Ôn tập lý thuyết - Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Trong bất kỳ một phương thức sản xuất nào, quan hệ sản xuất cũng phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Sự tác động qua lại và mối quan hệ giữa chúng luôn tồn tại và phải hài hòa, chặt chẽ. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:
Trường:

Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu

Thông tin:
7 trang 5 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Ôn tập lý thuyết - Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Trong bất kỳ một phương thức sản xuất nào, quan hệ sản xuất cũng phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Sự tác động qua lại và mối quan hệ giữa chúng luôn tồn tại và phải hài hòa, chặt chẽ. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

33 17 lượt tải Tải xuống
Trong bất kỳ một phương thức sản xuất nào, quan hệ sản xuất cũng phải phù
hợp với lực lượng sản xuất. Sự tác động qua lại và mối quan hệ giữa chúng
luôn tồn tại và phải hài hòa, chặt chẽ.
1. Lực lượng sản xuất là gì?
Lực lượng sản xuất được hiểu mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được
hình thành trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiệnthể
hiện ở trình độ khống chế tự nhiên của con người. Đó là kết quả năng lực thực tiễn
của con người tác động vào tự nhiện để tạo ra của casit vật chất nhằm bảo đảm sự
tồn tại và phát triển của con người.
Các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, chủ yếu bao gồm hai yếu tố sau đây:
Tư liệu sản xuất;
Lực lượng con người
Trong đó, liệu sản xuất đóng vai tròngmột khách thể, còn con người luôn
chủ thể.
Cụ thể, Lực lượng sản xuất bao gồm: tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết
công cụ lao động. Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất théo quen lao
động, biết sử dụng liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Theo đó, liệu sản
xuất bao gồm đối tượng lao động, tư liệu lao động (công cụ lao động) và những tư
liệu lao động khác.Trong đó, đối tượng lao động không phải toàn bộ giới tự
nhiên, chỉ một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất, con người
không chủ chỉ trong giới tự nhiên những đối tượng lao động sẵn, còn sáng
tạo ra bản thân đối tượng lao động.
Mối quan hệ giữa liệu lao động đối tượng lao động. liệu lao động vật
thể hay phức hợp vật thể con người đặt giữa mình với đối tượng lao động,
chúng dẫn chuyển sự tác động của con người vào đối tượng lao động. Đối tượng
lao động liệu lao động những yếu tố vật chất của quá trình lao động sản
xuất hợp thành liệu sản xuất. Đối với mỗi thế hệ mớiliệu lao động do thế hệ
trước để lại và trở thành điểm xuất phát cho thế hệ tương lai. Vì vậy, những tư liệu
lao động đó là cơ sở sự kế tục của lịch sử, Tư liệu lao đọng chỉ trở thành lực lượng
tích cực cải biên đốiợng lao động khi chúng kết hợp với đời sống. Tư liệu lao
động dù có ý nghĩa lơn lao đống đêu nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng
không thể phát huy được tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của
hội.
Ý nghĩa của lực lượng sản xuất, cụ thể như sau:
Lực lượng sản xuất tạo ra tiền đề vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người. cũng tiêu chí bản để đánh giá sự tiến bộ hội
trong giai đoạn lịch sử nhất định. Chính cậy, trong tác phẩm "Hệ
tưởng Đức", C. Mác khẳng định : "Lịch sử chẳng qua chẳng qua sự tiếp
nối của những thể hệ riêng lẽ trong đó mỗi thế hệ đều khai thác những vật
liêu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả những hế hệ trước
để lại. Do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục hoạt động được truyền lại, trong
những hoàn cảnh đã thay đổi, và mặt khác, lại biến đổi những hoàn cảnh cũ
bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi";
Các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thường xuyênquan hệ chặt chẽ
với nhua, Trong sự phát triển của hệ thống công cụ lao động trình độ
khoa học - kỹ thuật, kỹ năng lao đọng của con người đóng vai trò quyết
định. Con người nhân tố trung tâm, mục đích của nền sản xuất
hội. Lê nin viết "Lực lượng sản xuất hàng đầu toàn thể nhân loại công
nhân, là người lao động";
Người lao động với tư cách là một bộ phận lực lượng sản cuất xã hội phải là
người thể lực, tri thức văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cao, có kinh nghiệmthói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh, lương
tâm nghề nghiệp trách nhiệm cao trong công việc. Trước đây do chưa
chú trọng đúng mức đến vị trí của người lao động, chúng ta chưa biết khai
thác phát huy mọi sức mạnh của nhân tố con người. Mặc năng lực sản
xuất kinh nghiệm sản xuất của con người còn phụ thuộc vào những
liệu sản xuất đang có mà họ đang sử dụng. Nhưng sự tích cực sáng tọa của
người lao động đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế;
Nước tamột nước giàu tài nguyên nhiên nhiê, có nhiều nơi mà con người
chưa từng đặt chân đến nhưng nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và quá
trinh công nghệ tiên tiến, con người thể tạo ra được những sản phẩm
mới ý nghãi quyết định tới chất lượng cuộc sống giá trị của nền văn
minh nhân loại. Chính việc tìm kiếm ra các đối tượng lao động mới sẽ trở
thành động lực cuốn hút mọi hoạt động của con người.
Tóm lại, lực lượng sản xuất toàn bộ những năng lực thực tiễn được sử dụng
trong quá trình sản xuất của hội qua các thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc thì
lực lượng sản xuất bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất và sức lao động được
dùng cho việc sản xuất. Trong đó:
Người lao động là chủ thể của quá trình lao động và sản xuất, Với sức mạnh,
kỹ năng của bản thân, họ sử dụng cácliệu lao động để tác động vào đối
tượng sản xuất ra của cải vật chất. Đây chính yếu tố vai trò quan
trọng;
liệu sản xuất chính điều kiện vật chất cần thiết để thể tổ chức sản
xuất, bao gồm liệu lao động đối tượng lao động. Đối tượng lao động
yếu tố vật chất của sản xuất con người dùng liệu lao động để tác
động lên, nhằm biến đổi chúng sao cho phù hợp với mục đích sử dụng
nhất, liệu lao động yếu tố vật chất con người dùng để tác
động trực tiếp lên đối tượng lao động. Tư liệu lao động gồm có công cụ lao
động và phương tiện lao động.
Trong bất cứ một xã hội nào để có thể tạo ra của cải, vật chất không chỉ có các yếu
tố về người lao độngcòn phải kết hợp thêm cả liệu sản xuất nữa. Bở lẽ nếu
không có công cụ lao động phục vụ cho quá trình lao động thì con người sẽ không
thể tác động được lên đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất.
2. Quan hệ sản xuất là gì?
Quan hệ sản xuất hội được hiểu quan hệ kinh tế giữa người với người trong
quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội: SẢN XUẤT - PHÂN PHỐI - TRAO ĐỔI
- TIÊU DÙNG. Theo đó, Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế - hội
quan hệ kinh tế tổ chức. Quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sông vật chất xã hội,
nó tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. Quan hệ sản xuất là quan
hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế - hội. Đây là một kiểu quan hệ tiêu
biểu cho bản chất kinh tế - xã hội nhất định.
Nội dung cơ bản của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm những nội dung
cơ bản dưới đây:
Quan hệ giữa người với người đổi việc về tư liệu sản xuất;
Quan hệ giữa người với người đổi việc tổ chức quản lý;
Quan hệ giữa người với người đổi việc phân phố sản phẩm lao động.
thể nói ba mặt nói trên quan hệ hữu với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất
ý nghĩa quyết định đối với tất cả những mối quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ
quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những liệu sản xuất chủ
yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Đối với quan hệ sản xuất, có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất, đó là:
sở hữu nhân sở hữu hội. Những hình thức sở hữu này những quan hệ
kinh tế hiện thực giữa người với người trong hội. Đương nhiên để cho liệu
sản xuất không trở thành "vô chủ" phải chính sách chế ràng để xác
ddingj chủ thể sở hữu và sử dụng đối với những tư liệu sản xuất nhất định.
Ý nghĩa của quan hệ sản xuất bao gồm những mặt sau đây:
Trong quá trình tổ chức sản xuất xuât hiện các quan hệ kinh tế, Nó vừa biểu
hiện quan hệ giữa người với người, vừa biểu hiện trạng thái tự nhiên kỹ
thuật của nền sản xuất. Quan hệ kinh tế tổ chức phản ánh trình độ phân
công lao động xã hội, chuyên môn hóa và hợp tác hóa sản xuất. Nó do tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định;
Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, quan
hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò quan trọng. Những quan
hệ này thể góp phần củng cố quan hệ sở hữu cũng thể làm biến
dạng qun hệ sở hữu. các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử
đều tồn tại trong một phương thức sản xuất nhất định. Hệ thống quan hệ
sản xuất thống trị mõi hình thái kinh tế - xã hội ấy, Vì vậy, khi nghiên cứu,
xem xét tính chất của một hình thái xã hội thì không thể nhìn ở trình độ của
lực lượng sản xuất mà còn phải xem xét đến tính chất của quan hệ sản xuất.
Tóm lại, quan hệ sản xuất chính mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất ra của cải, vật chất. Quan hệ sản xuất chính do con người tạo ra.
Nhưng lại hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Trong ba mặt của quan hệ sản xuất
đã trình bày trên thì quan hệ sở hữu về liệu sản xuất chính quan hệ đặc
trưng cho quan hệ sản xuất trong từng hội, Quan hệ sở hữu liệu sản xuất
luôn quyết định quan hệ tổ chức quản sản xuấ, quan hệ phân phối sản phẩm
cũng như những quan hệ xã hội khác nữa. Do đó, các mối quan hệ sản xuất có mối
liên hệ tương quan và tác động trực tiếp với nhau.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất hai mặt của phương thức sản xuất,,
chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy
luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người, quy luật về sự ohuf hợp quan hệ sản
xuất với tình chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạc rõ tính chất
phụ thuộc khác quan của quan hệ sản xuất và phát triển của lực lượng sản xuất.
Thực tiễn cũng đã làm rõ mối quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
từ đó khẳng định sự tồn tại của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất tạo động lực cho nền kinh tế phát triển. Lực lượng sản
xuất phát triển đòi hỏi phải quan hệ sản xuất phù hợp. dụ như chủ nghĩa
bản ra đời trên cơ sở phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và chính sản xuất
hàng hóa với quy mô lơnquan hệ thị trường đã phá vỡ quan hệ sản xuất phong
kiến và hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, Trong tuyên ngôn của đảng
cộng sản (2 - 1948), C. MácPH. Ănggghen nêu rõ: "Giai cấp sản, trong quá
trình thống trị giai cấp chứ đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất của
tất cả các thế hệ trước kia gộp lại".
- Lực lượng sản xuất tác động đến quan hệ sản xuất, cụ thể như sau:
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi phát triển đều do lực lượng
sản xuất quyết định;
Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi
các quan hệ sản xuất sao cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản
xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất sẽ phải phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất đó;
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định sẽ làm cho
quan hệ sản xuất từ phù hợp trở thành không phù hợ với sự phát triển này.
Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu này dẫn
đến sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới sao cho
phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuấtbằng quan
hệ sản xuất mới thì phương thức sản xuất mới ra đời thay thế cho cái cũ.
- Quan hệ sản xuất tác động đến lực lượng sản xuất, cụ thể như sau:
Sự hình thành, biến đổi, phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất;
Lực lượng sản xuất sẽ quyết định quan hệ sản xuất. Nhưng quan hệ sản
xuất cũngtính độc lập tương đốitác động ngược trở lại sự phát triển
của lực lượng sản xuất;
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất phân phố.
Do đó sự trực tiếp gây ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, chất
lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất, cải tiến công cụ lao động. Sự tác
động của quan hệ sản xuất lên lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng là
tích cực hoặc tiêu cực. Tích cực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
nếu nó phù hợp, còn tiêu cực là kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó không
còn phù hợp.
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất
thì nó trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính
chất trình độ của lực lượng sản xuất, bộc lộ mâu thuẫn gay dắt với lực
lượng sản xuất thì trở thành chướng ngại kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Song sự tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời, theo tính chất
tất yếu khách quan thì srx bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.;
Quan hệ sản xuất có tác động mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất vì nó quy
định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống của tổ chức, quản lý xã hội,
quy định phương thức phân phối của cải ít hay nhiều người lao động
được hưởng. Do đó ảnh hưởng đến thái độ của lực lượng sản xuất chủ
yếu của xã hội, nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thúc hoặc hạn chế việc
cải tiến công cụ lao động, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào
sản xuất, hợp tác và phân công lao động. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một
hệ thống, một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản
quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó quan hệ sản xuất mới trở
thành động lực thúc đẩy hành động nhằm phát triển sản xuất.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất qua sự tác động lẫn
nhau, cụ thể như sau:
Sự thống nhất tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản
xuất hội hợp thành phương thức sản xuất. Trong sự thống nhất biện
chứng này, sự phát triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quýêt định đối
với quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất thường xuyên vận
động, phát triển nên qun hệ sản xuất cũng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Từ mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm hình hành quy luật quan hệ sản
xuất phải phfu hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất;
Đây là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất, Quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất trình độ của lực lượng sản
xuất quy luật bản của sự phát triển loài người. Sự tác động của
trong lịch sử làm cho hội chuyển từnh thái kinh tế hội thấp lên
hình thái xã hội cao hơn.
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là hai mặt của phương thức
sản xuất, chúng tồn tại và không tách rời nhau. Hai yếu tố này tác động qua lại lẫn
nhau để tạo thành một quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Đây chính là quy luật cơ bản của sự vận động và phát
triển xã hội.Ví d
Ví dụan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
Trong hội nguyên thủy, trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ
sản xuất thô sơ, lạc hậu, chủ yếu đồ đá, cung tên nên người nguyên thủy buộc
phải gắn với nhau thực hiện chế độ công hữu về liệu sản xuất, tất cả
liệu sản xuất đều của chung, do trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém
nên của cải làm ra hầu hết đều bị tiêu dùng hết, không của cải thừa nên
không việc chiếm đoạt làm của riêng, tất cả mọi người trong hội đều bình
đẳng, không có áp bức, bóc lột, bất công.
Như vậy, trong xã hội nguyên thủy, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan
hệ sở hữu công về liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản quản
thông qua các công quan hệ phân phối kết quả phân phối bình đẳng cho
các thành viên. Về lực lượng sản xuất trong hội nguyên thủy chính năng lực
sản xuất của người lao động các tư liệu sản xuất như đồ đá, cung tên,…trong xã
hội nguyên thủy năng lực sản xuất của người lao động còn thấp, liệu sản xuất
vẫn còn thô sơ, lạc hậu.
Liên hệ đến Việt Nam
Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến
việc nhận thức vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật này đã đem lại hiệu quả to
lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hình
kinh tế tổng quát, sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay
| 1/7

Preview text:

Trong bất kỳ một phương thức sản xuất nào, quan hệ sản xuất cũng phải phù
hợp với lực lượng sản xuất. Sự tác động qua lại và mối quan hệ giữa chúng
luôn tồn tại và phải hài hòa, chặt chẽ.
1. Lực lượng sản xuất là gì?
Lực lượng sản xuất được hiểu là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được
hình thành trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở thể
hiện ở trình độ khống chế tự nhiên của con người. Đó là kết quả năng lực thực tiễn
của con người tác động vào tự nhiện để tạo ra của casit vật chất nhằm bảo đảm sự
tồn tại và phát triển của con người.
Các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, chủ yếu bao gồm hai yếu tố sau đây:  Tư liệu sản xuất;
 Lực lượng con người
Trong đó, tư liệu sản xuất đóng vai tròng là một khách thể, còn con người luôn là chủ thể.
Cụ thể, Lực lượng sản xuất bao gồm: tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là
công cụ lao động. Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất théo quen lao
động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Theo đó, tư liệu sản
xuất bao gồm đối tượng lao động, tư liệu lao động (công cụ lao động) và những tư
liệu lao động khác.Trong đó, đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự
nhiên, mà chỉ là một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất, con người
không chủ chỉ trong giới tự nhiên những đối tượng lao động có sẵn, mà còn sáng
tạo ra bản thân đối tượng lao động.
Mối quan hệ giữa tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động là vật
thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với đối tượng lao động,
chúng dẫn chuyển sự tác động của con người vào đối tượng lao động. Đối tượng
lao động và tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của quá trình lao động sản
xuất hợp thành tư liệu sản xuất. Đối với mỗi thế hệ mới tư liệu lao động do thế hệ
trước để lại và trở thành điểm xuất phát cho thế hệ tương lai. Vì vậy, những tư liệu
lao động đó là cơ sở sự kế tục của lịch sử, Tư liệu lao đọng chỉ trở thành lực lượng
tích cực cải biên đối tượng lao động khi chúng kết hợp với đời sống. Tư liệu lao
động dù có ý nghĩa lơn lao đống đêu nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng
không thể phát huy được tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội.
Ý nghĩa của lực lượng sản xuất, cụ thể như sau:
 Lực lượng sản xuất tạo ra tiền đề vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người. Nó cũng là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến bộ xã hội
trong giai đoạn lịch sử nhất định. Chính vì cậy, trong tác phẩm "Hệ tư
tưởng Đức", C. Mác khẳng định : "Lịch sử chẳng qua chẳng qua là sự tiếp
nối của những thể hệ riêng lẽ trong đó mỗi thế hệ đều khai thác những vật
liêu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả những hế hệ trước
để lại. Do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục hoạt động được truyền lại, trong
những hoàn cảnh đã thay đổi, và mặt khác, lại biến đổi những hoàn cảnh cũ
bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi";
 Các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thường xuyên có quan hệ chặt chẽ
với nhua, Trong sự phát triển của hệ thống công cụ lao động và trình độ
khoa học - kỹ thuật, kỹ năng lao đọng của con người đóng vai trò quyết
định. Con người là nhân tố trung tâm, và là mục đích của nền sản xuất xã
hội. Lê nin viết "Lực lượng sản xuất hàng đầu là toàn thể nhân loại công
nhân, là người lao động";
 Người lao động với tư cách là một bộ phận lực lượng sản cuất xã hội phải là
người có thể lực, có tri thức văn hóa, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cao, có kinh nghiệm và thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh, lương
tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao trong công việc. Trước đây do chưa
chú trọng đúng mức đến vị trí của người lao động, chúng ta chưa biết khai
thác phát huy mọi sức mạnh của nhân tố con người. Mặc dù năng lực sản
xuất và kinh nghiệm sản xuất của con người còn phụ thuộc vào những tư
liệu sản xuất đang có mà họ đang sử dụng. Nhưng sự tích cực sáng tọa của
người lao động đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế;
 Nước ta là một nước giàu tài nguyên nhiên nhiê, có nhiều nơi mà con người
chưa từng đặt chân đến nhưng nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và quá
trinh công nghệ tiên tiến, con người có thể tạo ra được những sản phẩm
mới có ý nghãi quyết định tới chất lượng cuộc sống và giá trị của nền văn
minh nhân loại. Chính việc tìm kiếm ra các đối tượng lao động mới sẽ trở
thành động lực cuốn hút mọi hoạt động của con người.
Tóm lại, lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực thực tiễn được sử dụng
trong quá trình sản xuất của xã hội qua các thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc thì
lực lượng sản xuất bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất và sức lao động được
dùng cho việc sản xuất. Trong đó:
 Người lao động là chủ thể của quá trình lao động và sản xuất, Với sức mạnh,
kỹ năng của bản thân, họ sử dụng các tư liệu lao động để tác động vào đối
tượng và sản xuất ra của cải vật chất. Đây chính là yếu tố có vai trò quan trọng;
 Tư liệu sản xuất chính là điều kiện vật chất cần thiết để có thể tổ chức sản
xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động
là yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dùng tư liệu lao động để tác
động lên, nhằm biến đổi chúng sao cho phù hợp với mục đích sử dụng
nhất, Tư liệu lao động là yếu tố vật chất mà con người dùng để tác
động trực tiếp lên đối tượng lao động. Tư liệu lao động gồm có công cụ lao
động và phương tiện lao động.
Trong bất cứ một xã hội nào để có thể tạo ra của cải, vật chất không chỉ có các yếu
tố về người lao động mà còn phải kết hợp thêm cả tư liệu sản xuất nữa. Bở lẽ nếu
không có công cụ lao động phục vụ cho quá trình lao động thì con người sẽ không
thể tác động được lên đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất.
2. Quan hệ sản xuất là gì?
Quan hệ sản xuất xã hội được hiểu là quan hệ kinh tế giữa người với người trong
quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội: SẢN XUẤT - PHÂN PHỐI - TRAO ĐỔI
- TIÊU DÙNG. Theo đó, Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế - xã hội và
quan hệ kinh tế tổ chức. Quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sông vật chất xã hội,
nó tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. Quan hệ sản xuất là quan
hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế - xã hội. Đây là một kiểu quan hệ tiêu
biểu cho bản chất kinh tế - xã hội nhất định.
Nội dung cơ bản của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm những nội dung cơ bản dưới đây:
 Quan hệ giữa người với người đổi việc về tư liệu sản xuất;
 Quan hệ giữa người với người đổi việc tổ chức quản lý;
 Quan hệ giữa người với người đổi việc phân phố sản phẩm lao động.
Có thể nói ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất
có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những mối quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ
quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ
yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Đối với quan hệ sản xuất, có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất, đó là:
sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội. Những hình thức sở hữu này là những quan hệ
kinh tế hiện thực giữa người với người trong xã hội. Đương nhiên để cho tư liệu
sản xuất không trở thành "vô chủ" phải có chính sách và cơ chế rõ ràng để xác
ddingj chủ thể sở hữu và sử dụng đối với những tư liệu sản xuất nhất định.
Ý nghĩa của quan hệ sản xuất bao gồm những mặt sau đây:
 Trong quá trình tổ chức sản xuất xuât hiện các quan hệ kinh tế, Nó vừa biểu
hiện quan hệ giữa người với người, vừa biểu hiện trạng thái tự nhiên kỹ
thuật của nền sản xuất. Quan hệ kinh tế tổ chức phản ánh trình độ phân
công lao động xã hội, chuyên môn hóa và hợp tác hóa sản xuất. Nó do tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định;
 Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, quan
hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò quan trọng. Những quan
hệ này có thể góp phần củng cố quan hệ sở hữu và cũng có thể làm biến
dạng qun hệ sở hữu. các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử
đều tồn tại trong một phương thức sản xuất nhất định. Hệ thống quan hệ
sản xuất thống trị mõi hình thái kinh tế - xã hội ấy, Vì vậy, khi nghiên cứu,
xem xét tính chất của một hình thái xã hội thì không thể nhìn ở trình độ của
lực lượng sản xuất mà còn phải xem xét đến tính chất của quan hệ sản xuất.
Tóm lại, quan hệ sản xuất chính là mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất ra của cải, vật chất. Quan hệ sản xuất chính là do con người tạo ra.
Nhưng nó lại hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất và không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Trong ba mặt của quan hệ sản xuất
đã trình bày ở trên thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất chính là quan hệ đặc
trưng cho quan hệ sản xuất ở trong từng xã hội, Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất
luôn quyết định quan hệ tổ chức quản lý và sản xuấ, quan hệ phân phối sản phẩm
cũng như những quan hệ xã hội khác nữa. Do đó, các mối quan hệ sản xuất có mối
liên hệ tương quan và tác động trực tiếp với nhau.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,,
chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy
luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người, quy luật về sự ohuf hợp quan hệ sản
xuất với tình chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạc rõ tính chất
phụ thuộc khác quan của quan hệ sản xuất và phát triển của lực lượng sản xuất.
Thực tiễn cũng đã làm rõ mối quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
từ đó khẳng định sự tồn tại của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất tạo động lực cho nền kinh tế phát triển. Lực lượng sản
xuất phát triển đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp. Ví dụ như chủ nghĩa tư
bản ra đời trên cơ sở phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và chính sản xuất
hàng hóa với quy mô lơn và quan hệ thị trường đã phá vỡ quan hệ sản xuất phong
kiến và hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, Trong tuyên ngôn của đảng
cộng sản (2 - 1948), C. Mác và PH. Ănggghen nêu rõ: "Giai cấp tư sản, trong quá
trình thống trị giai cấp chứ đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất của
tất cả các thế hệ trước kia gộp lại".
- Lực lượng sản xuất tác động đến quan hệ sản xuất, cụ thể như sau:
 Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển đều do lực lượng sản xuất quyết định;
 Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi
các quan hệ sản xuất sao cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản
xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất sẽ phải phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất đó;
 Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định sẽ làm cho
quan hệ sản xuất từ phù hợp trở thành không phù hợ với sự phát triển này.
Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu này dẫn
đến sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới sao cho
phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan
hệ sản xuất mới thì phương thức sản xuất mới ra đời thay thế cho cái cũ.
- Quan hệ sản xuất tác động đến lực lượng sản xuất, cụ thể như sau:
 Sự hình thành, biến đổi, phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất;
 Lực lượng sản xuất sẽ có quyết định quan hệ sản xuất. Nhưng quan hệ sản
xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động ngược trở lại sự phát triển
của lực lượng sản xuất;
 Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất và phân phố.
Do đó sự trực tiếp gây ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, chất
lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất, cải tiến công cụ lao động. Sự tác
động của quan hệ sản xuất lên lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng là
tích cực hoặc tiêu cực. Tích cực là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
nếu nó phù hợp, còn tiêu cực là kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó không còn phù hợp.
 Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
thì nó trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất, bộc lộ mâu thuẫn gay dắt với lực
lượng sản xuất thì trở thành chướng ngại kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Song sự tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời, theo tính chất
tất yếu khách quan thì nó srx bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.;
 Quan hệ sản xuất có tác động mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất vì nó quy
định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống của tổ chức, quản lý xã hội,
quy định phương thức phân phối của cải ít hay nhiều mà người lao động
được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ của lực lượng sản xuất chủ
yếu của xã hội, nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thúc hoặc hạn chế việc
cải tiến công cụ lao động, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào
sản xuất, hợp tác và phân công lao động. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một
hệ thống, một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản
lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó quan hệ sản xuất mới trở
thành động lực thúc đẩy hành động nhằm phát triển sản xuất.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất qua sự tác động lẫn nhau, cụ thể như sau:
 Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất xã hội hợp thành phương thức sản xuất. Trong sự thống nhất biện
chứng này, sự phát triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quýêt định đối
với quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất thường xuyên vận
động, phát triển nên qun hệ sản xuất cũng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Từ mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm hình hành quy luật quan hệ sản
xuất phải phfu hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
 Đây là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất, Quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất là quy luật cơ bản của sự phát triển loài người. Sự tác động của nó
trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên
hình thái xã hội cao hơn.
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là hai mặt của phương thức
sản xuất, chúng tồn tại và không tách rời nhau. Hai yếu tố này tác động qua lại lẫn
nhau để tạo thành một quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Đây chính là quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội.Ví d
Ví dụan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
Trong xã hội nguyên thủy, trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ
sản xuất thô sơ, lạc hậu, chủ yếu là đồ đá, cung tên nên người nguyên thủy buộc
phải gắn bó với nhau và thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tất cả tư
liệu sản xuất đều là của chung, do trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém
nên của cải làm ra hầu hết đều bị tiêu dùng hết, không có của cải dư thừa nên
không có việc chiếm đoạt làm của riêng, tất cả mọi người trong xã hội đều bình
đẳng, không có áp bức, bóc lột, bất công.
Như vậy, trong xã hội nguyên thủy, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan
hệ sở hữu công về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức – quản lý là quản lý
thông qua các công xã và quan hệ phân phối kết quả là phân phối bình đẳng cho
các thành viên. Về lực lượng sản xuất trong xã hội nguyên thủy chính là năng lực
sản xuất của người lao động và các tư liệu sản xuất như đồ đá, cung tên,…trong xã
hội nguyên thủy năng lực sản xuất của người lao động còn thấp, tư liệu sản xuất
vẫn còn thô sơ, lạc hậu.
Liên hệ đến Việt Nam
Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến
việc nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật này đã đem lại hiệu quả to
lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát, là sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay