lOMoARcPSD| 61152560
ÔN THI MÔN TRIẾT HỌC 2021
(9 chủ đề)
Chủ đề 1 . Vấn đề cơ bản của triết học. Phép biện chứng và
phép siêu hình
Câu 1 . Vấn đề cơ bản của triết học
Vấn đề bản của triết học vấn đề quan hệ giữa vật chất ý thức.
Ăngghen khẳng định: “Vấn đề bản lớn của mọi triết học, đặc biệt của triết
học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào trước, cái nào sau, cái nào
quyết định cái nào?.
Thứ hai, ý thức của chúng ta có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan
không? Nói cách khác, con người khả năng nhận thức được thế giới hay
không?.
Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học không chỉ xác định được nền tảng và
điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học còn là tiêu chuẩn
để xác định lập trường, thế giới quan của các triết gia các học thuyết của họ.
Do đó, trả lời cho hai câu hỏi trên liên quan mật thiết đến việc hình thành các
trường phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học.
Câu 2 . Phép biện chứng và phép siêu hình
* Phương pháp siêu hình
- Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái biệt
lập, ngưng đọng, với một tư duy cứng nhắc.
- Đặc điểm của phương pháp siêu hình:
+ Chỉ nhìn thấy các sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại
giữa những sự vật ấy.
+ Chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật ấy không nhìn thấy sự phát sinh
tiêu vong của những sự vật ấy.
lOMoARcPSD| 61152560
+ Chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của sự vật ấy mà quên mất sự vận động của sự
vật ấy.
+ Chỉ nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng.
- Nguồn gốc của phương pháp siêu hình: Phương pháp siêu hình bắt nguồn
từ chỗ, muốn nhận thức một đối tượng nào đó, trước hết con người phải tách đối
tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ nhận thức nó trạng thái không biến đổi
trong một không gian và thời gian xác định.
- Về tác dụng: Phương pháp siêu hình chỉ tác dụng trong một phạm vi
nhất định bởi hiện thực không rời rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan
niệm.
* Phương pháp biện chứng
- Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trong mối liên hệ
ràng buộc lẫn nhau, trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng với một
tư duy linh hoạt và mền dẻo.
- Đặc điểm của phương pháp biện chứng:
Phương pháp biện chứng xem xét sự vật, hiện tượng:
+ Ở trạng thái trong mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng, ràng buộc nhau.
+ Ở trạng thái vận độn\g biến đổi không ngừng. Nguyên nhân của sự biến đổi
nằm trong bản thân sự vật.
+ Thừa nhận trong trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc …hoặc là”
còn có cái “vừa là …vừa là”, phản ánh sự vật đúng như nó tồn tại.
- Về tác dụng: Phương pháp tư duy biện chứng là công cụ hữu hiệu giúp con
người nhận thức và cải tạo thế giới.
* Các giai đoạn phát triển cơ bản của phương pháp biện chứng:
Ra đời từ thời cổ đại, trong lịch sử phát triển của mình, phép biện chứng đã
trải qua ba hình thức cơ bản:
+ Phép biện chứng chất phác, ngây thơ thời cổ đại
+ Phép biện chứng duy tâm của Hêghen +
Phép biện chứng duy vật mác xít.
lOMoARcPSD| 61152560
Chủ đề 2 . Vật chất và ý thức
Câu 1 . Định nghĩa vật chất của
Lênin - Bối cảnh ra đời của định
nghĩa:
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc những thành tựu mới của khoa học tự
nhiên và phê phán chủ nghĩa duy tâm triết học. Đồng thời kế thừa những tưởng
quan niệm của Mác Ăngghen vphạm trù vật chất, Lênin đã đưa ra một
định nghĩa toàn diện, sâu sắc và khoa học về phạm trù vật chất.
“Vật chất một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Nội dung của định nghĩa:
Thứ nhất, “Vật chất một phạm trù triết học” phạm trù khái quát nhất,
rộng nhất, được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, do đó,
cần phân biệt nó với khái niệm vật chất được sử dụng trong các khoa học chuyên
ngành – khái niệm dùng để chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính.
Thứ hai, thuộc tính bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất là
“thực tại khách quan” (tồn tại khách quan) tức tồn tại ngoài ý thức, độc lập,
không phụ thuộc vào ý thức của con người cho con người có nhận thức được
hay không nhận thức được nó. Đây chính tiêu chuẩn để phân biệt cái vật
chất, cái gì không phải là vật chất.
Thứ ba, “thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”. Điều đó nghĩa “thực tại khách quan” (vật chất) dưới những
dạng tồn tại cụ thể của nó, là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực
tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; “cảm giác” (ý thức) của
con người sphản ánh đối với vật chất, còn vật chất cái được ý thức phản
ánh.
Nói cách khác, trong quan hệ giữa vật chất ý thức, thì vật chất cái
trước, nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức; bằng những phương thức
lOMoARcPSD| 61152560
nhận thức khác nhau (chép lại, chục lại, phản ánh…) con người có thể nhận thức
được thế giới vật chất.
Tóm lại, nội dung định nghĩa của V.I. Lênin về phạm trù vật chất đã xuất
phát từ vấn đề bản của triết học, đặt phạm trù vật chất trong mối quan hệ với
phạm trù ý thức qua đó giải quyết được cả hai mặt trong nội dung vấn đ
bản của triết học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
– Ý nghĩa của định nghĩa:
Định nghĩa vật chất đã bác bỏ thuyết không thể biết, đồng thời khắc phục
được tính chất siêu hình, trực quan trong các quan niệm về vật chất trước Mác,
quy vật chất vào các dạng cụ thể hoặc vào một thuộc tính cụ thể nào đấy của vật
chất.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã chống lại các quan điểm duy tâm (duy tâm
khách quan và duy tâm chủ quan) về vật chất; đồng thời tạo ra cơ sở luận để
khắc phục quan điểm duy tâm về đời sống hội của chủ nghĩa duy vật trước
Mác.
Định nghĩa vật chất của Lênin còn ý nghĩa định hướng đối với các khoa
học cụ thể trong việc đi sâu vào thế giới vật chất khách quan để phát hiện ra những
kết cấu mới, những thuộc tính mới của các vật thể trong thế giới.
Câu 2 . Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
* Vận động – phương thức tồn tại của vật chất Định
nghĩa: Vận động là mọi sự biến đổi nói chung.
– Tính chất:
+ Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất. Điều đó, nghĩa vật
chất tồn tại bằng cách vận động thông qua vận động biểu hiện sự tồn ti
của mình.
+ Vận động thuộc tính cố hữu của vật chất. Điều đó nghĩa là: nói đến
vật chất nói đến vận động, không đâu, không nơi nào vật chất lại
không vận động. Vận động là thuộc tính vốn có của vật chất.
+ Vận động của vật chất là sự tự thân vận động, được tạo nên từ sự tác động
lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Quan điểm này đối
lOMoARcPSD| 61152560
lập với quan điểm duy tâm và siêu hình về vận động đi tìm nguồn gốc của vận
động ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.
+ Vật chất hạn, tận, không do ai sáng tạo ra không thể bị tiêu diệt,
cho nên, vận động với tính cách phương thức tồn tại của vật chất cũng không
do ai sáng tạo ra và không thể tự mất đi.
– Các hình thức vận động của vật chất:
Theo Ăngghen, vận động bao gồm năm hình thức chính, đó là:
1) Vận động học: Sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không
gian.
2) Vận động vật lý: Sự vận động của các nguyên tử, các hạt bản, vận
động điện tử, các quá trình nhiệt, điện, ánh sáng…
3) Vận động hoá học: Sự vận động của các phân tử, các quá trình hoá
hợp và phân giải các chất.
4) Vận động sinh học: Các hoạt động sống của thể, sự trao đổi chất
giữa cơ thể sống với môi trường.
5) Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế của các hình thái kinh tế – xã
hội, các quá trình xã hội.
Quan hgiữa các hình thức vận động: Các hình thức vận động biểu hiện trình
độ phát triển tthấp đến cao của thế giới vật chất. Các hình thức vận động cao
xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó các hình thức
vận động thấp hơn. Mỗi sự vật được đặc trưng bởi một hình thức vận động
bản.
– Vận động và đứng im:
Đứng im một trạng thái của vận động, trường hợp riêng của vận động.
Đứng im là sự vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.
Sự đứng im của sự vật thể hiện ở hai khía cạnh sau: Thể hiện ở khoảng cách
không thay đổi giữa một svật này với một sự vật khác. Thhiện trong một
khoảng thời gian nào đó, sự vật, hiện tượng chưa thay đổi một cách căn bản, chưa
biến thành sự vật, hiện tượng khác.
lOMoARcPSD| 61152560
Trong mối quan hệ giữa vận động và đứng im, thì vận động là tuyệt đối, còn
đứng im chỉ là tương đối, tạm thời. Đứng im là tương đối, tạm thời vì: Thứ nhất,
hiện tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một mối quan hệ xác định (nhất
định) chứ không phải diễn ra trong mọi quan hệ cùng một lúc. Thứ hai, đứng im
chỉ xảy ra với một hình thức vận động trong một lúc nào đó chứ không phải trong
mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
* Không gian và thời gian – hình thức tồn tại của vật chất
Theo V.I. Lênin: “Thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật
chất đang vận động không thể ở đâu ngoài không gian và thời gian”.
Định nghĩa:
Không gian khái niệm dùng để chỉ vị trí, hình thức kết cấu, đdài ngắn,
cao thấp của sự vật, hiện tượng.
Thời gian khái niệm dùng để chỉ độ dài diễn biến biến đổi của svật, hiện
tượng.
Tính chất:
Tính khách quan. Nghĩa không gian thời gian thuộc tính của vật chất,
tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do
đó không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan.
Tính vĩnh cửu và vô tận. Nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả, cả
về quá khứ lẫn tương lai, cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về phía trên lẫn phía
dưới, cả về bên phải lẫn bên trái.
Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian. Tính ba chiều
của không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời gian
là chiều từ quá khứ đến tương lai.
Câu 3 . Tính thống nhất vật chất của thế giới
Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học sự phát triển của khoa
học, chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng: bản chất của thế giới là vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm
bản sau:
lOMoARcPSD| 61152560
Một , chỉ một thế giới duy nhất thống nhất đó thế giới vật chất.
Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Hai , mọi bộ phận của thế giới vật chất đều mối liên hệ mật thiết với
nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết
cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi
phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.
Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh
ra và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật
chất đang biến đổi chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả
của nhau.
Tính vật chất của thế giới được biểu hiện c thể trong đời sống hiện thực của
con người. Đó con người không bao giờ bằng ý thức của mình sản sinh ra
được các đối tượng vật chất. Con người với ý thức chỉ thể nhận thức được
những quy luật vận động, phát triển của thế giới vật chất, cải biến thế giới vật chất
theo những quy luật khách quan vốn của nó. Câu 4 . Nguồn gốc, bản chất
kết cấu của ý thức a. Nguồn gốc
* Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức thể hiện sự phát triển của thuộc nh phản
ánh và vai trò của bộ não người.
– Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất.
Phản ánh năng lực giữ lại, tái hiện của hệ thống vật chất này những đặc
điểm của hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại.
Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật (vật tác động cái được
phải ánh vật nhận tác động cái phản ánh). Trong quá trình ấy, vật nhận tác
động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều quan trọng để
làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Cùng với sự tiến hoá của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng
phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp:
Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự
nhiên sinh. Hình thức phản ánh này nh chất thụ động, chưa sự định
lOMoARcPSD| 61152560
hướng, sự lựa chọn, nó được thể hiện qua những biến đổi cơ, lý, hoá như: sự thay
đổi vị trí, quá trình biến dạng và phá huỷ…ở các dạng vật chất vô sinh.
Phản ánh sinh học: hình thức phản ánh của giới tự nhiên hữu sinh.
được biểu hiện ở hai trình độ khác nhau như:
Tính kích thích xuất hiện những thực vật và động vật bậc thấp. Phản ánh
kích thích khả năng trả lời của thể trước những tác động của môi trường trên
sở của sự chọn lọc. Nhờ tính kích thích thể thực vật hay động vật bậc
thấp thể thích nghi với môi trường. Chẳng hạn, rễ cây mọc hướng về phía
nhiều chất dinh dưỡng.
Tính cảm ứng xuất hiện những loài động vật năng lực cảm giác. Khi các
sự vật tmôi trường bên ngoài tác động vào cơ thđộng vật thì thể thể phản
ứng lại trước những tác động đó. Ở cấp độ này, nhờ hệ thần kinh mà mối liên hệ
giữa thể và môi trường bên ngoài được thực hiện thông qua chế phản xạ
không điều kiện.
Phản ánh tâm : Xuất hiện những loài động vật bậc cao hệ thần kinh
trung ương phát triển, gắn liền với quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện.
Ở phản ánh tâm lý, ngoài cảm giác còn xuất hiện tri giác và biểu tượng. Phản ánh
tâm lý đem lại cho con vật những thông tin về sự vật và ý nghĩa của những thông
tin ấy có liên quan tới đời sống con vật.
Phản ánh ý thức: một hình thức phản ánh mới, tính năng động sáng
tạo, chỉ có ở một dạng vật chất có tổ chức cao nhất đó là bộ não con người. Phản
ánh ý thức được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não
người khi thế giới khách quan tác động lên giác quan của con người.
– Bộ não người và ý thức.
Ý thức là thuộc tính của vật chất, nhưng không phải của mọi dạng vật chất,
mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não con người.
Bộ não con người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt
sinh vật – hội và có cấu tạo rất phức tạp, nó khoảng từ 14 – 15 tỷ tế bào thần
kinh.
Hoạt động ý thức của con người chỉ diễn ra trên sở hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ não người. Do vậy, khi bộ não bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ
lOMoARcPSD| 61152560
bị rối loạn. Tuy nhiên, không thể đồng nhất hoạt động sinh thần kinh của bộ
não với hoạt động ý thức, hoạt động ý thức chlà một mặt của hoạt động sinh
thần kinh.
Tóm lại, không có bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào
bộ não người thì không thể ý thức. Sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
não người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
* Nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc xã hội của ý thức thể hiện ở vai trò của lao động và ngôn ngữ.
Vai trò của lao động:
+ Lao động là hoạt động đặc thù của con người, làm cho con người khác với
tất cả các động vật khác. Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công c
sdụng các công cụ để tạo ra của cải vật chất. Lao động của con người là hành
động có mục đích, tác động vào thế giới vật chất khách quan làm biến đổi thế giới
nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.
+ Trong quá trình lao động, cấu trúc thể người thay đổi, bộ não người
được phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của
con người cũng ngày càng phát triển.
+ Lao động sản xuất còn sở của sự hình thành phát triển ngôn ngữ
(tiếng nói và chữ viết).
Vai trò của ngôn ngữ:
+ Trong quá trình lao động, con người tất yếu có những quan hệ với nhau
nhu cầu trao đổi kinh nghiệm. Từ đó nảy sinh nhu cầu “cần thiết phải nói với
nhau một cái gì đấy”. vậy, ngôn ngữ ra đời và phát triển cùng với lao động. lao
động. Đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ”.
+ Ngôn ngữ phương tiện để con người giao tiếp trong hội, phản ánh
một cách khái quát sự vật, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trao đổi chúng giữa
các thế hệ.
Lao động ngôn ngữ, đó chính nguồn gốc hội quyết định sự hình
thành và phát triển của ý thức.
b. Bản chất và kết cu của ý thức
lOMoARcPSD| 61152560
* Bản chất của ý thức
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+ Nội dung của ý thức do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức
hình ảnh chủ quan, hình ảnh tinh thần không có tính vật chất. “Ý thức không
bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức”.
+ Sự hình thành ý thức chịu sự tác động bởi lăng kính chủ quan của mỗi chủ
thể nhận thức (tình cảm, tâm trạng, nguyện vọng, kinh nghiệm, nhu cầu, lập
trường…).
- Ý thức con người là sự phản ánh có tính năng động, sáng tạo.
+ Tính năng động của ý thức thể hiện chỗ, ý thức không phải bản sao
giản đơn, thụ động, máy móc sự vật, ý thức sự phản ánh hiện thực khách
quan theo nhu cầu của thực tiễn, là sự phản ánh chủ động và có chọn lọc của con
người.
+ Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ, trên cơ sở cái đã có, ý thức có thể
sáng tạo ra tri thức mới về sự vật; có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực
tế; ý thức có thể tiên đoán, dự báo tương lai; ý thức có thể tạo ra những ảo tưởng,
huyền thoại, giả thuyết, lý thuyết khoa học…
- Ý thức mang bản chất hội. Con người thực thể hội, nên ý
thức mang bản chất hội. Sự ra đời tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt
động thực tiễn lịch sử của con người, chịu sự chi phối không chỉ của các quy
luật sinh học mà chủ yếu là của quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội
các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định. C.Mác
Ph.Ăngghen khẳng định: “Ngay từ đầu, ý thức đã một sản phẩm hội,
và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”.
* Kết cấu của ý thức
Ý thức kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố quan hvới nhau. Tuỳ theo
cách tiếp cận, có thể phân chia kết cấu ý thức ở những góc độ khác nhau.
Theo chiều ngang, ý thức gồm các yếu tố cấu thành như: tri thức, tình cảm,
niềm tin, lý trí, ý chí,… trong đó tri thức là nhân tố cơ bản cốt lõi nhất.
lOMoARcPSD| 61152560
Theo chiều dọc, theo chiều sâu ca thế giới nội tâm con người thì ý thức bao
gồm các yếu tố như: tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
Chủ đề 3 . Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
Câu 1 . Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm mối liên hệ và mi liên hệ phổ biến
Mối liên hệ khái niệm dùng để chỉ sự quy định, sự tác động chuyển h
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện
tượng trong thế giới.
Mối liên hphổ biến khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ tồn tại
nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới.
Mối liên hệ phổ biến nhất là khái niệm dùng để chnhững mối liên hệ tồn tại
mọi svật, hiện tượng của thế giới, đối tượng nghiên cứu của phép biện
chứng duy vật.
- Tính chất của mối liên hệ
+ Mối liên hệ mang tính khách quan, cái vốn của mọi sự vật, hiện tượng.
+ Mối liên hệ mang tính phổ biến. Mối liên hệ là phổ biến bởi vì mối liên hệ
chẳng những diễn ra mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên, trong hội, trong
duy còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các giai đoạn trong quá trình
vận động, phát triển của mỗi sự vật và hiện tượng.
+ Mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới là rất đa dạng, phong
phú.
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan rất đa dạng phong phú
nên mối liên hệ giữa chúng cũng rất đa dạng.
Các loại mối liên hệ khác nhau vị trí, vai tkhác nhau đối với sự vận
động và phát triển của các sự vật và hiện tượng. Vì thế, khi nghiên cứu các sự vật,
hiện tượng cần phải phân loại các mối liên hệ một cách cụ thể như: mối liên hệ
bên trong mối liên hệ bên ngoài; mối liên hchủ yếu mối liên hệ thứ yếu;
mối liên hệ chung và mối liên hệ riêng; mối liên hệ trực tiếp mối liên hệ gián
tiếp; mối liên hệ tất yếu và mối liên hệ ngẫu nhiên…
lOMoARcPSD| 61152560
Việc phân loại các mối liên hchỉ có ý nghĩa tương đối, bởi các loại liên
hệ có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá như vậy có thể diễn ra do thay đổi
phạm vi xem xét, hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật, hiện
tượng.
Những hình thức riêng biệt, cụ thể của từng mối liên hệ là đối tượng nghiên
cứu của từng ngành khoa học cụ thể, còn phép biện chứng duy vật nghiên cứu
những mối liên hệ chung nhất của thế giới. thế, Ăngghen viết: “Phép biện
chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến”.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Nếu các sự vật và hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ
biến nhiều vẻ, thì muốn nhận thức tác động vào chúng, chúng ta phải
quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi:
+ Để nhận thức đúng đắn về sự vật thì cần phải đặt nó trong mối liên hệ qua
lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật trong sự
tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và
mối liên hệ gián tiếp.
+ Quan điểm toàn diện không nghĩa là cách xem xét cào bằng, tràn lan,
mà phải thấy được vị trí, vai trò của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong
tổng thể của chúng, từ đó tiếp tục đi đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi
phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
+ Quan điểm toàn diện còn đòi hỏi phải chống lại cách xem xét phiến diện
một chiều, phải chống lại chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện.
+ các sự vật, hiện tượng khác nhau, tồn tại trong không gian, thời gian
khác nhau, các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn chúng ta cần có quan điểm lịch s cụ thể . Quan điểm lịch sử cụ
thể đòi hỏi: chúng ta khi nhận thức về sự vật và cải tạo sự vật phải chú ý đến điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể trong đó svật sinh ra, tồn tại
phát triển. Thực tế cho thấy, một luận điểm nào đó luận điểm khoa học trong
điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện khác.
Câu 2 . Nguyên lý về sự phát triển
- Khái niệm phát triển
lOMoARcPSD| 61152560
Phát triển một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn.
- Tính chất của sự phát triển
+ Sự phát triển mang tính khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của
sự vật quy định. Phát triển thuộc tính vốn có, là quá trình tự thân của mọi s
vật, hiện tượng.
+ Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển thể hiện
ở chỗ, sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Sự phát triển mang tính đa dạng, phong phú.
Sự phát triển mỗi sự vật, hiện tượng mỗi lĩnh vực khác nhau thì cũng
khác nhau. Khuynh hướng phát triển khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện
tượng. Song, mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại quá trình phát triển không giống
nhau.
Tồn tại không gian khác nhau, thời gian khác nhau, svật phát triển sẽ
khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác
động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động
đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay
đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
+ Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, phải trải qua nhiều khâu
trung gian, thậm chí có lúc có sự thụt lùi tạm thời.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự phát triển kết quả của quá trình
thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất; sự phát triển diễn ra theo đường
xoáy ốc, nghĩa trong qtrình phát triển dường nsự quay trở lại điểm
xuất phát, nhưng trên một cơ sở mới cao hơn.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Nếu khuynh hướng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan
vận động đi lên thì trong nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi:
lOMoARcPSD| 61152560
+ Khi xem xét các sự vật và hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, trong
sự phát triển không ngừng.
+ Quan điểm phát triển cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự vật như cái đang
có mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó.
+ Trong quá trình nhận thức đòi hỏi chúng ta phải thấy tính quanh co, phức
tạp của quá trình phát triển như là một quá trình phổ biến. Thiếu quan điểm như
vậy, người ta rất dbi quan, dao động khi mà tiến trình cách mạng nói chung và
sự tiến triển ca từng lĩnh vực hội cũng như của cá nhân nói riêng tạm thời gặp
khó khăn trắc trở.
+ Trong hoạt động thực tiễn, nhằm thúc đẩy sự vật phát triển theo quy luật
vốn của đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn của chính sự vật, bằng
hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn.
Chủ đề 4 . Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng
duy vật
Câu 1 . Cái riêng và cái chung
- Khái niệm
Cái riêng phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng hay
một quá trình riêng lẻ nhất định.
Cái chung phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những yếu tố, những
bộ phận, những thuộc tính chung không những một kết cấu vật chất nhất định
mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Cái chung phân thành cái chung căn bản và cái chung không căn bản. Cái
chung căn bản cái chung thuộc về bản chất của sự vật. Cái chung không căn
bản những cái chung nằm ngoài bản chất. Cái chung căn bản chi phối svận
động và phát triển của sự vật, còn cái chung không căn bản ảnh hưởng ít hoặc
nhiều đến sự vận động và phát triển của sự vật.
Cái đơn nhất: Khác với cái chung, cái đơn nhất một phạm trù triết học
dùng để chỉ những nét, những mặt, những yếu tố, những bộ phận, những thuộc
tính… chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định mà không được lặp lại ở những kết
cấu vật chất khác.
lOMoARcPSD| 61152560
- Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cả cái riêng, cái chung
cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng mối quan hệ biện chứng
với nhau.
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng thông qua cái riêng biểu
hiện sự tồn tại của mình.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa tới cái chung.
+ Cái riêng tồn tại độc lập, nhưng không hoàn toàn lập với cái khác. Bất
cứ cái riêng nào bao giờ cũng tồn tại trong một môi trường, một hoàn cảnh nhất
định, tương tác với môi trường, hoàn cảnh ấy, do đó đều tham gia vào các mối
liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự vật, hiện tượng khác xung quanh mình.
Các mối liên hệ qua lại này cứ trải rộng dần, gặp gỡ rồi giao thoa với các mối liên
hệ qua lại khác, kết quả tạo nên một mạng lưới các mối liên hệ mới, trong đó
có những mối liên hệ dẫn đến một hoặc một số cái chung nào đó.
+ Bất cứ cái riêng nào cũng đều không tồn tại vĩnh viễn. Mỗi cái riêng, sau
khi xuất hiện, đều tồn tại trong một thời gian nhất định rồi biến thành một cái
riêng khác, cái riêng khác này lại biến thành cái riêng thứ ba,... cứ như vậy cho
đến cùng tận. Kết quả của sự biến hoá vô cùng tận này tất cả các cái riêng
đều có liên hệ với nhau và có những cái chung nhất định.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung. Còn cái chung là
cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng.
+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung ngoài những đặc điểm
gia nhập vào cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt chỉ riêng
có. Nói cách khác, cái riêng phong phú hơn cái chung ngoài cái chung, trong
cái riêng còn có cái đơn nhất.
+ Cái chung sâu sắc hơn cái riêng là bởi vì cái chung là cái gắn liền với bản
chất của sự vật, hiện tượng. Nó phản ánh những thuộc tính, những mi liên hệ ổn
định, tất nhiên, lặp lại nhiều sự vật, hiện tượng cùng loại. Do đó, cái chung
cái quy định phương hướng tồn tại phát triển của svật, hiện tượng. thế,
một khi cái chung thay đổi thì sự vật sẽ thay đổi theo.
lOMoARcPSD| 61152560
Thứ , trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều
kiện nhất định, cái đơn nhất có thể chuyển hoá thành cái chung và ngược lại, cái
chung có thể chuyển hoá thành cái đơn nhất.
+ Sự chuyển hoá từ cái đơn nhất thành cái chung biểu hiện của quá trình
cái mới ra đời thay thế cái cũ. Đó là xu thế vận động tích cực ở sự vật.
+ Ngược lại, sự chuyển hoá từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của
quá trình cái cũ, cái lạc hậu bị phủ định. Đây là xu hướng vận động đi xuống ở sự
vật.
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng biểu hiện
sự tồn tại của mình. Do đó, chúng ta chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất
phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng cụ thể chứ không được xuất phát từ
ý muốn chủ quan của con người. Không được tìm cái chung bên ngoài mỗi cái
riêng.
+ Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng như một bộ phận của cái riêng, bộ
phận đó tác động qua lại với những bộ phận, những yếu tố còn lại của cái riêng
những cái không gia nhập vào cái chung nên bất cứ cái chung nào cũng tồn tại
trong cái riêng dưới dạng đã bị cải biến. Từ đó, một kết luận được rút ra là bất cứ
cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hoá,
tránh dập khuôn giáo điều hoặc cục bộ địa phương.
+ Vì cái riêng gắn bó chặt chẽ với cái chung, không tồn tại ở bên ngoài mối
liên hệ dẫn tới cái chung, cho nên để giải quyết những vấn đề riêng một cách
hiệu quả thì không thể lảng tránh được việc giải quyết những vấn đề chung
những vấn đề lý luận liên quan với các vấn đề riêng đó.
+ Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái
đơn nhất có thể biến thành cái chung, và ngược lại cái chung thể biến thành cái
đơn nhất, nên trong hoạt động thực tiễn cần phải tạo điều kiện thuận lợi để cái đơn
nhất lợi cho con người trở thành cái chung cái chung bất lợi trở thành cái
đơn nhất.
Câu 2 . Nguyên nhân và kết qu
- Khái niệm
lOMoARcPSD| 61152560
Nguyên nhân một phạm trù triết học dùng để chsự tác động lẫn nhau giữa
các mặt trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra những biến
đổi nhất định.
Kết quả những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Điều kiện là những hiện tượng cần thiết cho một biến cố nào đó xảy ra. Nếu
không có chúng thì nguyên nhân không thể gây nên kết quả.
Nguyên cớ là nguyên nhân giả tạo.
Tính chất của mi liên hệ nhân – quả:
Tính khách quan, nguyên nhân và kết quả là cái vốn có của bản thân các sự
vật, của hiện thực khách quan. tồn tại không phụ thuộc vào ý thức chủ quan
của con người, không phụ thuộc vào việc ta có nhận thức được nó hay không.
Tính phổ biến, thể hiện ở chỗ, mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội
và tư duy đều có nguyên nhân, chỉ có điều là chúng ta đã nhận thức được nguyên
nhân đó chưa mà thôi.
Tính tất yếu, thể hiện ở chỗ, cùng một nguyên nhân nhất định, trong những
điều kiện, hoàn cảnh càng ít khác nhau thì thu được kết quả càng giống nhau.
- Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết qu
+ Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả
Nguyên nhân cái sinh ra kết quả vậy bao giờ nguyên nhân ng cái
trước, kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện tác động. Cần
chú ý là ngoài quan hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian, quan hệ nhân quả còn là
quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân sinh ra kết quả.
Thực tiễn cho thấy, một nguyên nhân thể gây nên nhiều kết quả khác nhau
tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, một kết quả có thể được gây nên bởi
nhiều nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hay tác động cùng một lúc.
Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì
chúng sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu
các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì
lOMoARcPSD| 61152560
chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí hoàn toàn triệt tiêu tác dụng của nhau. Điều đó s
ngăn cản sự xuất hiện của kết quả.
Căn cứ vào tính chất, phạm vi và vai trò của nguyên nhân đối với sự hình
thành kết quả, thể phân loại các nguyên nhân ra thành: Nguyên nhân chủ yếu
nguyên nhân thyếu, Nguyên nhân bên trong nguyên nhân bên ngoài,
Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
+ Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân
Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng kết quả không tồn tại thụ động
stác động trở lại nguyên nhân theo hai chiều hướng: thể tích cực, thể
tiêu cực. Do vậy, cần lợi dụng những kết quả để tác động lại nguyên nhân nhằm
đạt được mục tiêu của con người.
+ Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển đổi vị trí cho nhau trong quá trình
phát triển của sự vật
Trong sợi dây chuyền tận của sự vận động của vật chất, không một
hiện tượng nào được coi là nguyên nhân đầu tiên cũng không một kết quả
nào được xem là kết quả cuối cùng. Trong mối quan hệ này sự vật và hiện tượng
nào đó được coi là nguyên nhân, song trong mối quan hệ khác nó lại là kết quả
ngược lại. Do mối quan hệ nhân – quả là không đầu không đuôi, vì vậy một hiện
tượng nào đó được coi nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng phải đặt trong
một quan hệ xác định, cụ thể.
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ mọi sự vật, hiện tượng đều nguyên nhân xuất hiện, tồn tại và tiêu
vong nên không có vấn đề có hay không có nguyên nhân của một hiện tượng nào
đó, chỉ vấn đề các nguyên nhân ấy đã được phát hiện hay chưa được phát
hiện. Nhiệm vụ của khoa học chính đi tìm nguyên nhân chưa được phát hiện để
hiểu đúng hiện tượng. Quá trình đi tìm nguyên nhân cần lưu ý chỉ thể tìm
trong chính thế giới các hiện tượng chkhông thể ngoài . Chống tưởng
chủ quan muốn tìm nguyên nhân trong trí tưởng tượng của con người.
+ Một sự vật, hiện tượng thể nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên
nhân đó thể vị tkhác nhau trong việc hình thành kết quả. Do vậy, trong
lOMoARcPSD| 61152560
hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải phân loại các nguyên nhân một cách khoa
học, cụ thể.
+ Muốn nhận thức nguyên nhân của một hiện tượng nào đó cần phân tích
những hiện tượng, quá trình quan hệ với hiện tượng đó xảy ra trước hiện
tượng đó.
+ Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng không tồn tại thụ động
thể tác động trở lại nguyên nhân, vì vậy chúng ta phải biết khai thác và vận dụng
các kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức và thúc đẩy sự vật phát triển.
Câu 3 . Tất nhiên và ngẫu nhiên
- Khái niệm
Tất nhiên phạm trù chỉ những hiện tượng, quá trình do những nguyên nhân
bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định
phải xảy ra như thế chứ không thể khác được.
Ngẫu nhiên phạm trù chỉ những hiện tượng, quá trình không do mối liên
hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất quyết định, mà do các nhân tố bên ngoài,
do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định, do đó nó có thể xuất hiện,
thể không xuất hiện, thể xuất hiện như thế này, thể xuất hiện như thế
khác.
- Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Tất nhiên ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con
người đều vị trí, vai tnhất định đối với sự phát triển của sự vật. Cái tất
nhiên tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật. Cái ngẫu nhiên tác dụng
làm cho quá trình phát triển của sự vật diễn ra nhanh hoặc chậm.
+ Tất nhiên ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu với nhau, thể
hiện chỗ: cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình xuyên qua s
cái ngẫu nhiên. Còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng
thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên.
+ Tất nhiên ngẫu nhiên thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện
nhất định. Cái ngẫu nhiên có thể chuyển hoá thành cái tất nhiên và ngược lại. Sự
chuyển hoá giữa tất nhiên ngẫu nhiên còn thể hiện chỗ: khi xem xét trong
lOMoARcPSD| 61152560
mối quan hệ này thì sự vật, hiện tượng là cái ngẫu nhiên; nhưng khi xem xét trong
mối quan hệ khác thì sự vật, hiện tượng đó lại là cái tất nhiên.
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ cái tất nhiên gắn với bản chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo
quy luật nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên cái không gắn với bản chất nội
tại của sự vật, thể xảy ra hoặc không xảy ra. Do đó, trong hoạt động thực
tiễn chúng ta phải dựa vào cái tất nhiên, không thể dựa vào cái ngẫu nhiên.
+ Vì cái ngẫu nhiên tuy không chi phối sự phát triển của sự vật, nhưng có
ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, đôi khi còn có thể ảnh hưởng rất sâu đậm.
Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, ngoài phương án chính, đòi hỏi người ta phải
các phương án dphòng nhằm chủ động đáp ứng những sự biến ngẫu nhiên
thể xảy ra.
+ cái tất nhiên thể hiện sự tồn tại của nh qua cái ngẫu nhiên. Do đó,
muốn nhận thức được cái tất nhiên phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích, so
sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên.
+ Cái ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định thể chuyển hoá thành cái tất
nhiên và ngược lại, cho nên, cần chú ý tạo những điều kiện cần thiết hoặc để ngăn
trở, hoặc để sự chuyển hoá đó diễn ra tuỳ theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn.
Câu 4 . Nội dung và hình thức
- Khái niệm
Nội dung tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo
nên sự vật.
Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các
mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó. - Mối quan hệ
biện chứng giữa nội dung và hình thức
+ Nội dung và hình thức tồn tại khách quan. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào
cũng các bộ phận, các yếu tố cấu thành, tức là phải nội dung nội dung
ấy là phong phú hay đơn giản. Đồng thời, các bộ phận, các yếu tố đó phải được
sắp xếp theo một trật tự nhất định, phải có hình khối, màu sắc... do đó, phải có
hình thức dù hình thức này hợp lý hay chưa hợp lý.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61152560
ÔN THI MÔN TRIẾT HỌC 2021 (9 chủ đề)
Chủ đề 1 . Vấn đề cơ bản của triết học. Phép biện chứng và phép siêu hình
Câu 1 . Vấn đề cơ bản của triết học
Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Ăngghen khẳng định: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết
học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?.
Thứ hai, ý thức của chúng ta có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan
không? Nói cách khác, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?.
Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học không chỉ xác định được nền tảng và
điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học mà nó còn là tiêu chuẩn
để xác định lập trường, thế giới quan của các triết gia và các học thuyết của họ.
Do đó, trả lời cho hai câu hỏi trên liên quan mật thiết đến việc hình thành các
trường phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học.
Câu 2 . Phép biện chứng và phép siêu hình
* Phương pháp siêu hình
- Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái biệt
lập, ngưng đọng, với một tư duy cứng nhắc.
- Đặc điểm của phương pháp siêu hình:
+ Chỉ nhìn thấy các sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại
giữa những sự vật ấy.
+ Chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và
tiêu vong của những sự vật ấy. lOMoAR cPSD| 61152560
+ Chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của sự vật ấy mà quên mất sự vận động của sự vật ấy.
+ Chỉ nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng.
- Nguồn gốc của phương pháp siêu hình: Phương pháp siêu hình bắt nguồn
từ chỗ, muốn nhận thức một đối tượng nào đó, trước hết con người phải tách đối
tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng thái không biến đổi
trong một không gian và thời gian xác định.
- Về tác dụng: Phương pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi
nhất định bởi hiện thực không rời rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm.
* Phương pháp biện chứng
- Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trong mối liên hệ
ràng buộc lẫn nhau, trong trạng thái vận động và biến đổi không ngừng với một
tư duy linh hoạt và mền dẻo.
- Đặc điểm của phương pháp biện chứng:
Phương pháp biện chứng xem xét sự vật, hiện tượng:
+ Ở trạng thái trong mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng, ràng buộc nhau.
+ Ở trạng thái vận độn\g biến đổi không ngừng. Nguyên nhân của sự biến đổi
nằm trong bản thân sự vật.
+ Thừa nhận trong trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là …hoặc là”
còn có cái “vừa là …vừa là”, phản ánh sự vật đúng như nó tồn tại.
- Về tác dụng: Phương pháp tư duy biện chứng là công cụ hữu hiệu giúp con
người nhận thức và cải tạo thế giới.
* Các giai đoạn phát triển cơ bản của phương pháp biện chứng:
Ra đời từ thời cổ đại, trong lịch sử phát triển của mình, phép biện chứng đã
trải qua ba hình thức cơ bản:
+ Phép biện chứng chất phác, ngây thơ thời cổ đại
+ Phép biện chứng duy tâm của Hêghen +
Phép biện chứng duy vật mác xít. lOMoAR cPSD| 61152560
Chủ đề 2 . Vật chất và ý thức
Câu 1 . Định nghĩa vật chất của
Lênin - Bối cảnh ra đời của định nghĩa:
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc những thành tựu mới của khoa học tự
nhiên và phê phán chủ nghĩa duy tâm triết học. Đồng thời kế thừa những tư tưởng
và quan niệm của Mác và Ăngghen về phạm trù vật chất, Lênin đã đưa ra một
định nghĩa toàn diện, sâu sắc và khoa học về phạm trù vật chất.
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Nội dung của định nghĩa:
Thứ nhất, “Vật chất là một phạm trù triết học” – phạm trù khái quát nhất,
rộng nhất, được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, do đó,
cần phân biệt nó với khái niệm vật chất được sử dụng trong các khoa học chuyên
ngành – khái niệm dùng để chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính.
Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất là
“thực tại khách quan” (tồn tại khách quan) – tức là tồn tại ngoài ý thức, độc lập,
không phụ thuộc vào ý thức của con người cho dù con người có nhận thức được
hay không nhận thức được nó. Đây chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật
chất, cái gì không phải là vật chất.
Thứ ba, “thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”. Điều đó có nghĩa “thực tại khách quan” (vật chất) dưới những
dạng tồn tại cụ thể của nó, là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực
tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; “cảm giác” (ý thức) của
con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
Nói cách khác, trong quan hệ giữa vật chất và ý thức, thì vật chất là cái có
trước, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức; và bằng những phương thức lOMoAR cPSD| 61152560
nhận thức khác nhau (chép lại, chục lại, phản ánh…) con người có thể nhận thức
được thế giới vật chất.
Tóm lại, nội dung định nghĩa của V.I. Lênin về phạm trù vật chất đã xuất
phát từ vấn đề cơ bản của triết học, đặt phạm trù vật chất trong mối quan hệ với
phạm trù ý thức và qua đó giải quyết được cả hai mặt trong nội dung vấn đề cơ
bản của triết học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
– Ý nghĩa của định nghĩa:
Định nghĩa vật chất đã bác bỏ thuyết không thể biết, đồng thời khắc phục
được tính chất siêu hình, trực quan trong các quan niệm về vật chất trước Mác,
quy vật chất vào các dạng cụ thể hoặc vào một thuộc tính cụ thể nào đấy của vật chất.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã chống lại các quan điểm duy tâm (duy tâm
khách quan và duy tâm chủ quan) về vật chất; đồng thời nó tạo ra cơ sở lý luận để
khắc phục quan điểm duy tâm về đời sống xã hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
Định nghĩa vật chất của Lênin còn có ý nghĩa định hướng đối với các khoa
học cụ thể trong việc đi sâu vào thế giới vật chất khách quan để phát hiện ra những
kết cấu mới, những thuộc tính mới của các vật thể trong thế giới.
Câu 2 . Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
* Vận động – phương thức tồn tại của vật chất – Định
nghĩa: Vận động là mọi sự biến đổi nói chung. – Tính chất:
+ Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất. Điều đó, có nghĩa là vật
chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình.
+ Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Điều đó có nghĩa là: nói đến
vật chất là nói đến vận động, không ở đâu, không ở nơi nào có vật chất mà lại
không vận động. Vận động là thuộc tính vốn có của vật chất.
+ Vận động của vật chất là sự tự thân vận động, được tạo nên từ sự tác động
lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Quan điểm này đối lOMoAR cPSD| 61152560
lập với quan điểm duy tâm và siêu hình về vận động – đi tìm nguồn gốc của vận
động ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.
+ Vật chất là vô hạn, vô tận, không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt,
cho nên, vận động với tính cách là phương thức tồn tại của vật chất cũng không
do ai sáng tạo ra và không thể tự mất đi.
– Các hình thức vận động của vật chất:
Theo Ăngghen, vận động bao gồm năm hình thức chính, đó là: 1)
Vận động cơ học: Sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian. 2)
Vận động vật lý: Sự vận động của các nguyên tử, các hạt cơ bản, vận
động điện tử, các quá trình nhiệt, điện, ánh sáng… 3)
Vận động hoá học: Sự vận động của các phân tử, các quá trình hoá
hợp và phân giải các chất. 4)
Vận động sinh học: Các hoạt động sống của cơ thể, ở sự trao đổi chất
giữa cơ thể sống với môi trường. 5)
Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế của các hình thái kinh tế – xã
hội, các quá trình xã hội.
Quan hệ giữa các hình thức vận động: Các hình thức vận động biểu hiện trình
độ phát triển từ thấp đến cao của thế giới vật chất. Các hình thức vận động cao
xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó các hình thức
vận động thấp hơn. Mỗi sự vật được đặc trưng bởi một hình thức vận động cơ bản.
– Vận động và đứng im:
Đứng im là một trạng thái của vận động, là trường hợp riêng của vận động.
Đứng im là sự vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.
Sự đứng im của sự vật thể hiện ở hai khía cạnh sau: Thể hiện ở khoảng cách
không thay đổi giữa một sự vật này với một sự vật khác. Thể hiện trong một
khoảng thời gian nào đó, sự vật, hiện tượng chưa thay đổi một cách căn bản, chưa
biến thành sự vật, hiện tượng khác. lOMoAR cPSD| 61152560
Trong mối quan hệ giữa vận động và đứng im, thì vận động là tuyệt đối, còn
đứng im chỉ là tương đối, tạm thời. Đứng im là tương đối, tạm thời vì: Thứ nhất,
hiện tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một mối quan hệ xác định (nhất
định) chứ không phải diễn ra trong mọi quan hệ cùng một lúc. Thứ hai, đứng im
chỉ xảy ra với một hình thức vận động trong một lúc nào đó chứ không phải trong
mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
* Không gian và thời gian – hình thức tồn tại của vật chất
Theo V.I. Lênin: “Thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật
chất đang vận động không thể ở đâu ngoài không gian và thời gian”. – Định nghĩa:
Không gian là khái niệm dùng để chỉ vị trí, hình thức kết cấu, độ dài ngắn,
cao thấp của sự vật, hiện tượng.
Thời gian là khái niệm dùng để chỉ độ dài diễn biến biến đổi của sự vật, hiện tượng. – Tính chất:
Tính khách quan. Nghĩa là không gian và thời gian là thuộc tính của vật chất,
tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do
đó không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan.
Tính vĩnh cửu và vô tận. Nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả, cả
về quá khứ lẫn tương lai, cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về phía trên lẫn phía
dưới, cả về bên phải lẫn bên trái.
Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian. Tính ba chiều
của không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời gian
là chiều từ quá khứ đến tương lai.
Câu 3 . Tính thống nhất vật chất của thế giới
Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển của khoa
học, chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng: bản chất của thế giới là vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau: lOMoAR cPSD| 61152560
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất đó là thế giới vật chất.
Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Hai là, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ mật thiết với
nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết
cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi
phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.
Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh
ra và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật
chất đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Tính vật chất của thế giới được biểu hiện cụ thể trong đời sống hiện thực của
con người. Đó là con người không bao giờ bằng ý thức của mình mà sản sinh ra
được các đối tượng vật chất. Con người với ý thức chỉ có thể nhận thức được
những quy luật vận động, phát triển của thế giới vật chất, cải biến thế giới vật chất
theo những quy luật khách quan vốn có của nó. Câu 4 . Nguồn gốc, bản chất
kết cấu của ý thức a. Nguồn gốc

* Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức thể hiện ở sự phát triển của thuộc tính phản
ánh và vai trò của bộ não người.
– Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất.
Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện của hệ thống vật chất này những đặc
điểm của hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại.
Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật (vật tác động – cái được
phải ánh và vật nhận tác động – cái phản ánh). Trong quá trình ấy, vật nhận tác
động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều quan trọng để
làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Cùng với sự tiến hoá của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng
phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp:
Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự
nhiên vô sinh. Hình thức phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có sự định lOMoAR cPSD| 61152560
hướng, sự lựa chọn, nó được thể hiện qua những biến đổi cơ, lý, hoá như: sự thay
đổi vị trí, quá trình biến dạng và phá huỷ…ở các dạng vật chất vô sinh.
Phản ánh sinh học: Là hình thức phản ánh của giới tự nhiên hữu sinh. Nó
được biểu hiện ở hai trình độ khác nhau như:
Tính kích thích xuất hiện ở những thực vật và động vật bậc thấp. Phản ánh
kích thích là khả năng trả lời của cơ thể trước những tác động của môi trường trên
cơ sở của sự chọn lọc. Nhờ tính kích thích mà cơ thể thực vật hay động vật bậc
thấp có thể thích nghi với môi trường. Chẳng hạn, rễ cây mọc hướng về phía có nhiều chất dinh dưỡng.
Tính cảm ứng xuất hiện ở những loài động vật có năng lực cảm giác. Khi các
sự vật từ môi trường bên ngoài tác động vào cơ thể động vật thì cơ thể có thể phản
ứng lại trước những tác động đó. Ở cấp độ này, nhờ hệ thần kinh mà mối liên hệ
giữa cơ thể và môi trường bên ngoài được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ không điều kiện.
Phản ánh tâm lý: Xuất hiện ở những loài động vật bậc cao có hệ thần kinh
trung ương phát triển, gắn liền với quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện.
Ở phản ánh tâm lý, ngoài cảm giác còn xuất hiện tri giác và biểu tượng. Phản ánh
tâm lý đem lại cho con vật những thông tin về sự vật và ý nghĩa của những thông
tin ấy có liên quan tới đời sống con vật.
Phản ánh ý thức: Là một hình thức phản ánh mới, có tính năng động sáng
tạo, chỉ có ở một dạng vật chất có tổ chức cao nhất đó là bộ não con người. Phản
ánh ý thức được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não
người khi thế giới khách quan tác động lên giác quan của con người.
– Bộ não người và ý thức.
Ý thức là thuộc tính của vật chất, nhưng không phải của mọi dạng vật chất,
mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não con người.
Bộ não con người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt
sinh vật – xã hội và có cấu tạo rất phức tạp, nó có khoảng từ 14 – 15 tỷ tế bào thần kinh.
Hoạt động ý thức của con người chỉ diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ não người. Do vậy, khi bộ não bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ lOMoAR cPSD| 61152560
bị rối loạn. Tuy nhiên, không thể đồng nhất hoạt động sinh lý thần kinh của bộ
não với hoạt động ý thức, hoạt động ý thức chỉ là một mặt của hoạt động sinh lý thần kinh.
Tóm lại, không có bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào
bộ não người thì không thể có ý thức. Sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
não người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
* Nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc xã hội của ý thức thể hiện ở vai trò của lao động và ngôn ngữ. Vai trò của lao động:
+ Lao động là hoạt động đặc thù của con người, làm cho con người khác với
tất cả các động vật khác. Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ
và sử dụng các công cụ để tạo ra của cải vật chất. Lao động của con người là hành
động có mục đích, tác động vào thế giới vật chất khách quan làm biến đổi thế giới
nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.
+ Trong quá trình lao động, cấu trúc cơ thể người thay đổi, bộ não người
được phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của
con người cũng ngày càng phát triển.
+ Lao động sản xuất còn là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ
(tiếng nói và chữ viết). Vai trò của ngôn ngữ:
+ Trong quá trình lao động, con người tất yếu có những quan hệ với nhau và
có nhu cầu trao đổi kinh nghiệm. Từ đó nảy sinh nhu cầu “cần thiết phải nói với
nhau một cái gì đấy”. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và phát triển cùng với lao động. lao
động. Đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ”.
+ Ngôn ngữ là phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội, phản ánh
một cách khái quát sự vật, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trao đổi chúng giữa các thế hệ.
Lao động và ngôn ngữ, đó chính là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình
thành và phát triển của ý thức.
b. Bản chất và kết cấu của ý thức lOMoAR cPSD| 61152560
* Bản chất của ý thức
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+ Nội dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức là
hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần nó không có tính vật chất. “Ý thức không
bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức”.
+ Sự hình thành ý thức chịu sự tác động bởi lăng kính chủ quan của mỗi chủ
thể nhận thức (tình cảm, tâm trạng, nguyện vọng, kinh nghiệm, nhu cầu, lập trường…).
- Ý thức con người là sự phản ánh có tính năng động, sáng tạo.
+ Tính năng động của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức không phải là bản sao
giản đơn, thụ động, máy móc sự vật, mà ý thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan theo nhu cầu của thực tiễn, là sự phản ánh chủ động và có chọn lọc của con người.
+ Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ, trên cơ sở cái đã có, ý thức có thể
sáng tạo ra tri thức mới về sự vật; có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực
tế; ý thức có thể tiên đoán, dự báo tương lai; ý thức có thể tạo ra những ảo tưởng,
huyền thoại, giả thuyết, lý thuyết khoa học…
- Ý thức mang bản chất xã hội. Con người là thực thể xã hội, nên ý
thức mang bản chất xã hội. Sự ra đời tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt
động thực tiễn lịch sử của con người, chịu sự chi phối không chỉ của các quy
luật sinh học mà chủ yếu là của quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội
và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định. C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định: “Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội,
và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”.
* Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố quan hệ với nhau. Tuỳ theo
cách tiếp cận, có thể phân chia kết cấu ý thức ở những góc độ khác nhau.
Theo chiều ngang, ý thức gồm các yếu tố cấu thành như: tri thức, tình cảm,
niềm tin, lý trí, ý chí,… trong đó tri thức là nhân tố cơ bản cốt lõi nhất. lOMoAR cPSD| 61152560
Theo chiều dọc, theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người thì ý thức bao
gồm các yếu tố như: tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
Chủ đề 3 . Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
Câu 1 . Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hoá
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ tồn tại ở
nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới.
Mối liên hệ phổ biến nhất là khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ tồn tại
ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật.
- Tính chất của mối liên hệ
+ Mối liên hệ mang tính khách quan, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng.
+ Mối liên hệ mang tính phổ biến. Mối liên hệ là phổ biến bởi vì mối liên hệ
chẳng những diễn ra ở mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong
tư duy mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các giai đoạn trong quá trình
vận động, phát triển của mỗi sự vật và hiện tượng.
+ Mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới là rất đa dạng, phong phú.
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là rất đa dạng và phong phú
nên mối liên hệ giữa chúng cũng rất đa dạng.
Các loại mối liên hệ khác nhau có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự vận
động và phát triển của các sự vật và hiện tượng. Vì thế, khi nghiên cứu các sự vật,
hiện tượng cần phải phân loại các mối liên hệ một cách cụ thể như: mối liên hệ
bên trong và mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu;
mối liên hệ chung và mối liên hệ riêng; mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián
tiếp; mối liên hệ tất yếu và mối liên hệ ngẫu nhiên… lOMoAR cPSD| 61152560
Việc phân loại các mối liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì các loại liên
hệ có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá như vậy có thể diễn ra do thay đổi
phạm vi xem xét, hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật, hiện tượng.
Những hình thức riêng biệt, cụ thể của từng mối liên hệ là đối tượng nghiên
cứu của từng ngành khoa học cụ thể, còn phép biện chứng duy vật nghiên cứu
những mối liên hệ chung nhất của thế giới. Vì thế, Ăngghen viết: “Phép biện
chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến”.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Nếu các sự vật và hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ
biến và nhiều vẻ, thì muốn nhận thức và tác động vào chúng, chúng ta phải có
quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi:
+ Để nhận thức đúng đắn về sự vật thì cần phải đặt nó trong mối liên hệ qua
lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự
tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và
mối liên hệ gián tiếp.
+ Quan điểm toàn diện không có nghĩa là cách xem xét cào bằng, tràn lan,
mà phải thấy được vị trí, vai trò của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong
tổng thể của chúng, từ đó tiếp tục đi đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi
phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
+ Quan điểm toàn diện còn đòi hỏi phải chống lại cách xem xét phiến diện
một chiều, phải chống lại chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện.
+ Vì các sự vật, hiện tượng khác nhau, tồn tại trong không gian, thời gian
khác nhau, các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn chúng ta cần có quan điểm lịch sử – cụ thể . Quan điểm lịch sử – cụ
thể đòi hỏi: chúng ta khi nhận thức về sự vật và cải tạo sự vật phải chú ý đến điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại
và phát triển. Thực tế cho thấy, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong
điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện khác.
Câu 2 . Nguyên lý về sự phát triển
- Khái niệm phát triển lOMoAR cPSD| 61152560
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Tính chất của sự phát triển
+ Sự phát triển mang tính khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của
sự vật quy định. Phát triển là thuộc tính vốn có, là quá trình tự thân của mọi sự vật, hiện tượng.
+ Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển thể hiện
ở chỗ, sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Sự phát triển mang tính đa dạng, phong phú.
Sự phát triển ở mỗi sự vật, hiện tượng và mỗi lĩnh vực khác nhau thì cũng
khác nhau. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện
tượng. Song, mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau.
Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ
khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác
động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động
đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay
đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
+ Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, phải trải qua nhiều khâu
trung gian, thậm chí có lúc có sự thụt lùi tạm thời.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình
thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất; sự phát triển diễn ra theo đường
xoáy ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển dường như có sự quay trở lại điểm
xuất phát, nhưng trên một cơ sở mới cao hơn.
- Ý nghĩa phương pháp luận
Nếu khuynh hướng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là
vận động đi lên thì trong nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi: lOMoAR cPSD| 61152560
+ Khi xem xét các sự vật và hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, trong
sự phát triển không ngừng.
+ Quan điểm phát triển cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự vật như là cái đang
có mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó.
+ Trong quá trình nhận thức đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính quanh co, phức
tạp của quá trình phát triển như là một quá trình phổ biến. Thiếu quan điểm như
vậy, người ta rất dễ bi quan, dao động khi mà tiến trình cách mạng nói chung và
sự tiến triển của từng lĩnh vực xã hội cũng như của cá nhân nói riêng tạm thời gặp khó khăn trắc trở.
+ Trong hoạt động thực tiễn, nhằm thúc đẩy sự vật phát triển theo quy luật
vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn của chính sự vật, và bằng
hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn.
Chủ đề 4 . Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
Câu 1 . Cái riêng và cái chung - Khái niệm
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng hay
một quá trình riêng lẻ nhất định.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những yếu tố, những
bộ phận, những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định
mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Cái chung phân thành cái chung căn bản và cái chung không căn bản. Cái
chung căn bản là cái chung thuộc về bản chất của sự vật. Cái chung không căn
bản là những cái chung nằm ngoài bản chất. Cái chung căn bản chi phối sự vận
động và phát triển của sự vật, còn cái chung không căn bản ảnh hưởng ít hoặc
nhiều đến sự vận động và phát triển của sự vật.
Cái đơn nhất: Khác với cái chung, cái đơn nhất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ những nét, những mặt, những yếu tố, những bộ phận, những thuộc
tính… chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định mà không được lặp lại ở những kết cấu vật chất khác. lOMoAR cPSD| 61152560
- Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cả cái riêng, cái chung
và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng mà biểu
hiện sự tồn tại của mình.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa tới cái chung.
+ Cái riêng tồn tại độc lập, nhưng không hoàn toàn cô lập với cái khác. Bất
cứ cái riêng nào bao giờ cũng tồn tại trong một môi trường, một hoàn cảnh nhất
định, tương tác với môi trường, hoàn cảnh ấy, do đó đều tham gia vào các mối
liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự vật, hiện tượng khác xung quanh mình.
Các mối liên hệ qua lại này cứ trải rộng dần, gặp gỡ rồi giao thoa với các mối liên
hệ qua lại khác, kết quả là tạo nên một mạng lưới các mối liên hệ mới, trong đó
có những mối liên hệ dẫn đến một hoặc một số cái chung nào đó.
+ Bất cứ cái riêng nào cũng đều không tồn tại vĩnh viễn. Mỗi cái riêng, sau
khi xuất hiện, đều tồn tại trong một thời gian nhất định rồi biến thành một cái
riêng khác, cái riêng khác này lại biến thành cái riêng thứ ba,... cứ như vậy cho
đến vô cùng tận. Kết quả của sự biến hoá vô cùng tận này là tất cả các cái riêng
đều có liên hệ với nhau và có những cái chung nhất định.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung. Còn cái chung là
cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng.
+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm
gia nhập vào cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng
nó có. Nói cách khác, cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài cái chung, trong
cái riêng còn có cái đơn nhất.
+ Cái chung sâu sắc hơn cái riêng là bởi vì cái chung là cái gắn liền với bản
chất của sự vật, hiện tượng. Nó phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn
định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều sự vật, hiện tượng cùng loại. Do đó, cái chung là
cái quy định phương hướng tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Vì thế,
một khi cái chung thay đổi thì sự vật sẽ thay đổi theo. lOMoAR cPSD| 61152560
Thứ tư, trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều
kiện nhất định, cái đơn nhất có thể chuyển hoá thành cái chung và ngược lại, cái
chung có thể chuyển hoá thành cái đơn nhất.
+ Sự chuyển hoá từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình
cái mới ra đời thay thế cái cũ. Đó là xu thế vận động tích cực ở sự vật.
+ Ngược lại, sự chuyển hoá từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của
quá trình cái cũ, cái lạc hậu bị phủ định. Đây là xu hướng vận động đi xuống ở sự vật.
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện
sự tồn tại của mình. Do đó, chúng ta chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất
phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng cụ thể chứ không được xuất phát từ
ý muốn chủ quan của con người. Không được tìm cái chung bên ngoài mỗi cái riêng.
+ Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng như một bộ phận của cái riêng, bộ
phận đó tác động qua lại với những bộ phận, những yếu tố còn lại của cái riêng –
những cái không gia nhập vào cái chung – nên bất cứ cái chung nào cũng tồn tại
trong cái riêng dưới dạng đã bị cải biến. Từ đó, một kết luận được rút ra là bất cứ
cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hoá,
tránh dập khuôn giáo điều hoặc cục bộ địa phương.
+ Vì cái riêng gắn bó chặt chẽ với cái chung, không tồn tại ở bên ngoài mối
liên hệ dẫn tới cái chung, cho nên để giải quyết những vấn đề riêng một cách có
hiệu quả thì không thể lảng tránh được việc giải quyết những vấn đề chung –
những vấn đề lý luận liên quan với các vấn đề riêng đó.
+ Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái
đơn nhất có thể biến thành cái chung, và ngược lại cái chung có thể biến thành cái
đơn nhất, nên trong hoạt động thực tiễn cần phải tạo điều kiện thuận lợi để cái đơn
nhất có lợi cho con người trở thành cái chung và cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
Câu 2 . Nguyên nhân và kết quả - Khái niệm lOMoAR cPSD| 61152560
Nguyên nhân là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa
các mặt trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra những biến đổi nhất định.
Kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Điều kiện là những hiện tượng cần thiết cho một biến cố nào đó xảy ra. Nếu
không có chúng thì nguyên nhân không thể gây nên kết quả.
Nguyên cớ là nguyên nhân giả tạo.
Tính chất của mối liên hệ nhân – quả:
Tính khách quan, nguyên nhân và kết quả là cái vốn có của bản thân các sự
vật, của hiện thực khách quan. Nó tồn tại không phụ thuộc vào ý thức chủ quan
của con người, không phụ thuộc vào việc ta có nhận thức được nó hay không.
Tính phổ biến, thể hiện ở chỗ, mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội
và tư duy đều có nguyên nhân, chỉ có điều là chúng ta đã nhận thức được nguyên nhân đó chưa mà thôi.
Tính tất yếu, thể hiện ở chỗ, cùng một nguyên nhân nhất định, trong những
điều kiện, hoàn cảnh càng ít khác nhau thì thu được kết quả càng giống nhau.
- Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
+ Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả vì vậy bao giờ nguyên nhân cũng là cái
có trước, kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và tác động. Cần
chú ý là ngoài quan hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian, quan hệ nhân – quả còn là
quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân sinh ra kết quả.
Thực tiễn cho thấy, một nguyên nhân có thể gây nên nhiều kết quả khác nhau
tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, một kết quả có thể được gây nên bởi
nhiều nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hay tác động cùng một lúc.
Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì
chúng sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu
các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì lOMoAR cPSD| 61152560
chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí hoàn toàn triệt tiêu tác dụng của nhau. Điều đó sẽ
ngăn cản sự xuất hiện của kết quả.
Căn cứ vào tính chất, phạm vi và vai trò của nguyên nhân đối với sự hình
thành kết quả, có thể phân loại các nguyên nhân ra thành: Nguyên nhân chủ yếu
và nguyên nhân thứ yếu, Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài,
Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
+ Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân
Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng kết quả không tồn tại thụ động mà
có sự tác động trở lại nguyên nhân theo hai chiều hướng: có thể tích cực, có thể
tiêu cực. Do vậy, cần lợi dụng những kết quả để tác động lại nguyên nhân nhằm
đạt được mục tiêu của con người.
+ Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển đổi vị trí cho nhau trong quá trình
phát triển của sự vật
Trong sợi dây chuyền vô tận của sự vận động của vật chất, không có một
hiện tượng nào được coi là nguyên nhân đầu tiên và cũng không có một kết quả
nào được xem là kết quả cuối cùng. Trong mối quan hệ này sự vật và hiện tượng
nào đó được coi là nguyên nhân, song trong mối quan hệ khác nó lại là kết quả và
ngược lại. Do mối quan hệ nhân – quả là không đầu không đuôi, vì vậy một hiện
tượng nào đó được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng phải đặt trong
một quan hệ xác định, cụ thể.
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Vì mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, tồn tại và tiêu
vong nên không có vấn đề có hay không có nguyên nhân của một hiện tượng nào
đó, mà chỉ có vấn đề các nguyên nhân ấy đã được phát hiện hay chưa được phát
hiện. Nhiệm vụ của khoa học chính là đi tìm nguyên nhân chưa được phát hiện để
hiểu đúng hiện tượng. Quá trình đi tìm nguyên nhân cần lưu ý là chỉ có thể tìm
trong chính thế giới các hiện tượng chứ không thể ở ngoài nó. Chống tư tưởng
chủ quan muốn tìm nguyên nhân trong trí tưởng tượng của con người.
+ Một sự vật, hiện tượng có thể có nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên
nhân đó có thể có vị trí khác nhau trong việc hình thành kết quả. Do vậy, trong lOMoAR cPSD| 61152560
hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải phân loại các nguyên nhân một cách khoa học, cụ thể.
+ Muốn nhận thức nguyên nhân của một hiện tượng nào đó cần phân tích
những hiện tượng, quá trình có quan hệ với hiện tượng đó và xảy ra trước hiện tượng đó.
+ Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng nó không tồn tại thụ động mà có
thể tác động trở lại nguyên nhân, vì vậy chúng ta phải biết khai thác và vận dụng
các kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức và thúc đẩy sự vật phát triển.
Câu 3 . Tất nhiên và ngẫu nhiên - Khái niệm
Tất nhiên là phạm trù chỉ những hiện tượng, quá trình do những nguyên nhân
bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó
phải xảy ra như thế chứ không thể khác được.
Ngẫu nhiên là phạm trù chỉ những hiện tượng, quá trình không do mối liên
hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất quyết định, mà do các nhân tố bên ngoài,
do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định, do đó nó có thể xuất hiện,
có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, có thể xuất hiện như thế khác.
- Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con
người và đều có vị trí, vai trò nhất định đối với sự phát triển của sự vật. Cái tất
nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật. Cái ngẫu nhiên có tác dụng
làm cho quá trình phát triển của sự vật diễn ra nhanh hoặc chậm.
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau, thể
hiện ở chỗ: cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình xuyên qua vô số
cái ngẫu nhiên. Còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng
thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên.
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện
nhất định. Cái ngẫu nhiên có thể chuyển hoá thành cái tất nhiên và ngược lại. Sự
chuyển hoá giữa tất nhiên và ngẫu nhiên còn thể hiện ở chỗ: khi xem xét trong lOMoAR cPSD| 61152560
mối quan hệ này thì sự vật, hiện tượng là cái ngẫu nhiên; nhưng khi xem xét trong
mối quan hệ khác thì sự vật, hiện tượng đó lại là cái tất nhiên.
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Vì cái tất nhiên gắn với bản chất của sự vật, là cái nhất định xảy ra theo
quy luật nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội
tại của sự vật, nó có thể xảy ra hoặc không xảy ra. Do đó, trong hoạt động thực
tiễn chúng ta phải dựa vào cái tất nhiên, không thể dựa vào cái ngẫu nhiên.
+ Vì cái ngẫu nhiên tuy không chi phối sự phát triển của sự vật, nhưng nó có
ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, đôi khi còn có thể ảnh hưởng rất sâu đậm.
Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, ngoài phương án chính, đòi hỏi người ta phải
có các phương án dự phòng nhằm chủ động đáp ứng những sự biến ngẫu nhiên có thể xảy ra.
+ Vì cái tất nhiên thể hiện sự tồn tại của mình qua cái ngẫu nhiên. Do đó,
muốn nhận thức được cái tất nhiên phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích, so
sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên.
+ Cái ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hoá thành cái tất
nhiên và ngược lại, cho nên, cần chú ý tạo những điều kiện cần thiết hoặc để ngăn
trở, hoặc để sự chuyển hoá đó diễn ra tuỳ theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn.
Câu 4 . Nội dung và hình thức - Khái niệm
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.
Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các
mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó. - Mối quan hệ
biện chứng giữa nội dung và hình thức

+ Nội dung và hình thức tồn tại khách quan. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào
cũng có các bộ phận, các yếu tố cấu thành, tức là nó phải có nội dung dù nội dung
ấy là phong phú hay đơn giản. Đồng thời, các bộ phận, các yếu tố đó phải được
sắp xếp theo một trật tự nhất định, phải có hình khối, màu sắc... do đó, nó phải có
hình thức dù hình thức này hợp lý hay chưa hợp lý.