liền với
quy hoạch đô thị và bảo vệ môi trường. Nếu thiếu sự phối hợp giữa các lĩnh vực này, sẽ
khó tạo ra một nền tảng hạ tầng đồng bộ và hiệu quả cho sự phát triển kinh tế trong dài hạn. lOMoAR cPSD| 59960339
*Đào tạo nguồn nhân lực:
+ Việc phát triển nguồn nhân lực cũng cần phải dựa trên nhu cầu chung của nền kinh tế,
chứ không chỉ là đáp ứng nhu cầu của từng doanh nghiệp. Nếu chỉ đào tạo theo yêu cầu
của từng doanh nghiệp mà không có chiến lược tổng thể và không hướng tới yêu cầu của
nền kinh tế quốc gia, sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt hoặc thừa thãi lao động trong các lĩnh vực khác nhau.
*Ví dụ chung như là trong quá trình công nghiệp hoá, việc xây dựng cơ sở hạ tầng giao
thông, điện lực và nước sạch là các vấn đề chung quan trọng. Nếu chúng ta không đầu
tư và phát triển các cơ sở hạ tầng này trước, việc giải quyết các vấn đề riêng như xây
dựng nhà máy, khu công nghiệp và cung cấp dịch vụ công sẽ gặp nhiều khó khăn. Điều
này có thể dẫn đến sự mất hẳn tính nguyên tắc và không tự giác trong quá trình phát triển.
*Kết luận Luận điểm của V.I. Lênin về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung là một bài
học vô cùng giá trị trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Việc nhận
thức đúng đắn và áp dụng hiệu quả mối quan hệ này không chỉ giúp chúng ta giải quyết
tốt các vấn đề trước mắt mà còn đảm bảo sự phát triển bền vững, lâu dài cho đất nước.
Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang mạnh mẽ chuyển mình từ một quốc
gia nông nghiệp sang một nền kinh tế công nghiệp hiện đại, việc áp dụng lý luận này càng
trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
7. Ph. Ăngghen viết: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, v.v… đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả cũng có ảnh
Nxb. CTQG, H.1999, T.30, tr.271). Từ mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế” ( C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập,
thức xã hội, anh/chị hãy phân tích cơ sở triết học của luận điểm trên và liên hệ với
thực tiễn đổi mới của nước ta hiện nay.
- Ăngghen đã từng viết: “…”. Nhận định của Ăngghen xuất phát từ mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Để hiểu rõ hơn luận điểm này chúng ta
cần phải hiểu được tồn tại xã hội là gì và ý thức xã hội là gì.
-Tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
+ Tồn tại xã hội: Tồn tại xã hội được định nghĩa là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội
khách quan, là một kiểu vật chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã lOMoAR cPSD| 59960339
hội phản ánh. Trong các quan hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới
tự nhiên và quan hệ giữa con người với con người là những quan hệ cơ bản nhất.
Ví dụ: Trong xã hội cộng sản nguyên thủy các bộ lạc người sống bầy đàn sống bằng hình
thức săn bắt, hái lượm, dùng đá để chế tác công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã
có những bước tiến lớn trong kỉ thuật chế tác, đã có nhiều hình loại ổn định nhằm phục
vụ đời sống. Thời kì này con người biết tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu
như đá, đất sét, xương, sừng, tre gỗ…
+ Ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải quyết
vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Ý thức xã hội chính là xã hội tự nhận
thức về mình, về sự tồn tại xã hội và hiện thực xung quanh mình. Nói cách khác, ý thức
xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội.
Ví dụ: Trong nhiều thế kỷ, hệ thống tư tưởng phong kiến Nho giáo đã chi phối dân tộc
Việt. (Trang 421 – Giáo trình triết học Mac – Lenin xb 2023)
- Mối quan hệ biện chứng giữa “tồn tại xã hội” và “ý thức xã hội”
+ Ý thức xã hội chính là sản phẩm của tồn tại xã hội, bắt nguồn từ tồn tại xã hội, hình
thành do nhu cầu tồn tại xã hội và là kết quả tất yếu của hoạt động vật chất có tính xã
hội. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau và cùng
nhau tạo nên sự phát triển của xã hội.
+ Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội: Tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định
ý thức xã hội. Tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội như thế ấy, tức là người ta
không thể tìm nguồn gốc tư tưởng ấy trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong
chính tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương
thức sản xuất đã thay đổi thì sớm hay muộn ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
Ví dụ: Sự phát triển kinh tế dựa trên khai thác tài nguyên thiên nhiên mà không chú trọng
đến bảo vệ môi trường đã dẫn đến ô nhiễm và cạn kiệt tài nguyên. Khi các vấn đề môi
trường trở nên nghiêm trọng, nhiều tổ chức và cá nhân bắt đầu nâng cao nhận thức về
việc phát triển bền vững. Các phong trào như sử dụng năng lượng tái tạo, sản phẩm
thân thiện với môi trường và bảo vệ hệ sinh thái được khuyến khích. Kết quả là, ý thức
xã hội về kinh tế xanh gia tăng, thúc đẩy các doanh nghiệp chuyển đổi sang mô hình
kinh doanh bền vững, tạo ra một nền kinh tế ít tác động tiêu cực đến môi trường hơn. lOMoAR cPSD| 59960339
- Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội: Ý thức xã hội là hình ảnh phản chiếu của tồn tại xã
hội, nhưng không phải là bản sao y nguyên mà mang tính chất chủ quan, lựa chọn và
tổng hợp. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội ở chỗ nó thể hiện những giá trị, quan
niệm và thái độ mà một cộng đồng hoặc xã hội có được từ các điều kiện vật chất, kinh
tế và xã hội của họ.
Ví dụ: Trong một xã hội có nền kinh tế thị trường phát triển, ý thức xã hội thường nhấn
mạnh giá trị của cạnh tranh, khởi nghiệp và tự do cá nhân. Các quan điểm này xuất
phát từ sự tồn tại của các yếu tố như tự do kinh doanh, cơ hội làm giàu và sự đổi mới.
- Liên hệ với thực tiễn đổi mới của nước ta hiện nay
: * Đổi mới kinh tế và phát triển xã hội a. Cơ sở kinh tế:
- Chính sách đổi mới (Đổi mới từ 1986): Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự thay đổi này đã tạo
ra động lực phát triển kinh tế mạnh mẽ, với tăng trưởng GDP cao và thu hút đầu tư nước ngoài.
b. Ảnh hưởng đến chính trị và pháp luật:
- Thay đổi trong pháp luật: Để hỗ trợ sự phát triển kinh tế, Việt Nam đã cải cách nhiều quy
định pháp luật, chẳng hạn như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp. Những thay đổi này
giúp tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và cải thiện môi trường kinh doanh. -
Chính trị và quản lý: Sự phát triển kinh tế cũng thúc đẩy yêu cầu về cải cách chính trị,
minh bạch hơn trong quản lý nhà nước, qua đó nâng cao trách nhiệm giải trình và tham gia của người dân.
*Ảnh hưởng lẫn nhau giữa các lĩnh vực
a. Văn hóa và nghệ thuật
- Sự phát triển của văn hóa: Kinh tế phát triển đã tạo ra điều kiện cho sự thăng hoa của
văn hóa nghệ thuật. Nhiều tác phẩm văn học, điện ảnh, và nghệ thuật phản ánh đời sống
xã hội, các vấn đề đương đại, như bình đẳng giới, ô nhiễm môi trường.