Ôn tập lịch sử đảng/ Trường đại học Nguyễn Tất Thành

Lúc bấy giờ, vấn đề "cuộc đảo chính của phát-xít Nhật" luôn luôn được đề cập trong những văn kiện, tài liệu tuyên truyền của Đảng trong những năm đầu 1945, định hướng công tác chuẩn bị của phong trào cách mạng cho thời điểm "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Vì thế, ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 46454745
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ DÂN CHỦ VIỆT NAM
(1930-1945)
Đồng chí Trần Phú, trong luận cương tháng 10 năm 1930 cho rằng vấn đề cách mạng Việt
Nam cần tập trung giải quyết là vấn đề đấu tranh giai cấp. Nhân dân Việt Nam đã đứng lên
đấu tranh nhằm giải quyết vấn đề về giai cấp thông qua 2 cao trào cách mạng - Cao
trào cách mạng 1930-1931
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933 lan nhanh đến các nước thuộc địa, làm cho mọi
hoạt động sản xuất bị đình đốn. Ở Đông Dương, thực dân Pháp tăng cường bóc lột để bù đắp
những hậu quả của cuộc khủng hoảng ở chính quốc, đồng thời tiến hành một chiến dịch
khủng bố trắng nhằm đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên bái (2-1930). Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
nam với đế quốc Pháp và lực lượng tay sai ngày cảng phát triển gay gắt. Từ tháng 1 đến tháng
4 năm 1930, liên tục xảy ra các cuộc bãi công của công nhân tại các nhà máy xí nghiệp cũng
như là các cuộc đấu tranh của nhân dân các tỉnh thành. Tuy nhiên đến cuối năm 1930, thực
dân Pháp tập trung lực lượng đàn áp, kết hợp các thủ đoạn tra tấn bạo lực khiến cho các tổ
chức của Đảng và của quần chúng tan rã hầu hết.
Tuy bị đàn áp bởi đế quốc và tay sai nhưng cao trào cách mạng 1930-1931 là bước thắng lợi
đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến tiến trình phát triển về sau của cách mạng Việt Nam. Nó để
lại cho Đảng những kinh nghiệm quý báu “về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và
phản phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân với phong trào đấu tranh của
nông dân, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân; kết hợp
phong trào cách mạng ở nông thôn với phong trào cách mạng ở thành thị, kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang.
- Cao trào cách mạng 1936-1939
Trong giai đoạn này, chúng ta đã thay đổi phương thức đấu tranh từ đấu tranh vũ trang sang
đấu tranh chính trị. Chủ trương mới của Đảng đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng bức thiết của
quần chúng nhân dân, đã dấy lên phong trào cả nước đấu tranh sôi nổi, mạnh mẽ nhằm vào
mục tiêu trước mắt là tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Để thực hiện được mục tiêu này,
Đảng ta đã tập trung giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt;
về xây dựng một mặt trận thống nhất rộng rãi phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị,
phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất; về kết hợp các hình thức tổ chức bí mật và
công khai để tập hợp quần chúng và các hìn thức, phương pháp đấu tranh: tổ chức Đông
Dương đại hội, đấu tranh nghị trường, trên mặt trận báo chí, đòi dân sinh, dân chủ...
Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 là một phong trào dân tộc dân chủ rộng lớn, qua đó Đảng
ta đẩy mạnh được hoạt động tuyên truyền giáo dục sâu rộng tư tưởng Mác Lenin, đường lối
chính sách của Đảng, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân trong việc xây dựng được
một đội quân chính trị đông đảo. Phong trào đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm như bài học
về sử dụng các hình thức và khẩu hiệu đấu tranh, xây dựng được Mặt trận nhân dân thống
nhất. Đây được coi như là cuộc diễn tập lần thứ hai của sự chuẩn bị cho sự thắng lợi của Cách
mạng Tháng 8 năm 1945.
- Giai đoạn 1939-1945
Khi tình hình thế giới và trong nước có sựu thay đổi, xuất phát từ việc chúng ta không tiếp tục
mục tiêu đấu tranh giai cấp nữa mà thực hiện đấu tranh giải phóng dân tộc. Hình thức đấu
lOMoARcPSD| 46454745
tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị. Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo của Đảng
trước đây ta chủ yếu tập trung vào đấu tranh giai cấp, thì bây giờ ta tập trung vào đấu tranh
giải phóng dân tộc.
Đây là giai đoạn diễn ra cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Việc thực dân Pháp tham gia vào
cuộc chiến tranh ngay từ những ngày đầu dẫn đến việc chúng tiến hành ra sức vơ vét của cải
của nhân dân ta, bóc lột sức lao động, đem nhân dân ta ra làm bia đỡ đạn. Chúng còn khiến
cho nhân dân lao động trong nước cũng như nhân dân các nước thuộc địa cũng phải tham gia
vào cuộc chiến này.
Đảng và nhà nước ta bị rơi vào tình thế 1 cổ đôi tròng, xác định được mục tiêu hàng đầu lúc
bấy giờ là đấu tranh giải phóng dân tộc, chống Nhật và Pháp.
lOMoARcPSD| 46454745
CƠ SỞ ĐỂ ĐẢNG TA ĐỀ RA ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI MỚI
Tình hình thế giới:
- 1/9/1939, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, 2 ngày sau kẻ thù trực tiếp của
nhân dân Việt Nam là Anh và Pháp đã tham gia cuộc chiến này. Rõ ràng để có được
nhiều của cải vật chất nhất cho cuộc chiến này, thực dân Pháp tăng cường bóc lột nhân
dân lao động trong nước cũng như nhân dân các nước thuộc địa. Thực dân Pháp bắt
nhân dân ta làm bia đỡ đạn cho chiến tranh chiến trường -> đẩy nhân dân lao động của
Pháp và các nước thuộc địa tham gia vào chiến tranh.
- Hăm hở tham gia vào cuộc chiến tranh ngay từ những ngày đầu nhưng thực dân Pháp
chỉ trụ được 9 tháng, nhanh chóng bị phát xít Đức tấn công Pháp, buộc Pháp kí kết đầu
hàng Đức vào tháng 6/1940. Việc Pháp thua có nghĩa là tất cả các thuộc địa của Pháp
sẽ bị các nước Phát xít nhảy vào xâu xé. Trên thực tế, từ tháng 9/1940, Nhật đã nhảy
vào Đông Dương. Ngày 22/9, Nhật tấn công vào Lạng Sơn, 23/9 Chính phủ Pháp tại
Đông Dương đã nhanh chóng kí hiệp ước đầu hàng.
- Mục đích chính của cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 là một cuộc chiến tranh trong nội
bộ giữa các nước tư sản và mang tính chất của cuộc chiến tranh phi nghĩa nhưng khi
Liên Xô tham gia vào cuộc chiến tranh này, tính chất của cuộc chiến tranh đã bị thay
đổi khi mà kẻ thù của nhân dân thế giới không còn là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà
lúc này là chủ nghĩa Phát xít.
- Ngày 8/12/1941, Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng, chiến tranh lan rộng ở Châu
á, Thái bình dương. Mỹ bất ngờ bị tấn công, buộc tham gia vào cuộc chiến tranh khiến
cục diện cuộc chiến thay đổi, làm cho ưu thế dần nghiêng về phe của quân Đồng
minh, tạo sự cân bằng trong sức mạnh quân sự cho phe Phát xít.
Tình hình trong nước:
- Pháp đã Phát xít hóa bộ máy thống trị của nước ta, toàn bộ quyền tự do dân chủ mà họ
ban cho ta từ giai đoạn 1936-1939 bị chúng bóp nghẹt.
- Sau khi Pháp kí hiệp ước đầu hàng Nhật vào ngày 23/9/1940, Nhân dân ta đã phải
chịu cảnh “1 cổ đôi tròng” khi mà vừa phải hứng chịu áp bức từ cả Nhật và Pháp. Từ
đó làm gia tăng thêm một mâu thuẫn gay gắt trong lòng xã hội Việt Nam. Cách mạng
Việt Nam chuyển hướng sang đấu tranh giải phóng dân tộc.
NỘI DUNG CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC TẠI HỘI NGHỊ TW8
(5/1941)
Nội dung:
- Thứ nhất, nhấn mạnh mâu thuẫn phải được giải quyết cấp bách giữa Việt Nam với
phát xít Pháp – Nhật, bởi “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc
nguy vong”.
- Thứ hai, khẳng định chủ trương “phải thay đổi chiến lược”. Đảng khẳng định: “Chưa
chủ trương làm CMTS dân quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc”.
- Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thi hành
chính sách “dân tộc tự quyết”. Theo đó, thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt
trận riêng đoàn kết dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù chung.
- Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, “ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ
cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự
lOMoARcPSD| 46454745
do cho dân tộc”. Các tổ chức quần chúng trong mặt trận Việt Minh đều mang tên “cứu
quốc”.
- Thứ năm, khi cách mạng thành công, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa –
nhà nước “của chung cả toàn thể dân tộc”, chứ không phải “công nông liên hiệp và
chính quyền Xô viết”.
- Thứ sáu, nhiệm vụ trung tâm là chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang; “phải luôn luôn chuẩn bị
một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù”, xác
định những điều kiện chủ quan, khách quan và dự đoán thời cơ tổng khởi nghĩa.
Ý nghĩa của chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
- Có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của phong trào CM, đi tới thắng lợi
của
CMT8/1945
- Hoàn chỉnh chủ trương chiến lược từ Hội nghị tháng 11/1939, khắc phục triệt để
những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930
- Khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn trong Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của
Nguyễn Ái Quốc.
- Là ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân Việt Nam đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị lực
lượng, tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do cho
dân tộc và nhân dân.
- Phát triển và làm phong phú kho tàng lý luận Mác Lê-nin về CM giải phóng dân
tộc NỘI DUNG LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ THÁNG 10/1930 Hoàn cảnh
ra đời:
- Từ 14 30/10/1930 hội nghị BCH TW họp lần thứ nhất tại Hương Cảng, do Trần
Phú chủ trì. Nội dung của hội nghị gồm: Thảo luận Luận cương chính trị, quyết
định đổi tên Đảng từ Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông
Dương, trong hội nghị các đại biểu cũng nhất trí bầu đồng chí Trần Phú làm tổng
bí thư.
- Năm 1930: Tháng 41930, Trần Phú sau thời gian học tập ở Liên Xô đượcquốc tế
cộng sản cử về nước. Đến tháng 71930 được bổ sung vào BCH TW Đảng Nội
dung cơ bản của luận cương:
- Về mâu thuẫn xã hội: Một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ,
một bên là địa chủ phong kiến, tư bản và chủ nghĩa đế quốc.
- Về tính chất và mục tiêu chiến lược của cách mạng Đông Dương: Lúc đầu là
một cuộc cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế. "Tư sản
dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Sau khi cách
mạng tư sản dân quyền thắng lợi thì sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản
mà đi thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa"
- Về nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền: Đấu tranh để đánh đổ các di tích
phong kiến, thực hànhcách mạng ruộng đất; đánh đổ đế quốc Pháp, làm cho
Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu đó liên lạc mật thiết với nhau
nhưng " vấn đề thuộc địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền". - Về
lực lượng của cách mạng :
lOMoARcPSD| 46454745
+ Công nhân và nông dân là hai động lực chính của cách mạng, trong đó giai cấp
công nhân là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng; nông dân là
một động lực đông đảo và mạnh của cách mạng
+ Tư Sản thương nghiệp thì đứng về đế quốc chống Cộng sản. Tư sản công nghiệp
thì đứng về quốc gia cải lương, khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ đứng về đế
quốc.
+Trong giai cấp tiểu tư sản: bộ phận thủ công nghiệp thì do dự, thành phần thương
gia thì không tán thành cách mạng, trí thức thì có xu hướng quốc gia chỉ hăng hái
trong thời kì đầu, chỉ các phần tử lao khổ mới theo cách mạng mà thôi.
- Về phương pháp cách mạng: Đảng phải lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tiến lên võ
trang bạo động để giành chính quyền.
- Về mối quan hệ giữa cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới: cách mạng
Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện cốt
yếu cho sự thắng lợi của cách mạng. Muốn vậy:
+ Đảng phải có đường lối đúng đắn, gắn bó với giai cấp, lấy chủ nghĩa MácLênin
làm nền tảng
+ Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu cho chính quyền lợi
của giai cấp công nhân, đấu tranh cho mục tiêu chủ nghĩa cộng sản.
+ Đảng phải liên lạc mật thiết với vô sản các dân tộc thuộc địa, nhất là với vô sản
Pháp.
=>Như vậy, hội nghị Trung ương 10/1930 đã có một số quyết định rất quan trọng về đường lối
cách mạng Việt Nam.
lOMoARcPSD| 46454745
DỰ KIẾN THỜI CƠ CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA ĐƯỢC THÔNG QUA
NHƯ THẾ NÀO TRONG CUỘC NHẬT-PHÁP BẮN NHAU
Nhận định thời điểm chín muồi là khi Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện, lúc đó sẽ tạo
thế 2 tròng để quân ta đánh đuổi Nhật
Nếu như Nhật để mất nước như Pháp ở thời điểm cuối 1940, chúng ta sẽ đứng lên giành chính
quyền. Kể từ đó, phong trào kháng Nhật nổ ra tại khắp nơi trên đất nước.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH ĐƯỢC ĐẢNG TA NHẬN ĐỊNH TRONG CUỘC NHẬT-
PHÁP BẮN NHAU
Cuộc đấu tranh giành chính quyền của nhân dân Việt nam được lịch sử Thế giới ghi nhận là
cuộc chiến tranh ít đổ máu, ít tốn kém nhất. Việc Nhật Pháp bắn nhau tạo một điều kiện hết
sức hoàn hảo cho nhân dân ta giành chính quyền.
Việc Nhật đảo chính Pháp, cộng thêm việc Pháp là tay sai của Nhật trong cuộc chiến tranh
độc chiếm Đông Dương. Ngay tại thời điểm đó, Nhật chưa thể gây dựng cho mình một bộ
máy cai trị ngay lập tức thay thế cho Pháp. Trong bối cảnh đó, quân Pháp cũng hoang mang
xao động. Trên chiến trường, Pháp đang thắng nhưng trong cuộc chiến tranh tại Đông Dương
thì Pháp đang là nước bại trận, điều này gây nên một khoảng trống lớn về mặt quyền lực
chính trị ở Việt nam sau khi Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương.
-Tình thế cách mạng: chúng ta chưa cần đánh gì nhưng đã loại bỏ được 1 kẻ thù là thực dân
Pháp, hai lực lượng này xung đột lẫn nhau, làm cho lực lượng cách mạng của họ trở nên suy
yếu. Nhưng Đảng ta lại nhận định rằng “thời cơ cách mạng chưa thật sự chín muồi”, bởi vì
Đông Dương là cứ điểm cuối cùng của phát xít Nhật, bằng mọi cách Nhật đang tìm cách giữ
lại cứ điểm này. Nếu như chúng ta tiến hành cách mạng, tất yếu sẽ dẫn đến thất bại, nhưng
hiện vẫn có những cơ hội tốt cho chúng ta tiến hành tổng khởi nghĩa. Khi mà chúng ta chỉ có
một kẻ thù thôi, chúng ta có thể xem xét nếu như trên chiến trường, nếu phát xít Nhật đầu
hàng trước quân Đồng minh vô điều kiện thì đó là lúc chúng ta có thể đứng lên giành chính
quyền.
Xác định kẻ thù: Đảng ta nhanh chóng thay đổi khẩu hiệu là “Đánh đuổi phát xít Nhật –
Pháp” bằng “đánh đuổi phát xít Nhật”. Đảng ta đã nhìn ra vấn đề quân Đồng minh đang thắng
thế, chúng ta xác định rằng phải làm mất hết chức năng của Pháp tại Việt Nam. Nhiệm vụ
trước mắt: Đảng ta xác định mục tiêu trước mắt hiện nay là đánh đuổi Nhật
TẠI SAO NHẬT PHÁP BẮN NHAU LẠI TẠO RA MỘT CUỘC KHỦNG HOẢNG
CHÍNH TRỊ SÂU SẮC
Đảng ta đã nhận định sau khi Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra cuộc
khủng hoảnh chính trị sâu sắc.
PHÂN TÍCH BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG
8 VÀ TẬN DỤNG VÀO HIỆN NAY
Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều kinh nghiệm
quý báu, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và
khởi nghĩa dân tộc.
lOMoARcPSD| 46454745
Những kinh nghiệm chính là:
- Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến.
Con đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc và Cương lĩnh của Đảng đã xác định cách mạng
nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn
liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ
chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức
sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định: tuy hai nhiệm vụ không tách
rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải
phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu cụ thể
như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công, chia ruộng đất của bọn phản động cho nông dân
nghèo, tiến tới cải cách ruộng đất. Phân tích mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam khi
Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng chủ trương chĩa mũi nhọn của cách mạng vào đế
quốc phát xít Nhật Pháp và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách
của cách mạng là giải phóng dân tộc. Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của sự kết
hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
- Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công nông
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu
người Việt Nam. Nhưng cuộc nổi dậy của toàn dân chỉ có thể thực hiện được khi có đạo quân
chủ lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đạo quân chủ
lực này được xây dựng,củng cố qua ba cao trào cách mạng và lớn mạnh vượt bậc trong tổng
khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân chủ lực làm nền tảng. Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết
dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi.
- Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phát xít,
mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn
trong hàng ngũ ngụyquyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế
quốc phát xít và bọn tay saiphản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng.
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu.
- Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng
một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của
nhân dân.
Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng
chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng
vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó vai trò quyết định là các cuộc tổng
khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả
các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ
thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi
lOMoARcPSD| 46454745
nghĩa, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập rabộ máy nhà nước của nhân dân.
- Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ
Đảng ta coi khởi nghĩa là một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin
và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa
ở nước ta. Trongrất nhiều văn kiện của Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã
vạch ra những điều kiện làmthời cơ cho tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm
quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta
không thể sống nghèo khổ như trước được nữa (khi hơn hai triệu người đã bị chết đói...).
Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước
làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
- Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành
chính quyền
Đảng ta ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, không
ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Điều đó đòi hỏi Đảng phải
biết vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta,
kịp thời tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng.
Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ trương của Đảng
trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những khuynh
hướng lệch lạc. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên
về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, xây dựng Đảng vững mạnh và
trong sạch. Đảng biết phát huy triệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên
và thông qua Mặt trận để lãnh đạo nhân dân đấu tranh.
TẠI SAO NÓI TRONG CHỦ TRƯƠNG KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC, ĐẢNG
LẠI CHO RẰNG THỰC DÂN PHÁP LÀ ĐỐI THỦ CHỦ YẾU LÚC BẤY GIỜ
CỦA TA
- Ngày 25/11/1945, Ban chấp hành trung ương Đảng đưa ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”,
vạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
+ Về mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam: là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng,
khẩu hiệu lúc này là “Dân tộc là trên hết, Tổ quốc là trên hết”, nhưng không phải giành độc
lập mà là giữ vững độc lập.
+ Xác định kẻ thù: Chưa bao giờ cùng một lúc mà cách mạng Việt Nam phải đối phó với
nhiều kẻ thù như lúc này: 6 kẻ thù
.) Ở miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 Đà Nẵng trở ra): Gần 20 vạn quân Tưởng lũ lượt vào miền Bắc.
Sau lưng chúng là bọn Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu thủ tiêu chính quyền cách mạng,
đưa bọn tay sai lập chính quyền bù nhìn và thực hiện chính sách cứơp bóc nhân dân Việt
Nam. Quân Tưởng vào Việt nam với mục đích cao nhất là về kinh tế, chúng thực hiện vơ vét
bóc lột của cải của nhân dân. Chúng cho rằng ở trên đất nước ta được ngày nào hay ngày đó,
vì chúng có thể phải trở về bất kì lúc nào nếu cục diện chiến tranh giữa quân đội của Mao
Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch có sự chuyển biến nghiên về phía kia.
lOMoARcPSD| 46454745
.) Ở Miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào): Trên một vạn quân Anh cũng mượn tiếng là vào tước
vũ khí của Nhật, nhưng kỳ thực là chúng mở đường cho thực dân Pháp cướp lại nước ta. Ngày
23/9/1945 dưới sự yểm trở của 2 sư đoàn thiết giáp Anh, Pháp đã nổ súng tấn công Sài Gòn,
chính thức xâm lược nước ta lần thứ 2.
.) Trên đất nước ta lúc này có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ lệnh giải giáp. Nhật là nước
vừa bại trận tại cuộc chiến tranh TGT2
.) Quân Mỹ đứng sau giật dây cho Tưởng, đặt Đông Dương trong chế độ chính trị. Mỹ thực
hiện chấp nhận cho Pháp vào đánh chiếm Việt Nam
.) Kiến quốc Việt cách: những phần tử phản động, đưa ra mục tiêu Diệt Cộng, Cầm Hồ, những
phần tử này chỉ gây ra sự khó khăn tại những nơi mà lực lượng ta còn non yếu, không phải là
kẻ thù chính của cả dân tộc Việt nam.
=> Xác định kẻ thù: Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Ban chấp hành
trung ương nêu rõ: Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung
ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Vì vậy phải lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân
Pháp xâm lược; mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân, thống nhất
mặt trận Việt Minh Lào chống Pháp xâm lược; kiên quyết giành độc lập tự do hạnh phúc
dân tộc,…
PHÂN TÍCH BƯỚC PHÁT TRIỂN TƯ DUY CỦA CÁCH MẠNG TỪ 1954-1965
lOMoARcPSD| 46454745
TRÌNH BÀY CƠ SỞ ĐẢNG ĐỀ RA TRONG PHẦN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
lOMoARcPSD| 46454745
VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA MỖI MIỀN VÀ QUAN HỆ 2 MIỂN TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
lOMoARcPSD| 46454745
ANH CHỊ HÃY CHỨNG MINH RẰNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN
TỐ HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG CỦA CÁCH MẠNG THÁNG
TÁM NĂM 1945
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công vang rội là do Đảng Cộng sản và lãnh tụ Hồ Chí
Minh lãnh đạo. Đây là nhân tố hàng đầu quyết định sự thành công của cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc nhân dân ở một nước thuộc địa ở khu vực Đông Nam Châu Á. Đây cũng là
thắng lợi đầu tiên của Đảng sau 15 năm ra đời. Thắng lợi đó khẳng định chân lý mà Hồ Chí
Minh nêu rõ trong Tuyên ngôn độc lập: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Cách mạng Tháng Tám đánh đổ chế độ phong kiến đã suy tàn, lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa - Nhà nước cách mạng kiểu mới, không phải để cai trị dân mà để phục vụ nhân
dân. Cách mạng Tháng Tám đã mở ra thời đại mới của lịch sử dân tộc - thời đại Hồ Chí Minh,
mà nội dung chủ yếu là đất nước độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc, tiến lên con đường
xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám có nhiều nguyên nhân, trong đó nhân tố hàng đầu là sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo đó trước hết là sự hoạch
định đúng đắn Cương lĩnh, đường lối cách mạng.
- Thứ nhất, Đảng đã hoạch định đúng đắn Cương lĩnh và đường lối cách mạng.
Vào những giai đoạn khác nhau, căn cứ vào tình hình biến đổi của thực tiễn, Đảng ra
đã kịp thời điều chỉnh chủ trương, đường lối, nhiệm vụ nhưng vẫn luôn giữ được sự
nhất quán về mục tiêu cũng như phương pháp cách mạng. Đường lối cách mạng đúng
đắn đã dẫn dắt phong trào cách mạng của toàn dân tộc phát triển mạnh mẽ bảo đảm đi
đến thắng lợi.
- Thứ hai, Đảng biết coi trọng phát triển lực lượng, chủ động nắm bắt thời cơ, dự
đoán được tình hình, biết địch, biết ta trăm trận trăm thắng và quan trọng là Đảng và
Bác Hồ biết tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong nhân dân cả nước. Ngay
từ khi thành lập (1930) đến năm 1945, Đảng ta đã từng bước chuẩn bị lực lượng, xây
dựng và phát triển thực lực cách mạng, lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động
qua các phong trào, cao trào cách mạng sôi nổi rộng khắp cả nước như cao trào 1930-
1931, cao trào 1936-1939 và đặc biệt là cao trào cách mạng trong giai đoạn 1939-1945.
Chỉ với gần 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo hơn 20 triệu đồng bào cả nước
làm nên chiến công có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Lịch sử mãi mãi ghi công những cán
bộ, đảng viên kiên trung cùng sự hy sinh, chiến đấu của toàn dân. Sự vùng dậy của cả
một dân tộc vì độc lập, tự do với những người cộng sản dẫn đầu mãi mãi là hình tượng
cao đẹp của cuộc Cách mạng Tháng Tám.
- Thứ ba, bài học về sự lãnh đạo của Ðảng trong Cách mạng Tháng Tám là Ðảng
đã lựa chọn và kết hợp đúng đắn các hình thức tuyên truyền quần chúng nhân dân;
động viên, giáo dục cho hàng triệu quần chúng trong khắp các cuộc đấu tranh chính trị
rộng khắp; tích cực vận động các tầng lớp trung gian (tiểu tư sản, tư sản dân tộc, nhân
sĩ yêu nước trong giai cấp địa chủ…) đứng về phía cách mạng; tranh thủ tối đa các lực
lượng cách mạng trong nước và quốc tế để tổ chức phương pháp đấu trang thích hợp.
lOMoARcPSD| 46454745
- Thứ tư, Đảng đã dự kiến và chớp đúng thời cơ hành động, nhất là trong những
bước ngoặt lớn của cuộc chiến. Từ đó, tập hợp và đoàn kết rộng rãi lực lượng của toàn
dân tộc trong Mặt trận Việt Minh, tạo sức mạng tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn
dân đứng lên đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân, tạo lập nên nhà nước dân
chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Dưới sự lãnh đạo của một chính đảng cầm quyền đầy bản lĩnh, độc lập, sáng tạo - một
đảng vì dân - Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã và đang tiếp tục phát
huy truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, viết tiếp những bản anh hùng ca thực
hiện khát vọng tự cường dân tộc, xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hôi chủ nghĩa “dân 
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
lOMoARcPSD| 46454745
TỪ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ QUYẾT 15 (THÁNG 1/1959) VỀ CÁCH
MẠNG MIỀN NAM, ANH CHỊ HÃY LÀM RÕ NHẬN ĐỊNH: NGHỊ QUYẾT 15
SOI SÁNG CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH MẠNG MIỀN NAM
lOMoARcPSD| 46454745
PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI TRÊN LĨNH
VỰC KINH TẾ ĐƯỢC NÊU TẠI ĐẠI HỘI VI CỦA ĐẢNG (12/1986). TỪ CHỦ
TRƯƠNG MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẠI HỘI VI,
lOMoARcPSD| 46454745
THEO ANH CHỊ, VIỆT NAM CẦN CÁC GIẢI PHÁP GÌ ĐỂ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG BỐI CẢNH MỚI?
lOMoARcPSD| 46454745
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG
CỘNG SẢN VN
Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc:
Ngày 5 6 1911, từ cảng Nhà Rồng, Nguyễn Ái Quốc làm phụ bếp trên tàu Đô đốc
Trêvin và bắt đầu cuộc hành trình vạn dặm, hòa mình vào cuộc sống lao động Pháp để
tìm đường cứu nước. Từ 1911 đến 1917, Người đã đến nhà nước châu Âu, châu Phi và
châu Mĩ. Cuối năm 1917, Người trở lại Pháp theo đuổi lí tưởng của Đại Cách mạng
Pháp: Tự do, Bình đẳng và Bác ái.
Ngày 18 6 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất
Thành với tên gọi là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxai Bản yêu sách của nhân
dân An Nam.
Giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của LêNin. Từ đây người tìm ra con đường cứu nước giải phóng
dân tộc.
* Nguyễn Ái Quốc truyền bá CN MácLênin chuẩn bị thành lập đảng:
Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của Angiêri, Marốc, Tuynidi,... Nguyễn
Ái Quốc lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực lượng
cách mạng chống chủ nghĩa thực dân.
Tháng 6 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời nước Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị
Quốc tế Nông dân (10 1923) và được bầu vào Ban chấp hành Hội. Người ở lại Liên
Xô, vừa nghiên cứu, học tập, viết bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô, tạp
chí Thư tín Quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V
(1924), Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường quan điểm của mình về vị trí chiến lược
của cách mạng các nước thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các
nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, về vai trò và sức mạnh
to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa.
Ngày 11 11 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu ( Trung Quốc ) để trực tiếp đào
tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lí luận cách mạng giải phóng dân
tộc vào Việt Nam. Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động
ở đây và chọn một số thanh niên hăng hái trong tổ chức Tâm tâm xã, mở các lớp huấn
luyện chính trị ngắn hạn để đào tạo họ thành cán bộ cách mạng đưa về nước hoạt
động.
Nhờ hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
phong trào cách mạng ở trong nước ngày càng phát triển sôi nổi, khuynh hướng các
mạng vô sản dần dần chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc. Đến năm 1929, Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng cơ sở ở khắp ba kì.Những hoạt động của
Người từ 1911 đến 1929 có tác dụng quyết định trong việc chuẩn bị về tư tưởng, chính
trị và đạo đức cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản Việt Nam.
* Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất 3 đảng:
Sau một thời gian dài hoạt động có hiệu quả, tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên dần mất vai trò lịch sử. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong
nước đòi hỏi phải có một đảng cách mạng tiên phong đủ sức lãnh đạo và đưa phong
lOMoARcPSD| 46454745
trào tiếp tục đi lên. Để đáp ứng nhu cầu đó, từ giữa đến cuối năm 1929, ở Việt Nam đã
lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng
sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản nói trên đánh dấu sự phát triển vượt bậc của phong
trào cách mạng nước ta. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, các tổ chức này đã đả
kích lẫn nhau, làm giảm uy tín của các tổ chức cộng sản và gây ảnh hưởng tiêu cực
đến phong trào cách mạng đang lên.
Từ 3 2 đến 7 2 1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị để hợp nhất các tổ chức
cộng sản tại Hương Cảng ( Trung Quốc ). Người chủ trì hội nghị và đã phân tích
những hoạt động bè phái, chia rẽ của ba tổ chức cộng sản và tác hại của nó. Do yêu
cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam và uy tín đức độ của Người nên đã đã thống
nhất được các tổ chức cộng sản. Hội nghị nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt
Nam thành đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Thành lập ĐCSVN:
Thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã
vạch ra đường lối, phương hướng cơ bản cho cách mạng Việt Nam (đây chính là bản
cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam ).
=>Hai thập niên đầu thể kỉ XX, với những hoạt động cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã
truyền bá chủ nghĩa MácLêNin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ
chức cho việc thành lập Đảng.
Đồng thời, Người đã thành công trong việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng
Cộng sản Việt Nam.
lOMoARcPSD| 46454745
NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA CHỈ THỊ "NHẬT - PHÁP BẮN NHAU VÀ HÀNH
ĐỘNG CỦA CHÚNG TA" 12/3/1945
Nội dung
Sau khi Nhật vào Đông Dương, để tiến hành quá trình xâm lược của mình, Nhật đã bắt tay với
thực dân Pháp tiến hành đàm áp phong trào cách mạng ở Việt Nam. Tuy nhiên mâu thuẫn về
quyền lợi giữa chúng ngày càng gia tăng, nguy cơ nổ ra xung đột ngày càng cao và tất yếu
phát-xít Nhật sẽ hất cẳng thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương. Cũng từ rất sớm, Đảng ta đã
phân tích chính xác mâu thuẫn giữa các thế lực đế quốc, nhận định phát-xít Nhật sẽ đảo chính
hất cẳng thực dân Pháp ở Đông Dương và vạch ra kế hoạch hành động khi xuất hiện tình hình
mới.
Thực tiễn lịch sử chứng minh những dự báo mà Đảng đưa ra hoàn toàn đúng đắn, chính xác.
Lúc bấy giờ trên thế giới, với chiến thắng của Liên Xô và các lực lượng đồng minh trước chủ
nghĩa phát-xít, thời cơ cách mạng đã đến với nhiều nước trên thế giới khi Chiến tranh thế giới
thứ hai kết thúc. Hàng loạt cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nổ ra thắng lợi, hình thành
một hệ thống các nước chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở Á, Phi,
Mỹ la-tinh đứng trước vận hội lớn của lịch sử trong đó có Việt Nam.
Lúc bấy giờ, vấn đề "cuộc đảo chính của phát-xít Nhật" luôn luôn được đề cập trong
những văn kiện, tài liệu tuyên truyền của Đảng trong những năm đầu 1945, định hướng công
tác chuẩn bị của phong trào cách mạng cho thời điểm "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Vì thế, ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Hội nghị Thường vụ mở rộng, dưới
sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, đã khai mạc tại chùa Đồng Kỵ, sau đó họp tiếp tại
làng Đình Bảng (Bắc Ninh), ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" vào
ngày 12-3-1945.
Chỉ thị xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt của nhân dân Đông Dương là phát xít Nhật,
do đó phải thay đổi khẩu hiệu “đánh đuổi Nhật, Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít
Nhật” chống lại chính quyền Nhật và chính phủ bù nhìn của bọn Việt gian thân Nhật. Chỉ
thị nhấn mạnh: cuộc đảo chính đã tạo ra ở Đông Dương “một cuộc khủng hoảng chính trị sâu
sắc”(1), tuy nhiên , “những điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi”(2) vì quân Pháp tan
rã, song quân Nhật chưa đến mức hoàng mang cực độ, các tầng lớp trung giang chưa ngã hẵn
về phía cách mạng, đội quân tiên phong chưa sẵn sàng.
Bản Chỉ thị đã vạch rõ những điều kiện về cuộc khởi nghĩa Đông Dương “Phát động một
cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cao trào ấy
có thể bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị phá phách cho đến những hình
thức cao hơn như biểu tình thị uy võ trang, du kích…”(3) , đồng thời “sẵn sàng chuyển qua
hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện”(4) . Với tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong
Chỉ thị là “phải hành động ngay, hành động cương quyết nhanh chóng, sáng tạp chủ động táo
bạo”(5) .
Trong cách mạng, tương quan lực lượng giữa ta và địch ở mỗi nơi không giống nhau, cách
mạng có thể chín muồi ở các địa phương không đều nhau nên Thường vụ Trung ương Đảng
đã Chỉ thị: “Nơi nào thấy so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng thì tiến hành khởi nghĩa
từng phần, giành chính quyền từng bộ phận, rồi tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
lOMoARcPSD| 46454745
trong toàn quốc và không được ỷ lại vào bên ngoài khi tình thế biến chuyển thuận lợi, mà
phải dựa vào sức mình là chính”
Chỉ thị đã xác định đúng kẻ thù, dự báo chính xác thời cơ cách mạng, linh hoạt, sáng tạo và
chuẩn bị mọi điều kiện làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân
khi thời cơ đến. Điều đó thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy khoa họcnghệ thuật chỉ đạo
cuộc cách mạng tài tình của Đảng ta trong cách mạng. Chỉ thị là kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng và của Mặt trận Việt Minh, ở các địa phương cả nước trong cao trào kháng
Nhật cứu nước, có tác dụng quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa
Tám năm 1945 đúng như lời khẳng định chắc chắn của Chỉ thị: "Thắng lợi cuối cùng nhất
định về tay chúng ta!".
Ý nghĩa
Thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết và kịp thời của Đảng trong HCLS mới. Là kim
chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cứu nước,
có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa T8 năm1945.
Từ giữa tháng 03/1945, phong trào kháng Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ.
Xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương là phát xít
Nhật; thay khẩu hiệu đánh đuổi phátxít Nhật, Pháp bằng khẩu hiệu đánh đuổi phátxít Nhật và
đưa ra khẩu hiệu “thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương”. Phát động
cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa; phải có những
hình thức tuyên truyền, đấu tranh hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa như đẩy mạnh tuyên truyền
võ trang, biểu tình, tuần hành, thị uy, bãi công chính trị, phá các kho thóc của Nhật để giải
quyết nạn đói, phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, lập chính quyền bộ phận,
mở rộng căn cứ địa cách mạng để khi đủ điều kiện sẽ chuyển sang tổng khởi nghĩa.
| 1/20

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46454745
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ DÂN CHỦ VIỆT NAM (1930-1945)
Đồng chí Trần Phú, trong luận cương tháng 10 năm 1930 cho rằng vấn đề cách mạng Việt
Nam cần tập trung giải quyết là vấn đề đấu tranh giai cấp. Nhân dân Việt Nam đã đứng lên
đấu tranh nhằm giải quyết vấn đề về giai cấp thông qua 2 cao trào cách mạng - Cao trào cách mạng 1930-1931
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933 lan nhanh đến các nước thuộc địa, làm cho mọi
hoạt động sản xuất bị đình đốn. Ở Đông Dương, thực dân Pháp tăng cường bóc lột để bù đắp
những hậu quả của cuộc khủng hoảng ở chính quốc, đồng thời tiến hành một chiến dịch
khủng bố trắng nhằm đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên bái (2-1930). Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
nam với đế quốc Pháp và lực lượng tay sai ngày cảng phát triển gay gắt. Từ tháng 1 đến tháng
4 năm 1930, liên tục xảy ra các cuộc bãi công của công nhân tại các nhà máy xí nghiệp cũng
như là các cuộc đấu tranh của nhân dân các tỉnh thành. Tuy nhiên đến cuối năm 1930, thực
dân Pháp tập trung lực lượng đàn áp, kết hợp các thủ đoạn tra tấn bạo lực khiến cho các tổ
chức của Đảng và của quần chúng tan rã hầu hết.
Tuy bị đàn áp bởi đế quốc và tay sai nhưng cao trào cách mạng 1930-1931 là bước thắng lợi
đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến tiến trình phát triển về sau của cách mạng Việt Nam. Nó để
lại cho Đảng những kinh nghiệm quý báu “về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và
phản phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân với phong trào đấu tranh của
nông dân, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân; kết hợp
phong trào cách mạng ở nông thôn với phong trào cách mạng ở thành thị, kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang.
- Cao trào cách mạng 1936-1939
Trong giai đoạn này, chúng ta đã thay đổi phương thức đấu tranh từ đấu tranh vũ trang sang
đấu tranh chính trị. Chủ trương mới của Đảng đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng bức thiết của
quần chúng nhân dân, đã dấy lên phong trào cả nước đấu tranh sôi nổi, mạnh mẽ nhằm vào
mục tiêu trước mắt là tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Để thực hiện được mục tiêu này,
Đảng ta đã tập trung giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt;
về xây dựng một mặt trận thống nhất rộng rãi phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị,
phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất; về kết hợp các hình thức tổ chức bí mật và
công khai để tập hợp quần chúng và các hìn thức, phương pháp đấu tranh: tổ chức Đông
Dương đại hội, đấu tranh nghị trường, trên mặt trận báo chí, đòi dân sinh, dân chủ...
Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 là một phong trào dân tộc dân chủ rộng lớn, qua đó Đảng
ta đẩy mạnh được hoạt động tuyên truyền giáo dục sâu rộng tư tưởng Mác Lenin, đường lối
chính sách của Đảng, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân trong việc xây dựng được
một đội quân chính trị đông đảo. Phong trào đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm như bài học
về sử dụng các hình thức và khẩu hiệu đấu tranh, xây dựng được Mặt trận nhân dân thống
nhất. Đây được coi như là cuộc diễn tập lần thứ hai của sự chuẩn bị cho sự thắng lợi của Cách mạng Tháng 8 năm 1945. - Giai đoạn 1939-1945
Khi tình hình thế giới và trong nước có sựu thay đổi, xuất phát từ việc chúng ta không tiếp tục
mục tiêu đấu tranh giai cấp nữa mà thực hiện đấu tranh giải phóng dân tộc. Hình thức đấu lOMoAR cPSD| 46454745
tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị. Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo của Đảng
trước đây ta chủ yếu tập trung vào đấu tranh giai cấp, thì bây giờ ta tập trung vào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đây là giai đoạn diễn ra cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Việc thực dân Pháp tham gia vào
cuộc chiến tranh ngay từ những ngày đầu dẫn đến việc chúng tiến hành ra sức vơ vét của cải
của nhân dân ta, bóc lột sức lao động, đem nhân dân ta ra làm bia đỡ đạn. Chúng còn khiến
cho nhân dân lao động trong nước cũng như nhân dân các nước thuộc địa cũng phải tham gia vào cuộc chiến này.
Đảng và nhà nước ta bị rơi vào tình thế 1 cổ đôi tròng, xác định được mục tiêu hàng đầu lúc
bấy giờ là đấu tranh giải phóng dân tộc, chống Nhật và Pháp. lOMoAR cPSD| 46454745
CƠ SỞ ĐỂ ĐẢNG TA ĐỀ RA ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI MỚI Tình hình thế giới:
- 1/9/1939, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, 2 ngày sau kẻ thù trực tiếp của
nhân dân Việt Nam là Anh và Pháp đã tham gia cuộc chiến này. Rõ ràng để có được
nhiều của cải vật chất nhất cho cuộc chiến này, thực dân Pháp tăng cường bóc lột nhân
dân lao động trong nước cũng như nhân dân các nước thuộc địa. Thực dân Pháp bắt
nhân dân ta làm bia đỡ đạn cho chiến tranh chiến trường -> đẩy nhân dân lao động của
Pháp và các nước thuộc địa tham gia vào chiến tranh.
- Hăm hở tham gia vào cuộc chiến tranh ngay từ những ngày đầu nhưng thực dân Pháp
chỉ trụ được 9 tháng, nhanh chóng bị phát xít Đức tấn công Pháp, buộc Pháp kí kết đầu
hàng Đức vào tháng 6/1940. Việc Pháp thua có nghĩa là tất cả các thuộc địa của Pháp
sẽ bị các nước Phát xít nhảy vào xâu xé. Trên thực tế, từ tháng 9/1940, Nhật đã nhảy
vào Đông Dương. Ngày 22/9, Nhật tấn công vào Lạng Sơn, 23/9 Chính phủ Pháp tại
Đông Dương đã nhanh chóng kí hiệp ước đầu hàng.
- Mục đích chính của cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 là một cuộc chiến tranh trong nội
bộ giữa các nước tư sản và mang tính chất của cuộc chiến tranh phi nghĩa nhưng khi
Liên Xô tham gia vào cuộc chiến tranh này, tính chất của cuộc chiến tranh đã bị thay
đổi khi mà kẻ thù của nhân dân thế giới không còn là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà
lúc này là chủ nghĩa Phát xít.
- Ngày 8/12/1941, Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng, chiến tranh lan rộng ở Châu
á, Thái bình dương. Mỹ bất ngờ bị tấn công, buộc tham gia vào cuộc chiến tranh khiến
cục diện cuộc chiến thay đổi, làm cho ưu thế dần nghiêng về phe của quân Đồng
minh, tạo sự cân bằng trong sức mạnh quân sự cho phe Phát xít. Tình hình trong nước:
- Pháp đã Phát xít hóa bộ máy thống trị của nước ta, toàn bộ quyền tự do dân chủ mà họ
ban cho ta từ giai đoạn 1936-1939 bị chúng bóp nghẹt.
- Sau khi Pháp kí hiệp ước đầu hàng Nhật vào ngày 23/9/1940, Nhân dân ta đã phải
chịu cảnh “1 cổ đôi tròng” khi mà vừa phải hứng chịu áp bức từ cả Nhật và Pháp. Từ
đó làm gia tăng thêm một mâu thuẫn gay gắt trong lòng xã hội Việt Nam. Cách mạng
Việt Nam chuyển hướng sang đấu tranh giải phóng dân tộc.
NỘI DUNG CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC TẠI HỘI NGHỊ TW8 (5/1941) Nội dung:
- Thứ nhất, nhấn mạnh mâu thuẫn phải được giải quyết cấp bách giữa Việt Nam với
phát xít Pháp – Nhật, bởi “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong”.
- Thứ hai, khẳng định chủ trương “phải thay đổi chiến lược”. Đảng khẳng định: “Chưa
chủ trương làm CMTS dân quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc”.
- Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thi hành
chính sách “dân tộc tự quyết”. Theo đó, thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt
trận riêng đoàn kết dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù chung.
- Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, “ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ
cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự lOMoAR cPSD| 46454745
do cho dân tộc”. Các tổ chức quần chúng trong mặt trận Việt Minh đều mang tên “cứu quốc”.
- Thứ năm, khi cách mạng thành công, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa –
nhà nước “của chung cả toàn thể dân tộc”, chứ không phải “công nông liên hiệp và chính quyền Xô viết”.
- Thứ sáu, nhiệm vụ trung tâm là chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang; “phải luôn luôn chuẩn bị
một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù”, xác
định những điều kiện chủ quan, khách quan và dự đoán thời cơ tổng khởi nghĩa.
Ý nghĩa của chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
- Có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của phong trào CM, đi tới thắng lợi của CMT8/1945
- Hoàn chỉnh chủ trương chiến lược từ Hội nghị tháng 11/1939, khắc phục triệt để
những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930
- Khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn trong Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.
- Là ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân Việt Nam đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị lực
lượng, tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do cho dân tộc và nhân dân.
- Phát triển và làm phong phú kho tàng lý luận Mác Lê-nin về CM giải phóng dân
tộc NỘI DUNG LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ THÁNG 10/1930 Hoàn cảnh ra đời:
- Từ 14 30/10/1930 hội nghị BCH TW họp lần thứ nhất tại Hương Cảng, do Trần
Phú chủ trì. Nội dung của hội nghị gồm: Thảo luận Luận cương chính trị, quyết
định đổi tên Đảng từ Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông
Dương, trong hội nghị các đại biểu cũng nhất trí bầu đồng chí Trần Phú làm tổng bí thư.
- Năm 1930: Tháng 41930, Trần Phú sau thời gian học tập ở Liên Xô đượcquốc tế
cộng sản cử về nước. Đến tháng 71930 được bổ sung vào BCH TW Đảng Nội
dung cơ bản của luận cương:
- Về mâu thuẫn xã hội: Một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ,
một bên là địa chủ phong kiến, tư bản và chủ nghĩa đế quốc.
- Về tính chất và mục tiêu chiến lược của cách mạng Đông Dương: Lúc đầu là
một cuộc cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế. "Tư sản
dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Sau khi cách
mạng tư sản dân quyền thắng lợi thì sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản
mà đi thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa"
- Về nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền: Đấu tranh để đánh đổ các di tích
phong kiến, thực hànhcách mạng ruộng đất; đánh đổ đế quốc Pháp, làm cho
Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu đó liên lạc mật thiết với nhau
nhưng " vấn đề thuộc địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền". - Về
lực lượng của cách mạng : lOMoAR cPSD| 46454745
+ Công nhân và nông dân là hai động lực chính của cách mạng, trong đó giai cấp
công nhân là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng; nông dân là
một động lực đông đảo và mạnh của cách mạng
+ Tư Sản thương nghiệp thì đứng về đế quốc chống Cộng sản. Tư sản công nghiệp
thì đứng về quốc gia cải lương, khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ đứng về đế quốc.
+Trong giai cấp tiểu tư sản: bộ phận thủ công nghiệp thì do dự, thành phần thương
gia thì không tán thành cách mạng, trí thức thì có xu hướng quốc gia chỉ hăng hái
trong thời kì đầu, chỉ các phần tử lao khổ mới theo cách mạng mà thôi.
- Về phương pháp cách mạng: Đảng phải lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tiến lên võ
trang bạo động để giành chính quyền.
- Về mối quan hệ giữa cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới: cách mạng
Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện cốt
yếu cho sự thắng lợi của cách mạng. Muốn vậy:
+ Đảng phải có đường lối đúng đắn, gắn bó với giai cấp, lấy chủ nghĩa MácLênin làm nền tảng
+ Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu cho chính quyền lợi
của giai cấp công nhân, đấu tranh cho mục tiêu chủ nghĩa cộng sản.
+ Đảng phải liên lạc mật thiết với vô sản các dân tộc thuộc địa, nhất là với vô sản Pháp.
=>Như vậy, hội nghị Trung ương 10/1930 đã có một số quyết định rất quan trọng về đường lối cách mạng Việt Nam. lOMoAR cPSD| 46454745
DỰ KIẾN THỜI CƠ CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA ĐƯỢC THÔNG QUA
NHƯ THẾ NÀO TRONG CUỘC NHẬT-PHÁP BẮN NHAU
Nhận định thời điểm chín muồi là khi Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện, lúc đó sẽ tạo
thế 2 tròng để quân ta đánh đuổi Nhật
Nếu như Nhật để mất nước như Pháp ở thời điểm cuối 1940, chúng ta sẽ đứng lên giành chính
quyền. Kể từ đó, phong trào kháng Nhật nổ ra tại khắp nơi trên đất nước.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH ĐƯỢC ĐẢNG TA NHẬN ĐỊNH TRONG CUỘC NHẬT- PHÁP BẮN NHAU
Cuộc đấu tranh giành chính quyền của nhân dân Việt nam được lịch sử Thế giới ghi nhận là
cuộc chiến tranh ít đổ máu, ít tốn kém nhất. Việc Nhật Pháp bắn nhau tạo một điều kiện hết
sức hoàn hảo cho nhân dân ta giành chính quyền.
Việc Nhật đảo chính Pháp, cộng thêm việc Pháp là tay sai của Nhật trong cuộc chiến tranh
độc chiếm Đông Dương. Ngay tại thời điểm đó, Nhật chưa thể gây dựng cho mình một bộ
máy cai trị ngay lập tức thay thế cho Pháp. Trong bối cảnh đó, quân Pháp cũng hoang mang
xao động. Trên chiến trường, Pháp đang thắng nhưng trong cuộc chiến tranh tại Đông Dương
thì Pháp đang là nước bại trận, điều này gây nên một khoảng trống lớn về mặt quyền lực
chính trị ở Việt nam sau khi Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương.
-Tình thế cách mạng: chúng ta chưa cần đánh gì nhưng đã loại bỏ được 1 kẻ thù là thực dân
Pháp, hai lực lượng này xung đột lẫn nhau, làm cho lực lượng cách mạng của họ trở nên suy
yếu. Nhưng Đảng ta lại nhận định rằng “thời cơ cách mạng chưa thật sự chín muồi”, bởi vì
Đông Dương là cứ điểm cuối cùng của phát xít Nhật, bằng mọi cách Nhật đang tìm cách giữ
lại cứ điểm này. Nếu như chúng ta tiến hành cách mạng, tất yếu sẽ dẫn đến thất bại, nhưng
hiện vẫn có những cơ hội tốt cho chúng ta tiến hành tổng khởi nghĩa. Khi mà chúng ta chỉ có
một kẻ thù thôi, chúng ta có thể xem xét nếu như trên chiến trường, nếu phát xít Nhật đầu
hàng trước quân Đồng minh vô điều kiện thì đó là lúc chúng ta có thể đứng lên giành chính quyền.
Xác định kẻ thù: Đảng ta nhanh chóng thay đổi khẩu hiệu là “Đánh đuổi phát xít Nhật –
Pháp” bằng “đánh đuổi phát xít Nhật”. Đảng ta đã nhìn ra vấn đề quân Đồng minh đang thắng
thế, chúng ta xác định rằng phải làm mất hết chức năng của Pháp tại Việt Nam. Nhiệm vụ
trước mắt: Đảng ta xác định mục tiêu trước mắt hiện nay là đánh đuổi Nhật
TẠI SAO NHẬT PHÁP BẮN NHAU LẠI TẠO RA MỘT CUỘC KHỦNG HOẢNG
CHÍNH TRỊ SÂU SẮC
Đảng ta đã nhận định sau khi Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra cuộc
khủng hoảnh chính trị sâu sắc.
PHÂN TÍCH BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG
8 VÀ TẬN DỤNG VÀO HIỆN NAY
Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều kinh nghiệm
quý báu, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc. lOMoAR cPSD| 46454745
Những kinh nghiệm chính là: -
Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến.
Con đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc và Cương lĩnh của Đảng đã xác định cách mạng
nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn
liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ
chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức
sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định: tuy hai nhiệm vụ không tách
rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải
phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu cụ thể
như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công, chia ruộng đất của bọn phản động cho nông dân
nghèo, tiến tới cải cách ruộng đất. Phân tích mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam khi
Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng chủ trương chĩa mũi nhọn của cách mạng vào đế
quốc phát xít Nhật Pháp và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách
của cách mạng là giải phóng dân tộc. Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của sự kết
hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. -
Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công nông
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu
người Việt Nam. Nhưng cuộc nổi dậy của toàn dân chỉ có thể thực hiện được khi có đạo quân
chủ lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đạo quân chủ
lực này được xây dựng,củng cố qua ba cao trào cách mạng và lớn mạnh vượt bậc trong tổng
khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân chủ lực làm nền tảng. Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết
dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi. -
Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phát xít,
mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn
trong hàng ngũ ngụyquyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế
quốc phát xít và bọn tay saiphản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng.
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu. -
Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng
một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.
Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng
chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng
vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó vai trò quyết định là các cuộc tổng
khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả
các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ
thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi lOMoAR cPSD| 46454745
nghĩa, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập rabộ máy nhà nước của nhân dân. -
Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ
Đảng ta coi khởi nghĩa là một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin
và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa
ở nước ta. Trongrất nhiều văn kiện của Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã
vạch ra những điều kiện làmthời cơ cho tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm
quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta
không thể sống nghèo khổ như trước được nữa (khi hơn hai triệu người đã bị chết đói...).
Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước
làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. -
Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Đảng ta ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, không
ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Điều đó đòi hỏi Đảng phải
biết vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta,
kịp thời tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng.
Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ trương của Đảng
trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những khuynh
hướng lệch lạc. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên
về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, xây dựng Đảng vững mạnh và
trong sạch. Đảng biết phát huy triệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên
và thông qua Mặt trận để lãnh đạo nhân dân đấu tranh.
TẠI SAO NÓI TRONG CHỦ TRƯƠNG KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC, ĐẢNG
LẠI CHO RẰNG THỰC DÂN PHÁP LÀ ĐỐI THỦ CHỦ YẾU LÚC BẤY GIỜ CỦA TA
- Ngày 25/11/1945, Ban chấp hành trung ương Đảng đưa ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”,
vạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
+ Về mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam: là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng,
khẩu hiệu lúc này là “Dân tộc là trên hết, Tổ quốc là trên hết”, nhưng không phải giành độc
lập mà là giữ vững độc lập.
+ Xác định kẻ thù: Chưa bao giờ cùng một lúc mà cách mạng Việt Nam phải đối phó với
nhiều kẻ thù như lúc này: 6 kẻ thù
.) Ở miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 Đà Nẵng trở ra): Gần 20 vạn quân Tưởng lũ lượt vào miền Bắc.
Sau lưng chúng là bọn Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu thủ tiêu chính quyền cách mạng,
đưa bọn tay sai lập chính quyền bù nhìn và thực hiện chính sách cứơp bóc nhân dân Việt
Nam. Quân Tưởng vào Việt nam với mục đích cao nhất là về kinh tế, chúng thực hiện vơ vét
bóc lột của cải của nhân dân. Chúng cho rằng ở trên đất nước ta được ngày nào hay ngày đó,
vì chúng có thể phải trở về bất kì lúc nào nếu cục diện chiến tranh giữa quân đội của Mao
Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch có sự chuyển biến nghiên về phía kia. lOMoAR cPSD| 46454745
.) Ở Miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào): Trên một vạn quân Anh cũng mượn tiếng là vào tước
vũ khí của Nhật, nhưng kỳ thực là chúng mở đường cho thực dân Pháp cướp lại nước ta. Ngày
23/9/1945 dưới sự yểm trở của 2 sư đoàn thiết giáp Anh, Pháp đã nổ súng tấn công Sài Gòn,
chính thức xâm lược nước ta lần thứ 2.
.) Trên đất nước ta lúc này có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ lệnh giải giáp. Nhật là nước
vừa bại trận tại cuộc chiến tranh TGT2
.) Quân Mỹ đứng sau giật dây cho Tưởng, đặt Đông Dương trong chế độ chính trị. Mỹ thực
hiện chấp nhận cho Pháp vào đánh chiếm Việt Nam
.) Kiến quốc Việt cách: những phần tử phản động, đưa ra mục tiêu Diệt Cộng, Cầm Hồ, những
phần tử này chỉ gây ra sự khó khăn tại những nơi mà lực lượng ta còn non yếu, không phải là
kẻ thù chính của cả dân tộc Việt nam.
=> Xác định kẻ thù: Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Ban chấp hành
trung ương nêu rõ: Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung
ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Vì vậy phải lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân
Pháp xâm lược; mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân, thống nhất
mặt trận Việt Minh Lào chống Pháp xâm lược; kiên quyết giành độc lập tự do hạnh phúc dân tộc,…
PHÂN TÍCH BƯỚC PHÁT TRIỂN TƯ DUY CỦA CÁCH MẠNG TỪ 1954-1965 lOMoAR cPSD| 46454745
TRÌNH BÀY CƠ SỞ ĐẢNG ĐỀ RA TRONG PHẦN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC lOMoAR cPSD| 46454745
VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA MỖI MIỀN VÀ QUAN HỆ 2 MIỂN TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ lOMoAR cPSD| 46454745
ANH CHỊ HÃY CHỨNG MINH RẰNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN
TỐ HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công vang rội là do Đảng Cộng sản và lãnh tụ Hồ Chí
Minh lãnh đạo. Đây là nhân tố hàng đầu quyết định sự thành công của cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc nhân dân ở một nước thuộc địa ở khu vực Đông Nam Châu Á. Đây cũng là
thắng lợi đầu tiên của Đảng sau 15 năm ra đời. Thắng lợi đó khẳng định chân lý mà Hồ Chí
Minh nêu rõ trong Tuyên ngôn độc lập: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Cách mạng Tháng Tám đánh đổ chế độ phong kiến đã suy tàn, lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa - Nhà nước cách mạng kiểu mới, không phải để cai trị dân mà để phục vụ nhân
dân. Cách mạng Tháng Tám đã mở ra thời đại mới của lịch sử dân tộc - thời đại Hồ Chí Minh,
mà nội dung chủ yếu là đất nước độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc, tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám có nhiều nguyên nhân, trong đó nhân tố hàng đầu là sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo đó trước hết là sự hoạch
định đúng đắn Cương lĩnh, đường lối cách mạng.
- Thứ nhất, Đảng đã hoạch định đúng đắn Cương lĩnh và đường lối cách mạng.
Vào những giai đoạn khác nhau, căn cứ vào tình hình biến đổi của thực tiễn, Đảng ra
đã kịp thời điều chỉnh chủ trương, đường lối, nhiệm vụ nhưng vẫn luôn giữ được sự
nhất quán về mục tiêu cũng như phương pháp cách mạng. Đường lối cách mạng đúng
đắn đã dẫn dắt phong trào cách mạng của toàn dân tộc phát triển mạnh mẽ bảo đảm đi đến thắng lợi.
- Thứ hai, Đảng biết coi trọng phát triển lực lượng, chủ động nắm bắt thời cơ, dự
đoán được tình hình, biết địch, biết ta trăm trận trăm thắng và quan trọng là Đảng và
Bác Hồ biết tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong nhân dân cả nước. Ngay
từ khi thành lập (1930) đến năm 1945, Đảng ta đã từng bước chuẩn bị lực lượng, xây
dựng và phát triển thực lực cách mạng, lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động
qua các phong trào, cao trào cách mạng sôi nổi rộng khắp cả nước như cao trào 1930-
1931, cao trào 1936-1939 và đặc biệt là cao trào cách mạng trong giai đoạn 1939-1945.
Chỉ với gần 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo hơn 20 triệu đồng bào cả nước
làm nên chiến công có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Lịch sử mãi mãi ghi công những cán
bộ, đảng viên kiên trung cùng sự hy sinh, chiến đấu của toàn dân. Sự vùng dậy của cả
một dân tộc vì độc lập, tự do với những người cộng sản dẫn đầu mãi mãi là hình tượng
cao đẹp của cuộc Cách mạng Tháng Tám.
- Thứ ba, bài học về sự lãnh đạo của Ðảng trong Cách mạng Tháng Tám là Ðảng
đã lựa chọn và kết hợp đúng đắn các hình thức tuyên truyền quần chúng nhân dân;
động viên, giáo dục cho hàng triệu quần chúng trong khắp các cuộc đấu tranh chính trị
rộng khắp; tích cực vận động các tầng lớp trung gian (tiểu tư sản, tư sản dân tộc, nhân
sĩ yêu nước trong giai cấp địa chủ…) đứng về phía cách mạng; tranh thủ tối đa các lực
lượng cách mạng trong nước và quốc tế để tổ chức phương pháp đấu trang thích hợp. lOMoAR cPSD| 46454745
- Thứ tư, Đảng đã dự kiến và chớp đúng thời cơ hành động, nhất là trong những
bước ngoặt lớn của cuộc chiến. Từ đó, tập hợp và đoàn kết rộng rãi lực lượng của toàn
dân tộc trong Mặt trận Việt Minh, tạo sức mạng tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn
dân đứng lên đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân, tạo lập nên nhà nước dân
chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Dưới sự lãnh đạo của một chính đảng cầm quyền đầy bản lĩnh, độc lập, sáng tạo - một
đảng vì dân - Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã và đang tiếp tục phát
huy truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, viết tiếp những bản anh hùng ca thực
hiện khát vọng tự cường dân tộc, xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hôi chủ nghĩa “dân ̣
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. lOMoAR cPSD| 46454745
TỪ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ QUYẾT 15 (THÁNG 1/1959) VỀ CÁCH
MẠNG MIỀN NAM, ANH CHỊ HÃY LÀM RÕ NHẬN ĐỊNH: NGHỊ QUYẾT 15
SOI SÁNG CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH MẠNG MIỀN NAM lOMoAR cPSD| 46454745
PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI TRÊN LĨNH
VỰC KINH TẾ ĐƯỢC NÊU TẠI ĐẠI HỘI VI CỦA ĐẢNG (12/1986). TỪ CHỦ
TRƯƠNG MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẠI HỘI VI, lOMoAR cPSD| 46454745
THEO ANH CHỊ, VIỆT NAM CẦN CÁC GIẢI PHÁP GÌ ĐỂ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG BỐI CẢNH MỚI? lOMoAR cPSD| 46454745
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VN
Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc:
Ngày 5 6 1911, từ cảng Nhà Rồng, Nguyễn Ái Quốc làm phụ bếp trên tàu Đô đốc
Trêvin và bắt đầu cuộc hành trình vạn dặm, hòa mình vào cuộc sống lao động Pháp để
tìm đường cứu nước. Từ 1911 đến 1917, Người đã đến nhà nước châu Âu, châu Phi và
châu Mĩ. Cuối năm 1917, Người trở lại Pháp theo đuổi lí tưởng của Đại Cách mạng
Pháp: Tự do, Bình đẳng và Bác ái.
Ngày 18 6 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất
Thành với tên gọi là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxai Bản yêu sách của nhân dân An Nam.
Giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của LêNin. Từ đây người tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc.
* Nguyễn Ái Quốc truyền bá CN MácLênin chuẩn bị thành lập đảng:
Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của Angiêri, Marốc, Tuynidi,... Nguyễn
Ái Quốc lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực lượng
cách mạng chống chủ nghĩa thực dân.
Tháng 6 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời nước Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị
Quốc tế Nông dân (10 1923) và được bầu vào Ban chấp hành Hội. Người ở lại Liên
Xô, vừa nghiên cứu, học tập, viết bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô, tạp
chí Thư tín Quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V
(1924), Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường quan điểm của mình về vị trí chiến lược
của cách mạng các nước thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các
nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, về vai trò và sức mạnh
to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa.
Ngày 11 11 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu ( Trung Quốc ) để trực tiếp đào
tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lí luận cách mạng giải phóng dân
tộc vào Việt Nam. Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động
ở đây và chọn một số thanh niên hăng hái trong tổ chức Tâm tâm xã, mở các lớp huấn
luyện chính trị ngắn hạn để đào tạo họ thành cán bộ cách mạng đưa về nước hoạt động.
Nhờ hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
phong trào cách mạng ở trong nước ngày càng phát triển sôi nổi, khuynh hướng các
mạng vô sản dần dần chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc. Đến năm 1929, Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng cơ sở ở khắp ba kì.Những hoạt động của
Người từ 1911 đến 1929 có tác dụng quyết định trong việc chuẩn bị về tư tưởng, chính
trị và đạo đức cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản Việt Nam.
* Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất 3 đảng:
Sau một thời gian dài hoạt động có hiệu quả, tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên dần mất vai trò lịch sử. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong
nước đòi hỏi phải có một đảng cách mạng tiên phong đủ sức lãnh đạo và đưa phong lOMoAR cPSD| 46454745
trào tiếp tục đi lên. Để đáp ứng nhu cầu đó, từ giữa đến cuối năm 1929, ở Việt Nam đã
lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng
sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản nói trên đánh dấu sự phát triển vượt bậc của phong
trào cách mạng nước ta. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, các tổ chức này đã đả
kích lẫn nhau, làm giảm uy tín của các tổ chức cộng sản và gây ảnh hưởng tiêu cực
đến phong trào cách mạng đang lên.
Từ 3 2 đến 7 2 1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị để hợp nhất các tổ chức
cộng sản tại Hương Cảng ( Trung Quốc ). Người chủ trì hội nghị và đã phân tích
những hoạt động bè phái, chia rẽ của ba tổ chức cộng sản và tác hại của nó. Do yêu
cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam và uy tín đức độ của Người nên đã đã thống
nhất được các tổ chức cộng sản. Hội nghị nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt
Nam thành đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. * Thành lập ĐCSVN:
Thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã
vạch ra đường lối, phương hướng cơ bản cho cách mạng Việt Nam (đây chính là bản
cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam ).
=>Hai thập niên đầu thể kỉ XX, với những hoạt động cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã
truyền bá chủ nghĩa MácLêNin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ
chức cho việc thành lập Đảng.
Đồng thời, Người đã thành công trong việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam. lOMoAR cPSD| 46454745
NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA CHỈ THỊ "NHẬT - PHÁP BẮN NHAU VÀ HÀNH
ĐỘNG CỦA CHÚNG TA" 12/3/1945 Nội dung
Sau khi Nhật vào Đông Dương, để tiến hành quá trình xâm lược của mình, Nhật đã bắt tay với
thực dân Pháp tiến hành đàm áp phong trào cách mạng ở Việt Nam. Tuy nhiên mâu thuẫn về
quyền lợi giữa chúng ngày càng gia tăng, nguy cơ nổ ra xung đột ngày càng cao và tất yếu
phát-xít Nhật sẽ hất cẳng thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương. Cũng từ rất sớm, Đảng ta đã
phân tích chính xác mâu thuẫn giữa các thế lực đế quốc, nhận định phát-xít Nhật sẽ đảo chính
hất cẳng thực dân Pháp ở Đông Dương và vạch ra kế hoạch hành động khi xuất hiện tình hình mới.
Thực tiễn lịch sử chứng minh những dự báo mà Đảng đưa ra hoàn toàn đúng đắn, chính xác.
Lúc bấy giờ trên thế giới, với chiến thắng của Liên Xô và các lực lượng đồng minh trước chủ
nghĩa phát-xít, thời cơ cách mạng đã đến với nhiều nước trên thế giới khi Chiến tranh thế giới
thứ hai kết thúc. Hàng loạt cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nổ ra thắng lợi, hình thành
một hệ thống các nước chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở Á, Phi,
Mỹ la-tinh đứng trước vận hội lớn của lịch sử trong đó có Việt Nam.
Lúc bấy giờ, vấn đề "cuộc đảo chính của phát-xít Nhật" luôn luôn được đề cập trong
những văn kiện, tài liệu tuyên truyền của Đảng trong những năm đầu 1945, định hướng công
tác chuẩn bị của phong trào cách mạng cho thời điểm "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Vì thế, ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Hội nghị Thường vụ mở rộng, dưới
sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, đã khai mạc tại chùa Đồng Kỵ, sau đó họp tiếp tại
làng Đình Bảng (Bắc Ninh), ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" vào ngày 12-3-1945.
Chỉ thị xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt của nhân dân Đông Dương là phát xít Nhật,
do đó phải thay đổi khẩu hiệu “đánh đuổi Nhật, Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít
Nhật” chống lại chính quyền Nhật và chính phủ bù nhìn của bọn Việt gian thân Nhật. Chỉ
thị nhấn mạnh: cuộc đảo chính đã tạo ra ở Đông Dương “một cuộc khủng hoảng chính trị sâu
sắc
”(1), tuy nhiên , “những điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi”(2) vì quân Pháp tan
rã, song quân Nhật chưa đến mức hoàng mang cực độ, các tầng lớp trung giang chưa ngã hẵn
về phía cách mạng, đội quân tiên phong chưa sẵn sàng.
Bản Chỉ thị đã vạch rõ những điều kiện về cuộc khởi nghĩa Đông Dương “Phát động một
cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cao trào ấy
có thể bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị phá phách cho đến những hình
thức cao hơn như biểu tình thị uy võ trang, du kích…
”(3) , đồng thời “sẵn sàng chuyển qua
hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện
”(4) . Với tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong
Chỉ thị là “phải hành động ngay, hành động cương quyết nhanh chóng, sáng tạp chủ động táo bạo”(5) .
Trong cách mạng, tương quan lực lượng giữa ta và địch ở mỗi nơi không giống nhau, cách
mạng có thể chín muồi ở các địa phương không đều nhau nên Thường vụ Trung ương Đảng
đã Chỉ thị: “Nơi nào thấy so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng thì tiến hành khởi nghĩa
từng phần, giành chính quyền từng bộ phận, rồi tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
lOMoAR cPSD| 46454745
trong toàn quốc và không được ỷ lại vào bên ngoài khi tình thế biến chuyển thuận lợi, mà
phải dựa vào sức mình là chính”

Chỉ thị đã xác định đúng kẻ thù, dự báo chính xác thời cơ cách mạng, linh hoạt, sáng tạo và
chuẩn bị mọi điều kiện làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân
khi thời cơ đến. Điều đó thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy khoa học và nghệ thuật chỉ đạo
cuộc cách mạng tài tình của Đảng ta trong cách mạng. Chỉ thị là kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng và của Mặt trận Việt Minh, ở các địa phương cả nước trong cao trào kháng
Nhật cứu nước, có tác dụng quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa
Tám năm 1945 đúng như lời khẳng định chắc chắn của Chỉ thị: "Thắng lợi cuối cùng nhất
định về tay chúng ta!
". Ý nghĩa
Thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết và kịp thời của Đảng trong HCLS mới. Là kim
chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cứu nước,
có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa T8 năm1945.
Từ giữa tháng 03/1945, phong trào kháng Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ.
Xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương là phát xít
Nhật; thay khẩu hiệu đánh đuổi phátxít Nhật, Pháp bằng khẩu hiệu đánh đuổi phátxít Nhật và
đưa ra khẩu hiệu “thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương”. Phát động
cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa; phải có những
hình thức tuyên truyền, đấu tranh hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa như đẩy mạnh tuyên truyền
võ trang, biểu tình, tuần hành, thị uy, bãi công chính trị, phá các kho thóc của Nhật để giải
quyết nạn đói, phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, lập chính quyền bộ phận,
mở rộng căn cứ địa cách mạng để khi đủ điều kiện sẽ chuyển sang tổng khởi nghĩa.