Ôn tập cuối kì | Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

Trong giai đoạn ôn tập cuối kỳ của khóa học "Lịch Sử Đảng Cộng sản Việt Nam", sinh viên sẽ được tổ chức lại kiến thức đã học và chuẩn bị cho kỳ thi cuối kỳ. Qua việc xem lại các bài giảng, đọc lại tài liệu và tham gia các buổi ôn tập, sinh viên có cơ hội củng cố và hiểu sâu hơn về các sự kiện, nhân vật và chiến lược của Đảng trong quá khứ. Mục tiêu của giai đoạn này là giúp sinh viên tự tin và sẵn sàng cho kỳ thi cuối kỳ, đồng thời tăng cường hiểu biết về lịch sử và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình phát triển của đất nước.

Nội dung ôn tập lịch sử đảng
Không thi chương I
CÂU 1: Vì sao nói sau CMT8, Việt Nam trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc? (RẤT HAY THI)
BỔ SUNG TRONG GIÁO TRÌNH TRANG 127
Bởi các do sau: các nước đế quốc c thế lực phản động trong nước cấu kết với nhau
chống phá cách mạng; lụt hạn hán làm cho nông nghiệp đình đốn, một nửa số ruộng không
thể cày cấy được; tài chính cạn kiệt, ngân khố trống rỗng; hơn 90% đồng bào ta không biết chữ.
Cụ thể, “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền khó hơn” là tổng kết thiên tài của Lênin
- sự phát hiện một nguyên phổ quát. Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945,
Việt Nam rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Ngoại chiến nội phản - Miền Bắc (từ cự tuyến
16 trở ra): 20 vạn quân Trung Hòa Dân quốc kéo vào nước ta theo sau các phái phái tay sai như:
Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng chí hội (Việt Cách) lại giành lại
chính quyền. - Miền Nam (từ tuyến 16 trở vào Nam): Quân Anh kéo vào, leo đường cho Pháp trở
lại chiến lược nước ta. Lợi dụng tình hình, bọn phản động bắt đầu dậy làm sai cho Pháp chống phá
cách mạng. - Trên cả nước còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp, theo lệnh Anh chống cách mạng. Đối
nội, Trong nước, Chính phủ lâm thời vừa thành lập do Hồ Chủ tịch đứng đầu còn non trẻ, những
thành phần phản cách mạng lại ra sức chống phá chính quyền non trẻ. Chính quyền cách mạng vừa
thành lập, chưa được củng cố, lực lượng vũ trang non yếu. Cả thù trong giặc ngoài đều phải đối phó.
Trong khi đó, ta vừa trải qua cuộc chiến kéo dài, tổn thất, thiệt hại rất lớn về kinh tế -
hội. Ngân sách trống rỗng, mất mùa, đói kém, các tệ nạn xã hội tràn lan. Cơn đói cuối cùng 1944
đầu 1945 chưa được giải quyết; cúm lớn làm đê đê 9 tỉnh Bắc Bộ; Cơ sở công nghiệp chưa phục
hồi, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân nhiều khó khăn. Ngân sách Nhà
nước trống rỗng, tiền mất giá của Trung Hoa Dân Quốc tung ra thị trường, làm tài chính rối
loạn nước. Tàn dư văn hóa hậu kỳ của chế độ thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng nền, hơn
90% dân số không biết chữ. => Đất nước rơi vào tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”.
Thế nhưng, chính phủ lâm thời tuy mới thành lập cũng đã tỏ sự khéo léo của mình trong
việc giải quyết các thách thức lớn. Ngày 6/1/1946, ta tiến hành Tổng tuyển cử trên cả nước, bầu ra
Quốc hội lập Hiến pháp, phá đi âm mưu chia rẽ lật đổ của kẻ thù. Tiếp đến, ta chống lại “giặc
đói” “giặc dốt”. Quyên góp tiền, thức ăn, gạo, lập “Hũ gạo cứu đói”, phát động “Tuần lễ vàng”,
gia tăng sản xuất… Toàn dân chung tay chia sẻ, đùm bọc nhau vượt qua khó khăn. Chính phủ ký sắc
lệnh “Bình dân học vụ”, mở các lớp phổ cập giáo dục cấp tốc cho mọi người, đẩy lùi nạn dốt.
lOMoARcPSD| 41487147
Với giặc ngoại xâm, ta chủ trương hòa với Tưởng để tập trung chống Pháp miền Nam,
nhường cho chúng một số quyền lợi kinh tế, chính trị. Đến ngày 6/3/1946, ta với Pháp Hiệp
định bộ, chuyển sang hòa với Pháp để đuổi Tưởng vnước. Đến ngày 14/9, ta kí Tạm ước với
Pháp, nhường tiếp một số quyền lợi để tập trung nguồn lực chuẩn bị kháng chiến chống Pháp lâu
dài. Nhờ vậy mới có thể tránh được cả thù trong lẫn giặc ngoài.
Khó khăn vậy, nhưng sau CMT8 vẫn một số điểm thuận lợi đối với Việt Nam từ
trong nước lẫn quốc tế. Sau Chiến tranh Thế giới thứ 2, cục diện thế giới và khu vực có những sự
thay đổi lợi cho cách mạng Việt Nam: Liên trở thành thành trì của CNXH; nhiều nước
Đông, Trung Âu chọn con đường phát triển theo CNXH; các phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa châu Á, Phi, Mỹ Latinh dâng cao. Nhân dân VN từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở
thành chủ nhân của của chế độ dân chủ mới. Nước ta hình thành hệ thống chính quyền cách
mạng với bộ máy thống nhất từ Trung ương đến sở. Quân đội quốc gia, lực lượng công an
hệ thống luật pháp của chính quyền cách mạng cũng được khẩn trương xây dựng và phát huy
vai trò đối với việc bảo vệ đất nước, xây dựng chế độ mới.
Có thể nói, những thách thức sau CMT8 thật sự vô cùng khó khăn đối với một chính phủ mới,
còn non trẻ của chúng ta. Thế nhưng, bằng đường lối lãnh đạo khéo léo, đúng đắn, cùng sự đoàn kết
toàn dân, chúng ta đã vượt qua được tất cả và tiếp tục giữ vững nền độc lập tự do cho dân tộc.
Câu 2: Trình bày và phân tích tư tưởng chiến lược tiến công trong giai đoạn 1959-64
BỔ SUNG GIÁO TRÌNH TRANG 180-182, 185, 186, 188, 189
Trong giai đoạn 1959-1964, để phù hợp với tình hình đất nước, vừa phù hợp với xu thế chung
của thời đại, yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta là phải đề ra được đường lối đúng đắn, hợp lí. Trải
qua nhiều lần nhóm họp tại các Hội nghị, Tháng 1-1959 tại Hội nghị Trung ương lần thứ 15, Ban
Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết vcách mạng miền Nam. Trung ương Đảng nhận định:
"Hiện nay, cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng
hội chủ nghĩa miền Bắc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam. Hai nhiệm vụ
chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu với nhau... nhằm phương hướng
chung giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội". Nghị quyết xác định con đường phát triển của cách mạng miền
Nam bạo lực cách mạng thay chỉ đấu tranh dân chủ chính trị như trước đó, chuyển từ giữ
gìn lực lượng sáng thế tiến công. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 ý nghĩa lịch sử to
lớn, chẳng những đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, còn thể hiện bản lĩnh độc
lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
lOMoARcPSD| 41487147
Tiến hành cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc củng cố phát huy thắng lợi đã
giành được, xây dựng sở vững chắc để thực hiện thống nhất nước nhà. Miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hội một mặt là vì mục đích nâng cao không ngừng đời sống của nhân dân miền Bắc;
mặt khác là tích cực gánh vác phần trách nhiệm đối với phong trào cách mạng của cả nước.
Kinh tế, văn hoá miền Bắc ngày càng phát triển, đời sống nhân dân miền Bắc ngày càng được cải
thiện, lực lượng quốc phòng của miền Bắc ngày càng được vững mạnh thì sẽ tăng thêm sức mạnh
của cách mạng uy thế chính trị của nhân dân ta, tăng thêm tin tưởng tính tích cực ch
mạng của đồng bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống Mỹ.
Tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ chế độ đế quốc và nửa phong kiến ở miền
Nam để thực hiện thống nhất nước nhà. Cách mạng ở miền Nam hiện nay đang tiếp tục phát huy
ý chí quật cường, truyền thống bất khuất của cả dân tộc Việt Nam. Phong trào yêu nước của nhân
dân miền Nam càng được giữ vững phát triển thì một mặt càng tăng cường lực lượng cách mạng
để đánh bại chính sách nô dịch, gây chiến và chia cắt của Mỹ - Diệm, đi đến đánh đổ sự thống trị tàn
khốc của chúng, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.
Muốn thống nhất nước nhà cần phải xây dựng củng cố phát triển lực lượng đhoàn thành
nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước dựa trên sở miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hội, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh phong trào cách mạng ở miền Nam. Quá trình
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước quá trình tích cực
phát huy tính hơn hẳn của chế độ hội chủ nghĩa miền Bắc, đồng thời cũng quá trình tập
hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ miền Nam để đấu tranh chống Mỹ - Diệm, tiến
lên làm thất bại các chính sách của đế quốc Mỹ, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tạo
điều kiện thuận lợi nhất để hoà bình thống nhất nước nhà.
Câu 3: Phân tích vai trò của nghị quyết Trung ương 15 năm 1959? (Phải trình bày thêm nhận thức
tưởng, cùng với đường lối của đảng ta trước đó tgian từ năm 54-59, Bộ chính trị 54, nghị
quyết đó - nghị quyết cởi trói cho cách mạng việt nam phát triển, với sự thắng lợi sau đó là phong
trào đồng khởi với sự ra đời của mặt trận dân tộc giải phóng miền nam việt nam)
GIÁO TRÌNH 191, 192
Trước tình hình phức tạp của hội miền Nam dưới chế độ Mỹ-Diệm, Nghị quyết Hội nghị lần
thứ mười lăm của Đảng (01/1959) đã vạch rõ: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc người cày
ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ giàu mạnh”. Con đường phát triển bản của cách mạng miền
Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần
lOMoARcPSD| 41487147
chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ
trang để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, thành lập một chính quyền liên
hiệp dân tộc, dân chủ miền Nam. Hội nghị nhận định “đế quốc Mỹ đế quốc hiếu chiến nhất,
cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng khả
năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ... thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”.
Nghị quyết nêu cần tăng cường công tác mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân,
củng cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi.
Sự ra đời của Nghị quyết 15 ý nghĩa cùng to lớn, đáp ứng đúng yêu cầu của lịch sử, mở
đường cho cách mạng miền Nam tiến lên. Nghị quyết 15 chính là ngọn lửa châm ngòi cho phong trào
“Đồng khởi” trên quy lớn tại các tỉnh Nam Bộ Khu V nhất tề đứng lên. Tiêu biểu như cuộc
khởi nghĩa Bắc Ái (2/1959), Trà Bồng (8/1959), Tua Hai (1/1960), đặc biệt phong trào nổi dậy
tỉnh Bến Tre. Phong trào “Đồng khởi” như tức nước vỡ bờ lan nhanh ra khắp Nam Bộ, Tây Nguyên
Trung Trung Bộ. Đến cuối năm 1960, về bản cách mạng đã làm tan trên 2/3 bộ máy chính
quyền địch nông thôn, “làm chủ được 600 trong tổng số 1298 xã, trong đó 116 được hoàn
toàn giải phóng. các tỉnh đồng bằng ven biển Trung Bộ, 904 trong tổng số 3829 thôn được giải
phóng. Tây Nguyên tới 3200 trong tổng số 5721 thôn không còn chính quyền ngụy”. Dưới schỉ
đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng cùng với thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” đã tạo điều kiện
thuận lợi cho các lực lượng cách mạng phát triển nhanh chóng. Công tác xây dựng đảng, phát triển
đảng viên được đẩy mạnh. Hàng nghìn chi bđược khôi phục, phát triển tất cả các đảng bộ miền
Tây, miền Trung miền Đông Nam Bộ. Slượng đảng viên tăng nhanh từ 7.641 đảng viên (cuối
năm 1959) đã tăng lên 12.946 đảng viên (cuối năm 1960). Sự khôi phục nhanh chóng của các tổ chức
cơ sở đảng đã tạo chuyển biến mạnh mẽ và động lực quan trọng cho các lực lượng chính trị, vũ trang
miền Nam phát triển. “Ở miền Đông Nam Bộ, đã xây dựng được 40 trung đội tập trung và 60 đội t
vệ trang; miền Trung Nam Bộ 36 trung đội 68 đội tự vệ xã; miền Tây Nam Bộ xây dựng
được 37 trung đội và 150 đội tự vệ xã”. Có thể thấy, phong trào “Đồng khởi” đã giáng đòn chí tử vào
chế độ Mỹ-Diệm, đẩy chúng rơi vào tình thế bị động lúng túng, buộc phải thay đổi chiến lược đối phó
với cách mạng miền Nam. Phong trào “Đồng khởi” thắng lợi đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Từ trong khí thế đó, ngày
20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, góp phần quy tụ, phát huy sức
mạnh của các tầng lớp nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc.
lOMoARcPSD| 41487147
Câu 4: Phân tích mối quan hệ giữa đấu tranh chính trị, ngoại giao quân sự trong kháng chiến
chống Mỹ?
Ngay từ đầu, Đảng ta đã đề ra khẩu hiệu phối hợp ba mặt trận quân sự-chính trị-ngoại
giao để chống Mỹ, cứu nước. Thông thường trong chiến tranh, ngoại giao chỉ có mặt khi kết thúc
chiến tranh để đi đến một hiệp định ghi lại mức thắng bại của mỗi bên. Trái lại, trong kháng
chiến (KC) chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao của chúng ta mặt từ đầu đến cuối, luôn luôn
vai trò, vị trí, nhiệm vụ nặng nề. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp hành Trung ương
(khóa III), tháng Giêng 1967 về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục
vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đã khẳng định: “Chúng ta tiến công địch về
ngoại giao bây giờ là đúng lúc vì ta đã và đang thắng địch, thế của ta là thế mạnh...”.
Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 1969 ghi rõ: “Ngoại giao đã trở thành một mặt trận quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược.” Ngoại giao tự nó phải tăng cường và xây dựng lực lượng, vừa phát huy
thắng lợi của đấu tranh quân sự, chính trị trên chiến trường. Trên chiến trường, ta đánh thắng được
keo nào thì ngoại giao phải phát huy, khuếch trương trên thế giới, đồng thời phải phục vụ phối
hợp với đấu tranh quân sự, chính trị tạo thành sức mạnh tổng hợp đưa cuộc chiến đấu đến thắng lợi.
Trong toàn bộ cuộc KC chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao hai nhiệm vụ lớn. Nhiệm vụ thứ
nhất tăng cường hậu phương quốc tế của ta làm suy yếu hậu phương của địch. Đối với hậu
phương quốc tế của ta, ngoại giao nhiệm vụ thực hiện khẩu hiệu của Đảng đề ra thêm bạn bớt
thù, tranh thủ từ bạn gần đến bạn xa, tnhững đồng minh chiến lược đến những người chỉ đồng
tình với ta một điểm nào đó. Như trên đã nêu, chúng ta chống đế quốc Mỹ nhằm mục tiêu chung
của loài người, của thời đại, từ mục tiêu cao chủ nghĩa hội, cho đến mục tiêu thấp hòa bình,
độc lập dân tộc. Ai đồng tình với ta trên sở chiến lược là đi tới chủ nghĩa xã hội đều là bạn của ta.
Ai chỉ đồng tình với ta chỉ trên sở chủ nghĩa nhân đạo, ta cũng coi bạn. Ta kết bạn với
mọi người từ mức thấp tới mức cao, theo đúng phương châm thêm bạn bớt thù của Bác Hồ.
Nhiệm vụ thứ hai của ngoại giao giải quyết vấn đề ta thắng địch thua. Lãnh đạo ta nhìn vấn đ
với đầu óc rất sáng suốt thực tế. Với một địch thủ lớn mạnh hơn hẳn như Mỹ, cuộc đấu tranh của ta
chống Mỹ không thể chỉ khi nào ta buộc đi phương phải quy hàng mới kết thúc. Phải có khái niệm thật
thế nào ta thắng, thế nào địch thua thì mới xác định được giải pháp. Ta thắng tức khi nào ta
bảo vệ được độc lập tự do, giải phóng được đất nước của ta. Mỹ thua tức Mỹ phải rút hết quân, chấm
dứt xâm lược, phải cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam.
Chính với tinh thần như vậy nên lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Nếu Mỹ chịu
nhận rút thì chúng tôi trải thảm đỏ cho mà rút. Ngoại giao phải làm sao đạt được thực chất vấn đề như
vậy. Để thắng một kẻ thù cỡ lớn như thế mà ta lại là một nước nhỏ thì phải có ngoại giao đóng góp vào
lOMoARcPSD| 41487147
đó, thực hiện phương châm thắng từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Phải ngoại
giao để giải quyết vấn đề ta thắng địch thua.
Tạo lập một Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam làm nền tảng vững chắc về
chính trị và tinh thần cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của ta
Trước một kẻ thù giàu mạnh như vậy, trong một bầu không khí sợ Mỹ phổ biến trên thế
giới như vậy, điều tối cần thiết đối với ta là phải tạo lập được một mặt trận nhân dân thế giới ủng
hộ Việt Nam đánh Mỹ để tập hợp dư luận và cô lập Mỹ về chính trị và tinh thần.
Nhằm mục đích đó, việc tuyên truyền vận động quốc tế của ta trong thời gian đầu hướng
vào bốn nội dung: thứ nhất nêu cao chính nghĩa của Việt Nam, thứ hai nêu cao quyết tâm
giành độc lập của Việt Nam, thứ ba nêu cao thiện chí hòa bình của Việt Nam, thứ tố cáo
tội ác chiến tranh và vạch trần tính chất phi nghĩa của xâm lược Mỹ.
Trong thời gian Mỹ leo thang chiến tranh, chiến sự còn thế giằng co quyết liệt, nhiệm vụ
ngoại giao ch yếu vẫn tăng cường hậu phương quốc tế của ta, làm suy yếu rối loạn hậu
phương quốc tế của địch.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương (tháng Mười hai 1965) của
Đảng nhận định lúc đó “tình hình chưa chín muồi cho một giải pháp về Việt Nam”, song đã tính đến
lúc nào đó sẽ đi vào vừa đánh vừa nói chuyện, lấy đàm để hỗ trợ cho đánh, lấy đánh để ép địch đàm
phán nhằm chuyển biến so sánh lực lượng. Ngay từ những năm 1965-1967, ta chưa tính đến đàm
phán nhưng đã chuẩn bị việc này. Rút kinh nghiệm của Hiệp định Genève 1954, ta làm cho các nước
hiểu và đồng tình với ta: vấn đề Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam giải quyết trực tiếp với Mỹ.
Thời gian này, hoạt động dùng trung gian “tiến công hòa bình” của Mỹ rất sôi nổi. Trong một cuộc họp
Nhà Trắng, Johnson nói: “Cuộc chiến tranh này giống như một trận đấu ăn giải. Tay phải của ta
nắm lực lượng quân sự, song tay trái cần có các đề nghị hòa bình. Mỗi khi đưa quân đội lên phía
trước thì cũng phải đưa các nhà ngoại giao lên phía trước. Các tướng lĩnh muốn tôi đưa ra nhiều
nhiều hơn nữa. Họ muốn tiến xa hơn. Song Bộ Ngoại giao cũng phải cung cấp cho tôi thêm cái
nữa.” tới hàng chục nước đủ các loại: các nước Không liên kết, châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh, rồi
Nhật Bản, Bắc Mỹ, đến các nhân vật như Tổng thư Liên hợp quốc U Thant, Giáo hoàng, các trí
thức, nhà báo tên tuổi,... làm trung gian cho Mỹ. Thông thường, dùng trung gian chỉ một
phương thức tính chất quá độ để mở đường cho đàm phán trực tiếp giữa hai bên đối địch trong
một cuộc tranh chấp. Nhưng với Mỹ, việc dùng trung gian đã được xem như một thủ đoạn nhằm
những mục đích khác như: thu thập tin tức về ý đồ chiến lược hoặc về lập trường đàm phán cụ thể
đối phương, tung ra những tin thất thiệt làm cho đối phương chập chững, hồ về ý đồ của Mỹ;
bắn tin tức thúc ép, đe dọa hoặc ve vãn dụ dỗ; xoa dịu phản ứng quốc tế đối với Mỹ và chuyển sức ép
sang đối phương; gây hiểu lầm chia rẽ giữa đối phương với bạn bè của họ.
lOMoARcPSD| 41487147
Để thực hiện những mục đích khác nhau này, Mỹ đã dùng đủ các loại trung gian. Trước
năm 1967, Mỹ dùng thủ đoạn này khá nhiều. Làm trung gian cho Mỹ không những các nước
đồng minh của Mỹ các nước thế giới thứ ba còn cả nước hội chủ nghĩa nữa; không
những nhân vật trong chính giới các nước cả những nhân sĩ, trí thức, v.v.. Mỹ không
những dùng trung gian rất mạnh trong thời gian chưa có cuộc đàm phán Paris, mà cả khi đã tiếp
xúc với ta rồi họ vẫn tiếp tục dùng trung gian. Thủ đoạn này thâm độc ở chỗ các nước trung gian
khi nhận đề nghị của Mỹ đã phải đồng tình hoặc đồng tình một nửa với ý kiến của Mỹ. Nếu họ
truyền đạt ý kiến đó cho ta mà ta bác đi, như vậy nghĩa ta bác cả Mỹ lẫn nước trung gian,
và mặc nhiên Mỹ tranh thủ được nước đó, chia rẽ được họ với ta.
Thời gian 1965-1966 dai dẳng tới cuối năm 1967 đầu 1968, Mỹ chủ yếu dùng loại
“trung gian thân tín” các nước châu Âu đồng minh của Mỹ - vừa để gây sức ép bên ngoài
với ta vừa để thu thập tình báo chính trị, đánh giá tình hình tại chỗ, giúp cho Mỹ tài liệu nhận tin
tổng hợp về khả năng ý chí của ta. Mỹ còn thông qua Liên dùng “mồi kinh tế” lôi kéo
được bốn nước Đông Âu làm trung gian. Khác với việc dùng các nước phương Tây làm trung
gian, Mỹ dùng các nước hội chủ nghĩa làm trung gian với mục đích phân hóa mặt trận đoàn
kết hội chủ nghĩa ủng hViệt Nam, gây sức ép từ bên trong phe hội chủ nghĩa đối với ta
hòng tác động đến ý chí của ta và giảm viện trợ cho ta.
Còn ta kiên trì giải thích cho những nước định làm trung gian hiểu âm mưu, ý đồ, tội ác của Mỹ,
tại sao ta chưa đàm phán. Ta cảm ơn họ ủng hộ Việt Nam, và cho họ biết đến lúc chín muồi ta sẽ
trực tiếp đàm phán với Mỹ. Bằng cách đó, ta không còn phải lo vừa đối phó với Mỹ, vừa phải
giải thích cho bạn mà bạn vẫn hiểu ta, tránh được âm mưu chia rẽ, lừa bịp của Mỹ, tăng cường
hậu phương ta và chuẩn bị cho đàm phán sau này.
Mối quan hệ giữa đường lối KC và xây dựng chế độ mới (1945-1954)
Phương châm tiến hành KC: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện KC toàn dân, toàn
diện, lâu dài, dựa o sức mình chính.Đảng ta áp dụng phương châm này không chỉ trong
công cuộc KC chống giặc mà còn trong cả giai đoạn xây dựng chế độ mới, là xây dựng căn cứ địa
cho Cách mạng. Chính vì vậy mà giữa đường lối KC và việc xây dựng chế độ mới có mối quan hệ
song song và chặt chẽ.
Đầu tiên, về đường lối KC chống Pháp, mục đích KC là kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng
Tháng Tám, "Đánh thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất độc lập". Cuộc KC của dân tộc ta
một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. tính chất toàn dân, toàn
diện và lâu dài. Nó là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình.
lOMoARcPSD| 41487147
Xuất phát từ lòng tin vào sức mạnh của nhân dân - dân tất cả, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh, phải dựa vào dân, khơi nguồn sức mạnh, sức sáng tạo của nhân dân. Người giải
thích, toàn dân KC chính là: "Bất kì đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất
kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp", thực hiện
mỗi người dân một chiến sĩ, mỗi làng xóm một pháo đài. Trong công cuộc xây dựng chế độ
mới, toàn thể nhân dân chính nguồn lực chính để thay đổi đất nước, tất cả mọi người cùng
nhau góp sức. Bất người dân, không phân biệt văn hóa, vùng miền, tôn giáo , tuổi tác…đều
thể đóng góp công sức làm nên sức mạnh tập thể đất nước, thay đổi bộ mặt nước nhà.
Về đường lối KC toàn diện đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa,
ngoại giao. Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các
đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Về quân sự:
Thực hiện trang toàn dân, tiêu diệt địch… Về kinh tế: xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung
phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.Về văn hóa: Xóa
bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới.Về ngoại giao: thêm bạn bớt
thù , biểu dương thực lực. Trong công cuộc xây dựng chế độ mới, Đảng ta chủ trương xây dựng toàn
diện, mọi mặt. Đó sự thay đổi xây dựng trên mọi bình diện lĩnh vực đời sống: kinh tế, chính
trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao…Chỉ sự tập trung xây dựng toàn diện, đồng đều mới đưa đất
nước tiến lên chế độ mới với sự phát triển nhanh chóng và hợp lý.
Việc thực hiện đường lối KC lâu dài để chống âm đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp; để
chuyển hóa tương quan lực lượng đánh thắng địch; để củng cố hậu phương vững chắc. Điều này
càng được áp dụng vào trong công cuộc y dựng chế độ mới. Toàn dân ra sức xây dựng chế đ
dân chnhân dân với tâm thế kỹ lưỡng, cẩn thận đúng đắn nên không thể hoàn thành trong
thời gian ngắn mà phải tiến hành lâu dài, có đường lối xây dựng cụ thể.
Phương châm dựa o sức mình chính nghĩa là: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt".
Nhân dân ta phải đồng sức đồng lòng thi đua sản xuất, huy động hết sức người, sức của để xây
dựng sở vững chắc cho nền công nghiệp, nông nghiệp. Chỉ lao động mới tạo ra của cải vật
chất. ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh, KC dựa
vào ý chí sức mạnh nước nhà. Khi nào điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước,
song lúc đó cũng không được ỷ lại.
Câu 5: Vì sao trong thời kỳ đổi mới, VN gắn liền với CNH-HĐH và bảo vệ môi trường?
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên Môi trường, ô nhiễm nguồn nước, không kđang lan rộng
không chỉ ở các KCN, khu đô thị, mà ở cả những vùng nông thôn; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm; biến
đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra triều cường và những hậu quả khôn lường. Đây chính là kết qu
lOMoARcPSD| 41487147
của quá trình Công nghiệp hóa nhanh nước ta. Trước tình hình đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị
Nghị quyết 41- NQ/TW "Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại
hóa đất nước” đã khẳng định bảo vệ môi trường vừa mục tiêu, vừa một nội dung bản của
phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH). Năm 2005,
Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung bảo vệ môi trường (BVMT) được nâng lên một tầm cao
mới, gắn chặt với quá trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình dự án đầu tư''. Một điểm mới
so với Đại hội X là đưa thêm nội dung ''chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường;
từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Việc CNH-HĐH các ngành công nghiệp nặng gây ra những ảnh hưởng không thể bỏ qua với môi
trường. Việc các làng nghề sản xuất tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần lớn đều gây ô nhiễm môi
trường. CNH-HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa, đây thực sự là sức ép lớn về môi trường trong quản lý đô thị. Song
song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu những áp lực về thay đổi cấu trúc hình phát
triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường ngày càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường
cần được lồng ghép ngay từ quá trình ra các quyết định về phát triển kinh tế và xã hội.
nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cấu kinh tế theo hướng thân thiện với môi
trường, tiếp cận hình tăng trưởng xanh đã được đề cập trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI.
Trong đó, Nhà nước cần dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội sinh nhằm sử dụng và phát
triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng...; đây động lực chủ yếu để thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng phát triển bền vững. Nhà nước cũng cần sử
dụng công cụ tài chính nhằm khuyến khích đầu vào các ngành sản xuất các sản phẩm giá trị gia
tăng lớn, sử dụng công nghệ sạch; sản xuất sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các sản
phẩm và bao bì không gây hại hoặc ít gây hại đến môi trường; tái chế và sử dụng các sản phẩm tái chế.
(Thực tiễn phát triển nước ta trong những năm gần đây khẳng định, chúng ta đủ ng lực, điều
kiện để chuyển đổi thành công sang hình phát triển bền vững. Kinh nghiệm phát triển lĩnh vực
công nghệ thông tin, viễn thông, khí tự động hóa, công nghệ vật liệu cũng như việc chế tạo thành
công các sản phẩm nano, những thành tựu trong công nghệ sinh học, cùng với năng lực sáng tạo
trong toán học, vật lý học, hóa học... cho thấy nếu đủ quyết tâm và cách sáng tạo, phù hợp, chúng
ta snhanh chóng bước vào quỹ đạo phát triển hiện đại mà 21 quốc gia thành viên APEC, trong đó
Việt Nam đã cam kết tại Hội nghị Thượng đỉnh tại Tokyo tháng 11- 2010, về thực hiện một
hình tăng trưởng mới, đảm bảo 5 yêu cầu: i) Tăng trưởng cân bằng; ii) Tăng trưởng an toàn; iii)
Tăng trưởng bền vững; iv) Tăng trưởng dựa vào trí tuệ; v) Tăng trưởng với lợi ích được chia sẻ công
bằng cho tất cả mọi người. Đây phải trở thành điểm xuyên suốt quá trình CNH-HĐH nước ta.)
lOMoARcPSD| 41487147
Chuyển đổi sang hình tăng trưởng bền vững biện pháp hữu hiệu nhất khả năng
phòng ngừa hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-
HĐH. Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua chủ yếu
do các cấp các ngành thường nặng về quan tâm tới các chi tiêu tăng trưởng kinh tế, chưa đảm bảo
hài hòa, cân bằng trong phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.
Trước hết, tất cả các dự án đầu tư phải báo cáo đánh giá tác động môi trường, được Bộ
hoặc Sở Tài nguyên - Môi trường thẩm định trước khi được phê duyệt. Đồng thời, tăng cường việc
kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; chú trọng quản chất thải, nhất các chất thải trong sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ y tế. Và cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã hội
về nhận thức hành động, trong chỉ đạo điều hành đặc biệt trong tổ chức triển khai các hoạt
động bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, gắn với phát triển KTTT.
Câu 7: Quan điểm của Đảng về sự quan trọng của văn hóa với sự phát triển bền vững
Về vai trò của văn hóa (VH) đối với sự phát triển bền vững, Đảng ta xác định: VH là nền tảng
tinh thần của hội, mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Quan điểm này được thể
hiện qua những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
Quan điểm này một lần nữa khẳng định vai trò của VH trong sự nghiệp cách mạng của Đảng
dân tộc, xây dựng phát triển nền VH dân tộc chăm lo nền tảng tinh thần của hội. Thiếu
nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Các giá trị VH tạo thành nền tảng tinh thần của hội được thấm nhuần trong mỗi con
người và cả dân tộc. Các giá trị VH được nối tiếp, trao truyền và phát huy qua các thế hệ người Việt
Nam, đó tất yếu của dòng chảy lịch sử tquá khứ đến hiện tại hướng đến tương lai, tương lai
của những giá trị phquát Chân - Thiện - Mỹ. vậy, chúng ta làm cho VH thấm sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội để các giá trị VH trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội.
Để phát triển VH thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của hội, chúng ta cần
phải mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp thụ có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong tinh hoa VH
các dân tộc khác để làm giàu thêm cho nền VH dân tộc, tạo nên bản sắc VH dân tộc trong thời kỳ
CNH-HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế, làm cho VH Việt Nam bắt kịp sphát triển của VH nhân loại
trong thời đại ngày nay chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, xa lạ với VH. Đảng ta coi VH
nền tảng tinh thần của hội, nghĩa đề cao, coi trọng nguồn lực VH của sự phát triển bền vững
đất nước. Hệ thống di sản VH, các giá trị VH là “tài sản” vô giá, vô tận cho sự phát triển kinh tế - xã
hội, đó còn là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự bền vững của chế độ ta.
Hai là, VH là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước.
lOMoARcPSD| 41487147
Mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội nước ta xây dựng một hội “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Đây cũng chính mục tiêu của VH, nếu hiểu theo nghĩa
rộng nhất của VH. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 xác định: Mục tiêu và động lực chính
của sự phát triển con người, do con người. Đồng thời nêu yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền
với tiến bộ và công bằng hội, phát triển VH, bảo vệ môi trường”, ngày nay không thể phát triển bằng mọi
giá, nhất là chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi ích hôm nay mà làm tổn hại đến tương lai.
Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa, đó phải nền kinh tế giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa nhân hội, giữa
kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo bền vững về môi trường sinh thoái, tạo cơ sở nền tảng
vật chất cho chủ nghĩa hội. Để đạt được điều đó phải cần đến VH, stham gia của VH vào trong
tổ chức hoạt động của nền kinh tế mục tiêu phát triển hội, phát triển con người, đó chính
vai trò của VH trong kinh tế, kinh tế trong VH.
VH với cách đời sống tinh thần hội, một mục tiêu đặc biệt quan trọng, nhu
cầu phong phú, vô cùng, vô tận, tinh tế của con người, nhu cầu tinh thần còn là nhu cầu nhân văn
cứu cánh của con người, VH ấy vừa đáp ứng nhu cầu của con người, hội tiến bộ, vừa thúc đẩy
con người đạt được niềm tin, sự khát vọng hạnh phúc.
Ba là, văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước.
Thực tế cho thấy, không ít những quốc gia, dân tộc không giàu về tài nguyên thiên nhiên,
thậm chí còn nghèo nàn và hạn hẹp nhưng lại giàu về kinh tế, kinh tế phát triển, xã hội tiến bộ chính
nhờ coi trọng yếu tố VH, con người, thông qua việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài mở đường cho sự phát triển.
Như vậy, nguồn lực nội sinh của sphát triển của một đất nước thấm sâu trong VH, con
người. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, cái tốt, cái tiến bộ nhưng không thể tách
rời, bỏ qua cội nguồn, phát triển phải dựa trên cội nguồn, cội nguồn đó của mỗi dân tộc VH. kinh
nghiệm qua hơn 30 năm sự nghiệp đổi mới nước ta đã chứng minh rằng, ngay bản thân sự phát
triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra, động lực của sự đổi mới
kinh tế đó một phần quan trọng nằm trong VH.
Trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động làm thay đổi quan niệm
về phát triển kinh tế, phát triển bền vững, phát triển không đơn thuần chỉ dựa vào điều kiện t
nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mặt yếu tố này phong phú, đa dạng nhưng đều hạn thể bị
khai thác cạn kiệt, dần dần chuyển sang yếu tố quyết định cho sự phát triển chính trí tuệ, tri
thức, thông tin, sáng tạo đổi mới không ngừng tạo ra những giá trị vật chất tinh thần ngày
càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhân hội, đó tức VH, vai trò của VH trong phát
triển, chỉ có sự tham gia của VH mới đưa đến sự phát triển bền vững.
lOMoARcPSD| 41487147
Ngày nay, nguồn lực con người, tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng sáng tạo này
nằm trong VH, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, nhân cách của mỗi cá nhân và cộng đồng. Chỉ có nguồn lực này
hạn, khả năng tái sinh tự sinh, không bao giờ cạn kiệt, các nguồn lực khác sẽ không được sử
dụng hiệu quả nếu không những con người đủ trí tuệ năng lực khai thác chúng, thì các nguồn
lực đó dù có phong phú, đa dạng, thì cũng không thể tham gia và phát huy tác dụng vào trong phát triển.
Câu 8: So sánh đường lối CN hoá của Đảng thời kỳ trước đổi mới và trong thời kì đổi mới (chúng ta
không có khái niệm sau đổi mới)
Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa (CNH) đối với nước ta là một tất yếu, khách quan.
Bởi vì, CNH là vấn đề không mới, mà các nước tư bản chủ nghĩa đã thực hiện từ lâu, CNH còn được đề
cập trong chủ nghĩa Mác – -nin. Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa nên cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất của xã hội thiếu thốn và thấp kém, năng suất lao động thấp, đời
sống nhân dân nghèo nàn, lạc hậu, công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc nhiều khó khăn…
Ngay từ đầu quá trình CNH, Đảng ta đã xác định CNH xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Giống nhau:
Về điểm giống qua báo cáo của Bộ Chính trị:
Một là, trước đây cũng như hiện nay Đảng ta đều quan niệm CNH là nhiệm vụ trung
tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, CNH đều nhằm chuyển đổi một cách căn bản nền sản xuất hội từ lao động
thủ công chủ yếu sang lao động dùng máy móc, phương tiện kỹ thuật phổ biến,
xây dựng sở vật chất kỹ thuật của chnghĩa hội, trên cơ sở đó, nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Ba là, từng bước hình thành quan hệ sản xuất mới tiến bộ, phù hợp với tính chất trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, thể hiện ngày càng đầy đủ bản chất ưu việt của chế độ mới,
tạo ra hạ tầng sở vững chắc cho chủ nghĩa hội nước ta. Bốn là, tiến hành CNH trước
đây và hiện nay đều phải được thực hiện theo hướng hiện đại hoá (HDH) tuy có sự khác nhau
về mức độ. Do sự phát triển rất nhanh chóng của khoa học và công nghệ trong những thập kỷ
gần đây, khái niệm HĐH luôn luôn được bổ sung những nội dung mới với phạm vi bao quát
nhiều mặt, từ sản xuất, kinh doanh đến dịch vụ, quản lý... Những tiến bộ khoa học công
nghệ được coi hiện đại cách đây vài thập kỷ thì nhiều cái nay đã trở nên bình thường, cần
được bổ sung, thậm chí lạc hậu, cần được thay thế. Khái niệm HĐH mà
lOMoARcPSD| 41487147
chúng ta đề cập trong Nghị quyết Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII và Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần này được hiểu theo ý nghĩa đó.
Ngoài ra, còn có một số điểm giống như sau:
Thứ nhất, đường lối CNH của Đảng luôn nhấn mạnh đến yếu tkhoa học kỹ thuật
công nghệ (then chốt, quyết định...), luôn xác định khoa học lực lượng sản xuất
trực tiếp, hướng hoặc đề cập trực tiếp tới công nghệ tiên tiến, công nghệ mũi nhọn,
công nghệ cao... nhưng những đạt được trên thực tế lại cho thấy khoa học công
nghệ chưa được hiểu một cách đầy đủ, thống nhất, xứng tầm.
(THÍCH THÌ GHI) Cơ chế, chính sách cho phép khoa học kỹ thuật công nghệ đóng
góp vào sự phát triển nhanh và bền vững của Tổ quốc còn hạn chế. Thứ hạng trình độ
khoa học công nghệ của Việt Nam luôn rất thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới, kể
cả một số nước nhỏ về diện tích, không nhiều về dân số trong khu vực: số lượng các
bằng phát minh sáng chế được đăng ký, đội ngũ các nhà khoa học, chất lượng nguồn
nhân lực, bài báo khoa học đăng tạp chí quốc tế.... các giải thưởng danh giá khoa học
thế giới.... đều rất ít.
Đặc biệt, sự hạn chế về nhận thức và kém hiệu quả trong thực hiện sẽ làm cho khoảng
cách chênh lệch phát triển của Tổ quốc chúng ta với nhiều quốc gia sẽ ngày càng xa
hơn. Việt Nam sẽ trở nên lạc hậu, sẽ bị gạt ra rìa trong xu thế toàn cầu hóa và sự phát
triển như vũ bão của khoa học công nghệ như ngày nay.
Thứ hai, CNH bằng con đường thích hợp để đưa Tquốc phát triển đạt trình độ cao
về mọi mặt là mạch tư duy không bao giờ dứt trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
(THÍCH THÌ GHI) Khái quát bước chuyển biến duy luận về CNH XHCN cho thấy
một điều tkhi chủ trương đưa miền Bắc lên chủ nghĩa hội tới nay, khát vọng đưa
nước ta từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước công nghiệp
phát triển, khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhân dân cuộc sống ấm no tự do hạnh
phúc, mạch duy không bao giờ dứt trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Một trong những con đường để đạt được điều đó là thông qua CNH XHCN thành công.
Thứ ba, khẳng định CNH có tính tất yếu và giữ vị trí nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
(THÍCH THÌ GHI)Từ góc nhìn lịch sử, đầy đủ sở để khẳng định rằng, sự đánh
giá của Đảng về tính tất yếu, vị trí, vai trò, mục tiêu, định hướng phát triển hay nói
chung là tầm quan trọng của công cuộc CNH đối với đất nước ta là khá nhất quán và
lOMoARcPSD| 41487147
xuyên suốt. CNH theo hướng hiện đại được coi là nhiệm vụ trọng tâm để nước ta
bản trở thành nước công nghiệp trong khoảng vài chục năm.
Thứ tư, mục tiêu CNH có nhiều điểm giống nhau.
Mục tiêu bản của CNH luôn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đi đôi với không
ngừng cải thiện đời sống nhân dân và cải biến nước ta thành một nước công nghiệp.
Các điểm chung bao gồm đảm bảo sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa hội,
QHSX tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, mức sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, ấm no, tự do, hạnh phúc. Để thực hiện mục tiêu chung đó, mỗi
thời kỳ thường xác định những mục tiêu cụ thể cần đạt được.
Thứ năm, mô hình CNH Việt Nam đều sử dụng kết hợp các ưu thế của nhiều mô hình
khác nhau, như một số đặc điểm của hình CNH cổ điển, phi cổ điển, CNH thay
thế nhập khẩu, CNH hướng vào xuất khẩu, CNH tư bản chủ nghĩa, CNH XHCN
Ngoài ra: khả năng sử dụng hiệu quả nguồn lực của đất nước chưa cao; cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo bản chất nội dung CNH hiện đại còn chậm; liên tục đổi mới
duy để hoàn thiện các hình thức sở hữu các thành phần kinh tế trong quá
trình thực hiện CNH Tổ quốc.
Khác nhau:
- Theo Bộ Chính trị, “Bên cạnh những điểm thống nhất nêu trên, CNH, HĐH hiện nay có
nhiều cái khác so với trước đây mà một số điểm chính là:
+ Đường lối CNN trước đổi mới được tiến hành theo chế cũ, tập trung quan liêu,
bao cấp; thực hiện kế hoạch hoá tập trung với các chỉ tiêu pháp lệnh. thời kỳ đổi
mới, chúng ta tiến hành CNH, H theo chế mới, chế thị trường sự
quản của Nhà nước. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng; thị trường phản
ánh nhu cầu hội, tiếng nói quyết định trong việc phân bcác nguồn lực cho
sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm thước đo.
+ Trước đổi mới, CNH thường được hiểu việc của Nhà nước, thông qua khu vực
quốc doanh tập thchủ yếu. Trong đổi mới, sự nghiệp của toàn dân với
sự tham gia tích cực của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nnước
giữ vai trò chđạo. Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước cũng linh hoạt hơn, bao
gồm những doanh nghiệp Nhà nước nắm một số cổ phần, khống chế tương đối
hay tuyệt đối. Đồng thời thực hiện đa dạng hoá và đan xen các loại hình sở hữu.
+ CNH thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội.
Còn CNH thời kỳ đổi mới thì lấy CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định
lOMoARcPSD| 41487147
hướng hội chủ nghĩa hội nhập kinh tế quốc tế. (Thích TGhi) CNH, HĐH
gắn với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khai thác hiệu quả mọi nguồn lực của
nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH. CNH, HĐH
nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập mở
rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu ớc ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học
hỏi kinh nghiệm quản tiên tiến của thế giới... sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác hiệu quthị trường thế giới.
Hội nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
+ CNH thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực hiện CNH
được thực hiện bằng chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, theo kế hoạch
của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực hiện
bằng cơ chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế.
+ CNH thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất
đai nguồn viện trcủa các nước hội chủ nghĩa. CNH thời kỳ đổi mới, lấy
phát huy nguồn lực con người yếu tố bản cho sự phát triển nhanh bền
vững; coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực CNH, HĐH.
- CNH thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí,
ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội. Còn ở thời kỳ đổi mới,
CNH, HĐH gắn với phát triển nhanh, hiệu quả bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
- Bên cạnh đó, còn có những điểm khác như:
*Thứ nhất, về cách giải quyết mối quan hệ giữa phát triển LLSX xây dựng QHSX XHCN
trong quá trình CNH.
Đường lối CNH của Đảng chuyển từ CNH gắn với quan niệm xây dựng QHSX XHCN đi
trước một bước, mở đường cho sự phát triển của LLSX. Đồng thời, chuyển sang thực hiện
ưu tiên phát triển LLSX hiện đại, đồng thời xây dựng QHSX tiến bộ phù hợp.
*Thứ hai, về bước đi, tốc độ của CNH.
(THÍCH THÌ GHI) Thời kỳ đổi mới, Đảng xác định rằng quá trình CNH phải được tiến hành
từng bước phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội.
Trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, không thể đẩy mạnh CNH mà là tạo tiền đề cần
thiết để đẩy mạnh CNH ở chặng đường tiếp theo (chủ trương đẩy mạnh CNH từ Đại hội VIII
lOMoARcPSD| 41487147
1996). cấu kinh tế được điều chỉ hợp từng thời đoạn, con đường CNH ớc ta
được xây dựng sao cho có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước.
duy CNH của Đảng thời đổi mới xác định rằng con đường CNH nước ta cần thể
rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây yêu cầu cấp thiết của nước ta để thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực trên thế giới. Chúng
ta thể tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ thành quả của các nước đi
trước, sử dụng xu thế của thời đại và hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.
Như vậy, đường lối CNH đã chuyển từ CNH XHCN với cách làm nóng vội, bỏ qua các
bước đi trung gian cần thiết, sang việc thực hiện CNH vừa bước đi tuần tự, giai đoạn
trước tạo tiền đề cho sự phát triển của giai đoạn sau theo trật tự tuyến nh, vừa cho phép
phát triển "rút ngắn" trên sở đi tắt đón đầu các thành tựu phát triển nhảy vọt về
khoa học và công nghệ của thế giới.
*Thứ ba, xây dựng cấu kinh tế (mối quan hệ giữa công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ,
nông nghiệp, kinh tế trung ương, kinh tế địa phương, sản xuất, phân phối, tiêu dùng); cơ chế
và mô hình nền kinh tế trong quá trình CNH.
Từ chủ trương xác lập nóng vội cấu kinh tế công nông nghiệp đến sự chuyển dịch
cấu kinh tế theo hướng CNH, HDH để đưa nước ta đến năm 2020 về cơ bản trở thành một
nước công nghiệp, có cơ cấu kinh tế công nông nghiệp và dịch vụ hiện đại;
Từ nền kinh tế “khép kín”, “hướng nội”, với quan hệ chỉ khép kín trong hthống XHCN,
chúng ta đã chuyển sang thực hiện một nền kinh tế mở đa dạng, đa phương phợp với
thông lệ quốc tế và hướng mạnh về xuất khẩu, kết hợp với thay thế nhập khẩu;
Chuyển đổi từ CNH thực hiện trong khuôn khổ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp sang việc tuân theo thị trường, kết nối thị trường trong nước với thị trường thế giới đã trở
thành một chỉnh thể hữu cơ, được quản lý bởi nhà nước theo định hướng XHCN.
*Thứ tư, CNH và HĐH gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển nhanh, bền vững.
Quan niệm CNH cổ điển đã chuyển sang quan niệm CNH, HĐH, gắn với phát triển kinh
tế tri thức, thực hiện các mục tiêu phát triển trước mắt phải đi đôi với yêu cầu không làm
tổn hại đến khả năng phát triển trong tương lai, bảo vệ tài nguyên môi trường.
Ngoài ra, CNH còn có các đặc điểm được nhận thức nhấn mạnh hơn, bao gồm việc
đẩy mạnh CNH HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; khoa học công
nghệ cũng quốc sách hàng đầu, động lực đẩy mạnh CNH HDH đất nước, từng
bước phát triển kinh tế tri thức.
lOMoARcPSD| 41487147
Câu 9: Tại sao pt kinh tế thị trường định hướng XHCN là là bước phát triển mới theo tư duy lí luận,
sự vận dụng sáng tạo độc lập của Đảng? / sao đảng cộng sản việt nam lựa chọn hình kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu
Đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là nguyện vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử. Đây một quá trình cách mạng sâu sắc triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cái mới
nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất ccác nh vực của đời sống hội, nhất thiết phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen. Một trong những phương hướng bản để thực hiện thành công qtrình cách mạng
nói trên là phải phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền KTTT định hướng hội chủ nghĩa "một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật
của KTTT vừa dựa trên sở chịu s dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc bản chất của
CNXH". Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của "thị trường" được sử dụng để "phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời
sống nhân dân", còn tính "định hướng hội chủ nghĩa" được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ
sản xuất: sở hữu, tổ chức quản phân phối, nhằm mục đích cuối cùng "dân giàu, nước mạnh,
tiến lên hiện đại trong một hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, văn hóa, kỷ cương, xóa bỏ áp
bức và bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc".
Với nền KTTT, Đảng đã sự nhìn nhận sự phát triển về tư duy như sau:
Một là, KTTT không phải cái riêng có của chủ nghĩa bản mà là thành tựu phát triển
chung của nhân loại.
Lịch sử phát triển nền sản xuất hội cho thấy, sản xuất trao đổi hàng hóa tiền đề quan trọng
cho sự ra đời phát triển của KTTT. Trong quá trình sản xuất trao đổi, các yếu tố thị trường
như cung, cầu, giá cả tác động điều tiết quá trình sản xuất hàng hóa, phân bổ các nguồn lực kinh
tế tài nguyên thiên nhiên như vốn, liệu sản xuất, sức lao động... phục vụ cho sản xuất lưu
thông. Thị trường giữ vai trò một công cụ phân bổ các nguồn lực kinh tế. Trong một nền kinh tế,
khi các nguồn lực kinh tế được phân bổ bằng nguyên tắc thị trường, thì người ta gọi đó là KTTT.
KTTT đã mầm mống từ trong hội lệ, hình thành trong hội phong kiến phát triển cao
trong hội bản chủ nghĩa. KTTT kinh tế hàng hóa (KTHH) cùng bản chất đều nhằm
sản xuất ra để bán, đều nhằm mục đích giá trị và đều trao đổi thông qua quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
KTHH KTTT đều dựa trên sở phân công lao động hội các hình thức sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất, làm cho những người sản xuất vừa độc lập, vừa phụ thuộc vào nhau.
lOMoARcPSD| 41487147
Trao đổi mua bán hàng hóa phương thức giải quyết mâu thuẫn trên. Tuy nhiên, KTHH
KTTT sự khác nhau về trình độ phát triển. KTHH ra đời từ kinh tế tự nhiên, nhưng còn
trình độ thấp, chủ yếu sản xuất hàng hóa với quy mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, năng suất
thấp. Còn KTTT KTHH phát triển cao, đạt đến trình độ thị trường trở thành yếu tố quyết
định sự tồn tại hay không tồn tại của người sản xuất hàng a. KTTT lấy khoa học, công nghệ
hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao.
KTTT có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay mới biểu hiện rõ rệt nhất trong chủ nghĩa
bản. Nếu trước chủ nghĩa bản, KTTT còn thời kỳ manh nha, trình độ thấp ttrong chủ
nghĩa tư bản nó đạt đến trình độ cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội
đó. Điều đó khiến cho không ít người nghĩ rằng, KTTT là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Chủ
nghĩa bản không sản sinh ra KTHH, do đó, KTTT với cách KTHH trình độ cao không
phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Hai là, KTTT còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
KTTT xét dưới góc độ "một kiểu tổ chức kinh tế" là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế,
phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làmsở để phân bổ các nguồn lực kinh tế
điều tiết tốt mối quan hệ giữa người với người. KTTT chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp,
tự túc, chứ không đối lập với các chế độ xã hội. Bản thân KTTT không phải đặc trưng bản
chất cho chế độ kinh tế bản của hội. thành tựu chung của văn minh nhân loại, KTTT
tồn tại phát triển nhiều phương thức sản xuất khác nhau. KTTT vừa thể liên hệ với chế
độ hữu, vừa thể liên hvới chế độ ng hữu phục vụ cho chúng. vậy, KTTT tồn tại
khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Xây dựng phát triển KTTT không phải phát
triển bản chnghĩa hoặc đi theo con đường bản chủ nghĩa tất nhiên, y dựng kinh tế
xã hội chủ nghĩa cũng không dẫn đến phủ định KTTT.
Ba là, thể cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH nước ta. KTTT tồn tại
khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH. vậy, có thể cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng
CNXH ở nước ta.
Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận thể dùng chế thị trường làm sở phân
bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại số lượng hàng hóa, điều
hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua chế cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến bộ,
đào thải cái lạc hậu, yếu kém.
Thực tế cho thấy, chủ nghĩa bản không sinh ra KTTT nhưng đã biết thừa kế khai thác
hiệu quả các lợi thế của KTTT để phát triển. Thực tiễn đổi mới nước ta cũng đã chứng minh sự cần
thiết và hiệu quả của việc sử dụng KTTT làm phương tiện xây dựng CNXH. Kế thừa tư duy của Đại
lOMoARcPSD| 41487147
hội IX, Đại hội X và XI đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển KTTT ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là:
- Về mục đích phát triển: Mục tiêu của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm
thực hiện "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" giải phóng mạnh mẽ lực
lượng sản xuất không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm
nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát
nghèo và từng bước khá giả hơn.
- Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong
mỗi nhân mọi vùng miền... phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, công cụ chủ
yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, n chủ, công bằng, văn minh. Mặt khác, tiến lên CNXH đặt ra yêu cầu nền
kinh tế phải được dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Về định hướng hội phân phối: Thực hiện tiến bộ công bằng hội ngay trong
từng bước từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ đồng bộ
với phát triển hội, văn hóa, giáo dục đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề hội mục
tiêu phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực của KTTT.
- Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền
kinh tế của Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể
hiện sự khác biệt bản giữa KTTT bản chủ nghĩa với KTTT định hướng hội chủ nghĩa
nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của KTTT, đảm bảo quyền lợi chính đáng của
mọi người.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam,
Đảng ta khẳng định: phát triển KTTT định hướng hội chủ nghĩa đường lối chiến lược nhất
quán, mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH Việt Nam. Đây
kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; bước phát triển mới về
duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.
Câu 10: sao nói văn hoá nền tảng tinh thần của hội, mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước?
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước xác định: “Văn hóa là nền
lOMoARcPSD| 41487147
tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được
đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”.
Nền tảng tinh thần không gian tinh thần của cộng đồng, bầu không khí tinh thần, khí thế của
đông đảo quần chúng nhân dân và của cộng đồng dân tộc, hệ tư tưởng, tình cảm, niềm tin, khát vọng của
con người, các quan niệm đạo lý, pháp lý đạt chuẩn mực chân, thiện, mỹ…; là yếu tố quan trọng chi phối
mọi hoạt động của con người trong xã hội, là cơ sở để phát triển kinh tế, chính trị, xã hội. Do những điều
kiện tự nhiên lịch sử, trong trái tim mỗi con người Việt Nam dần hình thành một tinh thần yêu nước
nồng nàn, chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu, bảo vệ xây dựng đất nước, sự cần cù, chăm chỉ
sáng tạo trong lao động sản xuất, cũng như một tấm lòng nhân văn, khoan dung và cởi mở.
Theo UNESCO, văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và
trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị,
các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
Trong Nghị quyết Trung ương 5 ( Khóa VIII), Đảng ta khẳng định: Văn hóa Việt Nam
tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong
quá trình dựng nước giữ nước…, kết quả giao lưu tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn
minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí
phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, n giáo, n
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức văn hóa. Văn hóa sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Văn hoá nền tảng tinh thần của hội: H tưởng, tình cảm, niềm tin, khát vọng của con
người, các quan niệm đạo lý,..... tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong
mỗi con người và trong cả cộng đồng; được truyền lại tiếp nối phát huy qua các thế hệ; chi phối hàng
ngày đến cuộc sống, tưởng, tình cảm của mọi thành viên hội bằng môi trường hội - văn hóa.
Truyền thống của nền văn hóa dân tộc là một dòng chảy tinh thần được hun đúc qua hàng nn năm lịch
sử, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi xã hội của con người. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức kết nối cộng đồng; lòng nhân ái, trọng nghĩa tình; đức tính cần
cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử... Các giá trị sức mạnh đó của văn hóa con
người Việt Nam đã làm nên nền tảng tinh thần vững chắc của dân tộc ta; trở thành nguồn lực nội sinh,
động lực quan trọng của phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. vậy cần chủ trương làm cho văn hóa
thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành
lOMoARcPSD| 41487147
nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là
con đường xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng
và đẩy lùi các tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ.
Văn hóa mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng tạo ra, chi phối
toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm cung cấp năng lượng tinh thần cho
con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện, xa rời trạng thái nguyên ban đầu khi từ
con vật phát triển thành con người. Con người tồn tại, không chỉ cần những sản phẩm vật chất
còn nhu cầu hưởng thụ sản phẩm văn hóa tinh thần, con người hội loài người càng
phát triển thì nhu cầu văn hóa tinh thần đòi hỏi ngày càng cao. Đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh
thần đó chính là đảm bảo sự phát triển ngày càng nhiều của cải vật chất cho con người và xã hội.
Xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người quyết định mà văn hóa thể hiện trình độ
vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người hội, làm cho con người hội ngày
càng phát triển, tiến bộ; điều đó nghĩa ngày một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để
tiến tới một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân văn, nhân
đạo của mỗi nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi dưỡng; phát huy trở thành giá trị cao
quý và chuẩn mực tốt đẹp của toàn xã hội. Mục tiêu này phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân
loại mục đích phát triển bền vững, tiến bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây một nội dung
quan trọng của CNXH mà chúng ta đang xây dựng.
Văn hóa động lực của sự phát triển, bởi lẽ mọi sự phát triển đều do con người quyết
định chi phối. Văn hóa khơi dậy nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người, huy động
sức mạnh nội sinh to lớn trong con người đóng góp vào sự phát triển xã hội.
+ Văn hóa và kinh tế có mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời: Hoạt động kinh tế trực tiếp tạo dựng
nên nền văn hóa vật chất, một bộ phận quan trọng của văn hóa vật chất. Tuy nhiên, hoạt động
kinh tế cũng tạo dựng nên nền văn hóa tinh thần một cách gián tiếp, bởi cái vỏ vật chất,
phương tiện để văn hóa tinh thần thể tiếp xúc duy trì, tồn tại phát triển; ngược lại, văn hóa
tinh thần góp phần quan trọng vào việc cung cấp những kinh nghiệm, hiểu biết, tri thức cần thiết
để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Do vậy, nếu ý thức sâu sắc vcác vấn đvăn hóa, hiểu bn
chất của văn hóa, biết kết hợp giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại thì có thể thấy trước
tương lai khả quan của nền kinh tế, từ đó phát triển đất nước mạnh mẽ.
+ Văn hóa thẩm thấu được thể hiện trong toàn bộ hoạt động của nền kinh tế: Từ nguồn
nhân lực trong hoạt động kinh tế đến việc xử lý, giải quyết, tổ chức triển khai các hoạt
động kinh tế, từ thiết kế sản xuất sản phẩm đến trao đổi, phân phối sử dụng sản
phẩm - tất cả đều thấm đẫm yếu tố văn hóa, bởi lẽ, toàn bộ quá trình hoạt động kinh tế
đều là hoạt động của con người, thuộc về con người, vì con người.
lOMoARcPSD| 41487147
+ Nhận thức về văn hóa ngày càng trở nên sâu sắc, đa chiều trong thời kỳ toàn cầu hóa kinh tế
và hội nhập kinh tế quốc tế: Nếu bản sắc văn hóa của quốc gia, dân tộc bị mai một, xói mòn
thì quy mô của nền kinh tế sẽ bị thu hẹp lại, và một khi văn hóa dân tộc suy tàn, dân tộc sẽ
chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Vì vậy, vấn đề ý thức văn hóa ngày càng trở nên quan trọng và
được đặt ra cấp thiết ở bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử đương đại.
+ Yếu tố văn hóa ngày càng được phát huy mạnh mẽ trong hoạt động kinh tế: Yếu tố văn hóa
trong hoạt động kinh tế bao gồm nhiều cấp độ khác nhau.
Văn hóa doanh nghiệp là một trong những biểu hiện của nền văn hóa. Văn hóa doanh
nghiệp, về cơ bản, xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp và bản thân nền kinh tế.
Chủ thể của nền kinh tế thị trường hiện đại là con người với mong muốn có sự phát
triển mạnh mvề kinh tế, nhưng vẫn cần phải những ràng buộc về đạo đức, hay
nói một cách đầy đủ thì đó chính là văn hóa đạo đức.
+ Thế giới ngày nay đang dần bước vào kỷ nguyên kinh tế văn hóa: Văn hóa hóa kinh tế kinh tế
hóa văn hóa đã trở thành xu thế quan trọng của toàn cầu; vai trò của văn hóa trong việc thúc đẩy,
hướng dẫn hỗ trợ phát triển kinh tế ngày càng nét, bao gồm từ việc xây dựng chiến lược,
chính sách phát triển kinh tế đến sản xuất, quản lý doanh nghiệp và tạo ra các sản phẩm có
thương hiệu, đây không chỉ là những hoạt động kinh tế, mà còn là những hoạt động văn
hóa phức tạp, đòi hỏi phải có tư duy và trí tuệ văn hóa.
vậy, việc phát triển văn hóa một nhiệm vụ quan trọng của Đảng Nhà nước ta. Cần
thực hiện tốt các giải pháp phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có
phẩm chất, năng lực, bản lĩnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, hiện đại hóa đất nước.
Câu 11: sao trong tk đổi mới, Đảng CSVN phải lựa chọn phương châm đối ngoại theo hướng đa
phương hoá, đa dạng hoá là một tất yếu? (Đa phương hoá đa dg hoá là gì) (trọng tâm)
Quan hệ đa phương hóa (ĐPH) là một hình thức ngoại giao giữa nhiều quốc gia với nhau nhằm
giải quyết các vấn đề chung như chiến tranh, hòa bình… hợp tác và đấu tranh để cùng tồn tại và phát
triển. Các quốc gia có thể thiết lập quan hệ đa phương bằng cách ký kết và công nhận các hiệp ước,
công ước và thỏa thuận quốc tế. Ở Việt Nam, định hướng chính trị đa dạng hóa (ĐDH), ĐPH quan hệ
đối ngoại đã thực sự được thực hiện ngay từ đầu công cuộc đổi mới, bắt đầu từ chính sách kinh tế đối
ngoại. Cho đến nay, quan hệ đối ngoại của Việt Nam bắt đầu được đẩy mạnh theo hướng đa dạng hóa,
đa phương hóa. Định hướng đa dạng hóa, đa phương hóa chính thức được đưa vào Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và từ đó được khẳng định trong các văn kiện của Đảng.
Phương châm đối ngoại theo hướng ĐPH, ĐDH là một tất yếu. Đảng và Nhà nước luôn xác định
Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của thế giới, gắn liền với tiến trình phát triển của thế
lOMoARcPSD| 41487147
giới. Hiểu biết sâu sắc tình hình thế giới là điều kiện không thể thiếu để xác định những mục
tiêu, nhiệm vụ cho đất nước. Xa rời với sự vận động chung, tự cô lập mình với thế giới bên ngoài
là những sai lầm nguy hại, có thể ảnh hưởng đến sự sinh tồn của cả dân tộc. Chính vì vậy, Đảng
ta đã có những điều chỉnh kịp thời trong chính sách ngoại giao, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan
trọng và tính tất yếu của chủ trương ĐPH, ĐDH các quan hệ đối ngoại.
Đối ngoại theo hướng ĐPH, ĐDH là một tất yếu vì những lý do sau.
Đầu tiên, về mặt chính trị - ngoại giao, do không nắm bắt kịp thời xu thế phát triển của
thế giới mà chính sách đối ngoại của chúng ta mười năm trước đổi mới đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Việt Nam vẫn trong thế bị bao vây, bị cô lập lại bị các thế lực thù địch chống phá, cộng với các
chính sách phát triển sai lầm, không phù hợp với hoàn cảnh khiến nước ta lâm vào cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng.
Những biến động của tình hình thế giới tác động sâu sắc đến nhận thức và tư duy của
Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa
đứng đầu là Liên Xô là bài học quý giá cho chúng ta. Từ đây, Đảng ta nhận thức và rút kinh
nghiệm, cần phải thay đổi mô hình xã hội chủ nghĩa cũ, cụ thể hơn là đổi mới chủ trương và
chính sách ngoại giao sao cho hợp lý, hiệu quả.
Xuất phát từ tình hình cụ thể trong, ngoài nước nhu cầu phát triển của nước ta, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra o tháng 12/1986, Đảng ta bắt đầu đã có
những đổi mới sâu sắc mang tính chiến lược về đường lối chính sách đối ngoại, đặc biệt
coi trọng ĐPH, ĐDH các quan hệ ngoại giao.
Với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập là xu thế chung hiện nay, việc hợp tác đa phương trên nhiều
lĩnh vực là tất yếu. Hợp tác đa phương trong các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội, lao động, thông tin -
truyền thông, môi trường, du lịch...được mở rộng, từ đó thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển thị trường
lao động và hệ thống an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo… Hội nhập khu vực và quốc tế về khoa học -
công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển nền khoa học, giáo dục
tiên tiến, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thông tin và y tế quốc gia đáp ứng nhu cầu của người
dân, tiến tới thu hẹp khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới trong các lĩnh vực này.
Việc VN tham gia mạng lưới liên kết kinh tế đa phương đã góp từng bước mở cửa, gắn
nền kinh tế và thị trường trong nước với khu vực và thế giới, tiếp thu những nguyên tắc và
chuẩn mực quốc tế, thu hút nguồn lực cho phát triển, tạo thêm động lực xây dựng và hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội.
Câu 12: Tính tất yếu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN
Tính cấp thiết phải tiến hành đổi mới kinh tế đất nước nhìn từ bình diện quốc tế:
lOMoARcPSD| 41487147
Quy luật vận động của mọi quốc gia là phải luôn cải cách để phát triển. Các nước xã hội
chủ nghĩa cũng nằm trong sự vận động tất yếu đó. Công cuộc cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là đòi hỏi tất yếu trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Đó là sự tự nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội nhằm khắc phục những sai lầm, hạn chế đã
mắc phải, tìm con đường phát triển thích hợp với bối cảnh của thời đại.
Những nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, những sai lầm trong thực tiễn chậm
được phát hiện, những hậu quả chưa khắc phục kịp thời, cùng với sự phá hoại của chủ nghĩa đế
quốc bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” đã đẩy các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đặc
biệt là Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào sự khủng hoảng toàn diện. Lòng tin của người dân
vào Đảng Cộng sản ở các nước, vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội giảm sút nghiêm trọng.
Thực tiễn đó, đặt ra yêu cầu các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trong đó, có Việt Nam phải
tiến hành cải cách, đổi mới đất nước toàn diện.
Tính tất yếu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN:
Trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng vừa qua, công cuộc đổi mới luôn được Đảng ta xác định rõ
ngay trong chủ đề của Đại hội. Đại hội XII nhấn mạnh "đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới". Chủ đề của Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: "…tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng
bộ công cuộc đổi mới".
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN là điều tất yếu vì:
Thứ nhất, yêu cầu khách quan của sự phát triển đất nước. Việt Nam một nước đang
phát triển, với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sở hạ tầng yếu kém, năng lực sản xuất thấp.
Trong bối cảnh thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, nếu không
đổi mới, Việt Nam sẽ khó có thể bắt kịp xu thế phát triển chung của thế giới, khó có thể nâng cao
đời sống của nhân dân.
Thứ hai, yêu cầu của nhân n. Nhân dân Việt Nam đã trải qua nhiều năm tháng chiến
tranh gian khổ, hy sinh, mong muốn cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Để đáp ứng nguyện vọng
của nhân n, Đảng Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới, nhằm tạo ra những tiền đề vật chất
và tinh thần cho sự phát triển của đất nước.
Thứ ba, yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Để hoàn thành mục tiêu của cách mạng, Việt Nam cần
phải xây dựng một hội xã hội chủ nghĩa hiện đại, dân chủ, công bằng, văn minh. Để đạt được mục tiêu
đó, cần phải đổi mới, phát triển kinh tế - hội, nâng cao đời sống của nhân dân, xây dựng nền tảng
vững chắc cho sự nghiệp cách mạng.mCông cuộc đổi mới Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN đã
đạt được những thành tựu to lớn, ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, phát triển
nhanh bền vững. Những thành tựu đó đã khẳng định tính tất yếu của công cuộc đổi mới, minh
chứng sinh động cho sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta. Để tiếp tục phát triển đất
lOMoARcPSD| 41487147
nước trong giai đoạn tới, cần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy những thành tựu đã
đạt được, khắc phục những hạn chế, khó khăn, thách thức, đưa đất nước phát triển nhanh, bền
vững, nâng cao đời sống của nhân dân.
Câu 13: sao nói ĐCSVN ra đời một tất yếu? Phân tích ssáng tạo của ĐCS trong cương lĩnh
đầu tiên ?
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng (CM) của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện
nét sinh động về tinh thần độc lập tự chsáng tạo trong việc vận dụng CNMácLN, truyền thống
dân tộc, kinh nghiệm của nước ngoài một cách nhuần nhuyễn vào thực tiễn VN, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp CM đặt ra được thể hiện ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta, thông
qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) (từ ngày 3-7/2/1930).
Ngay từ khi Đảng CSVN mới thành lập, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã chỉ ra
phương hướng cơ bản của CM VN, đặt nền móng cho việc xác định lý luận, đường lối, phương pháp
CM và những nguyên tắc chủ yếu để xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân VN.
Tuy hết sức ngắn gọn, vắn tắt nhưng cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã kết hợp nhuần nhuyễn
quan điểm dân tộc và giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và thời đại với những luận điểm sau nổi bật.
Một là, CM Việt Nam phải CM sản dân quyền thổ địa CM để tiến lên hội cộng sản.
(Thực chất đó một cuộc CM 2 giai đoạn : giai đoạn thứ nhất đó là cuộc CM giải phóng dân
tộc, giai đoạn thứ hai là sau khi giành được thắng lợi sẽ chuyển sang làm CM xã hội chủ nghĩa để
tiến tới xã hội cộng sản.)
Hai là, trong CM sản dân quyền hai nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc chống phong
kiến. (Hai nhiệm vụ này mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phải được tiến hành khắng khít không
tách rời nhau nhưng trong đó nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai (phản đế) phải đặt lên hàng đầu.)
Ba là, xác định lực lượng CM, bao gồm : giai cấp công - nông gốc, những người yêu nước
trong các giai cấp khác đồng minh của CM.( Đảng phải vận động, thu phục giai cấp mình đ
lãnh đạo dân chúng, dựa hẳn vào dân cày nghèo, liên lạc với trung nông. Lực lượng CM bao gồm
: thứ nhất giai cấp công - nông gốc, là động lực của CM, thứ hai những người yêu nước
trong các giai cấp khác là đồng minh của CM.)
Bốn là, lãnh đạo CM là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của giai cấp là Đảng CSVN.
Năm là, về phương pháp CM, Đảng chủ trương phải giành chính quyền bằng bạo lực CM.
lOMoARcPSD| 41487147
Sáu là, CM Việt Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa trên thế giới để chống
chủ nghĩa đế quốc. CM Việt Nam là một bộ phận của CM thế giới.
Từ những nội dung cơ bản trên, Đảng đã thể hiện trình độ duy sâu sắc sáng tạo: vừa vận
dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào CM Việt Nam, vừa đáp ứng chính xác những yêu cầu
khách quan của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Sáng tạo trong vấn đề dân tộc, xác định thái độ với các giai cấp, liên minh giai cấp đoàn kết
toàn dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, xác
định rõ chủ trương "Làm tư sản dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới xã hội cộng sản". Cuộc CM này
đánh đổ thực dân Pháp bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, nhân dân được
các quyền dân chủ, tự do, hạnh phúc. Đó chính tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
xuyên suốt các chủ trương đường lối CM Việt Nam từ khi Đảng ta ra đời đến nay. Trong tưởng lớn
đó, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc chỗ: xác định độc lập dân tộc mục tiêu cốt tử, trực tiếp trước
mắt, là tiền đề, điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn đầu của tiến trình CM Việt Namcuộc
CM dân tộc dân chủ nhân dân. Sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc chỗ quan niệm lực lượng CM nước
ta là toàn thể nhân dân. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên trong Đảng ta nêu ra tư tưởng
cần xây dựng liên minh Công-Nông-Trí dưới slãnh đạo của Đảng làm nòng cốt cho lực lượng CM Việt
Nam bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nguyễn Ái Quốc đánh giá đúng tầm quan trọng của nhân tố dân tộc trong CM giải phóng
dân tộc các nước thuộc địa, phụ thuộc, nêu ra chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân
dân có thể đoàn kết được, có thể tạo nên sức mạnh đánh đổ đế quốc và phong kiến.
Câu 14: Trong Đại hội X (2006), ĐCSVN đã đề ra chủ trương “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”,
Anh/chị hiểu hội nhập quốc tế như thế nào? Theo Anh/Chị sinh viên, cần phải làm để chủ động
hội nhập quốc tế.
Hội nhập quốc tế (HNQT) là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh th
với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục
tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể
giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm. HNQT theo đúng nghĩa đầy đủ là hội
nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Về bản chất, HNQT chính là một hình
thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm đạt được một mục tiêu hoặc lợi ích chung nào đó.
HNQT hiện nay là nhiệm vụ chung của cả nước, cả xã hội. HNQT toàn diện thực chất là
mở rộng các lĩnh vực hợp tác, không chỉ chính trị và kinh tế đối ngoại, mà còn bao gồm an ninh
quốc phòng, các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành như khoa học - kỹ thuật, y tế, giáo dục…
lOMoARcPSD| 41487147
Chúng ta tham gia vào môi trường quốc tế với sự chủ động trong hợp tác; tích cực trong hoạt
động và trao đổi; biết điều chỉnh linh hoạt dựa vào tình hình thực tiễn chứ không có những chủ
trương cứng nhắc và bảo thủ.
(Trong HNQT, mục tiêu cơ bản được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là nhằm củng cố môi trường
hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững,
nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc
dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần
tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.)
Cần phải làm gì để chủ động HNQT?
Một là, thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, coi đây vừa
là tiền đề, vừa là hệ quả của hội nhập kinh tế quốc tế, là giải pháp có tính quyết định để nâng
cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới
Hai là, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển nhanh và bền vững;
thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị trong tình
hình mới và thực thi các cam kết quốc tế.
Ba là, tập trung khai thác hiệu quả các cam kết quốc tế, xây dựng các cơ chế, chính sách
hợp hỗ trợ các lĩnh vực có năng lực cạnh tranh; tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ,
trình độ pháp luật quốc tế, xây dựng hàng rào kỹ thuật, biện pháp phòng vệ chủ động phù hợp.
Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực
tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động
của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc
cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Câu 15: Phân tích yếu tố thời cơ trong đường lối giành chính quyền của ĐCSĐD (1939 - 1945). Liên
hệ với việc nắm bắt thời cơ hiện nay của Việt Nam
74 năm trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
dân tộc Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám, đánh đổ thực dân, phong
kiến; thành lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một trong những yếu tố góp phần
làm nên thắng lợi to lớn là bài học về chớp thời cơ và vận dụng đúng thời cơ cách mạng.
Thứ nhất là từ sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít Nhật Bản bị thua to trên
hầu khắp các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương trong thế chiến II, nên phải gửi công hàm cho
lOMoARcPSD| 41487147
các nước Đồng minh đề nghị ngừng bắn. Bằng nhãn quan chính trị nhạy bén, tầm nhìn chiến
lược, nắm bắt thời cuộc kịp thời, Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã nhóm
họp ngay tại Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngay sau cuộc
họp, “Mệnh lệnh khởi nghĩa” đã được phát ra.
Chiều tối ngày hôm sau, 13/8/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận được thêm một
tin rất quan trọng, đó là phát xít Nhật đã bại trận và chuẩn bị đầu hàng quân Đồng minh. Ngay lập
tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc; đồng thời
soạn thảo “Quân lệnh số 1” và được phát đi ngay, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.
Ngày 14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima của
Nhật Bản, Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành
quyền độc lập đã tới”. Trên sở đó, đồng chí Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Chúng ta cần tranh
thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.
Tại sao lại phải tiến hành Tổng khởi nghĩa ngay lúc đó là vì đồng chí Hồ Chí Minh và Trung
ương Đảng đã nhận định và nắm bắt được tình hình có sự chuyển biến nhanh chóng: phát xít
Nhật đã chết gục theo phát xít Đức; quân đội Nhật đã và đang tan rã, bị tước vũ khí trên khắp
các chiến trường; quân Đồng minh sắp kéo vào Đông Dương. Vì vậy nếu không khởi nghĩa giành
chính quyền từ tay quân Nhật, mà để đến khi quân Đồng minh kéo vào nhận bàn giao chính
quyền từ tay quân Nhật, thì nhân dân ta không thể tiến hành khởi nghĩa được nữa, vì lúc này
Việt Minh đang cùng phe với quân Đồng minh.
Thứ hai, sự kiện Chính phủ cách mạng lâm thời yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và tiếp nhận sự
thoái vị của nhà vua (ngày 30/8/1945 tại Huế) cũng là việc lực lượng cách mạng đã chớp thời cơ, tranh
thủ thời cơ và vận dụng đúng thời cơ. Việc vua Bảo Đại thoái vị đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền
phong kiến; đồng thời triệt tiêu một đầu mối quan trọng mà các thế lực đế quốc, phản động muốn duy
trì, sử dụng để mưu toan chống phá chính quyền cách mạng, đặt lại ách thống trị trên đất nước ta.
Thứ ba, sự kiện ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn
Độc lập” tuyên bố với toàn thể nhân dân Việt Nam và với thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, độc lập và tự do đã ra đời; Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã
chính thức ra mắt trước quốc dân đồng bào. Nếu chậm trễ không tuyên bố độc lập, chủ quyền trước
khi quân Đồng minh tiến vào thì dù có cướp được chính quyền cũng phải bàn giao lại cho quân
Đồng minh tiếp quản. Vì vậy, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chớp thời cơ, khẩn trương chỉ đạo
sớm tiến hành tổ chức Lễ Độc lập liền sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành
công trên cả nước chính là nhằm ngay lập tức khẳng định chủ quyền của nhân dân Việt Nam trước
các thế lực đế quốc, phản động đội lốt dưới danh nghĩa quân Đồng minh.
lOMoARcPSD| 41487147
Có thể khẳng định, thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng
Tám: Ðảng ta đã chọn đúng thời cơ "nổ ra đúng lúc". Ðó là lúc 16 nghìn quân Anh chưa vào
miền nam và 200 nghìn quân Tưởng chưa vào miền bắc để giải giáp quân Nhật; cũng là lúc
quân Nhật bại trận mất tinh thần, ngồi chờ Ðồng minh đến tước vũ khí; ngụy quyền tay sai bỏ
trốn hoặc đầu hàng chính quyền cách mạng. Chọn đúng thời cơ là một khoa học, là một nghệ
thuật, nhờ thế sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, tiến tới khởi nghĩa giành chính
quyền trong cả nước một cách nhanh, gọn, không đổ máu và thành công triệt để.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 chứng tỏ, Ðảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh có tầm nhìn vượt trước thời gian, xác định đúng thời cơ, cho nên đã chuẩn bị tốt lực lượng,
sẵn sàng chủ động, chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi.
Ðây là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và cách mạng, khôn
khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi.
Hiện nay:
Thời gian qua, toàn cầu hóa và xu hướng hội nhập quốc tế là một diễn biến khách quan mang tính
tất yếu. Đảng ta đã biến nó thành cơ hội khi chuẩn bị một tâm thế sẵn sàng hội nhập, bắt đầu từ kinh
tế, rồi dần là văn hóa, thể thao… cho đến chính trị. Việt Nam đã gia nhập ASEAN, trở thành thành
viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ứng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên
hiệp quốc… Vị thế, vai trò và uy tín của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Hiện nay, dịch Covid-19 đã và đang gây nhiều thiệt hại cho nền kinh tế thế giới nhưng cũng có thể tạo
ra một số cơ hội. Cùng với sự tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, nhiều nhà đầu tư nước
ngoài đã có sự chuyển dịch địa bàn đầu tư và quy mô đầu tư, họ đã và đang chọn điểm đến là Việt Nam.
Nước ta có thể nắm bắt cơ hội này để thúc đẩy phát triển đất nước trên tinh thần chuẩn bị các điều kiện
cần thiết và hấp dẫn để “lót ổ đón đại bàng” như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định ớng hội chủ nghĩa mô hình phát triển kinh tế
tổng quát của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư duy lý luận và tổng
kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan, những nội dung và đặc trưng
cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế ở nước ta.
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng XHCN thực chất là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được bắt đầu từ Đại hội
Đảng VI (1986) và ngày càng được hoàn thiện. Thực tế 20 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô
hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con đường
lOMoARcPSD| 41487147
phát triển kinh tế có hiệu quả, từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa
đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật khách quan và kịp thời
tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam.
Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: "... thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa".
Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta lựa chọn
đó là CNXH và để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường. Nhận thức về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta được Đảng khẳng định trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) với 6 đặc trưng cơ bản và đến nay
Đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản là:
- Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Do nhân dân làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Vị thế
nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất
nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.
lOMoARcPSD| 41487147
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn phù hợp với
quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị trường là một phạm
trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những quy luật riêng vốn có của nó
dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế không có một nền
kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà gắn với mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ thể.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế thị
trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó là sự
phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa quy định.
Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ quá độ lên
CNXH. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản
lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng
kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.
| 1/31

Preview text:


Nội dung ôn tập lịch sử đảng
Không thi chương I
CÂU 1: Vì sao nói sau CMT8, Việt Nam trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc? (RẤT HAY THI)
BỔ SUNG TRONG GIÁO TRÌNH TRANG 127
Bởi vì các lý do sau: các nước đế quốc và các thế lực phản động trong nước cấu kết với nhau
và chống phá cách mạng; lũ lụt và hạn hán làm cho nông nghiệp đình đốn, một nửa số ruộng không
thể cày cấy được; tài chính cạn kiệt, ngân khố trống rỗng; hơn 90% đồng bào ta không biết chữ.
Cụ thể, “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền khó hơn” là tổng kết thiên tài của Lênin
- là sự phát hiện một nguyên lý phổ quát. Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945,
Việt Nam rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Ngoại chiến và nội phản - Miền Bắc (từ cự tuyến
16 trở ra): 20 vạn quân Trung Hòa Dân quốc kéo vào nước ta theo sau là các phái phái tay sai như:
Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng chí hội (Việt Cách) lại giành lại
chính quyền. - Miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam): Quân Anh kéo vào, leo đường cho Pháp trở
lại chiến lược nước ta. Lợi dụng tình hình, bọn phản động bắt đầu dậy làm sai cho Pháp chống phá
cách mạng. - Trên cả nước còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp, theo lệnh Anh chống cách mạng. Đối
nội, Trong nước, Chính phủ lâm thời vừa thành lập do Hồ Chủ tịch đứng đầu còn non trẻ, những
thành phần phản cách mạng lại ra sức chống phá chính quyền non trẻ. Chính quyền cách mạng vừa
thành lập, chưa được củng cố, lực lượng vũ trang non yếu. Cả thù trong giặc ngoài đều phải đối phó.
Trong khi đó, ta vừa trải qua cuộc chiến kéo dài, tổn thất, thiệt hại rất lớn về kinh tế - xã
hội. Ngân sách trống rỗng, mất mùa, đói kém, các tệ nạn xã hội tràn lan. Cơn đói cuối cùng 1944
đầu 1945 chưa được giải quyết; cúm lớn làm đê đê 9 tỉnh Bắc Bộ; Cơ sở công nghiệp chưa phục
hồi, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân nhiều khó khăn. Ngân sách Nhà
nước trống rỗng, tiền mất giá của Trung Hoa Dân Quốc tung ra thị trường, làm tài chính rối
loạn nước. Tàn dư văn hóa hậu kỳ của chế độ thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng nền, hơn
90% dân số không biết chữ. => Đất nước rơi vào tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”.
Thế nhưng, chính phủ lâm thời tuy mới thành lập cũng đã tỏ rõ sự khéo léo của mình trong
việc giải quyết các thách thức lớn. Ngày 6/1/1946, ta tiến hành Tổng tuyển cử trên cả nước, bầu ra
Quốc hội và lập Hiến pháp, phá đi âm mưu chia rẽ và lật đổ của kẻ thù. Tiếp đến, ta chống lại “giặc
đói” và “giặc dốt”. Quyên góp tiền, thức ăn, gạo, lập “Hũ gạo cứu đói”, phát động “Tuần lễ vàng”,
gia tăng sản xuất… Toàn dân chung tay chia sẻ, đùm bọc nhau vượt qua khó khăn. Chính phủ ký sắc
lệnh “Bình dân học vụ”, mở các lớp phổ cập giáo dục cấp tốc cho mọi người, đẩy lùi nạn dốt. lOMoAR cPSD| 41487147
Với giặc ngoại xâm, ta chủ trương hòa với Tưởng để tập trung chống Pháp ở miền Nam,
nhường cho chúng một số quyền lợi kinh tế, chính trị. Đến ngày 6/3/1946, ta kí với Pháp Hiệp
định sơ bộ, chuyển sang hòa với Pháp để đuổi Tưởng về nước. Đến ngày 14/9, ta kí Tạm ước với
Pháp, nhường tiếp một số quyền lợi để tập trung nguồn lực chuẩn bị kháng chiến chống Pháp lâu
dài. Nhờ vậy mới có thể tránh được cả thù trong lẫn giặc ngoài.
Khó khăn là vậy, nhưng sau CMT8 vẫn có một số điểm thuận lợi đối với Việt Nam từ
trong nước lẫn quốc tế. Sau Chiến tranh Thế giới thứ 2, cục diện thế giới và khu vực có những sự
thay đổi có lợi cho cách mạng Việt Nam: Liên Xô trở thành thành trì của CNXH; nhiều nước ở
Đông, Trung Âu chọn con đường phát triển theo CNXH; các phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa châu Á, Phi, Mỹ Latinh dâng cao. Nhân dân VN từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở
thành chủ nhân của của chế độ dân chủ mới. Nước ta hình thành hệ thống chính quyền cách
mạng với bộ máy thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Quân đội quốc gia, lực lượng công an và
hệ thống luật pháp của chính quyền cách mạng cũng được khẩn trương xây dựng và phát huy
vai trò đối với việc bảo vệ đất nước, xây dựng chế độ mới.
Có thể nói, những thách thức sau CMT8 thật sự vô cùng khó khăn đối với một chính phủ mới,
còn non trẻ của chúng ta. Thế nhưng, bằng đường lối lãnh đạo khéo léo, đúng đắn, cùng sự đoàn kết
toàn dân, chúng ta đã vượt qua được tất cả và tiếp tục giữ vững nền độc lập tự do cho dân tộc.
Câu 2: Trình bày và phân tích tư tưởng chiến lược tiến công trong giai đoạn 1959-64
BỔ SUNG GIÁO TRÌNH TRANG 180-182, 185, 186, 188, 189
Trong giai đoạn 1959-1964, để phù hợp với tình hình đất nước, vừa phù hợp với xu thế chung
của thời đại, yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta là phải đề ra được đường lối đúng đắn, hợp lí. Trải
qua nhiều lần nhóm họp tại các Hội nghị, Tháng 1-1959 tại Hội nghị Trung ương lần thứ 15, Ban
Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam. Trung ương Đảng nhận định:
"Hiện nay, cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ
chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau... nhằm phương hướng
chung là giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội". Nghị quyết xác định con đường phát triển của cách mạng miền
Nam là bạo lực cách mạng thay vì chỉ đấu tranh dân chủ và chính trị như trước đó, chuyển từ giữ
gìn lực lượng sáng thế tiến công. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to
lớn, chẳng những đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc
lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng. lOMoAR cPSD| 41487147
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là củng cố và phát huy thắng lợi đã
giành được, là xây dựng cơ sở vững chắc để thực hiện thống nhất nước nhà. Miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hội một mặt là vì mục đích nâng cao không ngừng đời sống của nhân dân miền Bắc;
mặt khác là tích cực gánh vác phần trách nhiệm đối với phong trào cách mạng của cả nước.
Kinh tế, văn hoá miền Bắc ngày càng phát triển, đời sống nhân dân miền Bắc ngày càng được cải
thiện, lực lượng quốc phòng của miền Bắc ngày càng được vững mạnh thì sẽ tăng thêm sức mạnh
của cách mạng và uy thế chính trị của nhân dân ta, tăng thêm tin tưởng và tính tích cực cách
mạng của đồng bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống Mỹ.
Tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ chế độ đế quốc và nửa phong kiến ở miền
Nam để thực hiện thống nhất nước nhà. Cách mạng ở miền Nam hiện nay đang tiếp tục phát huy
ý chí quật cường, truyền thống bất khuất của cả dân tộc Việt Nam. Phong trào yêu nước của nhân
dân miền Nam càng được giữ vững và phát triển thì một mặt càng tăng cường lực lượng cách mạng
để đánh bại chính sách nô dịch, gây chiến và chia cắt của Mỹ - Diệm, đi đến đánh đổ sự thống trị tàn
khốc của chúng, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.
Muốn thống nhất nước nhà cần phải xây dựng củng cố và phát triển lực lượng để hoàn thành

nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước dựa trên cơ sở miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hội, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh phong trào cách mạng ở miền Nam. Quá trình
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước là quá trình tích cực
phát huy tính hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời cũng là quá trình tập
hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ ở miền Nam để đấu tranh chống Mỹ - Diệm, tiến
lên làm thất bại các chính sách của đế quốc Mỹ, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tạo
điều kiện thuận lợi nhất để hoà bình thống nhất nước nhà.
Câu 3: Phân tích vai trò của nghị quyết Trung ương 15 năm 1959? (Phải trình bày thêm nhận thức
và tư tưởng, cùng với đường lối của đảng ta trước đó ở tgian từ năm 54-59, Bộ chính trị 54, nghị
quyết gì đó - nghị quyết cởi trói cho cách mạng việt nam phát triển, với sự thắng lợi sau đó là phong
trào đồng khởi với sự ra đời của mặt trận dân tộc giải phóng miền nam việt nam) GIÁO TRÌNH 191, 192
Trước tình hình phức tạp của xã hội miền Nam dưới chế độ Mỹ-Diệm, Nghị quyết Hội nghị lần
thứ mười lăm của Đảng (01/1959) đã vạch rõ: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có
ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền
Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần lOMoAR cPSD| 41487147
chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ
trang để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, thành lập một chính quyền liên
hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam. Hội nghị nhận định “đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến nhất,
cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả
năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ... và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”.
Nghị quyết nêu rõ cần tăng cường công tác mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân,
củng cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi.
Sự ra đời của Nghị quyết 15 có ý nghĩa vô cùng to lớn, đáp ứng đúng yêu cầu của lịch sử, mở
đường cho cách mạng miền Nam tiến lên. Nghị quyết 15 chính là ngọn lửa châm ngòi cho phong trào
“Đồng khởi” trên quy mô lớn tại các tỉnh Nam Bộ và Khu V nhất tề đứng lên. Tiêu biểu như cuộc
khởi nghĩa ở Bắc Ái (2/1959), Trà Bồng (8/1959), Tua Hai (1/1960), đặc biệt là phong trào nổi dậy ở
tỉnh Bến Tre. Phong trào “Đồng khởi” như tức nước vỡ bờ lan nhanh ra khắp Nam Bộ, Tây Nguyên
và Trung Trung Bộ. Đến cuối năm 1960, về cơ bản cách mạng đã làm tan rã trên 2/3 bộ máy chính
quyền địch ở nông thôn, “làm chủ được 600 trong tổng số 1298 xã, trong đó có 116 xã được hoàn
toàn giải phóng. Ở các tỉnh đồng bằng ven biển Trung Bộ, có 904 trong tổng số 3829 thôn được giải
phóng. Tây Nguyên có tới 3200 trong tổng số 5721 thôn không còn chính quyền ngụy”. Dưới sự chỉ
đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng cùng với thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” đã tạo điều kiện
thuận lợi cho các lực lượng cách mạng phát triển nhanh chóng. Công tác xây dựng đảng, phát triển
đảng viên được đẩy mạnh. Hàng nghìn chi bộ được khôi phục, phát triển ở tất cả các đảng bộ miền
Tây, miền Trung và miền Đông Nam Bộ. Số lượng đảng viên tăng nhanh từ 7.641 đảng viên (cuối
năm 1959) đã tăng lên 12.946 đảng viên (cuối năm 1960). Sự khôi phục nhanh chóng của các tổ chức
cơ sở đảng đã tạo chuyển biến mạnh mẽ và động lực quan trọng cho các lực lượng chính trị, vũ trang
miền Nam phát triển. “Ở miền Đông Nam Bộ, đã xây dựng được 40 trung đội tập trung và 60 đội tự
vệ vũ trang; miền Trung Nam Bộ có 36 trung đội và 68 đội tự vệ xã; miền Tây Nam Bộ xây dựng
được 37 trung đội và 150 đội tự vệ xã”. Có thể thấy, phong trào “Đồng khởi” đã giáng đòn chí tử vào
chế độ Mỹ-Diệm, đẩy chúng rơi vào tình thế bị động lúng túng, buộc phải thay đổi chiến lược đối phó
với cách mạng miền Nam. Phong trào “Đồng khởi” thắng lợi đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Từ trong khí thế đó, ngày
20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, góp phần quy tụ, phát huy sức
mạnh của các tầng lớp nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc. lOMoAR cPSD| 41487147
Câu 4: Phân tích mối quan hệ giữa đấu tranh chính trị, ngoại giao và quân sự trong kháng chiến chống Mỹ?
Ngay từ đầu, Đảng ta đã đề ra khẩu hiệu phối hợp ba mặt trận quân sự-chính trị-ngoại
giao để chống Mỹ, cứu nước. Thông thường trong chiến tranh, ngoại giao chỉ có mặt khi kết thúc
chiến tranh để đi đến ký một hiệp định ghi lại mức thắng bại của mỗi bên. Trái lại, trong kháng
chiến (KC) chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao của chúng ta có mặt từ đầu đến cuối, luôn luôn có
vai trò, vị trí, nhiệm vụ nặng nề. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp hành Trung ương
(khóa III), tháng Giêng 1967 về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục
vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đã khẳng định: “Chúng ta tiến công địch về
ngoại giao bây giờ là đúng lúc vì ta đã và đang thắng địch, thế của ta là thế mạnh...”.
Nghị quyết Bộ Chính trị tháng Tư 1969 ghi rõ: “Ngoại giao đã trở thành một mặt trận quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược.” Ngoại giao tự nó phải tăng cường và xây dựng lực lượng, vừa phát huy
thắng lợi của đấu tranh quân sự, chính trị trên chiến trường. Trên chiến trường, ta đánh thắng được
keo nào thì ngoại giao phải phát huy, khuếch trương trên thế giới, đồng thời phải phục vụ và phối
hợp với đấu tranh quân sự, chính trị tạo thành sức mạnh tổng hợp đưa cuộc chiến đấu đến thắng lợi.
Trong toàn bộ cuộc KC chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao có hai nhiệm vụ lớn. Nhiệm vụ thứ
nhất là tăng cường hậu phương quốc tế của ta và làm suy yếu hậu phương của địch. Đối với hậu
phương quốc tế của ta, ngoại giao có nhiệm vụ thực hiện khẩu hiệu của Đảng đề ra là thêm bạn bớt
thù, tranh thủ từ bạn gần đến bạn xa, từ những đồng minh chiến lược đến những người chỉ đồng
tình với ta một điểm nào đó. Như trên đã nêu, chúng ta chống đế quốc Mỹ là nhằm mục tiêu chung
của loài người, của thời đại, từ mục tiêu cao là chủ nghĩa xã hội, cho đến mục tiêu thấp là hòa bình,
độc lập dân tộc. Ai đồng tình với ta trên cơ sở chiến lược là đi tới chủ nghĩa xã hội đều là bạn của ta.
Ai chỉ đồng tình với ta dù chỉ là trên cơ sở chủ nghĩa nhân đạo, ta cũng coi là bạn. Ta kết bạn với
mọi người từ mức thấp tới mức cao, theo đúng phương châm thêm bạn bớt thù của Bác Hồ.
Nhiệm vụ thứ hai của ngoại giao là giải quyết vấn đề ta thắng địch thua. Lãnh đạo ta nhìn vấn đề
với đầu óc rất sáng suốt và thực tế. Với một địch thủ lớn mạnh hơn hẳn như Mỹ, cuộc đấu tranh của ta
chống Mỹ không thể chỉ khi nào ta buộc đối phương phải quy hàng mới kết thúc. Phải có khái niệm thật
rõ thế nào là ta thắng, thế nào là địch thua thì mới xác định được giải pháp. Ta thắng tức là khi nào ta
bảo vệ được độc lập tự do, giải phóng được đất nước của ta. Mỹ thua tức là Mỹ phải rút hết quân, chấm
dứt xâm lược, phải cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam.
Chính với tinh thần như vậy nên lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Nếu Mỹ mà chịu
nhận rút thì chúng tôi trải thảm đỏ cho mà rút. Ngoại giao phải làm sao đạt được thực chất vấn đề như
vậy. Để thắng một kẻ thù cỡ lớn như thế mà ta lại là một nước nhỏ thì phải có ngoại giao đóng góp vào lOMoAR cPSD| 41487147
đó, thực hiện phương châm thắng từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Phải có ngoại
giao để giải quyết vấn đề ta thắng địch thua.
Tạo lập một Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam làm nền tảng vững chắc về
chính trị và tinh thần cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của ta
Trước một kẻ thù giàu mạnh như vậy, trong một bầu không khí sợ Mỹ phổ biến trên thế
giới như vậy, điều tối cần thiết đối với ta là phải tạo lập được một mặt trận nhân dân thế giới ủng
hộ Việt Nam đánh Mỹ để tập hợp dư luận và cô lập Mỹ về chính trị và tinh thần.
Nhằm mục đích đó, việc tuyên truyền vận động quốc tế của ta trong thời gian đầu hướng
vào bốn nội dung: thứ nhất là nêu cao chính nghĩa của Việt Nam, thứ hai là nêu cao quyết tâm
giành độc lập của Việt Nam, thứ ba là nêu cao thiện chí hòa bình của Việt Nam, thứ tư là tố cáo
tội ác chiến tranh và vạch trần tính chất phi nghĩa của xâm lược Mỹ.
Trong thời gian Mỹ leo thang chiến tranh, chiến sự còn ở thế giằng co quyết liệt, nhiệm vụ
ngoại giao chủ yếu vẫn là tăng cường hậu phương quốc tế của ta, làm suy yếu rối loạn hậu
phương quốc tế của địch.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương (tháng Mười hai 1965) của
Đảng nhận định lúc đó “tình hình chưa chín muồi cho một giải pháp về Việt Nam”, song đã tính đến
lúc nào đó sẽ đi vào vừa đánh vừa nói chuyện, lấy đàm để hỗ trợ cho đánh, lấy đánh để ép địch đàm
phán nhằm chuyển biến so sánh lực lượng. Ngay từ những năm 1965-1967, ta chưa tính đến đàm
phán nhưng đã chuẩn bị việc này. Rút kinh nghiệm của Hiệp định Genève 1954, ta làm cho các nước
hiểu và đồng tình với ta: vấn đề Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam giải quyết trực tiếp với Mỹ.
Thời gian này, hoạt động dùng trung gian “tiến công hòa bình” của Mỹ rất sôi nổi. Trong một cuộc họp
Nhà Trắng, Johnson nói: “Cuộc chiến tranh này giống như một trận đấu ăn giải. Tay phải của ta
nắm lực lượng quân sự, song tay trái cần có các đề nghị hòa bình. Mỗi khi đưa quân đội lên phía
trước thì cũng phải đưa các nhà ngoại giao lên phía trước. Các tướng lĩnh muốn tôi đưa ra nhiều
nhiều hơn nữa. Họ muốn tiến xa hơn. Song Bộ Ngoại giao cũng phải cung cấp cho tôi thêm cái gì
nữa.” Có tới hàng chục nước đủ các loại: các nước Không liên kết, châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh, rồi
Nhật Bản, Bắc Mỹ, đến các nhân vật như Tổng thư ký Liên hợp quốc U Thant, Giáo hoàng, các trí
thức, nhà báo có tên tuổi,... làm trung gian cho Mỹ. Thông thường, dùng trung gian chỉ là một
phương thức có tính chất quá độ để mở đường cho đàm phán trực tiếp giữa hai bên đối địch trong
một cuộc tranh chấp. Nhưng với Mỹ, việc dùng trung gian đã được xem như một thủ đoạn nhằm
những mục đích khác như: thu thập tin tức về ý đồ chiến lược hoặc về lập trường đàm phán cụ thể
đối phương, tung ra những tin thất thiệt làm cho đối phương chập chững, mơ hồ về ý đồ của Mỹ;
bắn tin tức thúc ép, đe dọa hoặc ve vãn dụ dỗ; xoa dịu phản ứng quốc tế đối với Mỹ và chuyển sức ép
sang đối phương; gây hiểu lầm chia rẽ giữa đối phương với bạn bè của họ. lOMoAR cPSD| 41487147
Để thực hiện những mục đích khác nhau này, Mỹ đã dùng đủ các loại trung gian. Trước
năm 1967, Mỹ dùng thủ đoạn này khá nhiều. Làm trung gian cho Mỹ không những là các nước
đồng minh của Mỹ và các nước thế giới thứ ba mà còn cả nước xã hội chủ nghĩa nữa; không
những là nhân vật trong chính giới các nước mà cả những nhân sĩ, trí thức, v.v.. Mỹ không
những dùng trung gian rất mạnh trong thời gian chưa có cuộc đàm phán Paris, mà cả khi đã tiếp
xúc với ta rồi họ vẫn tiếp tục dùng trung gian. Thủ đoạn này thâm độc ở chỗ các nước trung gian
khi nhận đề nghị của Mỹ đã phải đồng tình hoặc đồng tình một nửa với ý kiến của Mỹ. Nếu họ
truyền đạt ý kiến đó cho ta mà ta bác đi, như vậy có nghĩa là ta bác cả Mỹ lẫn nước trung gian,
và mặc nhiên Mỹ tranh thủ được nước đó, chia rẽ được họ với ta.
Thời gian 1965-1966 và dai dẳng tới cuối năm 1967 đầu 1968, Mỹ chủ yếu dùng loại
“trung gian thân tín” – các nước châu Âu và đồng minh của Mỹ - vừa để gây sức ép bên ngoài
với ta vừa để thu thập tình báo chính trị, đánh giá tình hình tại chỗ, giúp cho Mỹ tài liệu nhận tin
tổng hợp về khả năng và ý chí của ta. Mỹ còn thông qua Liên Xô dùng “mồi kinh tế” lôi kéo
được bốn nước Đông Âu làm trung gian. Khác với việc dùng các nước phương Tây làm trung
gian, Mỹ dùng các nước xã hội chủ nghĩa làm trung gian với mục đích phân hóa mặt trận đoàn
kết xã hội chủ nghĩa ủng hộ Việt Nam, gây sức ép từ bên trong phe xã hội chủ nghĩa đối với ta
hòng tác động đến ý chí của ta và giảm viện trợ cho ta.
Còn ta kiên trì giải thích cho những nước định làm trung gian hiểu âm mưu, ý đồ, tội ác của Mỹ,
tại sao ta chưa đàm phán. Ta cảm ơn họ ủng hộ Việt Nam, và cho họ biết đến lúc chín muồi ta sẽ
trực tiếp đàm phán với Mỹ. Bằng cách đó, ta không còn phải lo vừa đối phó với Mỹ, vừa phải
giải thích cho bạn mà bạn vẫn hiểu ta, tránh được âm mưu chia rẽ, lừa bịp của Mỹ, tăng cường
hậu phương ta và chuẩn bị cho đàm phán sau này.
Mối quan hệ giữa đường lối KC và xây dựng chế độ mới (1945-1954)
Phương châm tiến hành KC: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện KC toàn dân, toàn
diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.Đảng ta áp dụng phương châm này không chỉ trong
công cuộc KC chống giặc mà còn trong cả giai đoạn xây dựng chế độ mới, là xây dựng căn cứ địa
cho Cách mạng. Chính vì vậy mà giữa đường lối KC và việc xây dựng chế độ mới có mối quan hệ
song song và chặt chẽ.
Đầu tiên, về đường lối KC chống Pháp, mục đích KC là kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng
Tháng Tám, "Đánh thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập". Cuộc KC của dân tộc ta là
một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn
diện và lâu dài. Nó là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình. lOMoAR cPSD| 41487147
Xuất phát từ lòng tin vào sức mạnh của nhân dân - có dân là có tất cả, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh, phải dựa vào dân, khơi nguồn sức mạnh, sức sáng tạo của nhân dân. Người giải
thích, toàn dân KC chính là: "Bất kì đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất
kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp", thực hiện
mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài. Trong công cuộc xây dựng chế độ
mới, toàn thể nhân dân chính là nguồn lực chính để thay đổi đất nước, tất cả mọi người cùng
nhau góp sức. Bất kì người dân, không phân biệt văn hóa, vùng miền, tôn giáo , tuổi tác…đều có
thể đóng góp công sức làm nên sức mạnh tập thể đất nước, thay đổi bộ mặt nước nhà.
Về đường lối KC toàn diện là đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa,
ngoại giao. Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các
đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Về quân sự:
Thực hiện vũ trang toàn dân, tiêu diệt địch… Về kinh tế: xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung
phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.Về văn hóa: Xóa
bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới.Về ngoại giao: thêm bạn bớt
thù , biểu dương thực lực. Trong công cuộc xây dựng chế độ mới, Đảng ta chủ trương xây dựng toàn
diện, mọi mặt. Đó là sự thay đổi và xây dựng trên mọi bình diện và lĩnh vực đời sống: kinh tế, chính
trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao…Chỉ có sự tập trung xây dựng toàn diện, đồng đều mới đưa đất
nước tiến lên chế độ mới với sự phát triển nhanh chóng và hợp lý.
Việc thực hiện đường lối KC lâu dài để chống âm đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp; để
chuyển hóa tương quan lực lượng đánh thắng địch; để củng cố hậu phương vững chắc. Điều này
càng được áp dụng vào trong công cuộc xây dựng chế độ mới. Toàn dân ra sức xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân với tâm thế kỹ lưỡng, cẩn thận và đúng đắn nên không thể hoàn thành trong
thời gian ngắn mà phải tiến hành lâu dài, có đường lối xây dựng cụ thể.
Phương châm dựa vào sức mình là chính có nghĩa là: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt".
Nhân dân ta phải đồng sức đồng lòng thi đua sản xuất, huy động hết sức người, sức của để xây
dựng cơ sở vững chắc cho nền công nghiệp, nông nghiệp. Chỉ có lao động mới tạo ra của cải vật
chất. Vì ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh, KC dựa
vào ý chí và sức mạnh nước nhà. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước,
song lúc đó cũng không được ỷ lại.
Câu 5: Vì sao trong thời kỳ đổi mới, VN gắn liền với CNH-HĐH và bảo vệ môi trường?
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, ô nhiễm nguồn nước, không khí đang lan rộng
không chỉ ở các KCN, khu đô thị, mà ở cả những vùng nông thôn; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm; biến
đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra triều cường và những hậu quả khôn lường. Đây chính là kết quả lOMoAR cPSD| 41487147
của quá trình Công nghiệp hóa nhanh ở nước ta. Trước tình hình đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị
có Nghị quyết 41- NQ/TW "Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại
hóa đất nước” đã khẳng định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của
phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH). Năm 2005,
Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung bảo vệ môi trường (BVMT) được nâng lên một tầm cao
mới, gắn chặt với quá trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình dự án đầu tư''. Một điểm mới
so với Đại hội X là đưa thêm nội dung ''chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường;
từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Việc CNH-HĐH các ngành công nghiệp nặng gây ra những ảnh hưởng không thể bỏ qua với môi
trường. Việc các làng nghề sản xuất tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần lớn đều gây ô nhiễm môi
trường. CNH-HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa, đây thực sự là sức ép lớn về môi trường trong quản lý đô thị. Song
song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu những áp lực về thay đổi cấu trúc và mô hình phát
triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường ngày càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường
cần được lồng ghép ngay từ quá trình ra các quyết định về phát triển kinh tế và xã hội.
Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện với môi
trường, tiếp cận mô hình tăng trưởng xanh đã được đề cập trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI.
Trong đó, Nhà nước cần dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội sinh nhằm sử dụng và phát
triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng...; vì đây là động lực chủ yếu để thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng phát triển bền vững. Nhà nước cũng cần sử
dụng công cụ tài chính nhằm khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia
tăng lớn, sử dụng công nghệ sạch; sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các sản
phẩm và bao bì không gây hại hoặc ít gây hại đến môi trường; tái chế và sử dụng các sản phẩm tái chế.
(Thực tiễn phát triển nước ta trong những năm gần đây khẳng định, chúng ta có đủ năng lực, điều
kiện để chuyển đổi thành công sang mô hình phát triển bền vững. Kinh nghiệm phát triển lĩnh vực
công nghệ thông tin, viễn thông, cơ khí tự động hóa, công nghệ vật liệu cũng như việc chế tạo thành
công các sản phẩm nano, những thành tựu trong công nghệ sinh học, cùng với năng lực sáng tạo
trong toán học, vật lý học, hóa học... cho thấy nếu có đủ quyết tâm và cách sáng tạo, phù hợp, chúng
ta sẽ nhanh chóng bước vào quỹ đạo phát triển hiện đại mà 21 quốc gia thành viên APEC, trong đó
có Việt Nam đã cam kết tại Hội nghị Thượng đỉnh tại Tokyo tháng 11- 2010, về thực hiện một mô
hình tăng trưởng mới, đảm bảo 5 yêu cầu: i) Tăng trưởng cân bằng; ii) Tăng trưởng an toàn; iii)
Tăng trưởng bền vững; iv) Tăng trưởng dựa vào trí tuệ; v) Tăng trưởng với lợi ích được chia sẻ công
bằng cho tất cả mọi người. Đây phải trở thành điểm xuyên suốt quá trình CNH-HĐH nước ta.) lOMoAR cPSD| 41487147
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất có khả năng
phòng ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-
HĐH. Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua chủ yếu là
do các cấp các ngành thường nặng về quan tâm tới các chi tiêu tăng trưởng kinh tế, chưa đảm bảo
hài hòa, cân bằng trong phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.
Trước hết, tất cả các dự án đầu tư phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường, được Bộ
hoặc Sở Tài nguyên - Môi trường thẩm định trước khi được phê duyệt. Đồng thời, tăng cường việc
kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; chú trọng quản lý chất thải, nhất là các chất thải trong sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ y tế. Và cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã hội
về nhận thức và hành động, trong chỉ đạo điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển khai các hoạt
động bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, gắn với phát triển KTTT.
Câu 7: Quan điểm của Đảng về sự quan trọng của văn hóa với sự phát triển bền vững
Về vai trò của văn hóa (VH) đối với sự phát triển bền vững, Đảng ta xác định: VH là nền tảng
tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Quan điểm này được thể
hiện qua những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
Quan điểm này một lần nữa khẳng định vai trò của VH trong sự nghiệp cách mạng của Đảng
và dân tộc, xây dựng và phát triển nền VH dân tộc là chăm lo nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu
nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Các giá trị VH tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong mỗi con
người và cả dân tộc. Các giá trị VH được nối tiếp, trao truyền và phát huy qua các thế hệ người Việt
Nam, đó là tất yếu của dòng chảy lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và hướng đến tương lai, tương lai
của những giá trị phổ quát Chân - Thiện - Mỹ. Vì vậy, chúng ta làm cho VH thấm sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội để các giá trị VH trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội.
Để phát triển VH thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, chúng ta cần
phải mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp thụ có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong tinh hoa VH
các dân tộc khác để làm giàu thêm cho nền VH dân tộc, tạo nên bản sắc VH dân tộc trong thời kỳ
CNH-HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế, làm cho VH Việt Nam bắt kịp sự phát triển của VH nhân loại
trong thời đại ngày nay và chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, xa lạ với VH. Đảng ta coi VH là
nền tảng tinh thần của xã hội, nghĩa là đề cao, coi trọng nguồn lực VH của sự phát triển bền vững
đất nước. Hệ thống di sản VH, các giá trị VH là “tài sản” vô giá, vô tận cho sự phát triển kinh tế - xã
hội, đó còn là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự bền vững của chế độ ta.
Hai là, VH là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước. lOMoAR cPSD| 41487147
Mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một xã hội “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Đây cũng chính là mục tiêu của VH, nếu hiểu theo nghĩa
rộng nhất của VH. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 xác định: Mục tiêu và động lực chính
của sự phát triển là vì con người, do con người. Đồng thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền
với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển VH, bảo vệ môi trường”, ngày nay không thể phát triển bằng mọi
giá, nhất là chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi ích hôm nay mà làm tổn hại đến tương lai.
Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đó phải là nền kinh tế giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội, giữa
kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo bền vững về môi trường sinh thoái, tạo cơ sở nền tảng
vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó phải cần đến VH, sự tham gia của VH vào trong
tổ chức và hoạt động của nền kinh tế vì mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người, đó chính là
vai trò của VH trong kinh tế, kinh tế trong VH.
VH với tư cách là đời sống tinh thần xã hội, một mục tiêu đặc biệt quan trọng, vì nó là nhu
cầu phong phú, vô cùng, vô tận, tinh tế của con người, nhu cầu tinh thần còn là nhu cầu nhân văn và
là cứu cánh của con người, VH ấy vừa đáp ứng nhu cầu của con người, xã hội tiến bộ, vừa thúc đẩy
con người đạt được niềm tin, sự khát vọng hạnh phúc.
Ba là, văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước.
Thực tế cho thấy, không ít những quốc gia, dân tộc không giàu về tài nguyên thiên nhiên,
thậm chí còn nghèo nàn và hạn hẹp nhưng lại giàu về kinh tế, kinh tế phát triển, xã hội tiến bộ chính
là nhờ coi trọng yếu tố VH, con người, thông qua việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài mở đường cho sự phát triển.
Như vậy, nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một đất nước thấm sâu trong VH, con
người. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, cái tốt, cái tiến bộ nhưng không thể tách
rời, bỏ qua cội nguồn, phát triển phải dựa trên cội nguồn, cội nguồn đó của mỗi dân tộc là VH. kinh
nghiệm qua hơn 30 năm sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh rằng, ngay bản thân sự phát
triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra, mà động lực của sự đổi mới
kinh tế đó một phần quan trọng nằm trong VH.
Trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động và làm thay đổi quan niệm
về phát triển kinh tế, phát triển bền vững, phát triển không đơn thuần chỉ dựa vào điều kiện tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mặt dù yếu tố này phong phú, đa dạng nhưng đều có hạn và có thể bị
khai thác cạn kiệt, mà dần dần chuyển sang yếu tố quyết định cho sự phát triển chính là trí tuệ, tri
thức, thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần ngày
càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của cá nhân và xã hội, đó tức là VH, vai trò của VH trong phát
triển, chỉ có sự tham gia của VH mới đưa đến sự phát triển bền vững. lOMoAR cPSD| 41487147
Ngày nay, nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng sáng tạo này
nằm trong VH, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, nhân cách của mỗi cá nhân và cộng đồng. Chỉ có nguồn lực này
là vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh, không bao giờ cạn kiệt, các nguồn lực khác sẽ không được sử
dụng có hiệu quả nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng, thì các nguồn
lực đó dù có phong phú, đa dạng, thì cũng không thể tham gia và phát huy tác dụng vào trong phát triển.
Câu 8: So sánh đường lối CN hoá của Đảng thời kỳ trước đổi mới và trong thời kì đổi mới (chúng ta
không có khái niệm sau đổi mới)
Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa (CNH) đối với nước ta là một tất yếu, khách quan.
Bởi vì, CNH là vấn đề không mới, mà các nước tư bản chủ nghĩa đã thực hiện từ lâu, CNH còn được đề
cập trong chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa nên cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất của xã hội thiếu thốn và thấp kém, năng suất lao động thấp, đời
sống nhân dân nghèo nàn, lạc hậu, công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc nhiều khó khăn…
Ngay từ đầu quá trình CNH, Đảng ta đã xác định CNH xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Giống nhau:
Về điểm giống qua báo cáo của Bộ Chính trị:
Một là, trước đây cũng như hiện nay Đảng ta đều quan niệm CNH là nhiệm vụ trung
tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, CNH đều nhằm chuyển đổi một cách căn bản nền sản xuất xã hội từ lao động
thủ công là chủ yếu sang lao động dùng máy móc, phương tiện kỹ thuật là phổ biến,
xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở đó, nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Ba là, từng bước hình thành quan hệ sản xuất mới tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, thể hiện ngày càng đầy đủ bản chất ưu việt của chế độ mới,
tạo ra hạ tầng cơ sở vững chắc cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bốn là, tiến hành CNH trước
đây và hiện nay đều phải được thực hiện theo hướng hiện đại hoá (HDH) tuy có sự khác nhau
về mức độ. Do sự phát triển rất nhanh chóng của khoa học và công nghệ trong những thập kỷ
gần đây, khái niệm HĐH luôn luôn được bổ sung những nội dung mới với phạm vi bao quát
nhiều mặt, từ sản xuất, kinh doanh đến dịch vụ, quản lý... Những tiến bộ khoa học – công
nghệ được coi là hiện đại cách đây vài thập kỷ thì nhiều cái nay đã trở nên bình thường, cần
được bổ sung, thậm chí lạc hậu, cần được thay thế. Khái niệm HĐH mà lOMoAR cPSD| 41487147
chúng ta đề cập trong Nghị quyết Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII và Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần này được hiểu theo ý nghĩa đó.
Ngoài ra, còn có một số điểm giống như sau:
Thứ nhất, đường lối CNH của Đảng luôn nhấn mạnh đến yếu tố khoa học kỹ thuật
công nghệ (then chốt, quyết định...), luôn xác định khoa học là lực lượng sản xuất
trực tiếp, hướng hoặc đề cập trực tiếp tới công nghệ tiên tiến, công nghệ mũi nhọn,
công nghệ cao... nhưng những gì đạt được trên thực tế lại cho thấy khoa học và công
nghệ chưa được hiểu một cách đầy đủ, thống nhất, xứng tầm.
(THÍCH THÌ GHI) Cơ chế, chính sách cho phép khoa học kỹ thuật công nghệ đóng
góp vào sự phát triển nhanh và bền vững của Tổ quốc còn hạn chế. Thứ hạng trình độ
khoa học công nghệ của Việt Nam luôn rất thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới, kể
cả một số nước nhỏ về diện tích, không nhiều về dân số trong khu vực: số lượng các
bằng phát minh sáng chế được đăng ký, đội ngũ các nhà khoa học, chất lượng nguồn
nhân lực, bài báo khoa học đăng tạp chí quốc tế.... các giải thưởng danh giá khoa học
thế giới.... đều rất ít.
Đặc biệt, sự hạn chế về nhận thức và kém hiệu quả trong thực hiện sẽ làm cho khoảng
cách chênh lệch phát triển của Tổ quốc chúng ta với nhiều quốc gia sẽ ngày càng xa
hơn. Việt Nam sẽ trở nên lạc hậu, sẽ bị gạt ra rìa trong xu thế toàn cầu hóa và sự phát
triển như vũ bão của khoa học công nghệ như ngày nay.
Thứ hai, CNH bằng con đường thích hợp để đưa Tổ quốc phát triển đạt trình độ cao
về mọi mặt là mạch tư duy không bao giờ dứt trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
(THÍCH THÌ GHI) Khái quát bước chuyển biến tư duy lý luận về CNH XHCN cho thấy
một điều từ khi chủ trương đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội tới nay, khát vọng đưa
nước ta từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước công nghiệp
phát triển, khoa học và kỹ thuật tiên tiến, nhân dân có cuộc sống ấm no tự do và hạnh
phúc, là mạch tư duy không bao giờ dứt trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Một trong những con đường để đạt được điều đó là thông qua CNH XHCN thành công.
Thứ ba, khẳng định CNH có tính tất yếu và giữ vị trí nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
(THÍCH THÌ GHI)Từ góc nhìn lịch sử, có đầy đủ cơ sở để khẳng định rằng, sự đánh
giá của Đảng về tính tất yếu, vị trí, vai trò, mục tiêu, định hướng phát triển hay nói
chung là tầm quan trọng của công cuộc CNH đối với đất nước ta là khá nhất quán và lOMoAR cPSD| 41487147
xuyên suốt. CNH theo hướng hiện đại được coi là nhiệm vụ trọng tâm để nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp trong khoảng vài chục năm.
Thứ tư, mục tiêu CNH có nhiều điểm giống nhau.
Mục tiêu cơ bản của CNH luôn là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đi đôi với không
ngừng cải thiện đời sống nhân dân và cải biến nước ta thành một nước công nghiệp.
Các điểm chung bao gồm đảm bảo cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
QHSX tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, mức sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, ấm no, tự do, hạnh phúc. Để thực hiện mục tiêu chung đó, ở mỗi
thời kỳ thường xác định những mục tiêu cụ thể cần đạt được.
Thứ năm, mô hình CNH Việt Nam đều sử dụng kết hợp các ưu thế của nhiều mô hình
khác nhau, như một số đặc điểm của mô hình CNH cổ điển, phi cổ điển, CNH thay
thế nhập khẩu, CNH hướng vào xuất khẩu, CNH tư bản chủ nghĩa, CNH XHCN…
Ngoài ra: khả năng sử dụng hiệu quả nguồn lực của đất nước chưa cao; cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo bản chất và nội dung CNH hiện đại còn chậm; liên tục đổi mới
tư duy để hoàn thiện các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế trong quá
trình thực hiện CNH Tổ quốc. Khác nhau:
- Theo Bộ Chính trị, “Bên cạnh những điểm thống nhất nêu trên, CNH, HĐH hiện nay có
nhiều cái khác so với trước đây mà một số điểm chính là:
+ Đường lối CNN trước đổi mới được tiến hành theo cơ chế cũ, tập trung quan liêu,
bao cấp; thực hiện kế hoạch hoá tập trung với các chỉ tiêu pháp lệnh. Ở thời kỳ đổi
mới, chúng ta tiến hành CNH, HĐH theo cơ chế mới, là cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng; thị trường phản
ánh nhu cầu xã hội, có tiếng nói quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực cho
sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm thước đo.
+ Trước đổi mới, CNH thường được hiểu là việc của Nhà nước, thông qua khu vực
quốc doanh và tập thể là chủ yếu. Trong đổi mới, nó là sự nghiệp của toàn dân với
sự tham gia tích cực của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước cũng linh hoạt hơn, bao
gồm những doanh nghiệp mà Nhà nước nắm một số cổ phần, khống chế tương đối
hay tuyệt đối. Đồng thời thực hiện đa dạng hoá và đan xen các loại hình sở hữu.
+ CNH thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội.
Còn CNH thời kỳ đổi mới thì lấy CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định lOMoAR cPSD| 41487147
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. (Thích Thì Ghi) CNH, HĐH
gắn với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khai thác hiệu quả mọi nguồn lực của
nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH. CNH, HĐH
ở nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở
rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học
hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới... sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác hiệu quả thị trường thế giới.
Hội nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
+ CNH ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực hiện CNH
được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, theo kế hoạch
của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực hiện
bằng cơ chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế.
+ CNH ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất
đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. CNH ở thời kỳ đổi mới, lấy
phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững; coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực CNH, HĐH.
- CNH ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí,
ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội. Còn ở thời kỳ đổi mới,
CNH, HĐH gắn với phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
- Bên cạnh đó, còn có những điểm khác như:
*Thứ nhất, về cách giải quyết mối quan hệ giữa phát triển LLSX và xây dựng QHSX XHCN trong quá trình CNH.
Đường lối CNH của Đảng chuyển từ CNH gắn với quan niệm xây dựng QHSX XHCN đi
trước một bước, mở đường cho sự phát triển của LLSX. Đồng thời, chuyển sang thực hiện
ưu tiên phát triển LLSX hiện đại, đồng thời xây dựng QHSX tiến bộ phù hợp.
*Thứ hai, về bước đi, tốc độ của CNH.
(THÍCH THÌ GHI) Thời kỳ đổi mới, Đảng xác định rằng quá trình CNH phải được tiến hành
từng bước phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, không thể đẩy mạnh CNH mà là tạo tiền đề cần
thiết để đẩy mạnh CNH ở chặng đường tiếp theo (chủ trương đẩy mạnh CNH từ Đại hội VIII – lOMoAR cPSD| 41487147
1996). Cơ cấu kinh tế được điều chỉ hợp lý từng thời đoạn, và con đường CNH ở nước ta
được xây dựng sao cho có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước.
Tư duy CNH của Đảng thời đổi mới xác định rằng con đường CNH ở nước ta cần và có thể
rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta để thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Chúng
ta có thể tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các nước đi
trước, sử dụng xu thế của thời đại và hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.
Như vậy, đường lối CNH đã chuyển từ CNH XHCN với cách làm nóng vội, bỏ qua các
bước đi trung gian cần thiết, sang việc thực hiện CNH vừa có bước đi tuần tự, giai đoạn
trước tạo tiền đề cho sự phát triển của giai đoạn sau theo trật tự tuyến tính, vừa cho phép
phát triển "rút ngắn" trên cơ sở đi tắt và đón đầu các thành tựu phát triển nhảy vọt về
khoa học và công nghệ của thế giới.
*Thứ ba, xây dựng cơ cấu kinh tế (mối quan hệ giữa công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ,
nông nghiệp, kinh tế trung ương, kinh tế địa phương, sản xuất, phân phối, tiêu dùng); cơ chế
và mô hình nền kinh tế trong quá trình CNH.
Từ chủ trương xác lập nóng vội cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp đến sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng CNH, HDH để đưa nước ta đến năm 2020 về cơ bản trở thành một
nước công nghiệp, có cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp và dịch vụ hiện đại;
Từ nền kinh tế “khép kín”, “hướng nội”, với quan hệ chỉ khép kín trong hệ thống XHCN,
chúng ta đã chuyển sang thực hiện một nền kinh tế mở đa dạng, đa phương phù hợp với
thông lệ quốc tế và hướng mạnh về xuất khẩu, kết hợp với thay thế nhập khẩu;
Chuyển đổi từ CNH thực hiện trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp sang việc tuân theo thị trường, kết nối thị trường trong nước với thị trường thế giới đã trở
thành một chỉnh thể hữu cơ, được quản lý bởi nhà nước theo định hướng XHCN.
*Thứ tư, CNH và HĐH gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển nhanh, bền vững.
Quan niệm CNH cổ điển đã chuyển sang quan niệm CNH, HĐH, gắn với phát triển kinh
tế tri thức, thực hiện các mục tiêu phát triển trước mắt phải đi đôi với yêu cầu không làm
tổn hại đến khả năng phát triển trong tương lai, bảo vệ tài nguyên môi trường.
Ngoài ra, CNH còn có các đặc điểm được nhận thức rõ và nhấn mạnh hơn, bao gồm việc
đẩy mạnh CNH và HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; khoa học và công
nghệ cũng là quốc sách hàng đầu, là động lực đẩy mạnh CNH và HDH đất nước, từng
bước phát triển kinh tế tri thức. lOMoAR cPSD| 41487147
Câu 9: Tại sao pt kinh tế thị trường định hướng XHCN là là bước phát triển mới theo tư duy lí luận,
sự vận dụng sáng tạo độc lập của Đảng? / Vì sao đảng cộng sản việt nam lựa chọn mô hình kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu
Đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là nguyện vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử. Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới
nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen. Một trong những phương hướng cơ bản để thực hiện thành công quá trình cách mạng
nói trên là phải phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa là "một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật
của KTTT vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của
CNXH". Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của "thị trường" được sử dụng để "phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời
sống nhân dân", còn tính "định hướng xã hội chủ nghĩa" được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ
sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là "dân giàu, nước mạnh,
tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp
bức và bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc".
Với nền KTTT, Đảng đã sự nhìn nhận sự phát triển về tư duy như sau:
Một là, KTTT không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy, sản xuất và trao đổi hàng hóa là tiền đề quan trọng
cho sự ra đời và phát triển của KTTT. Trong quá trình sản xuất và trao đổi, các yếu tố thị trường
như cung, cầu, giá cả có tác động điều tiết quá trình sản xuất hàng hóa, phân bổ các nguồn lực kinh
tế và tài nguyên thiên nhiên như vốn, tư liệu sản xuất, sức lao động... phục vụ cho sản xuất và lưu
thông. Thị trường giữ vai trò là một công cụ phân bổ các nguồn lực kinh tế. Trong một nền kinh tế,
khi các nguồn lực kinh tế được phân bổ bằng nguyên tắc thị trường, thì người ta gọi đó là KTTT.
KTTT đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao
trong xã hội tư bản chủ nghĩa. KTTT và kinh tế hàng hóa (KTHH) có cùng bản chất là đều nhằm
sản xuất ra để bán, đều nhằm mục đích giá trị và đều trao đổi thông qua quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
KTHH và KTTT đều dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất, làm cho những người sản xuất vừa độc lập, vừa phụ thuộc vào nhau. lOMoAR cPSD| 41487147
Trao đổi mua bán hàng hóa là phương thức giải quyết mâu thuẫn trên. Tuy nhiên, KTHH và
KTTT có sự khác nhau về trình độ phát triển. KTHH ra đời từ kinh tế tự nhiên, nhưng còn ở
trình độ thấp, chủ yếu là sản xuất hàng hóa với quy mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, năng suất
thấp. Còn KTTT là KTHH phát triển cao, đạt đến trình độ thị trường trở thành yếu tố quyết
định sự tồn tại hay không tồn tại của người sản xuất hàng hóa. KTTT lấy khoa học, công nghệ
hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao.
KTTT có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay nó mới biểu hiện rõ rệt nhất trong chủ nghĩa
tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản, KTTT còn ở thời kỳ manh nha, trình độ thấp thì trong chủ
nghĩa tư bản nó đạt đến trình độ cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội
đó. Điều đó khiến cho không ít người nghĩ rằng, KTTT là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Chủ
nghĩa tư bản không sản sinh ra KTHH, do đó, KTTT với tư cách là KTHH ở trình độ cao không
phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Hai là, KTTT còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
KTTT xét dưới góc độ "một kiểu tổ chức kinh tế" là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế,
là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế
và điều tiết tốt mối quan hệ giữa người với người. KTTT chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp,
tự túc, chứ không đối lập với các chế độ xã hội. Bản thân KTTT không phải là đặc trưng bản
chất cho chế độ kinh tế cơ bản của xã hội. Là thành tựu chung của văn minh nhân loại, KTTT
tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau. KTTT vừa có thể liên hệ với chế
độ tư hữu, vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho chúng. Vì vậy, KTTT tồn tại
khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Xây dựng và phát triển KTTT không phải là phát
triển tư bản chủ nghĩa hoặc đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và tất nhiên, xây dựng kinh tế
xã hội chủ nghĩa cũng không dẫn đến phủ định KTTT.
Ba là, có thể và cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH ở nước ta. KTTT tồn tại
khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Vì vậy, có thể cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH ở nước ta.
Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ có thể dùng cơ chế thị trường làm cơ sở phân
bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng hàng hóa, điều
hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến bộ,
đào thải cái lạc hậu, yếu kém.
Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản không sinh ra KTTT nhưng đã biết thừa kế và khai thác có
hiệu quả các lợi thế của KTTT để phát triển. Thực tiễn đổi mới ở nước ta cũng đã chứng minh sự cần
thiết và hiệu quả của việc sử dụng KTTT làm phương tiện xây dựng CNXH. Kế thừa tư duy của Đại lOMoAR cPSD| 41487147
hội IX, Đại hội X và XI đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển KTTT ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là:
- Về mục đích phát triển: Mục tiêu của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm
thực hiện "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" giải phóng mạnh mẽ lực
lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm
nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát
nghèo và từng bước khá giả hơn.
- Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong
mỗi cá nhân và mọi vùng miền... phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ
yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mặt khác, tiến lên CNXH đặt ra yêu cầu nền
kinh tế phải được dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ
với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục
tiêu phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực của KTTT.
- Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền
kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể
hiện sự khác biệt cơ bản giữa KTTT tư bản chủ nghĩa với KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa
nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của KTTT, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mọi người.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam,
Đảng ta khẳng định: phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất
quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. Đây là
kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư
duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.
Câu 10: Vì sao nói văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước?
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước xác định: “Văn hóa là nền lOMoAR cPSD| 41487147
tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được
đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”.
Nền tảng tinh thần là không gian tinh thần của cộng đồng, bầu không khí tinh thần, khí thế của
đông đảo quần chúng nhân dân và của cộng đồng dân tộc, hệ tư tưởng, tình cảm, niềm tin, khát vọng của
con người, các quan niệm đạo lý, pháp lý đạt chuẩn mực chân, thiện, mỹ…; là yếu tố quan trọng chi phối
mọi hoạt động của con người trong xã hội, là cơ sở để phát triển kinh tế, chính trị, xã hội. Do những điều
kiện tự nhiên và lịch sử, trong trái tim mỗi con người Việt Nam dần hình thành một tinh thần yêu nước
nồng nàn, chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu, bảo vệ và xây dựng đất nước, sự cần cù, chăm chỉ và
sáng tạo trong lao động sản xuất, cũng như một tấm lòng nhân văn, khoan dung và cởi mở.
Theo UNESCO, văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và
trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị,
các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
Trong Nghị quyết Trung ương 5 ( Khóa VIII), Đảng ta khẳng định: Văn hóa Việt Nam là
tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong
quá trình dựng nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn
minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí
phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội: Hệ tư tưởng, tình cảm, niềm tin, khát vọng của con
người, các quan niệm đạo lý,..... tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong
mỗi con người và trong cả cộng đồng; được truyền lại tiếp nối và phát huy qua các thế hệ; chi phối hàng
ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng môi trường xã hội - văn hóa.
Truyền thống của nền văn hóa dân tộc là một dòng chảy tinh thần được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch
sử, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi xã hội của con người. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức kết nối cộng đồng; lòng nhân ái, trọng nghĩa tình; đức tính cần
cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử... Các giá trị và sức mạnh đó của văn hóa và con
người Việt Nam đã làm nên nền tảng tinh thần vững chắc của dân tộc ta; trở thành nguồn lực nội sinh,
động lực quan trọng của phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy cần chủ trương làm cho văn hóa
thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành lOMoAR cPSD| 41487147
nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là
con đường xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng
và đẩy lùi các tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ.
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng tạo ra, chi phối
toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm cung cấp năng lượng tinh thần cho
con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện, xa rời trạng thái nguyên sơ ban đầu khi từ
con vật phát triển thành con người. Con người tồn tại, không chỉ cần những sản phẩm vật chất
mà còn có nhu cầu hưởng thụ sản phẩm văn hóa tinh thần, con người và xã hội loài người càng
phát triển thì nhu cầu văn hóa tinh thần đòi hỏi ngày càng cao. Đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh
thần đó chính là đảm bảo sự phát triển ngày càng nhiều của cải vật chất cho con người và xã hội.
Xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người quyết định mà văn hóa thể hiện trình độ
vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người và xã hội, làm cho con người và xã hội ngày
càng phát triển, tiến bộ; điều đó nghĩa là ngày một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để
tiến tới một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân văn, nhân
đạo của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi dưỡng; phát huy trở thành giá trị cao
quý và chuẩn mực tốt đẹp của toàn xã hội. Mục tiêu này phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân
loại và là mục đích phát triển bền vững, tiến bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây là một nội dung
quan trọng của CNXH mà chúng ta đang xây dựng.
Văn hóa là động lực của sự phát triển, bởi lẽ mọi sự phát triển đều do con người quyết
định chi phối. Văn hóa khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người, huy động
sức mạnh nội sinh to lớn trong con người đóng góp vào sự phát triển xã hội.
+ Văn hóa và kinh tế có mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời: Hoạt động kinh tế trực tiếp tạo dựng
nên nền văn hóa vật chất, là một bộ phận quan trọng của văn hóa vật chất. Tuy nhiên, hoạt động
kinh tế cũng tạo dựng nên nền văn hóa tinh thần một cách gián tiếp, bởi là cái vỏ vật chất, là
phương tiện để văn hóa tinh thần có thể tiếp xúc duy trì, tồn tại và phát triển; ngược lại, văn hóa
tinh thần góp phần quan trọng vào việc cung cấp những kinh nghiệm, hiểu biết, tri thức cần thiết
để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Do vậy, nếu có ý thức sâu sắc về các vấn đề văn hóa, hiểu rõ bản
chất của văn hóa, biết kết hợp giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại thì có thể thấy trước
tương lai khả quan của nền kinh tế, từ đó phát triển đất nước mạnh mẽ.
+ Văn hóa thẩm thấu và được thể hiện trong toàn bộ hoạt động của nền kinh tế: Từ nguồn
nhân lực trong hoạt động kinh tế đến việc xử lý, giải quyết, tổ chức triển khai các hoạt
động kinh tế, từ thiết kế và sản xuất sản phẩm đến trao đổi, phân phối và sử dụng sản
phẩm - tất cả đều thấm đẫm yếu tố văn hóa, bởi lẽ, toàn bộ quá trình hoạt động kinh tế
đều là hoạt động của con người, thuộc về con người, vì con người. lOMoAR cPSD| 41487147
+ Nhận thức về văn hóa ngày càng trở nên sâu sắc, đa chiều trong thời kỳ toàn cầu hóa kinh tế
và hội nhập kinh tế quốc tế: Nếu bản sắc văn hóa của quốc gia, dân tộc bị mai một, xói mòn
thì quy mô của nền kinh tế sẽ bị thu hẹp lại, và một khi văn hóa dân tộc suy tàn, dân tộc sẽ
chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Vì vậy, vấn đề ý thức văn hóa ngày càng trở nên quan trọng và
được đặt ra cấp thiết ở bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử đương đại.
+ Yếu tố văn hóa ngày càng được phát huy mạnh mẽ trong hoạt động kinh tế: Yếu tố văn hóa
trong hoạt động kinh tế bao gồm nhiều cấp độ khác nhau.
Văn hóa doanh nghiệp là một trong những biểu hiện của nền văn hóa. Văn hóa doanh
nghiệp, về cơ bản, xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp và bản thân nền kinh tế.
Chủ thể của nền kinh tế thị trường hiện đại là con người với mong muốn có sự phát
triển mạnh mẽ về kinh tế, nhưng vẫn cần phải có những ràng buộc về đạo đức, hay
nói một cách đầy đủ thì đó chính là văn hóa đạo đức.
+ Thế giới ngày nay đang dần bước vào kỷ nguyên kinh tế văn hóa: Văn hóa hóa kinh tế và kinh tế
hóa văn hóa đã trở thành xu thế quan trọng của toàn cầu; vai trò của văn hóa trong việc thúc đẩy,
hướng dẫn và hỗ trợ phát triển kinh tế ngày càng rõ nét, bao gồm từ việc xây dựng chiến lược,
chính sách phát triển kinh tế đến sản xuất, quản lý doanh nghiệp và tạo ra các sản phẩm có
thương hiệu, đây không chỉ là những hoạt động kinh tế, mà còn là những hoạt động văn
hóa phức tạp, đòi hỏi phải có tư duy và trí tuệ văn hóa.
Vì vậy, việc phát triển văn hóa là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Cần
thực hiện tốt các giải pháp phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có
phẩm chất, năng lực, bản lĩnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, hiện đại hóa đất nước.
Câu 11: Vì sao trong tk đổi mới, Đảng CSVN phải lựa chọn phương châm đối ngoại theo hướng đa
phương hoá, đa dạng hoá là một tất yếu? (Đa phương hoá đa dg hoá là gì) (trọng tâm)
Quan hệ đa phương hóa (ĐPH) là một hình thức ngoại giao giữa nhiều quốc gia với nhau nhằm
giải quyết các vấn đề chung như chiến tranh, hòa bình… hợp tác và đấu tranh để cùng tồn tại và phát
triển. Các quốc gia có thể thiết lập quan hệ đa phương bằng cách ký kết và công nhận các hiệp ước,
công ước và thỏa thuận quốc tế. Ở Việt Nam, định hướng chính trị đa dạng hóa (ĐDH), ĐPH quan hệ
đối ngoại đã thực sự được thực hiện ngay từ đầu công cuộc đổi mới, bắt đầu từ chính sách kinh tế đối
ngoại. Cho đến nay, quan hệ đối ngoại của Việt Nam bắt đầu được đẩy mạnh theo hướng đa dạng hóa,
đa phương hóa. Định hướng đa dạng hóa, đa phương hóa chính thức được đưa vào Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và từ đó được khẳng định trong các văn kiện của Đảng.
Phương châm đối ngoại theo hướng ĐPH, ĐDH là một tất yếu. Đảng và Nhà nước luôn xác định
Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của thế giới, gắn liền với tiến trình phát triển của thế lOMoAR cPSD| 41487147
giới. Hiểu biết sâu sắc tình hình thế giới là điều kiện không thể thiếu để xác định những mục
tiêu, nhiệm vụ cho đất nước. Xa rời với sự vận động chung, tự cô lập mình với thế giới bên ngoài
là những sai lầm nguy hại, có thể ảnh hưởng đến sự sinh tồn của cả dân tộc. Chính vì vậy, Đảng
ta đã có những điều chỉnh kịp thời trong chính sách ngoại giao, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan
trọng và tính tất yếu của chủ trương ĐPH, ĐDH các quan hệ đối ngoại.
Đối ngoại theo hướng ĐPH, ĐDH là một tất yếu vì những lý do sau.
Đầu tiên, về mặt chính trị - ngoại giao, do không nắm bắt kịp thời xu thế phát triển của
thế giới mà chính sách đối ngoại của chúng ta mười năm trước đổi mới đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Việt Nam vẫn trong thế bị bao vây, bị cô lập lại bị các thế lực thù địch chống phá, cộng với các
chính sách phát triển sai lầm, không phù hợp với hoàn cảnh khiến nước ta lâm vào cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng.
Những biến động của tình hình thế giới tác động sâu sắc đến nhận thức và tư duy của
Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa
đứng đầu là Liên Xô là bài học quý giá cho chúng ta. Từ đây, Đảng ta nhận thức và rút kinh
nghiệm, cần phải thay đổi mô hình xã hội chủ nghĩa cũ, cụ thể hơn là đổi mới chủ trương và
chính sách ngoại giao sao cho hợp lý, hiệu quả.
Xuất phát từ tình hình cụ thể trong, ngoài nước và nhu cầu phát triển của nước ta, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng 12/1986, Đảng ta bắt đầu đã có
những đổi mới sâu sắc và mang tính chiến lược về đường lối và chính sách đối ngoại, đặc biệt
coi trọng ĐPH, ĐDH các quan hệ ngoại giao.
Với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập là xu thế chung hiện nay, việc hợp tác đa phương trên nhiều
lĩnh vực là tất yếu. Hợp tác đa phương trong các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội, lao động, thông tin -
truyền thông, môi trường, du lịch...được mở rộng, từ đó thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển thị trường
lao động và hệ thống an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo… Hội nhập khu vực và quốc tế về khoa học -
công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển nền khoa học, giáo dục
tiên tiến, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thông tin và y tế quốc gia đáp ứng nhu cầu của người
dân, tiến tới thu hẹp khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới trong các lĩnh vực này.
Việc VN tham gia mạng lưới liên kết kinh tế đa phương đã góp từng bước mở cửa, gắn
nền kinh tế và thị trường trong nước với khu vực và thế giới, tiếp thu những nguyên tắc và
chuẩn mực quốc tế, thu hút nguồn lực cho phát triển, tạo thêm động lực xây dựng và hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội.
Câu 12: Tính tất yếu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN
Tính cấp thiết phải tiến hành đổi mới kinh tế đất nước nhìn từ bình diện quốc tế: lOMoAR cPSD| 41487147
Quy luật vận động của mọi quốc gia là phải luôn cải cách để phát triển. Các nước xã hội
chủ nghĩa cũng nằm trong sự vận động tất yếu đó. Công cuộc cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là đòi hỏi tất yếu trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Đó là sự tự nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội nhằm khắc phục những sai lầm, hạn chế đã
mắc phải, tìm con đường phát triển thích hợp với bối cảnh của thời đại.
Những nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, những sai lầm trong thực tiễn chậm
được phát hiện, những hậu quả chưa khắc phục kịp thời, cùng với sự phá hoại của chủ nghĩa đế
quốc bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” đã đẩy các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đặc
biệt là Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào sự khủng hoảng toàn diện. Lòng tin của người dân
vào Đảng Cộng sản ở các nước, vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội giảm sút nghiêm trọng.
Thực tiễn đó, đặt ra yêu cầu các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trong đó, có Việt Nam phải
tiến hành cải cách, đổi mới đất nước toàn diện.
Tính tất yếu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN:
Trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng vừa qua, công cuộc đổi mới luôn được Đảng ta xác định rõ
ngay trong chủ đề của Đại hội. Đại hội XII nhấn mạnh "… đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới". Chủ đề của Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: "…tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng
bộ công cuộc đổi mới…".
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN là điều tất yếu vì:
Thứ nhất, yêu cầu khách quan của sự phát triển đất nước. Việt Nam là một nước đang
phát triển, với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu kém, năng lực sản xuất thấp.
Trong bối cảnh thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, nếu không
đổi mới, Việt Nam sẽ khó có thể bắt kịp xu thế phát triển chung của thế giới, khó có thể nâng cao
đời sống của nhân dân.
Thứ hai, yêu cầu của nhân dân. Nhân dân Việt Nam đã trải qua nhiều năm tháng chiến
tranh gian khổ, hy sinh, mong muốn có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Để đáp ứng nguyện vọng
của nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới, nhằm tạo ra những tiền đề vật chất
và tinh thần cho sự phát triển của đất nước.
Thứ ba, yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Để hoàn thành mục tiêu của cách mạng, Việt Nam cần
phải xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa hiện đại, dân chủ, công bằng, văn minh. Để đạt được mục tiêu
đó, cần phải đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, xây dựng nền tảng
vững chắc cho sự nghiệp cách mạng.mCông cuộc đổi mới ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN đã
đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, phát triển
nhanh và bền vững. Những thành tựu đó đã khẳng định tính tất yếu của công cuộc đổi mới, là minh
chứng sinh động cho sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta. Để tiếp tục phát triển đất lOMoAR cPSD| 41487147
nước trong giai đoạn tới, cần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy những thành tựu đã
đạt được, khắc phục những hạn chế, khó khăn, thách thức, đưa đất nước phát triển nhanh, bền
vững, nâng cao đời sống của nhân dân.
Câu 13: Vì sao nói ĐCSVN ra đời là một tất yếu? Phân tích sự sáng tạo của ĐCS trong cương lĩnh đầu tiên ?
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng (CM) của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện rõ
nét và sinh động về tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo trong việc vận dụng CNMácLN, truyền thống
dân tộc, kinh nghiệm của nước ngoài một cách nhuần nhuyễn vào thực tiễn VN, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp CM đặt ra và được thể hiện ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta, thông
qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) (từ ngày 3-7/2/1930).
Ngay từ khi Đảng CSVN mới thành lập, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã chỉ ra
phương hướng cơ bản của CM VN, đặt nền móng cho việc xác định lý luận, đường lối, phương pháp
CM và những nguyên tắc chủ yếu để xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân VN.
Tuy hết sức ngắn gọn, vắn tắt nhưng cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã kết hợp nhuần nhuyễn
quan điểm dân tộc và giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và thời đại với những luận điểm sau nổi bật.
Một là, CM Việt Nam phải là CM tư sản dân quyền và thổ địa CM để tiến lên xã hội cộng sản.
(Thực chất đó là một cuộc CM có 2 giai đoạn : giai đoạn thứ nhất đó là cuộc CM giải phóng dân
tộc, giai đoạn thứ hai là sau khi giành được thắng lợi sẽ chuyển sang làm CM xã hội chủ nghĩa để
tiến tới xã hội cộng sản.)
Hai là, trong CM tư sản dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc và chống phong
kiến. (Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phải được tiến hành khắng khít không
tách rời nhau nhưng trong đó nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai (phản đế) phải đặt lên hàng đầu.)
Ba là, xác định lực lượng CM, bao gồm : giai cấp công - nông là gốc, những người yêu nước
trong các giai cấp khác là đồng minh của CM.( Đảng phải vận động, thu phục giai cấp mình để
lãnh đạo dân chúng, dựa hẳn vào dân cày nghèo, liên lạc với trung nông. Lực lượng CM bao gồm
: thứ nhất là giai cấp công - nông là gốc, là động lực của CM, thứ hai là những người yêu nước
trong các giai cấp khác là đồng minh của CM.)
Bốn là, lãnh đạo CM là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của giai cấp là Đảng CSVN.
Năm là, về phương pháp CM, Đảng chủ trương phải giành chính quyền bằng bạo lực CM. lOMoAR cPSD| 41487147
Sáu là, CM Việt Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa trên thế giới để chống
chủ nghĩa đế quốc. CM Việt Nam là một bộ phận của CM thế giới.
Từ những nội dung cơ bản trên, Đảng đã thể hiện trình độ tư duy sâu sắc và sáng tạo: vừa vận
dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào CM Việt Nam, vừa đáp ứng chính xác những yêu cầu
khách quan của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Sáng tạo trong vấn đề dân tộc, xác định thái độ với các giai cấp, liên minh giai cấp và đoàn kết
toàn dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, xác
định rõ chủ trương "Làm tư sản dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới xã hội cộng sản". Cuộc CM này
đánh đổ thực dân Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, nhân dân được
các quyền dân chủ, tự do, hạnh phúc. Đó chính là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
xuyên suốt các chủ trương đường lối CM Việt Nam từ khi Đảng ta ra đời đến nay. Trong tư tưởng lớn
đó, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ: xác định độc lập dân tộc là mục tiêu cốt tử, trực tiếp trước
mắt, là tiền đề, điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn đầu của tiến trình CM Việt Nam là cuộc
CM dân tộc dân chủ nhân dân. Sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ quan niệm lực lượng CM ở nước
ta là toàn thể nhân dân. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên trong Đảng ta nêu ra tư tưởng
cần xây dựng liên minh Công-Nông-Trí dưới sự lãnh đạo của Đảng làm nòng cốt cho lực lượng CM Việt
Nam bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nguyễn Ái Quốc đánh giá đúng tầm quan trọng của nhân tố dân tộc trong CM giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, nêu ra chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân
dân có thể đoàn kết được, có thể tạo nên sức mạnh đánh đổ đế quốc và phong kiến.
Câu 14: Trong Đại hội X (2006), ĐCSVN đã đề ra chủ trương “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”,
Anh/chị hiểu hội nhập quốc tế như thế nào? Theo Anh/Chị là sinh viên, cần phải làm gì để chủ động hội nhập quốc tế.
Hội nhập quốc tế (HNQT) là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ
với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục
tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể
giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm. HNQT theo đúng nghĩa đầy đủ là hội
nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Về bản chất, HNQT chính là một hình
thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm đạt được một mục tiêu hoặc lợi ích chung nào đó.
HNQT hiện nay là nhiệm vụ chung của cả nước, cả xã hội. HNQT toàn diện thực chất là
mở rộng các lĩnh vực hợp tác, không chỉ chính trị và kinh tế đối ngoại, mà còn bao gồm an ninh
quốc phòng, các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành như khoa học - kỹ thuật, y tế, giáo dục… lOMoAR cPSD| 41487147
Chúng ta tham gia vào môi trường quốc tế với sự chủ động trong hợp tác; tích cực trong hoạt
động và trao đổi; biết điều chỉnh linh hoạt dựa vào tình hình thực tiễn chứ không có những chủ
trương cứng nhắc và bảo thủ.
(Trong HNQT, mục tiêu cơ bản được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là nhằm củng cố môi trường
hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững,
nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc
dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần
tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.)
Cần phải làm gì để chủ động HNQT?
Một là, thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, coi đây vừa
là tiền đề, vừa là hệ quả của hội nhập kinh tế quốc tế, là giải pháp có tính quyết định để nâng
cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới
Hai là, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển nhanh và bền vững;
thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị trong tình
hình mới và thực thi các cam kết quốc tế.
Ba là, tập trung khai thác hiệu quả các cam kết quốc tế, xây dựng các cơ chế, chính sách
hợp hỗ trợ các lĩnh vực có năng lực cạnh tranh; tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ,
trình độ pháp luật quốc tế, xây dựng hàng rào kỹ thuật, biện pháp phòng vệ chủ động phù hợp.
Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực
tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động
của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc
cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Câu 15: Phân tích yếu tố thời cơ trong đường lối giành chính quyền của ĐCSĐD (1939 - 1945). Liên
hệ với việc nắm bắt thời cơ hiện nay của Việt Nam
74 năm trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
dân tộc Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám, đánh đổ thực dân, phong
kiến; thành lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một trong những yếu tố góp phần
làm nên thắng lợi to lớn là bài học về chớp thời cơ và vận dụng đúng thời cơ cách mạng.
Thứ nhất là từ sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít Nhật Bản bị thua to trên
hầu khắp các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương trong thế chiến II, nên phải gửi công hàm cho lOMoAR cPSD| 41487147
các nước Đồng minh đề nghị ngừng bắn. Bằng nhãn quan chính trị nhạy bén, tầm nhìn chiến
lược, nắm bắt thời cuộc kịp thời, Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã nhóm
họp ngay tại Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngay sau cuộc
họp, “Mệnh lệnh khởi nghĩa” đã được phát ra.
Chiều tối ngày hôm sau, 13/8/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận được thêm một
tin rất quan trọng, đó là phát xít Nhật đã bại trận và chuẩn bị đầu hàng quân Đồng minh. Ngay lập
tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc; đồng thời
soạn thảo “Quân lệnh số 1” và được phát đi ngay, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.
Ngày 14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima của
Nhật Bản, Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành
quyền độc lập đã tới”. Trên cơ sở đó, đồng chí Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Chúng ta cần tranh
thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.
Tại sao lại phải tiến hành Tổng khởi nghĩa ngay lúc đó là vì đồng chí Hồ Chí Minh và Trung
ương Đảng đã nhận định và nắm bắt được tình hình có sự chuyển biến nhanh chóng: phát xít
Nhật đã chết gục theo phát xít Đức; quân đội Nhật đã và đang tan rã, bị tước vũ khí trên khắp
các chiến trường; quân Đồng minh sắp kéo vào Đông Dương. Vì vậy nếu không khởi nghĩa giành
chính quyền từ tay quân Nhật, mà để đến khi quân Đồng minh kéo vào nhận bàn giao chính
quyền từ tay quân Nhật, thì nhân dân ta không thể tiến hành khởi nghĩa được nữa, vì lúc này
Việt Minh đang cùng phe với quân Đồng minh.
Thứ hai, sự kiện Chính phủ cách mạng lâm thời yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và tiếp nhận sự
thoái vị của nhà vua (ngày 30/8/1945 tại Huế) cũng là việc lực lượng cách mạng đã chớp thời cơ, tranh
thủ thời cơ và vận dụng đúng thời cơ. Việc vua Bảo Đại thoái vị đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền
phong kiến; đồng thời triệt tiêu một đầu mối quan trọng mà các thế lực đế quốc, phản động muốn duy
trì, sử dụng để mưu toan chống phá chính quyền cách mạng, đặt lại ách thống trị trên đất nước ta.
Thứ ba, sự kiện ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn
Độc lập” tuyên bố với toàn thể nhân dân Việt Nam và với thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, độc lập và tự do đã ra đời; Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã
chính thức ra mắt trước quốc dân đồng bào. Nếu chậm trễ không tuyên bố độc lập, chủ quyền trước
khi quân Đồng minh tiến vào thì dù có cướp được chính quyền cũng phải bàn giao lại cho quân
Đồng minh tiếp quản. Vì vậy, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chớp thời cơ, khẩn trương chỉ đạo
sớm tiến hành tổ chức Lễ Độc lập liền sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành
công trên cả nước chính là nhằm ngay lập tức khẳng định chủ quyền của nhân dân Việt Nam trước
các thế lực đế quốc, phản động đội lốt dưới danh nghĩa quân Đồng minh. lOMoAR cPSD| 41487147
Có thể khẳng định, thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng
Tám: Ðảng ta đã chọn đúng thời cơ "nổ ra đúng lúc". Ðó là lúc 16 nghìn quân Anh chưa vào
miền nam và 200 nghìn quân Tưởng chưa vào miền bắc để giải giáp quân Nhật; cũng là lúc
quân Nhật bại trận mất tinh thần, ngồi chờ Ðồng minh đến tước vũ khí; ngụy quyền tay sai bỏ
trốn hoặc đầu hàng chính quyền cách mạng. Chọn đúng thời cơ là một khoa học, là một nghệ
thuật, nhờ thế sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, tiến tới khởi nghĩa giành chính
quyền trong cả nước một cách nhanh, gọn, không đổ máu và thành công triệt để.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 chứng tỏ, Ðảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh có tầm nhìn vượt trước thời gian, xác định đúng thời cơ, cho nên đã chuẩn bị tốt lực lượng,
sẵn sàng chủ động, chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi.
Ðây là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và cách mạng, khôn
khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi. Hiện nay:
Thời gian qua, toàn cầu hóa và xu hướng hội nhập quốc tế là một diễn biến khách quan mang tính
tất yếu. Đảng ta đã biến nó thành cơ hội khi chuẩn bị một tâm thế sẵn sàng hội nhập, bắt đầu từ kinh
tế, rồi dần là văn hóa, thể thao… cho đến chính trị. Việt Nam đã gia nhập ASEAN, trở thành thành
viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ứng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên
hiệp quốc… Vị thế, vai trò và uy tín của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Hiện nay, dịch Covid-19 đã và đang gây nhiều thiệt hại cho nền kinh tế thế giới nhưng cũng có thể tạo
ra một số cơ hội. Cùng với sự tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, nhiều nhà đầu tư nước
ngoài đã có sự chuyển dịch địa bàn đầu tư và quy mô đầu tư, họ đã và đang chọn điểm đến là Việt Nam.
Nước ta có thể nắm bắt cơ hội này để thúc đẩy phát triển đất nước trên tinh thần chuẩn bị các điều kiện
cần thiết và hấp dẫn để “lót ổ đón đại bàng” như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển kinh tế
tổng quát của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư duy lý luận và tổng
kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan, những nội dung và đặc trưng
cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế ở nước ta.
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng XHCN thực chất là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được bắt đầu từ Đại hội
Đảng VI (1986) và ngày càng được hoàn thiện. Thực tế 20 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô
hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con đường lOMoAR cPSD| 41487147
phát triển kinh tế có hiệu quả, từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa
đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật khách quan và kịp thời
tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam.
Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: "... thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa".
Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta lựa chọn
đó là CNXH và để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường. Nhận thức về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta được Đảng khẳng định trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) với 6 đặc trưng cơ bản và đến nay
Đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản là:
- Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Do nhân dân làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Vị thế
nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất
nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp. lOMoAR cPSD| 41487147
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn phù hợp với
quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị trường là một phạm
trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những quy luật riêng vốn có của nó
dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế không có một nền
kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà gắn với mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ thể.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế thị
trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó là sự
phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa quy định.
Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ quá độ lên
CNXH. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản
lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng
kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.