Ôn tập cuối kì - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Triết học ra đời khoảng thế kỷ VIII-VI Tr.CN, ở cả Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạpcổ đại. Theo gốc từ trong tiếng Hán, triết học là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là sựhiểu biết sâu sắc của con người, đi đến chân lý của sự vật. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TÀI LIỆU HỌC TẬP
HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Chương 1. Khái luận về Triết học và Triết học Mác – Lênin
1. Khái lược về triết học
1.1. Triết học là gì
Triết học ra đời khoảng thế kỷ VIII-VI Tr.CN, ở cả Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp
cổ đại. Theo gốc từ trong tiếng Hán, triết học sự truy tìm bản chất của đối tượng, là s
hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến chân lý của sự vật.
Theo người Ấn Độ, triết học là Dárshana, nghĩa là sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí,
là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Theo tiếng Hy Lạp cổ, thuật
ngữ triết học được kết hợp từ hai từ: “philos - tình yêu” và “sophia - sự thông thái”. Theo
nghĩa đen, triết học tình yêu đối với sự thông thái. Như vậy, phương Đông hay
phương Tây, ngay từ khi mới ra đời, thì triết học đều được coi là đỉnh cao của trí tuệ, là sự
nhận thức sâu sắc về thế giới, đi sâu nắm bắt được chân lý, quy luật, bản chất của sự vật.
Khác với thần thoại chủ yếu những quan niệm tưởng tượng hoang đường về thế giới;
khác với tôn giáosự phản ánh thế giới một cách hư ảo, triết học phản ánh thế giới một
cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất, những quy luật chung nhất của thế
giới như một chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ thống dưới dạng lý luận. Do
vậy, thể hiểu triết học hệ thống các quan điểm luận chung nhất về thế giới như
một chỉnh thể, về con người, duy của con người cũng như vị trí của con người trong
thế giới đó.
1.2. Nguồn gốc ra đời của triết học
Triết học ra đời do hai nguồn gốc là nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc nhận thức
Triết học ra đời khi bộ óc con người phát triển, đạt đến trình độ thể khái quá
hóa, trừu tượng hóa các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh bằng các khái niệm,
phạm trù, nguyên lý. Bởi lẽ, duy triết học là tư duy bằng khái niệm, phạm trù, nguyên
lý. Khi con người chưa thể khái quát hóa, trừu tượng hóa sự vật, hiện tượng bằng các khái
niệm, phạm trù, nguyên thì chưa thể triết học. Quá trình nhận thức thế giới bên
ngoài, quá trình thâm nhập vào bản chất các sự vật được thể hiện trong việc con người
nhờ tư duy trừu tượng mà hình thành các khái niệm, các phạm trù triết học.
Nguồn gốc xã hội
Triết học chỉ ra đời khi trong xã hội có sự phân công lao động xã hội, đã có sự tách
lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay. Trên cơ sở đó hình thành tầng lớp trí thức, trong
đó các nhà triết học, những người chuyên lao động trí óc, làm công việc sáng tạo tri
thức, khái quát quá trình nhận thức của mình về thế giới.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
2.1. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Trong tác phẩm Lút-vích Phoi-ơ-bắc sự cáo chung của triết học cổ điển Đức,
Ph.Ăngghen đã nêu: “Vấn đề bản lớn của mọi triết học, đặc biệt của triết học hiện
đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại” . Mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại được
1
biểu hiện cụ thể ra thành mối quan hệ giữa với . Mối quan hệ này đượcvật chất ý thức
coi là vấn đề cơ bản của triết học
Bởi vì:
- Vật chất ý thức hai hiện tượng rộng lớn nhất trong tất cả những hiện tượng
của thế giới.
- Đây là vấn đề xuyên suốt trong mọi hệ thống triết học.
- Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất ý thức để phân định lập
trường triết học của các trường phái, các khuynh hướng, các hình thức của triết học (Tính
đảng trong triết học là gì?)
Một hệ thống triết học mang tính triệt để khi đứng hẳn trên lập trường của một
trong hai trường phái chính của triết học là chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm được
gọi là tính đảng trong triết học. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, “triết học hiện đại cũng có tính
đảng như triết học hàng nghìn năm về trước”).
1 C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t.21, tr.403.
Vấn đề cơ bản của triết học bao gồm hai mặt (thống nhất với nhau):
Mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan hệ giữa duy
tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái
nào?
Mặt thứ hai, (mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận thức
thế giới hay không?
Việc giải quyết vấn hai mặt vấn đề bản của triết học xuất phát điểm của các
trường phái lớn: ; .chủ nghĩa duy tâm chủ nghĩa duy vật khả tri luận bất khả tri luận
Ngoài ra còn có chủ nghĩa nhị nguyên hoài nghi luận.
Chủ nghĩa duy vật trường phái triết học xuất phát từ quan điểm: bản chất của thế
giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất có trước ý thức
quyết định ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm trường phái triết học cho rằng: bản chất của thế giới tinh
thần; ý thức tính thứ nhất, vật chất tính thứ hai; ý thức trước quyết định vật
chất.
Chủ nghĩa duy tâm có hai trào hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm khách quan
chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý thức nhưng
tinh thần, ý thức đó được quan niệm tinh thần khách quan, ý thức khách quantrước
tồn tại độc lập với giới tự nhiên con người. Những đại biểu của trào lưu này
Platon, Hegel, Thomas Aquinas…
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, khẳng
định ý thức quyết định vật chất, vật chất không tồn tại độc lập phụ thuộc vào cảm
giác, ý thức. Những đại biểu của trào lưu này G.Berkeley, D.Hume, I. Kant, B.
Russell...
Ngoài sự phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, người ta còn phân biệt:
Thuyết nhất nguyên (monism, xuất phát từ tiếng Hy Lạp, monos - một, duy nhất)
khuynh hướng triết học cho rằng thế giới chỉ một bản nguyên duy nhất, hoặc vật
chất hoặc là tinh thần. Tùy theo quan niệm cho rằng vật chất hay tinh thần thực thể của
thế giới mà thuyết nhất nguyên có hai hình thức tương ứng: thuyết nhất nguyên duy vật
thuyết nhất nguyên duy tâm.
Thuyết nhị nguyên
*
(dualism, tiếng latin dualis - có hai mặt) cho rằng có hai thực thể
vật chất và ý thức song song tồn tại, không phụ thuộc lẫn nhau.
Thuyết đa nguyên (pluralism, tiếng latin pluralis - nhiều) khuynh hướng triết học
cho rằng có nhiều cơ sở, nhiều bản nguyên của tồn tại, chúng không phụ thuộc lẫn nhau.
Trong việc giải quyết mặt thứ hai vấn đề bản của triết học hai khuynh hướng
đối lập nhau là . thuyết khả tri thuyết bất khả tri
- Đa số các nhà triết học khẳng định rằng con người khả năng nhận thức được
thế giới, có khả năng đạt được chân lý khách quan.
- Một số các nhà triết học phủ nhận một phần hay toàn bộ khả năng nhận thức của
con người. Những nhà triết học này thuộc thuyết (agnoticism xuất phát từ tiếngbất khả tri
Hy lạp agnotos có nghĩa là không thể nhận thức được). Đại biểu của khuynh hướng này
D.Hium, I.Cantơ…
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật tồn tại và phát triển có nguồn gốc
từ sự phát triển của khoa học thực tiễn, đồng thời thường gắn với lợi ích của giai cấp
lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Chủ nghĩa duy vật không chỉ tổng kết, khái quát kinh
nghiệm và thành tựu con người đạt được còn định hướng cho hoạt động thực tiễn
của con người.
2.2. Biện chứng và siêu hình
Trong triết học hai phương pháp nhận thức đối lập nhau phương pháp biện
chứng và phương pháp siêu hình.
Phương pháp siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái cô lập, tĩnh
tại, bất biến, đứng im, nghĩa là, “chỉ nhìn thấy những vật riêng biệtkhông nhìn thấy
mối liên hệ qua lại giữa những vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những vật ấy mà không
nhìn thấy sự phát sinh sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh
của những sự vật ấyquên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây
không thấy rừng” .
3
*
*
Thuyết nhị nguyên ở đây được hiểu theo nghĩa là nhị nguyên về mặt bản thể.
Ngược lại, phương pháp biện chứng xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên
hệ, vận động, biến đổi, phát triển, tức không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật còn
thấy cả sự sinh thành tiêu vong của sự vật, không chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh
của sự vật còn thấy cả trạng thái động của sự vật. Như vậy, phương pháp biện
chứng phương pháp xem xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, trong trạng
thái vận động, biến đổi không ngừng với một tư duy mềm dẻo, linh hoạt, "không chỉ nhìn
thấy những sự vật cá biệt còn thấy cả mối liên hệ giữa chúng, không chỉ nhìn thấy sự
tồn tại của sự vật còn thấy cả sự sinh thành tiêu vong của sự vật, không chỉ nhìn
thấy trạng thái tĩnh… còn thấy cả trạng thái động của sự vật, không chỉ thấy cây
còn thấy cả rừng". Do đó, phương pháp biện chứng là phương pháp khoa học, mềm dẻo,
linh hoạt, cho phép con người phản ánh đúng bản chất của sự vật, hiện tượng.
Các hình thức cơ bản của phép biện chứng trong lịch sử
Thứ nhất phép biện chứng tự phát thời cổ đại, hình thức đầu tiên của phép biện
chứng trong lịch sử triết học. Tiêu biểu cho tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc
là thuyết âm - dương và “ngũ hành luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến
đổi của các yếu tố bản thể trong vũ trụ). Trong triết học Ấn Độ, tư tưởng biện chứng biểu
hiện nét nhất triết học Phật Giáo với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “nhân
duyên tương lục”. Đặc biệt, trong nhiều học thuyết của triết học Hy Lạp cổ đại, các nhà tư
tưởng đã thấy rằng, các sự vật của thế giới xung quanh ta mối liên hệ tác động qua
lại lẫn nhau, làm cho mọi sự vật, hiện tượng luôn trong quá trình vận động, biến hóa, sinh
thành và tiêu vong. Nhìn chung, do chưa đạt đến trình độ đi sâu phân tích thế giới nên các
nhà biện chứng cổ đại nói chung chưa chỉ ra được nguồn gốc, bản chất của mối liên hệ, sự
vận động biến đổi của mọi sự vật, hiện tượng. Cách xem xét thế giới như vậy, theo
Ph.Ăngghen còn mang tính ngây thơ, chất phác.vậy, phép biện chứng thời cổ đại còn
hạn chế.
Thứ hai, phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Hêghen cho rằng, tồn tại “ý
niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới” luôn trong quá trình vận động, biến đổi, phát
triển. Trong quá trình phát triển ấy, ý niệm tuyệt đối “tự tha hóa”, chuyển hóa thành giới
tự nhiên và sau đó lại “tha hóa” trở về với bản thân mình dưới dạng tinh thần. Hêghen đã
xây dựng phép biện chứng của thế giới bên ngoài, nhưng thế giới này do “ý niệm tuyệt
đối” tha hóa thành.vậy, Hêghen sự phát triển biện chứng của thế giới bên ngoài
chỉ sự sao chép lại quá trình vận động của “ý niệm tuyệt đối” thôi phép biện
chứng của ông là phép biện chứng duy tâm.
Thứ ba, phép biện chứng duy vật do C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập V.I.Lênin bổ
sung, phát triển. Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin được xác lập trên
nền tảng của thế giới quan duy vật biện chứng vàsự thống nhất giữa nội dung thế giới
quan (duy vật biện chứng) phương pháp luận (biện chứng duy vật), vậy không
chỉ giải thích thế giới mà còn là công cụ để cải tạo thế giới. Nói khác đi, phép biện chứng
duy vật sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật phương pháp luận biện chứng,
giữa lý luận khoa học và thực tiễn.
3. Triết học Mác Lênin vai trò của triết học Mác Lênin trong đời sống
xã hội và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3.1. Khái lược sự ra đời và phát triển của triết học Mác-Lênin
Những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
Chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng ra đời vào những năm 40 của
thế kỷ XIX. Lúc bấy giờ, chủ nghĩa bản châu Âu đang trên đà phát triển mạnh mẽ.
Anh Pháp bản đã hoàn thành cách mạng công nghiệp. Nước Đức, mặc còn
nước quân chủ phong kiến nhưng bước phát triển vượt bậc về kinh tế, nhất trong
lĩnh vực công nghiệp. Chính sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của chủ nghĩa bản đã
làm bộc lộ những mâu thuẫn vốn có của nó, đặt ra những vấn đề đòi hỏi các nhà tưởng
của thời đại phải trả lời.
Trong đó, có cách trả lời, tiếp cận của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất bản chủ nghĩa đã tạo ra những
điều kiện vật chất, kỹ thuật cho việc thực hiện những tưởng của chủ nghĩa hội, làm
sở khắc phục tính không tưởng của những tưởng hội chủ nghĩa không tưởng
trước đó, thúc đẩy sự ra đời của triết học Mác.
Sự phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho giai
cấp sản phát triển không chỉ về số lượngcả về chất lượng. Trong những năm 30 -
40 của thế kỷ XIX, ở Anh, Pháp, Đức đã nổ ra nhiều cuộc đấu tranh quy mô lớn, tính
chất giai cấp như phong trào Hiến chương Anh (vào những năm 30); khởi nghĩa của
công nhân thành phố Lyông của Pháp (1831, 1834); khởi nghĩa của công nhân thành
phố Xilêdi của Đức 91844),v.v.. Những cuộc đấu tranh này của giai cấp công nhân đòi hỏi
phải một luận khoa học, cách mạng dẫn đường. Trong khi ấy, nhiều trào lưu
tưởng phi khoa học như chủ nghĩahội “chân chính” lại tìm cách len lỏi vào phong trào
công nhân. Đã vậy, vào thời điểm này giai cấp sản đã bộc lộ tính chất phản động về
mặt lịch sử, không còn đại diện cho sự tiến bộ của lịch sử nữa. Chính những điều này
thúc đẩy cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Tiền đề khoa học
Cuối thế kỷ XIX khoa học tự nhiên đã có bước phát triển vượt bậc về chất, chuyển
từ trình độ thực nghiệm lên trình độ luận. Nhiều phát minh khoa học mang tính vạch
thời đại xuất hiện, đặc biệt củaĐịnh luật bảo toàn chuyển hóa năng lượng
G.R.Mayơ (1814-1878); của S.R.ĐácuynThuyết tiến hóa
(1809-1882); của M.G.Sleđen (1804-1892) và T.Svanơ (18101882). NhữngThuyết tế bào
phát minh khoa học này không chỉ làm bộc lộ tính hạn chế của phương pháp duy
siêu hình trong nhận thức thế giới, còn tạo ra cơ sở khoa học để khắc phục phương
pháp duy siêu hình. Đồng thời, chúng cũng cung cấp những sở khoa học cho
phương pháp duy biện chứng quan niệm duy vật biện chứng về tự nhiên, hội ra
đời, phát triển.
Đánh giá về vai trò, ý nghĩa của những phát minh khoa học thời kỳ này đối với sự
hình thành phương pháp tư duy biện chứng, Ph.Ăngghen viết: “Quan niệm mới về giới tự
nhiên đã được hoàn thành trên những nétbản: tất cả cái cứng nhắc đều bị tan ra, tất
cả cái cố định đều biến thành mây khói;... người ta đã chứng minh rằng toàn bộ
giới tự nhiên đều vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu” . Những phát minh
2
khoa học tự nhiên này đã những sở, tiền đề khoa học trực tiếp cho sự ra đời chủ
nghĩa Mác nói chung, thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng duy vật của triết
học Mác nói riêng.
2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.20, tr.471.
5
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1980, t.23, tr.49-50.
Tiền đề lý luận
Học thuyết của C.Mác “ra đời sự thẳng trực tiếp những học thuyếtthừa kế
của những đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học trong chủ
nghĩa hội” . Trong đó, triết học Mác ra đời sự kế thừa toàn bộ thành tựu lịch sử
5
tưởng triết học nhân loại, nhưng trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức.
Với triết học của Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa tư tưởng biện chứng,
đồng thời gạt bỏ cái vỏ duy tâm, thần của phép biện chứng ấy và đặt phép biện chứng
ấy trên nền thế giới quan duy vật. Còn thế giới quan duy vật được ông Ph.Ăngghen
làm giàu bằng phương pháp biện chứng. Chính C.Mác đã khẳng định: “Phương pháp biện
chứng của tôi không những khác phương pháp của Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn
với phương pháp ấy nữa” .
3
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng kế thừa những giá trị trong triết học duy vật nhân bản
của Phoiơbắc, vận dụng chủ nghĩa duy vật này để khắc phục chủ nghĩa duy tâm của
Hêghen. Đồng thời, C.Mác Ph.Ăngghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc,
khắc phục tính chất siêu hình, máy móc, trực quan, không triệt để của nó. Trên sở đó,
C.Mác Ph.Ăngghen đã làm giàu chủ nghĩa duy vật bằng phép biện chứng, còn phép
biện chứng được hai ông đặt trên nền thế giới quan duy vật. Cả chủ nghĩa duy vật, cả
phép biện chứng đều được C.MácPh.Ăngghen phát triển lên một trình độ mới về chất
so với trước đó. Trong triết học Mác, chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy vật biện chứng,
còn phép biện chứng phép biện chứng duy vật. Không những vậy, chủ nghĩa duy vật
của
C.Mác Ph.Ăngghen còn chủ nghĩa duy vật triệt để so với chủ nghĩa duy vật không
triệt để của Phoiơbắc. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác Ph.Ăngghen đã giải thích một
cách duy vật không chỉ thế giới tự nhiên mà cả xã hội, lịch sử loài người.
Ngoài ra, C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa có chọn lọc tư tưởng kinh tế chính trị hợp
của A.Xmít Đ.Ricácđô; tưởng chủ nghĩa hội không tưởng của XanhXimông,
S.Phuriê R.Ôoen để xây dựng nên những tưởng triết học duy vật biện chứng của
mình.
3 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.23, tr.35.
Nhân tố chủ quan của C.Mác và Ph.Ăngghen
Triết học Mác ra đời ngoài những điều kiện kinh tế, chính trị, hội, tiền đề khoa
học và tiền đề luận còn có những điều kiện chủ quan. Đó là những nhân tố thuộc về
nhân của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Các Mác (5.5.1818 - 14.3.1883), tên đầy đủ Karl Henrich Marx sinh tại
Triơ (Trier), tỉnh Ranh nước Đức trong một gia đình lao động. Ngay từ nhỏ C.Mác đã
nhận được sự giáo dục tốt từ gia đình và chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần nhân đạo, yêu
thương con người, yêu tự do, niềm say nghiên cứu khoa học. Lớn lên ông chịu nh
hưởng tư tưởng dân chủ cách mạng của cuộc cách mạngsản Pháp 1789 và sớm có ước
giải phóng con người khỏi mọi hình thức dịch, áp bức, bất công. Ông tốt nghiệp
Đại học Tổng hợp Béclin ngành triết học được công nhận tiến triết học năm 1841
bằng công trình tự nghiên cứu của mình. Những đức tính, phẩm chất, tố chất ấy đã góp
phần quan trọng trong việc hình thành nên học thuyết triết học duy vật, biện chứng, nhân
đạo vĩ đại mang tên C.Mác.
Phridrich Ăngghen (Fridric Engels), sinh 28.11.1820 tại Bácmen nước Đức, mất
ngày 5 tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn nước Anh. Ph.Ăngghen sinh ra trong một gia đình
chủ xưởng dệt. Ông không hội tốt nghiệp trung học gia đình bắt phải học nghề
kinh doanh từ rất sớm phải tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên, ông
người thông minh, chăm chỉ, cần tự học tích cực nghe dự thính các bài giảng của
các giáo sư triết học đương thời. Cũng giống C.Mác ông có tố chất thông minh và rất yêu
thương người lao động, từ nhỏ ông đã căm ghét sự chuyên chế, độc đoán nhà nước phong
kiến Phổ. Ông hội tham gia phong trào Hiến chương, làm việc, tiếp xúc với đời
sống giai cấp công nhân Anh. Điều này đã giúp Ph.Ăngghen sớm nhận ra tính chất thần bí
của triết học Hêghen; hiểu, thông cảm với cuộc sống vất vả của những người công nhân.
Cũng chính sự tham gia vào đời sống công nhân đã làm nảy sinh tinh thần dân chủ cách
mạng, tưởng thần, tình yêu thương, sự đồng cảm với người công nhân mong
muốn giải phóng công nhân khỏi nô dịch, áp bức, bóc lột.
Chính tình yêu thương những người công nhân, những người lao động, tinh thần
hy sinh không mệt mỏi sự nghiệp giải phóng những người lao động, niềm tin sâu sắc
vào lý tưởng cách mạng của giai cấp công nhân, cùng sự thông minh, trí tuệ uyên bác của
C.Mác Ph.Ăngghen những nhân tố chủ quan đóng vai trò quan trọng nhất cho sự
hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
3.2. V.I.Lênin phát triển triết học Mác
Hoàn cảnh V.I.Lênin phát triển triết học Mác
Về điều kiện chính trị-xã hội, vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ
nghĩa tư bản phát triển, chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhưng bản chất bóc lột,
ăn bám của chúng không đổi. Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản càng gay gắt. Các
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Nga nổ ra nhiều hơn, đặc biệt cách mạng dân
chủ sản (1905-1907); cách mạng sản tháng Hai 1917 đỉnh cao cách mạng
hội chủ nghĩa tháng Mười 1917. Lúc bấy giờ, chủ nghĩa Mác được truyền rộng rãi
Nga, nhưng xuất hiện đủ các loại trào lưu tư tưởng phản động như chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán; chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa dân túy... muốn thay thế chủ
nghĩa Mác.
Về khoa học tự nhiên, cuối XIX đầu XX đạt được những thành tựu mới, đặc biệt là
vật học, đi sâu nghiên cứu thế giới vi mô, phát hiện ra các dạng vật chất mới như các
tia, các hạt, trường, sóng,v.v.. Những phát minh của vật lý này đã làm cho quan niệm siêu
hình đồng nhất vật chất với nguyên tử không còn căn cứ khoa học nữa.Trong bối cảnh ấy,
một số nhà khoa học tự nhiên đã cho rằng “vật chất biến mất, vật chát tiêu tan”, rơi vào
duy tâm, tạo ra cuộc khủng hoảng trong vật học. Tất cả những điều kiện này đã thôi
thúc V.I.Lênin bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Những nội dung chủ yếu V.I.Lênin bổ sung, phát triển triết học Mác
V.I.Lênin đóng góp vào triêt học Mác, thể chia làm ba thời kỳ, đáp ứng ba nhu
cầu cơ bản của thực tiễn: thời kỳ từ 1893 - 1907; thời kỳ từ 1907 - 1917; thời kỳ sau cách
mạng Tháng Mười.
Thời kỳ đầu 1893- 1907 là những năm V.I.Lênin tập trung chống phái dân túy Nga,
vạch trần bản chất tư sản, phản động của phái dân túy Nga, bảo vệ lý luận hình thái kinh
tế-xã hội của Mác.
Thời kỳ những năm 1907 - 1917, V.I.Lênin đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm chủ
quan của phái Makhơ, đưa ra định nghĩa nổi tiếng về vật chất cùng các nguyên tắc của
luận nhận thức duy vật biện chứng, đồng thời kiên quyết
đấu tranh chống lại chủ nghĩa cơ hội, xét lại.
Thời kỳ sau cách mạng Tháng Mười (1917), V.I.Lênin tiếp tục đấu tranh chống
bệnh ấu trĩ “tả khuynh” cùng các trào lưu tưởng sai lầm khác; bàn về những vấn đề
biện chứng của quá trình xây dựng chủ nghĩa hội hiện thực; thực hiện chính sách kinh
tế mới; về bản chất chủ nghĩa đế quốc; về nhà nước cách mạng; v.v.. Chính những
đóng góp to lớn của V.I.Lênin vào sự phát triển luận của triết học Mác một giai
đoạn mới trong sự phát triển của triết học Mác được gắn với tên tuổi của Người, đó là triết
học Mác-Lênin.
3.3. Vai trò của triết học Mác Lênin trong đời sống hội snghiệp đổi
mới ở Việt Nam hiện nay
Vai trò thế giới quan và phương pháp luận
Vai trò thế giới quan
Thế giới quan, theo nghĩa hẹp, quan niệm hay hệ thống quan niệm của con
người về thế giới. Quan niệm hay hệ thống quan niệm này cũng không phải nhất thành bất
biến thay đổi theo điều kiện lịch sử - hội cụ thể, phụ thuộc vào trình độ nhận
thức và hoạt động cải tạo thế giới của con người. Nhưng thế giới quan không tách rời con
người. Bởi vậy, theo nghĩa rộng, thế giới quan hệ thống những quan niệm của con
người về thế giới; về vị trí của con người trong thế giới đó, về chính bản thân cuộc sống
của con người và loài người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống con người
hội loài người. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, nghĩa là triết học quan niệm
về thế giới bằng hệ thống luận của mình. Thế giới quan triết học Mác-Lênin quan
niệm duy vật, biện chứng, khoa học về thế giới, về lịch sử, hội về duy của con
người. Do vậy, thế giới quan triết học MácLênin có vai trò định hướng đúng đắn cho hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nghĩa là, trên cơ sở quan niệm của
thế giới quan triết học Mác-Lênin về thế giới này mà con người sẽ định hướng đúng đắn
cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình. Chẳng hạn, nếu một người
quan niệm duy vật biện chứng về thế giới thì trong nhận thức cũng như hoạt động thực
tiễn, anh ta sẽ hành động theo tinh thần duy vật, biện chứng. Ngược lại, nếu anh ta có thế
giới quan duy tâm về thế giới thì trong nhận thức hoạt động thực tiễn, anh ta sẽ thực
hiện theo tinh thần duy tâm. Trong triết học có hai thế giới quan cơ bản đối lập nhau là thế
giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Thế giới quan triết học Mác-Lênin là đỉnh cao
của thế giới quan duy vật và tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực, đúng đắn.
Vai trò phương pháp luận
Phương pháp ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của con người, làm tăng
hiệu quả hoạt động của con người, làm cho hoạt động của con người mang tính sáng tạo,
tích cực, tự giác và hiệu quả.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng phương pháp những nguyên tắc do trí con người
tự ý đặt ra để tiện cho nhận thức hoạt động thực tiễn. Theo quan niệm này, phương
pháp là phạm trù thuần tuý chủ quan, không phụ thuộc vào
đối tượng nhận thức và đối tượng tác động của con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định phương pháp những nguyên tắc
do con người đặt ra dùng để điều chỉnh hoạt động của mình nhằm đạt mục đích nhất
định, nhưng không phải đặt ra một cách hoàn toàn chủ quan, tuỳ tiện, cũng không phải
những nguyên tắc sẵn bất biến. Phương pháp phụ thuộc vào đối tượng nghiên cứu
đối tượng tác động, phụ thuộc vào mục đích đặt ra của chủ thể. Đối tượng tác động
mục đích của con người không phải do con người tạo ra theo ý muốn chủ quan thuần tuý
của mình. Muốn tiếp cận đối tượng và giải quyết nhiệm vụ đặt ra, chủ thể phải nghiên cứu
đối tượng mục đích cần đạt tới một cách khách quan. Nghĩa là phải vạch rõ đối tượng
tính chất gì, các yếu tố cấu thành nên đối tượng, giới hạn tồn tại của đối tượng gì,
v.v.. Từ đó chủ thể nhận thức rõ những quy luật tồn tại và biến đổi của đối tượng. Chỉ trên
sở đó chủ thể mới xác định được phải nghiên cứu hành động như thế nào cần
phải sử dụng những phương tiện, công cụ biện pháp cho thích hợp, cũng như cần
phải kết hợp các yếu tố đã cho theo một trình tự như thế nào cho hợpđể đạt được mục
đích tối ưu.
Theo triết học Mác-Lênin, phương pháp những cách thức, con đường thực hiện
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt mục đích đã đặt ra một cách tối ưu
nhất. Phương pháp một trong những yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại đối
với hoạt động của con người. Nếu với những điều kiện khách quan nhất định như nhau,
phương pháp phù hợp thì kết quả đạt được càng cao và ngược lại phương pháp không phù
hợp có thể không đưa đến kết quả như mong muốn, hoặc hiệu quả công việc không cao.
Phương pháp luận. Trên thực tế, để giải quyết một công việc đã định người ta
thể dùng nhiều phương pháp khác nhau. Trong các phương pháp đó có phương pháp thích
hợp đưa lại hiệu quả cao, cũng phương pháp không thích hợp, đưa lại hiệu quả thấp.
Làm thế nào để chọn được một phương pháp thích hợp nhất trong số rất nhiều phương
pháp thể sử dụng? Trả lời cho vấn đề này làm nảy sinh nhu cầu tri thức về phương
pháp. Từ nhu cầu tri thức về phương pháp đưa đến sự ra đời khoa học luận về
phương pháp. Đó chính phương pháp luận. Theo triết học Mác-Lênin, phương pháp
luận luận về phương pháp, hệ thống quan điểm, nguyên tắc xác định phương
pháp, phạm vi ứng dụng phương pháp, lựa chọn phương pháp, v.v.. cho hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người một cách tối ưu nhất. Triết học Mác-Lênin với
các nguyên tắc phương pháp luận của mình như nguyên tắc khách quan, toàn diện, phát
triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn vai trò phương pháp luận rất to lớn đối với hoạt động
nhận thức và hoạt động hực tiễn của con người.
Triết học Mác-Lênin với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
Chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác-Lênin nói riêng đã, đang kim
chỉ nam cho cách mạng Việt Nam không chỉ trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại
xâm, giải phóng dân tộc còn cả trong công cuộc đổi mới hiện nay. Triết học Mác-
Lênin chỉ ra rằng thực tiễn xây dựng chủ nghĩa hội đã làm nảy sinh hàng loạt vấn đề
không thể tìm lời giải sẵn trong di sản kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin,
Hồ Chí Minh. Do vậy, trên cơ sở kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì
chúng ta phải tổng kết thực tiễn để vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin, tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ trên sở đó, chúng ta mới thực hiện đổi mới chủ
nghĩa hội thành công. Thực tiễn đã cho thấy sự lạc hậu của nhận thức luận về chủ
nghĩa hội không chỉ sự lỗi thời của những hiểu sai, làm sai với lý luận của các nhà
kinh điển Mác-Lênin mà còn là lý luận không được vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo
phù hợp yêu cầu của thực tiễn. Do vậy, trong đổi mới phải nắm vững phương pháp luận
khoa học của triết học Mác-Lênin như một tiền đề quan trọng để đổi mới duy
luận về chủ nghĩa hội; giúp hiểu đúng quan niệm của các nhà kinh điển Mác-Lênin về
chủ nghĩa hội, khắc phục những sai lầm trong nhận thức luận về chủ nghĩa hội;
đòi hỏi chúng ta dám từ bỏ cả những kết luận của chính mình nếu chúng không còn phù
hợp, và phát triển bổ sung luận trong tình hình mới, như chính C.Mác, Ph.Ăngghen
V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã thực hiện. Chính vì vậy, Đảng ta đã khẳng định "tiến hành đổi
mới xuất phát từ thực tiễn cuộc sống của hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt
của thế giới, không sao chép bất cứ một hình sẵn nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ
triệt để với những bước đi, hình thức cách làm phù hợp" . Cũng chính vậy
4
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định quan điểm chỉ đạo thứ nhất đối với qúa trình tiếp
tục đổi mới “Kiên định vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa hội; kiên định
đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa” .
5
4 Ðảng Cộng sản Việt Nam: , Nxb CTQG - ST, H.,2001, tr.81. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập1, NxbCTQGST, H;2021; tr.109.
Chương 2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
1. Vật chất; phương thức và các hình thức tồn tại của vật chất
1.1. Vật chất
* Khái quát các quan niệm triết học trước Mác về vật chất
Vật chất với cách phạm trù triết học đã lịch sử phát triển trên 2500 năm
có quá trình phát triển gắn liền với thực tiễn và nhận thức của con người:
Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm (khách quan và chủ quan)
Quan niệm bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại là tinh thần, còn vật
chất sản phẩm của bản nguyên tinh thần ấy. Chủ nghĩa duy tâm phủ nhận vật chất với
tính cách là thực thể, cho rằng thế giới vật chất là tạo vật của Thượng đế, hoặc là “sự phức
hợp” những cảm giác của con người.
Chủ nghĩa duy vật cổ đại:
- Đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể của vật chất. Thí dụ: nước (quan
niệm của Thales); không khí (Anaximen); lửa (Heraclitus); nguyên tử (Democritus); đất,
nước, lửa, gió (triết học Ấn Độ); kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (Thuyết ngũ hành Trung
Quốc).
- Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại quan niệm của trường phái Nguyên tử
luận (cho rằng nguyên tử thành tố nhỏ nhất tạo nên thế giới vật chất đa dạng, phong
phú)
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIIII:
- Chịu ảnh hưởng từ cơ học cổ điển của Newton, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này có
khuynh hướng đồng nhất vật chất với một số thuộc tính của vật chất như khối lượng,
quảng tính.
- Tiếp tục khẳng định nguyên tử thành tố nhỏ nhất của thế giới vật chất (điều
các nhà triết học nguyên tử thời cổ đại đã phỏng đoán).
Tóm lại, các nhà triết học trước Mác đều không trả lời được câu hỏi, bản chất của
thế giới gì? H chủ yếu nghiên cứu, tìm hiểu cấu tạo của vật chất khẳng định vật
chất là cái bất biến hoặc là cái cụ thể nào đó. Quan niệm này đã tồn tại suốt nhiều thế kỷ
trong lịch sử triết học.
* Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vật chất
- Thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người;
- Thế giới vật chất là tồn tại vĩnh viễn, vô cùng vô tận;
- Thế giới vật chất vận động, biến đổi không ngừng.
* Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất: nội dung và giá trị khoa học
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một loạt phát minh khoa học làm cho các quan
điểm duy vật siêu hình rơi vào khủng hoảng. Nhiều phát minh trong vật học thời kỳ
này đã làm đảo lộn quan niệm về vật chất, đó là: Rơnghen (Đức) phát hiện ra tia X
(1895); Antoine H. Becquerel, nhà vật lý học Pháp M.Quyri (1867-1934), phát minh ra
hiện tượng phóng xạ trong chất uranium (1896); Joseph Thomson phát hiện ra điện tử
(1897); nhà bác học Đức Kaufman phát hiện ra sự thay đổi khối lượng điện tử; thuyết
tương đối hẹp của A.Anhxtanh (1905)...
Các phát minh khoa học này gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật
học. Một số các nhà vật lý học giải thích một cách duy tâm các hiện tượng vật cho
rằng, vật chất tiêu tan. Trong hoàn cảnh đó, các nhà triết học duy tâm chủ quan lợi dụng
cơ hội này để khẳng định bản chất “phi vật chất” của thế giới, khẳng định vai trò của các
lực lượng siêu nhiên đối với quá trình sáng tạo ra thế giới, cơ sở tồn tại của chủ nghĩa duy
vật không còn nữa. Tình hình đó đòi hỏi V.I. Lênin phải đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa duy vật.
Kế thừa tưởng của C.Mác Ph.Ăngghen, trênsở khái quát những thành tựu
mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trên sở phê phán
những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật chất, trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, V.I.Lênin đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất như
sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
6
.
Phân tích định nghĩa:
Thứ nhất, cần phải phân biệt “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với những
dạng biểu hiện cụ thể của vật chất (như quan niệm về vật chất của các khoa học cụ thể ).
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng
hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn của các sự vật, hiện tượng nên phản
ánh cái chung, hạn, tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả những sự vật, hiện
tượng chỉnhững dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên quá trình phát sinh, phát
triển chuyển hóa. vậy, không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu
hiện cụ thể của vật chất.
Liên hệ luận điểm quan trọng của Ph.Ăngghen: “Vật chất, với tính ch vật
chất, một sáng tạo thuần túy của duy một sự trừu tượng. Chúng ta bỏ qua
những sự khác nhau về chất của những sự vật, khi chúng ta gộp chúng, với cách
những vật tồn tại hữu hình, vào khái niệm vật chất. Do đó, khác với những vật chất nhất
định và đang tồn tại, vật chất, với tính cách là vật chất, không có sự tồn tại cảm tính
7
.
Thứ hai, đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là , tức là thuộc tính tính khách quan
tồn tại không lệ thuộc vào ý thức con người, con người nhận thức được hay
không.
Thực tại khách quan đó chính tất cả những tồn tại bên ngoài không lệ
thuộc vào ý thức của con người. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản nhất để phân biệt cái
là vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) cái thể gây nên cảm
giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người.
Điều này khẳng định rằng, vật chất cái trước, cảm giác thức) cái có sau,
vật chất là cái đóng vai trò quyết định đến nguồn gốc và nội dung khách quan của ý thức.
Bởi thực tại khách quan đưa lại cảm giác cho con người chứ không phải cảm giác (ý thức)
sinh ra thực tại khách quan. Đến đây định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết được
6 V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t.18, tr.151.
7 C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr. 751.
mặt thứ nhất vấn đề bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
Thứ tư, vật chất được cảm giác (ý thức) chép lại, chụp lại và phản ánh.
Nghĩa là, con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện thực khách quan →
tiếp tục giải quyết được mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Điều này chứng minh rằng:
+ Vật chất không tồn tại một cáchhình, thần tồn tại một cách hiện thực,
được biểu hiện dưới các dạng svật, hiện tượng cụ thể giác quan của chúng ta thể
nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp. Do đó, về nguyên tắc không có đối tượng vật
chất không thể nhận thức được, chỉ những đối tượng vật chất chưa thể nhận thức
được mà thôi.
+ Nguồn gốc của cảm giác từ thế giới bên ngoài, khi sự vật tác động vào giác
quan của con người thì con người cảm giác về chúng. Bằng các phương pháp nhận
thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh) con người thể nhận thức được thế giới
vật chất.
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã bác bỏ thuyết không th biết, đồng thời
chỉ ra rằng, vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại kch quan bên ngoài ý thức, bất
kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
Lưu ý: Phương pháp định nghĩa mà V.I.Lênin dùng để định nghĩa vật chất là đối lập
vật chất với phạm trù ý thức, chỉ ra thuộc tính cơ bản để phân biệt vật chất với ý thức. Bởi
vì: Phạm trù vật chất phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của luận nhận thức. Do đó,
không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường chỉ thể
định nghĩa phạm trù vật chất trong mối quan hệ đối lập với nó - phạm trù ý thức.
* Giá trị khoa học của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của
chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
- Giải quyết một cách đúng đắn vấn đề bản của triết học trên lập trường của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Từ đó, tìm thấy lối thoát cho cuộc khủng hoảng về thế giới
quan trong vật lý học cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
- Định nghĩa đã khắc phục được tính trực quan, siêu hình, máy móc trong quan niệm
về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước đây, đồng thời bổ sung, phát triển tưởng của
C.Mác và Ph.Ăngghen về vật chất.
- Định nghĩa cơ sở khoa học, khí tưởng để đấu tranh chống lại chủ nghĩa
duy tâm và thuyết không thể biết dưới mọi hình thức của chúng.
- Định nghĩa đã trang bị thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn cho các nghành
khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất, tìm ra những kết cấu mới, những thuộc nh mới
và những quy luật vận động của vật chất để làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân
loại. Đồng thời có vai trò định hướng cho sự phát triển của nhận thức khoa học, giải quyết sự
khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học như giai đoạn cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ
XX.
- Định nghĩa này còn sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật biện
chứng trong lĩnh vực xã hội, đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử.
1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
* Vận động
Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu một
phương thức tồn tại của vật chất, một thuộc tính cố hữu của vật chất,- thì bao gồm tất
cả mọi sự thay đổi mọi quá trình diễn ra trong trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản
cho đến tư duy” Nghĩa là:
8
Vận động = mọi sự biến đổi nói chung.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất thể hiện ở 3 khía cạnh sau:
Thứ nhất, phương thức tổ chức vật chất với tư cách là nền tảng của mọi sự vật,
hiện tượng để tạo thành các sự vật c thể. Nghĩa nhờ vận động vật chất được tổ
chức để tạo thành sự vật xác định.
Thứ hai, phương thức bảo tồn, duy trì vật chất thông qua những sự chuyển hóa.
Nghĩa là, thông qua chuyển hóa, vận động mà vật chất được duy trì sự tồn tại.
Thứ ba, phương thức biểu hiện sự tồn tại của sự vật, nghĩa thông qua nhận
thức vận động chúng ta có thể biết được sự tồn tại của vật chất.
8 C. Mác và Ph. Ăngghen, , t. 20, tr. 519.Sđd
Ph.Ăngghen viết: “Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận
thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động; về một vật
thể không vận động thì không có gì mà nói cả” .
9
- Vận động là thuộc tính vốn có của vật chất:
Thứ nhất, vận động là cái vốn có của vật chất, gắn liền với vật chất, không do ai sinh
ra và không bao giờ bị tiêu diệt. Nói cách khác, vận động của vật chất là vận động tự thân.
+ Ph.Ăngghen viết: "Vật chất đối diện với chúng ta, như một cái gì đã có sẵn, một
cái không thể sáng tạo ra, cũng không thể tiêu diệt đi được, thì do đó thể kết luận
rằng bản thân sự vận động cũng không thể sáng tạo ra và tiêu diệt đi được... triết học đã đi
đến nhân thức ấy rất lâu trước khi nhận thức ấy được khoa học tự nhiên công nhận" .
10
+ sở khoa học tự nhiên: Vào giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã chứng
minh bằng định luật bảo toàn chuyển hóa năng lượng. Theo đó, vận động được bảo
toàn cả về mặt số lượng và chất lượng.
Nói đến tính thống nhất giữa vật chất và vận động, Lênin viết: "Thế giới là vật chất
đang vận động, hay thế giới vận động của vật chất, thì vấn đề cũng không thay
đổi cả"
11
.
Thứ hai, vận động cũng những tính chất của vật chất đó là: tính khách quan
(không lệ thuộc vào ý thức của con người), tính phổ biến (vận động tồn tại mọi sự vật,
hiện tượng), và tính đa dạng phong phú (có nhiều hình thức vận động khác nhau).
- Các hình thức vận động của vật chất:
Dựa trên những thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận
động thành 5 hình thức vận động cơ bản:
+ Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
+ Vận động vật là vận động của phân tử, của các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt,
điện, ánh sáng, âm thanh, quang phổ...
+ Vận động hóa học sự vận động của các nguyên tử; sự hóa hợp phân giải
của các chất hóa học.
9 C. Mác và Ph. Ăngghen, t. 20, tr. 743.Sđd,
10 Ph.Ăngghen, , Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 94-95.Biện chứng của tự nhiên
11 V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr.333 (tiếng Việt).
| 1/55

Preview text:

TÀI LIỆU HỌC TẬP
HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Chương 1. Khái luận về Triết học và Triết học Mác – Lênin
1. Khái lược về triết học
1.1. Triết học là gì
Triết học ra đời khoảng thế kỷ VIII-VI Tr.CN, ở cả Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp
cổ đại. Theo gốc từ trong tiếng Hán, triết học là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là sự
hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến chân lý của sự vật.
Theo người Ấn Độ, triết học là Dárshana, nghĩa là sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí,
là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Theo tiếng Hy Lạp cổ, thuật
ngữ triết học được kết hợp từ hai từ: “philos - tình yêu” và “sophia - sự thông thái”. Theo
nghĩa đen, triết học là tình yêu đối với sự thông thái. Như vậy, dù ở phương Đông hay
phương Tây, ngay từ khi mới ra đời, thì triết học đều được coi là đỉnh cao của trí tuệ, là sự
nhận thức sâu sắc về thế giới, đi sâu nắm bắt được chân lý, quy luật, bản chất của sự vật.
Khác với thần thoại chủ yếu là những quan niệm tưởng tượng hoang đường về thế giới;
khác với tôn giáo là sự phản ánh thế giới một cách hư ảo, triết học phản ánh thế giới một
cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất, những quy luật chung nhất của thế
giới như một chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ thống dưới dạng lý luận. Do
vậy, có thể hiểu triết học là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới như
một chỉnh thể, về con người, tư duy của con người cũng như vị trí của con người trong thế giới đó.
1.2. Nguồn gốc ra đời của triết học
Triết học ra đời do hai nguồn gốc là nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc nhận thức
Triết học ra đời khi bộ óc con người phát triển, đạt đến trình độ có thể khái quá
hóa, trừu tượng hóa các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh bằng các khái niệm,
phạm trù, nguyên lý. Bởi lẽ, tư duy triết học là tư duy bằng khái niệm, phạm trù, nguyên
lý. Khi con người chưa thể khái quát hóa, trừu tượng hóa sự vật, hiện tượng bằng các khái
niệm, phạm trù, nguyên lý thì chưa thể có triết học. Quá trình nhận thức thế giới bên
ngoài, quá trình thâm nhập vào bản chất các sự vật được thể hiện trong việc con người
nhờ tư duy trừu tượng mà hình thành các khái niệm, các phạm trù triết học.
Nguồn gốc xã hội
Triết học chỉ ra đời khi trong xã hội có sự phân công lao động xã hội, đã có sự tách
lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay. Trên cơ sở đó hình thành tầng lớp trí thức, trong
đó có các nhà triết học, những người chuyên lao động trí óc, làm công việc sáng tạo tri
thức, khái quát quá trình nhận thức của mình về thế giới.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
2.1. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Trong tác phẩm Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức,
Ph.Ăngghen đã nêu: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện
đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”1. Mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại được
biểu hiện cụ thể ra thành mối quan hệ giữa vật chất với ý thức. Mối quan hệ này được
coi là vấn đề cơ bản của triết học Bởi vì:
- Vật chất và ý thức là hai hiện tượng rộng lớn nhất trong tất cả những hiện tượng của thế giới.
- Đây là vấn đề xuyên suốt trong mọi hệ thống triết học.
- Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nó là cơ sơ để phân định lập
trường triết học của các trường phái, các khuynh hướng, các hình thức của triết học (Tính
đảng trong triết học là gì?)
Một hệ thống triết học mang tính triệt để khi nó đứng hẳn trên lập trường của một
trong hai trường phái chính của triết học là chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm được
gọi là tính đảng trong triết học. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, “triết học hiện đại cũng có tính
đảng như triết học hàng nghìn năm về trước”).
1 C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t.21, tr.403.
Vấn đề cơ bản của triết học bao gồm hai mặt (thống nhất với nhau):
Mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan hệ giữa tư duy và
tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai, (mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận thức thế giới hay không?
Việc giải quyết vấn hai mặt vấn đề cơ bản của triết học là xuất phát điểm của các
trường phái lớn: chủ nghĩa duy tâmchủ nghĩa duy vật; khả tri luậnbất khả tri luận.
Ngoài ra còn có chủ nghĩa nhị nguyên hoài nghi luận.
Chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm: bản chất của thế
giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất có trước ý thức và quyết định ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học cho rằng: bản chất của thế giới là tinh
thần; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước và quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm có hai trào hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm khách quan
chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý thức nhưng
tinh thần, ý thức đó được quan niệm là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước
và tồn tại độc lập với giới tự nhiên và con người. Những đại biểu của trào lưu này là
Platon, Hegel, Thomas Aquinas…
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, khẳng
định ý thức quyết định vật chất, vật chất không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào cảm
giác, ý thức. Những đại biểu của trào lưu này là G.Berkeley, D.Hume, I. Kant, B. Russell...
Ngoài sự phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, người ta còn phân biệt:
Thuyết nhất nguyên (monism, xuất phát từ tiếng Hy Lạp, monos - một, duy nhất) là
khuynh hướng triết học cho rằng thế giới chỉ có một bản nguyên duy nhất, hoặc là vật
chất hoặc là tinh thần. Tùy theo quan niệm cho rằng vật chất hay tinh thần là thực thể của
thế giới mà thuyết nhất nguyên có hai hình thức tương ứng: thuyết nhất nguyên duy vật
thuyết nhất nguyên duy tâm.
Thuyết nhị nguyên* (dualism, tiếng latin dualis - có hai mặt) cho rằng có hai thực thể
vật chất và ý thức song song tồn tại, không phụ thuộc lẫn nhau.
Thuyết đa nguyên (pluralism, tiếng latin pluralis - nhiều) là khuynh hướng triết học
cho rằng có nhiều cơ sở, nhiều bản nguyên của tồn tại, chúng không phụ thuộc lẫn nhau.
Trong việc giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học có hai khuynh hướng
đối lập nhau là thuyết khả trithuyết bất khả tri.
- Đa số các nhà triết học khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được
thế giới, có khả năng đạt được chân lý khách quan.
- Một số các nhà triết học phủ nhận một phần hay toàn bộ khả năng nhận thức của
con người. Những nhà triết học này thuộc thuyết bất khả tri (agnoticism xuất phát từ tiếng
Hy lạp agnotos có nghĩa là không thể nhận thức được). Đại biểu của khuynh hướng này là D.Hium, I.Cantơ…
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật tồn tại và phát triển có nguồn gốc
từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời thường gắn với lợi ích của giai cấp
và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Chủ nghĩa duy vật không chỉ tổng kết, khái quát kinh
nghiệm và thành tựu mà con người đạt được mà còn định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người.
2.2. Biện chứng và siêu hình
Trong triết học có hai phương pháp nhận thức đối lập nhau là phương pháp biện
chứng và phương pháp siêu hình.
Phương pháp siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái cô lập, tĩnh
tại, bất biến, đứng im, nghĩa là, “chỉ nhìn thấy những vật riêng biệt mà không nhìn thấy
mối liên hệ qua lại giữa những vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những vật ấy mà không
nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh
của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”3.
** Thuyết nhị nguyên ở đây được hiểu theo nghĩa là nhị nguyên về mặt bản thể.
Ngược lại, phương pháp biện chứng xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên
hệ, vận động, biến đổi, phát triển, tức không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà còn
thấy cả sự sinh thành và tiêu vong của sự vật, không chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh
của sự vật mà còn thấy cả trạng thái động của sự vật. Như vậy, phương pháp biện
chứng là phương pháp xem xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, trong trạng
thái vận động, biến đổi không ngừng với một tư duy mềm dẻo, linh hoạt, "không chỉ nhìn
thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ giữa chúng, không chỉ nhìn thấy sự
tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành và tiêu vong của sự vật, không chỉ nhìn
thấy trạng thái tĩnh… mà còn thấy cả trạng thái động của sự vật, không chỉ thấy cây mà
còn thấy cả rừng". Do đó, phương pháp biện chứng là phương pháp khoa học, mềm dẻo,
linh hoạt, cho phép con người phản ánh đúng bản chất của sự vật, hiện tượng.
Các hình thức cơ bản của phép biện chứng trong lịch sử
Thứ nhất, phép biện
chứng tự phát thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện
chứng trong lịch sử triết học. Tiêu biểu cho tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc
là thuyết âm - dương và “ngũ hành luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến
đổi của các yếu tố bản thể trong vũ trụ). Trong triết học Ấn Độ, tư tưởng biện chứng biểu
hiện rõ nét nhất là ở triết học Phật Giáo với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “nhân
duyên tương lục”. Đặc biệt, trong nhiều học thuyết của triết học Hy Lạp cổ đại, các nhà tư
tưởng đã thấy rằng, các sự vật của thế giới xung quanh ta có mối liên hệ và tác động qua
lại lẫn nhau, làm cho mọi sự vật, hiện tượng luôn trong quá trình vận động, biến hóa, sinh
thành và tiêu vong. Nhìn chung, do chưa đạt đến trình độ đi sâu phân tích thế giới nên các
nhà biện chứng cổ đại nói chung chưa chỉ ra được nguồn gốc, bản chất của mối liên hệ, sự
vận động và biến đổi của mọi sự vật, hiện tượng. Cách xem xét thế giới như vậy, theo
Ph.Ăngghen còn mang tính ngây thơ, chất phác. Vì vậy, phép biện chứng thời cổ đại còn hạn chế.
Thứ hai, phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Hêghen cho rằng, có tồn tại “ý
niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới” luôn trong quá trình vận động, biến đổi, phát
triển. Trong quá trình phát triển ấy, ý niệm tuyệt đối “tự tha hóa”, chuyển hóa thành giới
tự nhiên và sau đó lại “tha hóa” trở về với bản thân mình dưới dạng tinh thần. Hêghen đã
xây dựng phép biện chứng của thế giới bên ngoài, nhưng thế giới này là do “ý niệm tuyệt
đối” tha hóa mà thành. Vì vậy, ở Hêghen sự phát triển biện chứng của thế giới bên ngoài
chỉ là sự sao chép lại quá trình vận động của “ý niệm tuyệt đối” mà thôi và phép biện
chứng của ông là phép biện chứng duy tâm.
Thứ ba, phép biện chứng duy vật do C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập và V.I.Lênin bổ
sung, phát triển. Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin được xác lập trên
nền tảng của thế giới quan duy vật biện chứng và có sự thống nhất giữa nội dung thế giới
quan (duy vật biện chứng) và phương pháp luận (biện chứng duy vật), vì vậy nó không
chỉ giải thích thế giới mà còn là công cụ để cải tạo thế giới. Nói khác đi, phép biện chứng
duy vật có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng,
giữa lý luận khoa học và thực tiễn.
3. Triết học Mác – Lênin và vai trò của triết học Mác – Lênin trong đời sống
xã hội và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3.1. Khái lược sự ra đời và phát triển của triết học Mác-Lênin
Những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
Chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng ra đời vào những năm 40 của
thế kỷ XIX. Lúc bấy giờ, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đang trên đà phát triển mạnh mẽ.
Anh và Pháp cơ bản đã hoàn thành cách mạng công nghiệp. Nước Đức, mặc dù còn là
nước quân chủ phong kiến nhưng có bước phát triển vượt bậc về kinh tế, nhất là trong
lĩnh vực công nghiệp. Chính sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của chủ nghĩa tư bản đã
làm bộc lộ những mâu thuẫn vốn có của nó, đặt ra những vấn đề đòi hỏi các nhà tư tưởng
của thời đại phải trả lời.
Trong đó, có cách trả lời, tiếp cận của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những
điều kiện vật chất, kỹ thuật cho việc thực hiện những lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, làm
cơ sở khắc phục tính không tưởng của những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng
trước đó, thúc đẩy sự ra đời của triết học Mác.
Sự phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho giai
cấp vô sản phát triển không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng. Trong những năm 30 -
40 của thế kỷ XIX, ở Anh, Pháp, Đức đã nổ ra nhiều cuộc đấu tranh quy mô lớn, có tính
chất giai cấp như phong trào Hiến chương ở Anh (vào những năm 30); khởi nghĩa của
công nhân ở thành phố Lyông của Pháp (1831, 1834); khởi nghĩa của công nhân ở thành
phố Xilêdi của Đức 91844),v.v.. Những cuộc đấu tranh này của giai cấp công nhân đòi hỏi
phải có một lý luận khoa học, cách mạng dẫn đường. Trong khi ấy, nhiều trào lưu tư
tưởng phi khoa học như chủ nghĩa xã hội “chân chính” lại tìm cách len lỏi vào phong trào
công nhân. Đã vậy, vào thời điểm này giai cấp tư sản đã bộc lộ tính chất phản động về
mặt lịch sử, không còn là đại diện cho sự tiến bộ của lịch sử nữa. Chính những điều này
thúc đẩy cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Tiền đề khoa học
Cuối thế kỷ XIX khoa học tự nhiên đã có bước phát triển vượt bậc về chất, chuyển
từ trình độ thực nghiệm lên trình độ lý luận. Nhiều phát minh khoa học mang tính vạch
thời đại xuất hiện, đặc biệt là Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của
G.R.Mayơ (1814-1878); Thuyết tiến hóa của S.R.Đácuyn
(1809-1882); Thuyết tế bào của M.G.Sleđen (1804-1892) và T.Svanơ (18101882). Những
phát minh khoa học này không chỉ làm bộc lộ rõ tính hạn chế của phương pháp tư duy
siêu hình trong nhận thức thế giới, mà còn tạo ra cơ sở khoa học để khắc phục phương
pháp tư duy siêu hình. Đồng thời, chúng cũng cung cấp những cơ sở khoa học cho
phương pháp tư duy biện chứng và quan niệm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội ra đời, phát triển.
Đánh giá về vai trò, ý nghĩa của những phát minh khoa học thời kỳ này đối với sự
hình thành phương pháp tư duy biện chứng, Ph.Ăngghen viết: “Quan niệm mới về giới tự
nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: tất cả cái gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất
cả cái gì là cố định đều biến thành mây khói;... và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ
giới tự nhiên đều vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu”2. Những phát minh
khoa học tự nhiên này đã là những cơ sở, tiền đề khoa học trực tiếp cho sự ra đời chủ
nghĩa Mác nói chung, thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng duy vật của triết học Mác nói riêng.
2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.20, tr.471. 5
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1980, t.23, tr.49-50.
Tiền đề lý luận
Học thuyết của C.Mác “ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết
của những đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ
nghĩa xã hội”5. Trong đó, triết học Mác ra đời là sự kế thừa toàn bộ thành tựu lịch sử tư
tưởng triết học nhân loại, nhưng trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức.
Với triết học của Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa tư tưởng biện chứng,
đồng thời gạt bỏ cái vỏ duy tâm, thần bí của phép biện chứng ấy và đặt phép biện chứng
ấy trên nền thế giới quan duy vật. Còn thế giới quan duy vật được ông và Ph.Ăngghen
làm giàu bằng phương pháp biện chứng. Chính C.Mác đã khẳng định: “Phương pháp biện
chứng của tôi không những khác phương pháp của Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn
với phương pháp ấy nữa” . 3
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng kế thừa những giá trị trong triết học duy vật nhân bản
của Phoiơbắc, vận dụng chủ nghĩa duy vật này để khắc phục chủ nghĩa duy tâm của
Hêghen. Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc,
khắc phục tính chất siêu hình, máy móc, trực quan, không triệt để của nó. Trên cơ sở đó,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm giàu chủ nghĩa duy vật bằng phép biện chứng, còn phép
biện chứng được hai ông đặt trên nền thế giới quan duy vật. Cả chủ nghĩa duy vật, cả
phép biện chứng đều được C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển lên một trình độ mới về chất
so với trước đó. Trong triết học Mác, chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng,
còn phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Không những vậy, chủ nghĩa duy vật của
C.Mác và Ph.Ăngghen còn là chủ nghĩa duy vật triệt để so với chủ nghĩa duy vật không
triệt để của Phoiơbắc. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải thích một
cách duy vật không chỉ thế giới tự nhiên mà cả xã hội, lịch sử loài người.
Ngoài ra, C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa có chọn lọc tư tưởng kinh tế chính trị hợp
lý của A.Xmít và Đ.Ricácđô; tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng của XanhXimông,
S.Phuriê và R.Ôoen để xây dựng nên những tư tưởng triết học duy vật biện chứng của mình.
3 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.23, tr.35.
Nhân tố chủ quan của C.Mác và Ph.Ăngghen
Triết học Mác ra đời ngoài những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tiền đề khoa
học và tiền đề lý luận còn có những điều kiện chủ quan. Đó là những nhân tố thuộc về cá
nhân của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Các Mác (5.5.1818 - 14.3.1883), tên đầy đủ Karl Henrich Marx sinh tại
Triơ (Trier), tỉnh Ranh nước Đức trong một gia đình lao động. Ngay từ nhỏ C.Mác đã
nhận được sự giáo dục tốt từ gia đình và chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần nhân đạo, yêu
thương con người, yêu tự do, niềm say mê nghiên cứu khoa học. Lớn lên ông chịu ảnh
hưởng tư tưởng dân chủ cách mạng của cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789 và sớm có ước
mơ giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bất công. Ông tốt nghiệp
Đại học Tổng hợp Béclin ngành triết học và được công nhận tiến sĩ triết học năm 1841
bằng công trình tự nghiên cứu của mình. Những đức tính, phẩm chất, tố chất ấy đã góp
phần quan trọng trong việc hình thành nên học thuyết triết học duy vật, biện chứng, nhân
đạo vĩ đại mang tên C.Mác.
Phridrich Ăngghen (Fridric Engels), sinh 28.11.1820 tại Bácmen nước Đức, mất
ngày 5 tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn nước Anh. Ph.Ăngghen sinh ra trong một gia đình
chủ xưởng dệt. Ông không có cơ hội tốt nghiệp trung học vì gia đình bắt phải học nghề
kinh doanh từ rất sớm và phải tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên, ông là
người thông minh, chăm chỉ, cần cù tự học và tích cực nghe dự thính các bài giảng của
các giáo sư triết học đương thời. Cũng giống C.Mác ông có tố chất thông minh và rất yêu
thương người lao động, từ nhỏ ông đã căm ghét sự chuyên chế, độc đoán nhà nước phong
kiến Phổ. Ông có cơ hội tham gia phong trào Hiến chương, làm việc, tiếp xúc với đời
sống giai cấp công nhân Anh. Điều này đã giúp Ph.Ăngghen sớm nhận ra tính chất thần bí
của triết học Hêghen; hiểu, thông cảm với cuộc sống vất vả của những người công nhân.
Cũng chính sự tham gia vào đời sống công nhân đã làm nảy sinh tinh thần dân chủ cách
mạng, tư tưởng vô thần, tình yêu thương, sự đồng cảm với người công nhân và mong
muốn giải phóng công nhân khỏi nô dịch, áp bức, bóc lột.
Chính tình yêu thương những người công nhân, những người lao động, tinh thần
hy sinh không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng những người lao động, niềm tin sâu sắc
vào lý tưởng cách mạng của giai cấp công nhân, cùng sự thông minh, trí tuệ uyên bác của
C.Mác và Ph.Ăngghen là những nhân tố chủ quan đóng vai trò quan trọng nhất cho sự
hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
3.2. V.I.Lênin phát triển triết học Mác
Hoàn cảnh V.I.Lênin phát triển triết học Mác
Về điều kiện chính trị-xã hội, vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ
nghĩa tư bản phát triển, chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhưng bản chất bóc lột,
ăn bám của chúng không đổi. Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản càng gay gắt. Các
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Nga nổ ra nhiều hơn, đặc biệt là cách mạng dân
chủ tư sản (1905-1907); cách mạng tư sản tháng Hai 1917 và đỉnh cao là cách mạng xã
hội chủ nghĩa tháng Mười 1917. Lúc bấy giờ, chủ nghĩa Mác được truyền bá rộng rãi ở
Nga, nhưng xuất hiện đủ các loại trào lưu tư tưởng phản động như chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán; chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa dân túy... muốn thay thế chủ nghĩa Mác.
Về khoa học tự nhiên, cuối XIX đầu XX đạt được những thành tựu mới, đặc biệt là
vật lý học, đi sâu nghiên cứu thế giới vi mô, phát hiện ra các dạng vật chất mới như các
tia, các hạt, trường, sóng,v.v.. Những phát minh của vật lý này đã làm cho quan niệm siêu
hình đồng nhất vật chất với nguyên tử không còn căn cứ khoa học nữa.Trong bối cảnh ấy,
một số nhà khoa học tự nhiên đã cho rằng “vật chất biến mất, vật chát tiêu tan”, rơi vào
duy tâm, tạo ra cuộc khủng hoảng trong vật lý học. Tất cả những điều kiện này đã thôi
thúc V.I.Lênin bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Những nội dung chủ yếu V.I.Lênin bổ sung, phát triển triết học Mác
V.I.Lênin đóng góp vào triêt học Mác, có thể chia làm ba thời kỳ, đáp ứng ba nhu
cầu cơ bản của thực tiễn: thời kỳ từ 1893 - 1907; thời kỳ từ 1907 - 1917; thời kỳ sau cách mạng Tháng Mười.
Thời kỳ đầu 1893- 1907 là những năm V.I.Lênin tập trung chống phái dân túy Nga,
vạch trần bản chất tư sản, phản động của phái dân túy Nga, bảo vệ lý luận hình thái kinh tế-xã hội của Mác.
Thời kỳ những năm 1907 - 1917, V.I.Lênin đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm chủ
quan của phái Makhơ, đưa ra định nghĩa nổi tiếng về vật chất cùng các nguyên tắc của lý
luận nhận thức duy vật biện chứng, đồng thời kiên quyết
đấu tranh chống lại chủ nghĩa cơ hội, xét lại.
Thời kỳ sau cách mạng Tháng Mười (1917), V.I.Lênin tiếp tục đấu tranh chống
bệnh ấu trĩ “tả khuynh” cùng các trào lưu tư tưởng sai lầm khác; bàn về những vấn đề
biện chứng của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực; thực hiện chính sách kinh
tế mới; về bản chất chủ nghĩa đế quốc; về nhà nước và cách mạng; v.v.. Chính những
đóng góp to lớn của V.I.Lênin vào sự phát triển lý luận của triết học Mác mà một giai
đoạn mới trong sự phát triển của triết học Mác được gắn với tên tuổi của Người, đó là triết học Mác-Lênin.
3.3. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội và sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam hiện nay
Vai trò thế giới quan và phương pháp luận
Vai trò thế giới quan
Thế giới quan, theo nghĩa hẹp, là quan niệm hay hệ thống quan niệm của con
người về thế giới. Quan niệm hay hệ thống quan niệm này cũng không phải nhất thành bất
biến mà nó thay đổi theo điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể, phụ thuộc vào trình độ nhận
thức và hoạt động cải tạo thế giới của con người. Nhưng thế giới quan không tách rời con
người. Bởi vậy, theo nghĩa rộng, thế giới quan là hệ thống những quan niệm của con
người về thế giới; về vị trí của con người trong thế giới đó, về chính bản thân cuộc sống
của con người và loài người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống con người và xã
hội loài người. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, nghĩa là triết học quan niệm
về thế giới bằng hệ thống lý luận của mình. Thế giới quan triết học Mác-Lênin có quan
niệm duy vật, biện chứng, khoa học về thế giới, về lịch sử, xã hội và về tư duy của con
người. Do vậy, thế giới quan triết học MácLênin có vai trò định hướng đúng đắn cho hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nghĩa là, trên cơ sở quan niệm của
thế giới quan triết học Mác-Lênin về thế giới này mà con người sẽ định hướng đúng đắn
cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình. Chẳng hạn, nếu một người có
quan niệm duy vật biện chứng về thế giới thì trong nhận thức cũng như hoạt động thực
tiễn, anh ta sẽ hành động theo tinh thần duy vật, biện chứng. Ngược lại, nếu anh ta có thế
giới quan duy tâm về thế giới thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, anh ta sẽ thực
hiện theo tinh thần duy tâm. Trong triết học có hai thế giới quan cơ bản đối lập nhau là thế
giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Thế giới quan triết học Mác-Lênin là đỉnh cao
của thế giới quan duy vật và tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực, đúng đắn.
Vai trò phương pháp luận
Phương pháp có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của con người, làm tăng
hiệu quả hoạt động của con người, làm cho hoạt động của con người mang tính sáng tạo,
tích cực, tự giác và hiệu quả.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng phương pháp là những nguyên tắc do lý trí con người
tự ý đặt ra để tiện cho nhận thức và hoạt động thực tiễn. Theo quan niệm này, phương
pháp là phạm trù thuần tuý chủ quan, không phụ thuộc vào
đối tượng nhận thức và đối tượng tác động của con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định phương pháp dù là những nguyên tắc
do con người đặt ra và dùng để điều chỉnh hoạt động của mình nhằm đạt mục đích nhất
định, nhưng không phải đặt ra một cách hoàn toàn chủ quan, tuỳ tiện, cũng không phải là
những nguyên tắc có sẵn bất biến. Phương pháp phụ thuộc vào đối tượng nghiên cứu và
đối tượng tác động, phụ thuộc vào mục đích đặt ra của chủ thể. Đối tượng tác động và
mục đích của con người không phải do con người tạo ra theo ý muốn chủ quan thuần tuý
của mình. Muốn tiếp cận đối tượng và giải quyết nhiệm vụ đặt ra, chủ thể phải nghiên cứu
đối tượng và mục đích cần đạt tới một cách khách quan. Nghĩa là phải vạch rõ đối tượng
có tính chất gì, các yếu tố cấu thành nên đối tượng, giới hạn tồn tại của đối tượng là gì,
v.v.. Từ đó chủ thể nhận thức rõ những quy luật tồn tại và biến đổi của đối tượng. Chỉ trên
cơ sở đó chủ thể mới xác định được phải nghiên cứu và hành động như thế nào và cần
phải sử dụng những phương tiện, công cụ và biện pháp gì cho thích hợp, cũng như cần
phải kết hợp các yếu tố đã cho theo một trình tự như thế nào cho hợp lý để đạt được mục đích tối ưu.
Theo triết học Mác-Lênin, phương pháp là những cách thức, con đường thực hiện
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt mục đích đã đặt ra một cách tối ưu
nhất. Phương pháp là một trong những yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại đối
với hoạt động của con người. Nếu với những điều kiện khách quan nhất định như nhau,
phương pháp phù hợp thì kết quả đạt được càng cao và ngược lại phương pháp không phù
hợp có thể không đưa đến kết quả như mong muốn, hoặc hiệu quả công việc không cao.
Phương pháp luận. Trên thực tế, để giải quyết một công việc đã định người ta có
thể dùng nhiều phương pháp khác nhau. Trong các phương pháp đó có phương pháp thích
hợp đưa lại hiệu quả cao, cũng có phương pháp không thích hợp, đưa lại hiệu quả thấp.
Làm thế nào để chọn được một phương pháp thích hợp nhất trong số rất nhiều phương
pháp có thể sử dụng? Trả lời cho vấn đề này làm nảy sinh nhu cầu tri thức về phương
pháp. Từ nhu cầu tri thức về phương pháp đưa đến sự ra đời khoa học và lý luận về
phương pháp. Đó chính là phương pháp luận. Theo triết học Mác-Lênin, phương pháp
luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống quan điểm, nguyên tắc xác định phương
pháp, phạm vi ứng dụng phương pháp, lựa chọn phương pháp, v.v.. cho hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người một cách tối ưu nhất. Triết học Mác-Lênin với
các nguyên tắc phương pháp luận của mình như nguyên tắc khách quan, toàn diện, phát
triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn có vai trò phương pháp luận rất to lớn đối với hoạt động
nhận thức và hoạt động hực tiễn của con người.
Triết học Mác-Lênin với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
Chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác-Lênin nói riêng đã, đang là kim
chỉ nam cho cách mạng Việt Nam không chỉ trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại
xâm, giải phóng dân tộc mà còn cả trong công cuộc đổi mới hiện nay. Triết học Mác-
Lênin chỉ ra rằng thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đã làm nảy sinh hàng loạt vấn đề
không thể tìm lời giải có sẵn trong di sản kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin,
Hồ Chí Minh. Do vậy, trên cơ sở kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì
chúng ta phải tổng kết thực tiễn để vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ trên cơ sở đó, chúng ta mới thực hiện đổi mới chủ
nghĩa xã hội thành công. Thực tiễn đã cho thấy sự lạc hậu của nhận thức lý luận về chủ
nghĩa xã hội không chỉ là sự lỗi thời của những hiểu sai, làm sai với lý luận của các nhà
kinh điển Mác-Lênin mà còn là lý luận không được vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo
phù hợp yêu cầu của thực tiễn. Do vậy, trong đổi mới phải nắm vững phương pháp luận
khoa học của triết học Mác-Lênin như là một tiền đề quan trọng để đổi mới tư duy lý
luận về chủ nghĩa xã hội; giúp hiểu đúng quan niệm của các nhà kinh điển Mác-Lênin về
chủ nghĩa xã hội, khắc phục những sai lầm trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội;
đòi hỏi chúng ta dám từ bỏ cả những kết luận của chính mình nếu chúng không còn phù
hợp, và phát triển bổ sung lý luận trong tình hình mới, như chính C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã thực hiện. Chính vì vậy, Đảng ta đã khẳng định "tiến hành đổi
mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt
của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ
và triệt để với những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp" .4 Cũng chính vì vậy mà
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định quan điểm chỉ đạo thứ nhất đối với qúa trình tiếp
tục đổi mới là “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định
đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” . 5
4 Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG - ST, H.,2001, tr.81.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập1, NxbCTQGST, H;2021; tr.109.
Chương 2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
1. Vật chất; phương thức và các hình thức tồn tại của vật chất 1.1. Vật chất
* Khái quát các quan niệm triết học trước Mác về vật chất
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500 năm và
có quá trình phát triển gắn liền với thực tiễn và nhận thức của con người:
Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm (khách quan và chủ quan)
Quan niệm bản chất của thế giới, cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại là tinh thần, còn vật
chất là sản phẩm của bản nguyên tinh thần ấy. Chủ nghĩa duy tâm phủ nhận vật chất với
tính cách là thực thể, cho rằng thế giới vật chất là tạo vật của Thượng đế, hoặc là “sự phức
hợp” những cảm giác của con người.
Chủ nghĩa duy vật cổ đại:
- Đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể của vật chất. Thí dụ: nước (quan
niệm của Thales); không khí (Anaximen); lửa (Heraclitus); nguyên tử (Democritus); đất,
nước, lửa, gió (triết học Ấn Độ); kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (Thuyết ngũ hành ở Trung Quốc).
- Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại là quan niệm của trường phái Nguyên tử
luận (cho rằng nguyên tử là thành tố nhỏ bé nhất tạo nên thế giới vật chất đa dạng, phong phú)
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIIII:
- Chịu ảnh hưởng từ cơ học cổ điển của Newton, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này có
khuynh hướng đồng nhất vật chất với một số thuộc tính của vật chất như khối lượng, quảng tính.
- Tiếp tục khẳng định nguyên tử là thành tố nhỏ nhất của thế giới vật chất (điều mà
các nhà triết học nguyên tử thời cổ đại đã phỏng đoán). Tóm lại, các
nhà triết học trước Mác đều không trả lời được câu hỏi, bản chất của thế
giới là gì? H ọ chủ yếu nghiên cứu, tìm hiểu cấu tạo của vật chất và khẳng định vật
chất là cái bất biến hoặc là cái cụ thể nào đó. Quan niệm này đã tồn tại suốt nhiều thế kỷ
trong lịch sử triết học.
* Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vật chất
- Thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người;
- Thế giới vật chất là tồn tại vĩnh viễn, vô cùng vô tận;
- Thế giới vật chất vận động, biến đổi không ngừng.
* Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất: nội dung và giá trị khoa học
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một loạt phát minh khoa học làm cho các quan
điểm duy vật siêu hình rơi vào khủng hoảng. Nhiều phát minh trong vật lý học thời kỳ
này đã làm đảo lộn quan niệm cũ về vật chất, đó là: Rơnghen (Đức) phát hiện ra tia X
(1895); Antoine H. Becquerel, nhà vật lý học Pháp và M.Quyri (1867-1934), phát minh ra
hiện tượng phóng xạ trong chất uranium (1896); Joseph Thomson phát hiện ra điện tử
(1897); nhà bác học Đức Kaufman phát hiện ra sự thay đổi khối lượng điện tử; thuyết
tương đối hẹp của A.Anhxtanh (1905)...
Các phát minh khoa học này gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý
học. Một số các nhà vật lý học giải thích một cách duy tâm các hiện tượng vật lý và cho
rằng, vật chất tiêu tan. Trong hoàn cảnh đó, các nhà triết học duy tâm chủ quan lợi dụng
cơ hội này để khẳng định bản chất “phi vật chất” của thế giới, khẳng định vai trò của các
lực lượng siêu nhiên đối với quá trình sáng tạo ra thế giới, cơ sở tồn tại của chủ nghĩa duy
vật không còn nữa. Tình hình đó đòi hỏi V.I. Lênin phải đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật.
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành tựu
mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trên cơ sở phê phán
những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật chất, trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, V.I.Lênin đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”6. Phân tích định nghĩa:
Thứ nhất, cần phải phân biệt “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với những
dạng biểu hiện cụ thể của vật chất (như quan niệm về vật chất của các khoa học cụ thể ).
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng
hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản
ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả những sự vật, hiện
tượng chỉ là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có quá trình phát sinh, phát
triển và chuyển hóa. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu
hiện cụ thể của vật chất.
Liên hệ luận điểm quan trọng của Ph.Ăngghen: “Vật chất, với tính cách là vật
chất, là một sáng tạo thuần túy của tư duy và là một sự trừu tượng. Chúng ta bỏ qua
những sự khác nhau về chất của những sự vật, khi chúng ta gộp chúng, với tư cách là
những vật tồn tại hữu hình, vào khái niệm vật chất. Do đó, khác với những vật chất nhất
định và đang tồn tại, vật chất, với tính cách là vật chất, không có sự tồn tại cảm tính”7.
Thứ hai, đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là tính khách quan, tức là thuộc tính
tồn tại không lệ thuộc vào ý thức con người, dù con người có nhận thức được nó hay không.
Thực tại khách quan đó chính là tất cả những gì tồn tại ở bên ngoài và không lệ
thuộc vào ý thức của con người. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản nhất để phân biệt cái gì
là vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm
giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người.
Điều này khẳng định rằng, vật chất là cái có trước, cảm giác (ý thức) là cái có sau,
vật chất là cái đóng vai trò quyết định đến nguồn gốc và nội dung khách quan của ý thức.
Bởi thực tại khách quan đưa lại cảm giác cho con người chứ không phải cảm giác (ý thức)
sinh ra thực tại khách quan. Đến đây định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết được
6 V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t.18, tr.151.
7 C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr. 751.
mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Thứ tư, vật chất được cảm giác (ý thức) chép lại, chụp lại và phản ánh.
Nghĩa là, con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện thực khách quan →
tiếp tục giải quyết được mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Điều này chứng minh rằng:
+ Vật chất không tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện thực,
được biểu hiện dưới các dạng sự vật, hiện tượng cụ thể mà giác quan của chúng ta có thể
nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp. Do đó, về nguyên tắc không có đối tượng vật
chất không thể nhận thức được, mà chỉ có những đối tượng vật chất chưa thể nhận thức được mà thôi.
+ Nguồn gốc của cảm giác là từ thế giới bên ngoài, khi sự vật tác động vào giác
quan của con người thì con người có cảm giác về chúng. Bằng các phương pháp nhận
thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh) con người có thể nhận thức được thế giới vật chất.
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, đồng thời
chỉ ra rằng, vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, bất
kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
Lưu ý: Phương pháp định nghĩa mà V.I.Lênin dùng để định nghĩa vật chất là đối lập
vật chất với phạm trù ý thức, chỉ ra thuộc tính cơ bản để phân biệt vật chất với ý thức. Bởi
vì: Phạm trù vật chất là phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận thức. Do đó,
không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường mà chỉ có thể
định nghĩa phạm trù vật chất trong mối quan hệ đối lập với nó - phạm trù ý thức.
* Giá trị khoa học của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của
chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
- Giải quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Từ đó, tìm thấy lối thoát cho cuộc khủng hoảng về thế giới
quan trong vật lý học cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
- Định nghĩa đã khắc phục được tính trực quan, siêu hình, máy móc trong quan niệm
về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước đây, đồng thời bổ sung, phát triển tư tưởng của
C.Mác và Ph.Ăngghen về vật chất.
- Định nghĩa là cơ sở khoa học, là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống lại chủ nghĩa
duy tâm và thuyết không thể biết dưới mọi hình thức của chúng.
- Định nghĩa đã trang bị thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn cho các nghành
khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất, tìm ra những kết cấu mới, những thuộc tính mới
và những quy luật vận động của vật chất để làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân
loại. Đồng thời có vai trò định hướng cho sự phát triển của nhận thức khoa học, giải quyết sự
khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học như giai đoạn cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
- Định nghĩa này còn là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật biện
chứng trong lĩnh vực xã hội, đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử.
1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất * Vận động
Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất,- thì bao gồm tất
cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản
cho đến tư duy”8 Nghĩa là: Vận động = mọi sự biến đổi nói chung.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất thể hiện ở 3 khía cạnh sau:
Thứ nhất, là phương thức tổ chức vật chất với tư cách là nền tảng của mọi sự vật,
hiện tượng để tạo thành các sự vật cụ thể. Nghĩa là nhờ vận động mà vật chất được tổ
chức để tạo thành sự vật xác định.
Thứ hai, là phương thức bảo tồn, duy trì vật chất thông qua những sự chuyển hóa.
Nghĩa là, thông qua chuyển hóa, vận động mà vật chất được duy trì sự tồn tại.
Thứ ba, là phương thức biểu hiện sự tồn tại của sự vật, nghĩa là thông qua nhận
thức vận động chúng ta có thể biết được sự tồn tại của vật chất. 8 C. Mác và Ph. Ăngghen, , t. 20, tr Sđd . 519.
Ph.Ăngghen viết: “Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận
thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động; về một vật
thể không vận động thì không có gì mà nói cả” .9
- Vận động là thuộc tính vốn có của vật chất:
Thứ nhất, vận động là cái vốn có của vật chất, gắn liền với vật chất, không do ai sinh
ra và không bao giờ bị tiêu diệt. Nói cách khác, vận động của vật chất là vận động tự thân.
+ Ph.Ăngghen viết: "Vật chất đối diện với chúng ta, như một cái gì đã có sẵn, một
cái gì không thể sáng tạo ra, cũng không thể tiêu diệt đi được, thì do đó có thể kết luận
rằng bản thân sự vận động cũng không thể sáng tạo ra và tiêu diệt đi được... triết học đã đi
đến nhân thức ấy rất lâu trước khi nhận thức ấy được khoa học tự nhiên công nhận" . 10
+ Cơ sở khoa học tự nhiên: Vào giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã chứng
minh bằng định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Theo đó, vận động được bảo
toàn cả về mặt số lượng và chất lượng.
Nói đến tính thống nhất giữa vật chất và vận động, Lênin viết: "Thế giới là vật chất
đang vận động, hay thế giới là vận động của vật chất, thì vấn đề cũng không có gì thay đổi cả"11.
Thứ hai, vận động cũng có những tính chất của vật chất đó là: tính khách quan
(không lệ thuộc vào ý thức của con người), tính phổ biến (vận động tồn tại ở mọi sự vật,
hiện tượng), và tính đa dạng phong phú (có nhiều hình thức vận động khác nhau).
- Các hình thức vận động của vật chất:
Dựa trên những thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận
động thành 5 hình thức vận động cơ bản:
+ Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
+ Vận động vật lý là vận động của phân tử, của các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt,
điện, ánh sáng, âm thanh, quang phổ...
+ Vận động hóa học là sự vận động của các nguyên tử; sự hóa hợp và phân giải của các chất hóa học. 9 C. Mác và Ph. Ăngghen, t. 20, tr Sđd, . 743.
10 Ph.Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 94-95.
11 V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr.333 (tiếng Việt).