

















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58702377 LUẬT MÔI TRƯỜNG 
1.Phân tích vai trò của pháp luật môi trường trong bảo vệ môi trường và phát triển bền  vững. 
Thứ nhất, Luật bảo vệ môi trường là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật tại Việt Nam 
và được phổ biến rộng rãi. Qua quyền lực của mình, báo cáo chuyên đề về Luật Bảo vệ môi trường 
năm 2014 và tình hình xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành luật, yêu cầu các cá nhân và tổ 
chức tuân thủ pháp luật. Khi cần thiết, nhà nước có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế để bảo vệ 
sự tuân thủ pháp luật và trừng phạt nhằm đảm bảo tính nghiêm túc trong việc thực hiện pháp luật 
bảo vệ môi trường cũng như các lĩnh vực pháp luật khác. 
Thứ hai, pháp luật cung cấp cơ sở pháp lý cho việc quy định cấu trúc tổ chức của các cơ 
quan quản lí môi trường của nhà nước. 
Theo Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định "Nhà nước thống nhất quản lý và bảo 
vệ môi trường trên toàn quốc, lập kế hoạch bảo vệ môi trường và xây dựng tiềm lực cho hoạt động 
bảo vệ môi trường tại cấp Trung ương và địa phương". Pháp luật bảo vệ môi trường đã quy định 
sự thống nhất của các cơ quan nhà nước và xây dựng hệ thống cơ quan quản lí môi trường trên 
toàn quốc, từ cấp Trung ương đến địa phương. Điều này tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo vệ  môi trường. 
Thứ ba, pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lí 
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. 
Theo Điều 10 Luật bảo vệ môi trường năm 2014, các cơ quan Nhà nước trong phạm vi chức 
năng và nhiệm vụ của mình có trách nhiệm tổ chức điều tra, nghiên cứu và đánh giá tình trạng 
môi trường, định kỳ báo cáo với Quốc hội về tình hình môi trường. Đồng thời, cơ quan Nhà nước 
cũng phải xác định các khu vực bị ô nhiễm môi trường và thông báo cho dân biết, đồng thời lập 
kế hoạch phòng chống suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường và sự cố môi trường. Nhà nước 
khuyến khích sử dụng và khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, áp dụng công nghệ 
sinh học tiên tiến, thân thiện với môi trường. Công tác thanh tra, giám sát thường xuyên được thực 
hiện bởi nhà nước theo lịch trình hàng năm hoặc kiểm tra đột xuất dựa trên các văn bản pháp luật 
do nhà nước ban hành. Xử lí vi phạm áp dụng cho tất cả cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước 
có hành vi vô ý hoặc cố tình vi phạm các quy định của nhà nước trong lĩnh vực môi trường. 
Thứ tư, pháp luật cung cấp cơ sở pháp lý cho công tác bảo vệ môi trường.      lOMoAR cPSD| 58702377
Theo quy định của pháp luật, công tác bảo vệ môi trường phải được các cá nhân và tổ chức 
thực hiện một cách khoa học, hiệu quả và có tác động lớn đến quá trình xây dựng và phát triển  đất nước. 
Nhờ vào pháp luật, nhà nước có thể phát hiện, kiểm tra và ngăn chặn các hành vi vi phạm, 
gây tổn hại đến môi trường. Đồng thời, pháp luật cũng tôn vinh và khen thưởng những tổ chức và 
cá nhân có đóng góp tích cực trong công tác bảo vệ môi trường. Mỗi tổ chức và cá nhân phải thực 
hiện nhiệm vụ của mình dựa trên các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành. 
2. Trình bày mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội và bảo vệ môi  trường. 
Theo Điều 4 Luật BVMT năm 2020 “Bảo vệ môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung 
tâm, tiên quyết cho phát triển kinh tế xã hội bền vững. Hoạt động bảo vệ môi trường phải gắn kết 
với phát triển kinh tế, quản lý tài nguyên và được xem xét, đánh giá trong quá trình thực hiện các 
hoạt động phát triển.” 
Thứ nhất, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và công bằng xã hội 
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; 
tiến bộ, công bằng xã hội là động lực cho tăng trưởng kinh tế cao, ổn định. Phát triển kinh tế là 
nhiệm vụ trung tâm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Phát triển kinh tế ổn định, bền 
vững là điều kiện quan trọng để thực hiện công bằng xã hội. Nếu không có tăng trưởng kinh tế, 
thì xã hội sẽ chậm phát triển và các điều kiện phúc lợi an sinh xã hội không đảm bảo được cho  người dân. 
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa, bảo đảm các quyền con người, 
tạo dựng các cơ hội việc làm và phúc lợi cho tất cả người dân. Nhà nước phải sử dụng các nguồn 
lực, công cụ điều tiết, chính sách phân phối và phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện dân 
chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước nâng cao phúc lợi, chăm lo 
cải thiện đời sống mọi mặt của nhân dân. 
Thứ ba, giáo dục phải được tăng cường đầu tư, bởi vì giáo dục chính là một phần biểu hiện 
của chất lượng cuộc sống, là hệ quả và là nhân tố cấu thành tăng trưởng bền vững. Trong đó, coi 
trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; việc đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người 
lao động phải gắn với quy hoạch kinh tế - xã hội, các chương trình phát triển kinh tế, ngành nghề 
và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương.      lOMoAR cPSD| 58702377
Thứ tư, giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập, bảo đảm chất lượng đời sống dân cư. 
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối 
với các nước đang phát triển như Việt Nam. Có việc làm và tăng thu nhập sẽ giúp người dân có 
khả năng đáp ứng được những nhu cầu chính đáng về vật chất và tinh thần, giúp họ tiếp cận được 
với các dịch vụ chất lượng tốt, nâng cao vị thế trong xã hội, hòa nhập với môi trường xung quanh. 
Thứ năm, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự cân bằng giữa tăng 
trưởng kinh tế nhanh với thực hiện công bằng xã hội. Việc xây dựng hệ thống chính sách an sinh 
xã hội tập trung vào hỗ trợ các nhóm xã hội gặp nhiều khó khăn là một hoạt động quan trọng nhằm 
cân bằng và bảo đảm công bằng xã hội. 
Thứ hai, mối quan hệ giữa phát triển Kinh tế và bảo vệ Môi trường 
Thứ nhất, Tài nguyên tự nhiên là cơ sở của phát triển kinh tế: Môi trường cung cấp các tài 
nguyên quan trọng như nước, không khí, đất và nguồn năng lượng. Phát triển kinh tế phụ thuộc 
vào việc sử dụng và khai thác các tài nguyên này. Nếu không bảo vệ môi trường, tài nguyên này 
sẽ bị suy thoái và làm hạn chế sự phát triển kinh tế trong tương lai. 
Thứ hai, Ô nhiễm và suy thoái môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe và chất lượng cuộc 
sống: Nếu không bảo vệ môi trường, ô nhiễm và suy thoái môi trường sẽ gây ra các vấn đề sức 
khỏe, tác động đến chất lượng cuộc sống của con người. Ví dụ, ô nhiễm không khí gây ra các vấn 
đề về hô hấp và các bệnh về tim mạch, trong khi ô nhiễm nước có thể gây ra các vấn đề về sức 
khỏe và thiếu nước sạch. 
Thứ ba, Bảo vệ môi trường tạo ra cơ hội kinh doanh và việc làm: Bảo vệ môi trường có thể 
tạo ra cơ hội kinh doanh mới và việc làm. Các ngành công nghiệp xanh và công nghệ sạch có thể 
tạo ra công việc mới và đóng góp vào sự phát triển kinh tế. Đồng thời, việc thúc đẩy các biện pháp 
bảo vệ môi trường có thể tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh và thu hút đầu tư. 
Thứ tư, Biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường có thể gây nguy hiểm cho kinh tế: Biến 
đổi khí hậu, mất rừng, và sự suy thoái môi trường khác có thể gây ra thiệt hại kinh tế nghiêm 
trọng. Các thảm họa thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt và cạn kiệt tài nguyên có thể gây mất mát lớn 
cho kinh tế. Do đó, bảo vệ môi trường cũng đồng nghĩa với việc giảm thiểu rủi ro và bảo vệ sự ổn  định kinh tế. 
Thứ năm, Phát triển bền vững và đáp ứng nhu cầu tương lai: Bảo vệ môi trường đảm bảo 
rằng phát triển kinh tế là bền vững và có thể đáp ứng nhu cầu của cả hiện tại và tương lai. Sự tận      lOMoAR cPSD| 58702377
dụng tài nguyên một cách bền vững, sử dụng công nghệ xanh và thúc đẩy các hình thức kinh 
doanh có trách nhiệm môi trường đóng góp vào việc xây dựng một tương lai bền vững cho thế hệ  tiếp theo. 
3. Phân tích các biện pháp (công cụ) bảo vệ môi trường. 
• Các biện pháp tổ chức – chính trị: Ở Việt Nam, các biện pháp chính trị được sử dụng 
trong bảo vệ môi trường mang sắc thái khác. Đảng cộng sản Việt Nam đưa vấn đề môi 
trường vào cương lĩnh, chính lược hành động của mình không nhằm mục đích tranh cứ hay 
giành quyền lực chính trị mà nhằm làm tăng thêm tính chất toàn diện, đúng đắn và khả thi 
của cương lĩnh.Khi đó vấn đề về bảo vệ môi trường trở thành các nhiệm vụ chính trị mỗi 
khi các tổ chức chính trị, đảng phái đưa chúng vào các cương lĩnh hoạt động của mình. 
Bằng vận động chính trị, vấn đề bảo vệ môi trường sẽ được thể hóa thành các chính sách,  pháp luật. 
• Biện pháp kinh tế: Là biện pháp sử dụng sức mạnh của thị trường để bảo vệ môi trường, 
đảm bảo cân bằng sinh thái, là những chính sách nhằm thay đổi chi phí và lợi ích của những 
hành động kinh tế thường xuyên tác động tới môi trường, tăng cường ý thức trách nhiệm 
trước hành vi gây huỷ hoại môi trường 
Tính chất của biện pháp Kinh tế phong phú đa dạng, mang tính mềm dẻo, dễ lựa 
chọn cho người thực hiện. Về cơ bản, biên pháp này mang lại hiệu quả trong bảo vệ môi 
trường cao hơn các biện pháp khác. 
Các biện pháp kinh tế được thực hiện trong lĩnh vực bảo vệ môi trường bao gồm: 
Thành lập các quỹ bảo vệ môi trường, áp dụng các ưu đãi về thuế đối với những doanh 
nghiệp, những dự án có những dự án có các giải pháp tốt về bảo vệ môi trường, áp dụng 
thuế suất cao đối với những sản phẩm mà việc sản xuất chúng có tác động xấu đến môi 
trường, gắn hạn chế hoặc khuyến khích thương mại với việc bảo vệ môi trường. 
• Biện pháp khoa học – công nghệ: Môi trường được tạo bởi nhiều yếu tố vật chất phức tạp. 
Việc tìm hiểu cấu trúc, quy luật họa động và các ảnh hưởng của môi trường nói chung và 
các yếu tố cấu thành nó nói riêng không thể thực hiện được một cách đầy đủ nếu thiếu các 
biện pháp khoa học và công nghệ. 
• Biện pháp tuyên truyền giáo dục: Ý thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường sẽ được 
thông cao thông qua các hoạt động tuyên truyền và giáo dục. Càng mở rộng các hoạt động 
giáo dục cộng đồng về tác hại của sự ô nhiễm, suy thoái môi trường thì càng nâng cao được      lOMoAR cPSD| 58702377
hiệu quả của công tác bảo vệ môi trường. Khi con người đã có ý thức tự giác thì việc bảo 
vệ môi trường sẽ dễ dàng được thực hiện một cách có hiệu quả. 
• Biện pháp pháp lý: Đây là một biện pháp hữu hiệu được các quốc gia áp dụng nhằm hạn 
chế những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến môi trường của các cá nhân hay tổ chức. Biện 
pháp pháp lý được thể hiện dưới dạng những chế tài hành chính, hình sự… 
4. Phân tích các nguyên tắc của luật môi trường. 
Thứ nhất, nguyên tắc đảm bảo quyền con người được sống trong môi trường trong lành. 
Quyền về chất lượng môi trường, điều 43 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền được 
sống trong môi trường trong lành" => bảo đảm quyền này bằng pháp luật 
“Quyền được sống trong môi trường trong lành là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà 
nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình con người sử dụng và 
bảo đảm các chức năng của môi trường đối với đời sống của con người, bao gồm các chức năng 
không gian sống, cung cấp các nguồn tài nguyên, các vật chất cho con người và nơi chứa đựng 
chất thải, nhằm hạn chế hoặc loại trừ các ảnh hưởng xấu đến sự sống, sức khỏe của con người và 
nhằm đảm bảo phát triển bền vững" 
Quyền sở hữu, quyền tự do hợp đồng là quyền cá nhân, quyền của một chủ thể. 
Quyền được sống trong môi trường trong lành vừa là quyền cá nhân, quyền của một chủ thẻ 
vừa là quyền tập thể: quyền của cá nhân (một người) có tính chất độc lập tương đối với quyền của 
tập thể của cá nhân không đối lập, loại trừ quyền tập thể, chủ thể quyền nhưng có thể đồng thời là 
chủ thể xâm phạm quyền. 
• Về khách thể: Có sự đan xen giữa hai nhóm quyền nhưng có sự khác biệt: vật chất tự nhiên 
và nhân tạo có thể chiếm dụng 
Quyền sở hữu còn gồm tiền và các giấy tờ trị giá được bằng tiền, tài sản vô hình... Nhưng 
không khí không là khách thể vì không chiếm dụng được 
• Về nội dung quyền: 
Quyền sở hữu là quyền nội dung còn quyền được sống trong môi trường trong lành không chỉ 
là các quyền nội dung mà còn bao hàm cả các quyền thủ tục thực thi quyền nội dung. 
Lý do xuất hiện mối quan hệ và việc giải quyết mối quan hệ giữa các quyền này      lOMoAR cPSD| 58702377
Mặc dù là độc lập, quyền được sống trong môi trường trong lành không thể tách rời với các 
quyền dân sự, xã hội và kinh tế. 
Có sự xung đột tiểm tang giữa các quyền con người có tính cạnh tranh. 
Nhà nước có thể can thiệp, giới hạn quyền sở hữu (Với tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu 
toàn dân là quyền sử dụng), quyền tự do hợp đồng nhằm bảo đảm các lợi ích công cộng, trong đó 
có lợi ích mỗi trường. 
Mức độ can thiệp của Nhà nước: Cẩm, cho phép có kiểm soát, không kiểm soát 
Thứ hai, nguyên tắc thống nhất quản lý và BVMT. 
Môi trường là một thể thống nhất của nhiều yếu tố vật chất, vì vậy việc quản lý và BVMT cần 
có sự thống nhất. Hiến pháp 2013 công nhận một số thành phần chủ yếu của môi trường thuộc sở 
hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. 
Nội dung nguyên tắc này thể hiện ở 5 vấn đề gồm: i) Xây dựng hệ thống cơ quan quản lý nhà 
nước về môi trường; ii) Thực hiện nội dung quản lý nhà nước về môi trường; iii) Xây dựng hệ 
thống văn bản pháp luật về môi trường; iv) Quy định nội dung quản lý về môi trường và v) Triền 
khai thực hiện các chương trình, chính sách, pháp luật môi trường. 
Thứ ba, nguyên tắc đảm bảo sự phát triển bền vững. 
Cũng như các quốc gia khác, Việt Nam cũng đặc biệt coi trọng nguyên tắc phát triển bền vững 
và đưa nguyên tắc này vào hệ thống pháp luật quốc gia bởi lẽ chúng ta nhận thức được rằng: 
“Chúng ta cần có sự phát triển nhưng không phải bằng bất cứ giả nào, mà phải là phát triển bền 
vững, phát triển trong việc BVMT". 
Nguyên tắc này có những đòi hỏi sau: i) Các biện pháp BVMT phải được coi là một yếu tố cấu 
thành trong các chiến lược hoặc các chính sách phát triển kinh tế của đất nước, của địa phương, 
vùng và của từng tổ chức; ii) Phải tạo ra bộ máy và cơ chế quản lý hiệu quả để có thể tránh được 
tham nhũng, lãng phí các nguồn lực, nhất là các nguồn tài nguyên thiên nhiên; iii) 
Phải hoàn thiện quá trình quyết định chính sách và tăng cường tính công khai của các quá trình 
đó đảm bảo để cho các quyết định, chính sách ban hành nhằm vào sự phát triển bền vững; iv) Phải 
coi ĐTM như là một bộ phận cấu thành của các dự án đầu tư. 
Thứ tư, nguyên tắc coi trọng tính phòng ngừa (Đây là nguyên tắc chủ yếu của Luật Môi  trường Việt Nam)      lOMoAR cPSD| 58702377
Môi trường sẽ được bảo vệ một cách tốt nhất thông qua các biện pháp phòng ngừa thiệt hại 
hơn là thông qua các nỗ lực sửa chữa hoặc đền bù sau khi tổn hại xảy ra. Thực tế khả năng khôi 
phục hiện trạng môi trường về trạng thái ban đầu là rất khó khăn, tốn kém, mất nhiều thời gian, 
thậm chí là không thể thực hiện được. Các biện pháp ngăn ngừa sẽ trở nên hữu hiệu hơn khi chúng 
nhằm giảm thiểu các nguồn gây hại môi trường nhiều hơn là nhằm giải quyết hậu quả của các tác  động gây hại. 
Bản chất của nguyên tắc này là việc kích thích các lợi ích hoặc triệt tiêu các lợi ích là động lực 
của vi phạm pháp luật môi trường. Nguyên tắc này đòi hỏi cần ban hành hệ thống pháp luật hữu 
hiệu về môi trường, những mục tiêu ưu tiên quản lý, các biện pháp phòng ngừa áp dụng cho các 
hoạt động công cộng và tư nhân có thể gây ra tổn hại tiềm năng cho môi trường. 
Bên cạnh đó, sự tham gia của công dân vào giải quyết các vấn đề môi trường cần được chú 
trọng nhằm nâng cao ý thức của con người trong việc thực hiện các biện pháp BVMT 
5. Phân tích vai trò, nhiệm vụ của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. 
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về Môi trường bao gồm: Chính Phủ, Bộ Tài nguyên và Môi 
trường, Bộ và Cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp. 
• Vai trò, nhiệm vụ của Chính Phủ: Điều 165 Luật BVMT 
• Vai trò, nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường; Điều 166 
• Vai trò, nhiệm vụ của Bộ, cơ quan ngang Bộ: Điều 167 
• Vai trò, nhiệm vụ của Uỷ ban nhân dân các cấp: Điều 168 
6. Phân tích mục đích, yêu cầu, ý nghĩa, vai trò của đánh giá tác động môi trường.  
• MỤC ĐÍCH:  
Mục đích cơ bản của quá trình đánh giá môi trường là bảo đảm hài hòa sự phát triển kinh 
tế xã hội với việc BVMT, tạo ra sự phát triển bền vững. 
• YÊU CẦU:  
Thứ nhất, phải được đặt trong thể thống nhất của yêu cầu phát triển và không được đối lập 
với sự phát triển. Chỉ như vậy mới tạo ra sự quan tâm thực sự của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân 
trong việc BVMT. Các biện pháp giảm thiểu tác động của môi trường sẽ trở thành bộ phận của kế  hoạch phát triển.      lOMoAR cPSD| 58702377
Thứ hai, phải thực sự là công cụ giúp cho việc lựa chọn quyết định dự án đầu tư phát triển. 
Bản chất của quá trình này là cung cấp tư liệu đã được cân nhắc khoa học về những lợi ích và tổn 
thất về tài nguyên môi trường để có điều kiện lựa chọn phương án phát triển hợp lý, chính xác. 
Thứ ba, phải là hoạt động mang tính chất liên ngành. Phái huy động được đội ngũ cán bộ 
khoa học và kĩ thuật thuộc các ngành liên quan tham gia, có đủ kiến thức, kinh nghiệm phù hợp 
với nội dung và yêu cầu cụ thể. 
Thứ tư, phải được tiến hành trên cơ sở các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam để đánh giá 
chính xác tính chất tác động đến giá trị môi sinh và các yếu tố rủi ro đối với cộng đồng xã hội từ 
các hoạt động phát triển. 
Thứ năm, nội dung của đánh giá môi trường phải được thực hiện một cách khách quan, 
khoa học. Các định hướng, dự báo đưa ra phái phản ánh chính xác, khách quan thực trạng, diễn 
biến môi trường, phải cung cấp thực tiễn về “kịch bản” hữu hiệu để đối diện, giải quyết các thách 
thức về môi trường trong quá trình triển khai, vận hành các hoạt động phát triển.  • Ý NGHĨA:  
Thứ nhất, giúp xem xét nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là công nghệ xử lý chất thải, giảm 
thiểu tác động tiêu cực tới môi trường và giám sát môi trường. Đánh giá môi trường càng có ý 
nghĩa hơn trong trường hợp thực hiện ĐMC làm hạn chế tác động tiêu cực trên diện rộng do đặc 
thù phạm vi tác động của các chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, giúp tiết kiệm thời 
gian, chi phí khắc phục hậu quả của những quyết định sai. 
Thứ hai, góp phần ràng buộc trách nhiệm pháp lý của các chú dự án, các cơ sở. Hoạt động 
giám sát sau dự án giúp cơ quan có thẩm quyền xem xét mức độ tuân thủ các cam kết trong đánh 
giá môi trường đã được phê duyệt. 
Việc phê duyệt các văn bản đánh giá môi trường (báo cáo ĐTM, báo cáo ĐMC) là cơ sở để cơ 
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định cho phép triển khai thực hiện dự án; là cơ sở xác định 
trách nhiệm các chủ thể của dự án về những hậu quả gây ra đối với môi trường sau này đồng thời 
cũng là căn cứ xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với những hậu quả mà dự án gây 
ra với môi trường, đặc biệt là cơ quan trực tiếp thẩm định báo cáo này.      lOMoAR cPSD| 58702377 • VAI TRÒ  
+ Là dụng cụ quản lý môi trường với thuộc tính ngừa. 
+ Giúp chọn phương án thấp để khi thực hành Công trình vững mạnh ít gây tác động bị  động tới môi trường. 
+ Giúp nhà quản lý tăng chất lượng của việc đưa ra quyết định. 
+ Là cơ sở vật chất để đối chiếu khi có thanh tra môi trường. 
+ Góp phần cho vững mạnh vững bền 
7. Vi phạm pháp luật môi trường là gì? Trình bày các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp 
luật môi trường. Lấy ví dụ và phân tích cấu thành của một vi phạm pháp luật.  
• Khái niệm vi phạm pháp luật môi trường: 
Về cơ bản, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi của chủ thể có năng lực trách 
nhiệm pháp lý xâm hại tới quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Từ khái niệm trên, vi 
phạm pháp luật có những dấu hiệu cơ bản sau đây: 
• Các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật môi trường: 
Thứ nhất, là hành vi nguy hiểm cho xã hội. 
Vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi của con người hoặc hoạt động của các cơ quan 
nhà nước, các tổ chức xã hội... (các chủ thể pháp luật) nguy hiểm hoặc có khả năng nguy hiểm 
cho xã hội. Khi xác định một vi phạm pháp luật thì hành vi nguy hiểm cho xã hội là không thể 
thiếu được. Không có hành vi nguy hiểm của con người thì không thể có vi phạm pháp luật. Hành 
vi đó có thể thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động của các chủ thể pháp luật. Pháp 
luật không điều chỉnh những suy nghĩ tình cảm hay những đặc tính cá nhân khác của con người 
cho dù nó có nguy hiểm cho xã hội hay không. 
Thứ hai, tính trải pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. 
Vi phạm pháp luật không những là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà hành vi đó còn phải 
trái pháp luật, xâm phạm tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. Do vậy, những 
hành vi hợp pháp hay trái với các quy định của các tổ chức xã hội, trái với tập quán, đạo đức và 
các tín điều tôn giáo nhưng không trái các quy định pháp luật thì không bị xem là vi phạm pháp 
luật. Tính trái pháp luật là một đặc tính không thể thiếu của hành vi vi phạm pháp luật. 
Thứ ba, tính có lỗi của chủ thể. 
Dấu hiệu trái pháp luật chỉ là dấu hiệu bên ngoài của hành vi vi phạm pháp luật. Để xác 
định vì phạm pháp luật cần xem xét cả mất chủ quan của hành vi. Trong đó, mặt chủ quan      lOMoAR cPSD| 58702377
là yếu tố lỗi của người thực hiện hành vi. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ 
thể đối với hành vi trái pháp luật. Nếu một hành vi trái pháp luật được thực hiện do những 
điều kiện hoàn cảnh khách quan, chủ thể thực hiện không cố ý và cũng không vô ý thực 
hiện hoặc không nhận thức hành vi của mình thì chủ thể đó không bị xem là có lỗi và hành 
vi đó không bị xem là hành vi vi phạm pháp luật. Như vậy, có thể kết luận những hành vi 
vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật nhưng ngược lại không phải mọi hành vi trái 
pháp luật đều là hành vi vi phạm pháp luật. 
Thứ tư, chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý. 
Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý của chủ thể do nhà 
nước quy định. Thông thường, nhà nước chỉ quy định những người có khả năng nhận thức và điều 
khiển hành vì mới phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình. 
Pháp luật chỉ quy định năng lực trách nhiệm pháp lý đối với những người đã đạt được một 
độ tuổi nhất định, có khả năng lý trí và tự do ý chí. Đối với trẻ em ít tuổi chưa nhận thức và điều 
chỉnh được hành vi của mình do chưa phát triển đầy đủ về thể lực, trí lực và tâm sinh lý, nhà nước 
không bắt chúng phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi chúng gây ra cho xã hội. Độ tuổi 
phải chịu trách nhiệm pháp lý được quy định khách nhau trong các lĩnh vực và từng quan hệ xã 
hội khác nhau. Đối với những người do mất năng lực nhận thức hoặc khả năng lựa chọn, điều 
khiển hành vi của mình ở thời điểm khi thực hiện hành vi thì họ cũng không có năng lực trách 
nhiệm pháp lý theo quy định pháp luật. 
 Lấy ví dụ và phân tích cấu thành của một vi phạm pháp luật: 
8. Có nhận định cho rằng: "Tranh chấp môi trưởng là một tranh chấp đặc thù". Hãy làm 
rõ nhận định trên. / Phân tích những dấu hiệu đặc trưng của tranh chấp môi trường. 
Tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật có nội dung khác nhau thì khác nhau. Sự khác nhau 
giữa chúng trước hết bị chi phối bởi đặc trưng của các quan hệ pháp luật nội dung và thường bộc 
lộ ở những khía cạnh như: Cơ sở làm phát sinh tranh chấp, chủ thể tham gia tranh chấp, lợi ích 
mà các bên tranh chấp hướng tới, giá trị tranh chấp, thời điểm nảy sinh tranh chấp,... So với các 
tranh chấp khác, TCMT có một số nét đặc thù như sau: 
Thứ nhất, TCMT là xung đột mà trong đó lợi ích tư và lợi ích công thường gắn chặt với  nhau.      lOMoAR cPSD| 58702377
Đây là nét đặc trưng cơ bản nhất của TCMT. Đặc trưng này bắt nguồn từ việc lợi ích mà 
các bên tham gia quan hệ pháp luật môi trường hướng tới mang tính đa chiều. Trong lĩnh vực 
BVMT, các bên tham gia quan hệ, dù tham gia vì lợi ích tư thì vẫn hướng tới lợi ích chung của 
cộng đồng, của xã hội đó là chất lượng môi trường sống chung của con người, gồm: chất lượng 
không khí, chất lượng nước, đất, âm thanh, hệ sinh vật,... khi lợi ích này bị xâm hại thì yêu cầu 
trước tiên mà người thụ hưởng đưa ra là chất lượng môi trường sống của họ phải được phục hồi,  cải thiện. 
Thứ hai, TCMT thường xảy ra với quy mô lớn, liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân, các 
cộng đồng dân cư, thậm chí đến nhiều quốc gia. 
Do môi trường là một thể thống nhất không thể tách rời, không bị giới hạn bởi không gian, 
thời gian, nên các tác động xấu đến thành phần môi trường này sẽ ảnh hưởng xấu đến thành phần 
môi trường khác. Các tác động đến môi trường thường diễn ra trên quy mô lớn, phạm vi ảnh 
hưởng rộng, liên quan trực tiếp đến điều kiện sống của nhiều người. 
Thứ ba, vị thế của các bên trong TCMT thường không cân bằng. 
Phần lớn TCMT có một bên tham gia là chủ các dự án phát triển hoặc các cơ quan quản lý, 
trong khi phía bên kia chỉ là những thưởng dân với những yêu cầu, đòi hỏi về chất lượng môi 
trường sống chung của con người. Điều dễ nhận thấy là bên thứ nhất thường có ít động cơ hơn 
trong việc điều hòa lợi ích xung đột. Sự bất tương xứng về vị thể giữa các bên là một trong những 
trở ngại lớn của quá trình giải quyết TCMT. 
Thứ tư, TCMT có thể này sinh ngay từ khi chưa có sự xâm hại thực tế đến các quyền và 
lợi ích hợp pháp về môi trường. 
Thời điểm xác định các TCMT nảy sinh thường sớm hơn so với thời điểm xác định nảy 
sinh các tranh chấp khác. Trong lĩnh vực BVMT, các bên còn yêu cầu loại trừ trước khả năng xâm  hại môi trường. 
Khả năng xâm hại đến môi trường mà con người có thể dự báo thường liên quan đến các 
dự án đầu tư, thậm chí ngay từ khi dự án chưa đi vào hoạt động. Điều này lý giải cho việc nhiều 
mâu thuẫn, xung đột trong lĩnh vực môi trường đã nảy sinh ngay từ giai đoạn khi các dự án đầu 
tư chưa triển khai hoặc mới bắt đầu đi vào hoạt động. Vào giai đoạn này, mặc dù thiệt hại thực tế 
chưa xảy ra nhưng các bên xung đột cho rằng nguy cơ nội tại sẽ xảy ra thiệt hại đối với môi trường 
nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời.      lOMoAR cPSD| 58702377
Thứ năm, giá trị của những thiệt hại trong TCMT thường rất lớn và khó xác định. 
Điều này bắt nguồn từ thực tế là hậu quả do hành vi gây hại đối với môi trường thường rất nghiêm 
trọng, đa dạng và biến đổi với nhiều cấp độ khác nhau, gồm: Thiệt hại trực tiếp, thiệt hại gián tiếp; 
thiệt hại trước mắt, thiệt hại lâu dài; thiệt hại về kinh tế, thiệt hại về sinh thái; thiệt hại về tài sản, 
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; thiệt hại - đối với một quốc gia, thiệt hại phạm vi quốc tế.... 
=> Từ những dấu hiệu đặc trưng trên, có thể khẳng định "Tranh chấp môi trưởng là một 
tranh chấp đặc thù" 
9. Phân tích những yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết tranh chấp môi trường. 
Với các đặc trưng cơ bản được làm rõ, việc giải quyết TCMT đòi hỏi phải đáp ứng được các yêu  cầu sau: 
Thứ nhất, ưu tiên bảo vệ các quyền và lợi ích chung về môi trường của cộng đồng, của xã  hội. 
Do TCMT vừa là xung đột lợi ích tư vừa là xung đột lợi ích công nên yêu cầu đặt ra trong 
quá trình tìm kiếm cơ chế giải quyết tranh chấp là phải làm thế nào để có thể dung hòa được cả 
hai loại lợi ích, vừa bảo vệ được lợi ích của từng cá nhân, từng tổ chức song đồng thời và trên hết 
phải bảo vệ được lợi ích của cộng đồng, lợi ích của xã hội, lợi ích của số đông. 
Thứ hai, đảm bảo duy trì mối quan hệ bảo vệ môi trường giữa các bên để hưởng tới mục 
tiêu phát triển bền vững.  
Do sự ràng buộc một cách tự nhiên của các yếu tố môi trường với tư cách là điều kiện sống 
chung của mọi người nên giải quyết TCMT không chỉ đơn thuần là giải tỏa mâu thuẫn giữa các 
bên tranh chấp, kết luận về việc thắng hay thua kiện đối với mỗi bên mà điều quan trọng là phải 
duy trì mối quan hệ lâu dài giữa các bên tranh chấp để họ có thể cùng nhau khắc phục, cải thiện 
chất lượng môi trường sống liên tục, thường xuyên. 
Thứ ba, ngăn chặn sớm nhất sự xâm hại đối với môi trường. 
Do tính chất không thể sửa chữa được đối với những thiệt hại môi trường nên các TCMT 
nảy sinh khi các thiệt hại thực tế chưa xảy ra cũng phải được giải quyết triệt để nhằm ngăn chặn 
trước hậu quả. Quá trình giải quyết TCMT cần loại trừ hoặc giảm thiểu mọi khả năng xâm hại tới  môi trường.      lOMoAR cPSD| 58702377
Thứ tư, đảm bảo xác định một cách có căn cứ giá trị thiệt hại về môi trường. 
Do thiệt hại về môi trường thường rất lớn và khó xác định nên việc đánh giá đầy đủ những 
thiệt hại gây nên đối với môi trường cũng như ảnh hưởng của nó đến các mặt kinh tế, xã hội đòi 
hỏi phải dựa trên những căn cứ khoa học nhất định để đảm bảo tính hiệu quả. 
Thứ năm, giải quyết nhanh chóng, kịp thời các TCMT này sinh. 
Do TCMT thường xảy ra giữa các nhóm xã hội (các cộng đồng dân cư) nên ảnh hưởng về 
mặt kinh tế, xã hội là rất lớn. Kiểm soát chặt chẽ xung đột môi trường đang tiềm ẩn và giải quyết 
chúng một cách nhanh chóng, kịp thời sẽ góp phần bảo đảm trật tự xã hội, tránh sự chuyển hóa 
một cách tự phát những tranh chấp nhỏ, đơn giản trong phạm vi hẹp thành những cuộc biểu tình 
chính trị, khiếu kiện kéo dài gây rối loạn trật tự xã hội. 
10. Phân tích những nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp môi trường. 
Trong cơ chế giải quyết TCMT, các nguyên tắc cơ bản luôn đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ 
đạo, định hướng và áp dụng vào toàn bộ các giai đoạn của quá trình giải quyết các tranh chấp. 
Những nguyên tắc đó là: 
Thứ nhất, nguyên tắc công quyền can thiệp. 
Giải quyết TCMT không chỉ là mong muốn riêng của các bên tranh chấp mà còn là trách 
nhiệm của nhà nước. Chức năng quản lý xã hội và nghĩa vụ bảo đảm phúc lợi công cộng của nhà 
nước “không cho phép" công quyền đứng ngoài những quan hệ xã hội mang tính sâu sắc này. 
Tuy nhiên, để tránh tình trạng tuyệt đối hóa vai trò của nhà nước thì yêu cầu đặt ra là cần phải làm 
rõ mức độ (hay giới hạn) can thiệp của công quyền trong lĩnh vực này. 
Thứ hai, nguyên tắc phòng ngừa. 
Nguyên tắc phòng ngừa đặc biệt có ý nghĩa trong việc giải quyết những vụ kiện đòi chấm 
dứt các mối nguy hiểm tiềm tàng đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng từ các hoạt động phát 
triển, nhất là các dự án có quy mô lớn như dự án xây dựng nhà máy hóa chất, các công trình thủy 
điện, nhiệt điện, điện nguyên tử, công trình xử lý chất thải, đường giao thông... Để thực hiện đầy 
đủ nguyên tắc phòng ngừa trong giải quyết xung đột, cần thiết phải tuân thủ các quy định về ĐTM. 
Đây được xem là công cụ vừa mang tính pháp lý vừa mang tính kỹ thuật để giải quyết tranh chấp.      lOMoAR cPSD| 58702377
Thứ ba, nguyên tắc phối hợp, hợp tác. 
Để có thể duy trì mối quan hệ lâu dài giữa các bên tranh chấp trong việc cùng tìm ra các 
giải pháp khắc phục và cải thiện môi trường, cần áp dụng nguyên tắc phối hợp, hợp tác giữa các 
bên khi tiến hành giải quyết tranh chấp. Từ phương diện xã hội, đây được xem là phương cách tốt 
nhất để tổng hợp mọi nguồn lực xã hội vào việc khắc phục và cải thiện chất lượng môi trường 
sống chung của con người 
Thứ tư, nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả giá. 
Nội dung của nguyên tắc là xác định “cái giá phải trả đối với người có hành vi gây ô nhiễm  môi trường. 
“Cái giá” đó là: i) Phải áp dụng các biện pháp khắc phục tình trạng ONMT, STMT, SCMT; 
ii) Phải bồi thường thiệt hại về môi trường, về tính mạng, sức khỏe và tài sản cho các nạn nhân 
(nếu có). Với nội dung này, nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả giá đặc biệt có ý nghĩa trong 
việc giải quyết các tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại về môi trường, thiệt hại về người và của do  hành vi làm ONMT gây nên. 
Thứ năm, nguyên tắc tham vấn chuyên gia. 
Để xác định một cách có căn cứ khoa học thiệt hại xảy ra đối với môi trường, tính mạng, 
sức khỏe và tài sản của các nạn nhân trong các TCMT cần sử dụng cơ chế tham vấn chuyên gia. 
Các chuyên gia phải dựa vào các phương tiện kỹ thuật đo đạc, xét nghiệm mẫu, từ đó mới 
có các kết luận khách quan, trung thực về mối liên hệ giữa nguyên nhân và hậu quả, về mức độ 
thiệt hại. Khi đó, các số liệu mới trở thành căn cứ khoa học – pháp lý giúp các bên tranh chấp, các 
cơ quan có thẩm quyền đánh giá, dự báo cũng như có kết luận đầy đủ về tỉnh chất, mức độ, cũng 
như những ảnh hưởng (nhất là những ảnh hưởng mang tính lâu dài) đến các vấn đề môi trường, 
để đưa ra các phán quyết đảm bảo tính chính xác, khách quan. 
11. Trình bày ưu, nhược điểm của các phương thức giải quyết tranh chấp môi trường. (Chú 
ý trong Luật 2020 có thêm phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Các bạn xem 
rõ quy định về tranh chấp trong Luật) 
Thứ nhất, thương lượng. 
Cũng giống như việc giải quyết các xung đột khác, thương lượng luôn được xem là hình 
thức quan trọng của việc giải quyết TCMT vì tính chất đơn giản và hiệu quả của nó. Đây là cơ hội      lOMoAR cPSD| 58702377
tốt nhất để các bên thu nhập thêm thông tin, xem xét hoàn cảnh xảy ra sự việc, đánh giá đúng bản 
chất của vụ việc, giải tỏa những hiểu lầm, khúc mắc và cùng tìm đến các giải pháp tối ưu trong 
điều kiện chi phí về thời gian, sức lực và tài chính ở mức thấp nhất. 
So với các cuộc thương lượng để giải quyết tranh chấp khác, thương lượng trong giải quyết 
TCMT có đặc điểm là thường diễn ra giữa các chủ thể đại diện. Tùy thuộc vào các mối quan hệ 
xung đột sẽ có những đại diện cụ thể sau:  i) 
Đại diện cho lợi ích công cộng, lợi ích xã hội bị xâm hại. Loại đại diện này thường  xuất 
hiện trong các vụ TCMT có yếu tố nước ngoài, tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại do SCMT gây  nên.  ii) 
Đại diện cho các nhóm đồng lợi ích. Người đại diện trong trường hợp này thường 
đượccác bên có cùng mối quan tâm, có chung yêu cầu chỉ định. Họ thường là các chuyên gia 
(gồm chuyên gia kinh tế, chuyên gia kỹ thuật, các luật gia...), các tổ chức, hiệp hội hành nghề, 
trưởng các cụm dân cư, tổ dân phố,... thay mặt những nhóm người có cùng lợi ích để tiến hành 
thương lượng giải quyết các xung đột môi trường.  iii) 
Đối với bên gây hại, tùy từng trường hợp cụ thể, chủ thể tiến hành thương lượng sẽ  là 
người trực tiếp có hành vi gây hại cho môi * trường, người đại diện sở hữu chủ hoặc các tổ chức 
bảo hiểm trong - nước và quốc tế. 
Thứ hai, hòa giải. 
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp được tiến hành khi tranh chấp đã xảy ra hoàn 
toàn và các bên nhận thấy quá trình tự thương lượng không đem lại kết quả song vẫn mong muốn 
tìm kiếm sự thỏa thuận. Hòa giải tranh chấp là quyền của các đương sự. Pháp luật khuyến khích 
các bên tranh chấp áp dụng hình thức này. 
Trung gian hòa giải trong hòa giải TCMT được tổ chức thành các nhóm, bao gồm: đại diện 
chính quyền địa phương, các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường, các tổ chức 
dịch vụ công cộng, đại diện cộng đồng dân cư, các tổ chức phi chính phủ, các luật gia... 
So với thương lượng, hòa giải có mức độ thành công cao hơn do có sự hỗ trợ của trung gian 
là những người có kiến thức chuyên môn nhất định. Tuy nhiên, khó khăn trong hòa giải TCMT 
lại bắt nguồn từ tính chất đa thành phần của các nhóm trung gian. Đa thành phần đồng nghĩa với      lOMoAR cPSD| 58702377
việc sẽ có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau, tiếp cận các lợi ích không giống nhau. Nếu việc 
hòa giải không được tổ chức khoa học, hợp lý thì bất đồng có thể nảy sinh ngay giữa chính các  hòa giải viên. 
Thứ ba, giải quyết tranh chấp tại các cơ quan có thẩm quyền. 
Khác với các lĩnh vực dân sự, kinh tế hay lao động, TCMT có thể được giải quyết theo thủ 
tục hành chính hoặc thủ tục tư pháp. Giải quyết TCMT là một trong các nội dung của hoạt động 
quản lý nhà nước về môi trường. Bộ máy các cơ quan quản lý môi trường tham gia giải quyết 
TCMT được tổ chức ở cả 4 cấp: i) Cán bộ địa chính cấp phường, xã; ii) Các cơ quan chuyên môn 
thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; iii) Sở TN&MT; iv) Cục BVMT. 
Mặc dù thủ tục hành chính được áp dụng khá phổ biến trong giải quyết TCMT vì đặc thù 
giải quyết nhanh chóng các TCMT, ngăn chặn kịp thời các hậu quả xấu có thể gây ra đối với môi 
trường nhưng điều đó không có nghĩa là thủ tục tư pháp không được coi trọng. 
Theo quy định của pháp luật hiện hành, thẩm quyền giải quyết dạng tranh chấp phổ biến 
nhất trong lĩnh vực BVMT được xác định theo pháp luật tổ tụng dân sự. Theo đó, thẩm quyền giải 
quyết tranh chấp được xác định theo đối tượng tranh chấp sẽ là: i) TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm 
các vụ án có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh 
sự Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài; ii) TAND cấp huyện xét xử sơ thẩm những 
trường hợp còn lại. Còn xét theo phạm vi lãnh thổ thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ thuộc 
Tòa án địa phương nơi bị đơn cư trú, làm việc (nếu bị đơn là cá nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở 
(nếu bị đơn là tổ chức) 
Thứ tư, Trọng tài thương mại (xh trong các quan hệ về Kinh doanh TM) 
• Chưa được áp dụng trong thực tế vì phải xác định được vấn đề Môi trường là 1 vấn đề trong 
KDTM => phải có yếu tố lợi nhuận (tuy nhiên tín chỉ Cacbon hiện nay vẫn chưa có sàn 
giao dịch nên chưa thể sinh lợi nhuận 
• Chỉ đặt ra nền tảng là sự mua bán 
• Bộ Phát triển Nông thôn – đại diện cho người dân tham gia vào hoạt động mua bán trao 
đổi =>không phải Thương nhân 
• Thực tế không áp dụng được: xung đột Luật giữa quy định Luật và thực thi Luật vì trong 
Môi trường lợi nhuận sẽ xuất hiện ở nguyên tắc: “Ai trả giá cao hơn sẽ bán tín chỉ Cacbon 
cho người đó” => Tranh chấp xảy ra      lOMoAR cPSD| 58702377
12. Nêu trình tự giải quyết tranh chấp môi trường 
Bước 1. Kiểm tra, xác minh những nội dung được phản ánh trong các đơn thư khiếu kiện. 
Việc kiểm tra, xác minh, kết luận về mức độ chính xác trong nội dung các đơn thư khiếu 
kiện cũng như xác định nguyên nhân gây thiệt hại là bước đầu tiên, quan trọng, là cơ sở cho việc 
xem xét các tỉnh tiết cụ thể của vụ tranh chấp. 
Thường được các cơ quan chức năng tiến hành bằng các biện pháp mang tính nghiệp vụ 
như lấy mẫu các thành phần môi trường bị ô nhiễm, phân tích các đặc tính lý học, hóa học và sinh 
học của các yếu tố môi trường; kiểm tra tình hình quan trắc và kiểm soát ONMT trong khu vực; 
đánh giá hiện trạng môi trường nơi ô nhiễm xảy ra, xác định nguồn gây ô nhiễm; chứng minh mối 
quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ô nhiễm và thiệt hại vật chất về môi trường, đối chiếu các số 
liệu thu thập được với hồ sơ thiết kế, với hệ thống tiêu chuẩn môi trường Việt Nam... Từ đó đi đến 
kết luận: Đương sự khiếu kiện đúng hay sai sự thật. 
Trên cơ sở các kết luận về nguyên nhân gây ô nhiễm, đối tượng gây ô nhiễm,... các chủ thể 
có thẩm quyền một mặt áp dụng các quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT 
để xử phạt các đối tượng gây ô nhiễm, buộc họ phải tiến hành các biện pháp khắc phục tình trạng 
ô nhiễm môi trường. Mặt khác, họ sẽ giúp bên bị hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại  do ONMT gây ra. 
Bước 2. Hướng dẫn bên bị thiệt hại thu thập các chứng cứ về sự thiệt hại và xác định các yêu 
cầu đòi bồi thường thiệt hại. 
Do thiệt hại gây nên có giá trị lớn và rất khó xác định nên bên bị hại thường không thể đưa 
ra được các số liệu chứng minh nếu không có sự giúp đỡ từ các cơ quan chuyên môn. 
Một trong những phương pháp được áp dụng phổ biến để tính thiệt hại về tài sản là phương 
pháp so sánh đối chứng. Đại lượng chính được so sánh là sản lượng cây trồng, vật nuôi trung bình 
hằng năm, cụ thể: i) Đối chứng giữa sân lượng cây trồng, vật nuôi trong năm môi trường bị ô 
nhiễm với những năm trước đó (để đảm bảo độ chính xác, khách quan về những thiệt hại do 
ONMT gây nên, cần loại trừ trước sản lượng suy giảm do các tác nhân gây hại khác như thời tiết, 
sâu bệnh...); ii) Đối chứng giữa sản lượng cây trồng, vật nuôi trong khu vực bị ô nhiễm với ngoài 
khu vực đó (để đảm bảo độ chính xác cần có điều kiện bắt buộc là giữa các khu vực phải có sự 
tương đồng về các yếu tố khí hậu, thổ nhưỡng....). Đối với những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe      lOMoAR cPSD| 58702377
do ô nhiễm môi trường gây nên, cách tỉnh phổ biến là thông qua các chi phí khám, chữa bệnh do 
các cơ sở y tế cung cấp. 
Bước 3. Tham gia giải quyết tranh chấp, góp phần điều hòa lợi ích giữa các bên xung đột. 
Các cấp chính quyền và cơ quan quản lý nhà nước về môi trưởng trong giải quyết TCMT 
vừa là cơ quan chuyên môn xem xét, xác định nguyên nhân gây ô nhiễm, các mức độ ô nhiễm, 
mức độ thiệt hại vừa là cơ quan đầu mối trong việc đánh giá chứng cứ pháp lý, nêu cơ sở giải 
quyết và phân tích các mối quan hệ xã hội đan xen, tạo cơ hội cho các bên tranh chấp tự giải quyết 
các xung đột mà không cần đưa vụ án ra Toà án 
Các phương án nhằm điều hòa lợi ích xung đột cũng được xây dựng và thực hiện khá linh 
hoạt, đặc biệt là các phương án đền bù vật chất cho từng đối tượng bị thiệt hại. Căn cứ vào tình 
tiết cụ thể của mỗi vụ tranh chấp, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thường gợi ý để 
các bên áp dụng một hoặc một số phương án bồi thường thiệt hại sau: 
i) Bồi thường toàn bộ thiệt hại thực tế. Phương án này thường được áp dụng trong trường hợp 
phạm vì ô nhiễm hẹp, thiệt hại chỉ xây ra với số ít người, giá trị thiệt hại không lớn và dễ xác định 
ii) Bồi thường thiệt hại trên cơ sở xác định tỷ lệ giữa tổng giá trị thiệt hại được bù đắp so với tổng 
giá trị thiệt hại thực tế. Phương án này thường được áp dụng trong trường hợp tổng giá trị thiệt 
hại được tỉnh trên cơ sở thiệt hại của từng cá nhân, tổ chức cộng lại và người gây thiệt hại thực 
hiện hành vi làm ô nhiễm môi trường do lỗi vô ý, thiệt hại gây ra quá lớn so với khả năng tài chính 
của họ. Người gây thiệt hại được giảm mức bồi thường nhưng vì số nạn nhân quá đông nên không 
thể tính mức giảm cụ thể cho từng người.  iii) 
Bồi thường thiệt hại trên cơ sở xác định cấp độ thiệt hại. Phương án này thường được áp 
dụng trong trường hợp có sự chênh lệch đáng kể về mức độ thiệt hại giữa những nạn nhân và bên 
bị hại đã phân loại được thiệt hại ở những mức độ khác nhau. Người có mức thiệt hại trong cùng 
một cấp độ sẽ được hưởng cùng một mức bồi thường.  iv) 
Bồi thường thiệt hại trên cơ sở xác định mức thiệt hại bình quân. Phương án này áp 
dụngtrong trường hợp không có sự chênh lệch lớn giữa các mức thiệt hại. Mọi đối tượng bị thiệt 
hại đều nhận mức bồi thường như nhau.  v) 
Bồi thường thiệt hại bằng cách đầu tư vào các công trình công cộng, phúc lợi cho cộng 
đồng dân cư. Phương án này thường được áp dụng trong trường hợp phạm vi ô nhiễm rộng, thiệt 
hại xảy ra đối với nhiều người và khó xác định mức thiệt hại đến từng đối tượng cụ thể.