





Preview text:
  lOMoAR cPSD| 36006831 Bài 3: phần biển 
1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật  a) Ưu điểm 
- Có thể phục vụ chuyên chở tất cả các loại hàng hóa trong buôn bán  quốc tế, nội địa 
- Các tuyến đường vận tải biển hầu hết là những tuyến đường giao  thông tự nhiên 
- Năng lực chuyên chở của vận tải đường biển rất lớn. Nhìn chung năng 
lực chuyên chở của công cụ vận tải đường biển (tàu biển) không bị hạn chế 
như các công cụ của các phương thức vận tải khác. 
- Ưu điểm nổi bật nhất của vận tải đường biển là giá thành thấp giúp 
doanh nghiệp giảm chi phí  b) Nhược điểm 
- Vận tải đường biển phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên 
- Tốc độ của tàu biển còn thấp và việc tăng tốc độ khai thác của tàu  biển còn bị hạn chế 
 Kết luận: tổng quát về phạm vi áp dụng 
- Vận tải đường biển thích hợp chuyên chở hàng hóa trong buôn bán quốc tế 
- Vận tải đường biển thích hợp với chuyên chở hàng hóa có khối lượng lớn, 
chuyên chở trên cự ly dài nhưng không đòi hỏi thời gian giao hàng nhanh  chóng 
c) Tác dụng của vận tải đường biển đối với buôn bán quốc tế 
- Vận tải đường biển là yếu tố không thể tách rời buôn bán quốc tế 
- Vận tải đường biển thúc đẩy buôn bán quốc tế phát triển 
- Vận tải đường biển phát triển góp phần làm thay đổi cơ cấu hàng hóa 
và cơ cấu thị trường trong buôn bán quốc tế 
- Vận tải đường biển tác động tới cán cân thanh toán quốc tế 
d) Cơ sở vật chất kỹ thuật của vận tải đường biển 
- Các tuyến đường biển: là các tuyến đường nối hai hay nhiều cảng với 
nhau trên đó tàu biển hoạt động chở khách hoặc hàng hóa - Cảng biển: 
Là nơi vào neo đậu của tàu biển, là nơi phục vụ tàu và hàng hóa trên tàu, 
đồng thời là đầu mối giao thông quan trọng của một quốc gia có biển - 
Phương tiện vận chuyển: 
+ Phương tiện vận tải biển chủ yếu là tàu biển, tàu biển có 2 loại: tàu  buôn và tàu quân sự 
+ Tàu buôn là những tàu biển được dùng vào mục đích kinh tế trong 
hàng hải. tàu chở hàng là một loại tàu buôn chiếm tỷ lệ cao nhất  trong đội tàu buôn.      lOMoAR cPSD| 36006831
2. Cơ sở hạ tầng vận tải đường biển 
a) Hệ thống hạ tầng cảng biển 
- Sau gần 20 năm triển khai thực hiện các quy hoạch phát triển 
cảng biển, Việt Nam đã hình thành được một hệ thống cảng 
biển hoàn chỉnh từ Bắc vào Nam với 45 cảng biển, chia thành 
6 nhóm cảng. Quy mô chiều dài cầu, bến cảng khoảng 82,6 
km, tổng công suất thông qua đạt khoảng 600 – 650 triệu tấn, 
đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vận tải biển trong nước và quốc 
tế. Hạ tầng cảng một số khu vực như: Cái Mép – Thị Vải, 
Lạch Huyện đủ khả năng tiếp nhận các tàu mẹ có trọng tải 
lớn từ 100 – 200 nghìn tấn, góp phần đưa cảng biển Việt Nam 
thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu 
(Cục Hàng hải Việt Nam, 2020). 
- Năm 2019, Tập đoàn CMA CGM mở tuyến vận tải container 
đến cảng quốc tế Nghi Sơn. Đây là tuyến container quốc tế 
đầu tiên được mở đến khu vực Bắc Trung Bộ. Với gần 400 doanh 
nghiệp tham gia thị trường xuất khẩu tại Thanh Hóa và các tỉnh 
lân cận, cảng biển Nghi Sơn được dự báo sẽ là “thỏi nam châm” 
hút thêm nhiều tuyến container đến khai thác. Tuy nhiên, sự 
chậm trễ trong công tác nạo vét luồng thời gian qua có thể sẽ ảnh 
hưởng đến việc lựa chọn điểm đến của các hãng tàu. 
- Tại phía Bắc, tổng khối lượng nạo vét đối với 5 tuyến luồng 
đã được giao kế hoạch hoàn thành trong năm 2020 (Hải 
Phòng (trừ Lạch Huyện), Cửa Gianh, Cửa Việt, Thuận An, 
Hải Thịnh) vào khoảng 1,5 triệu m3. Với 6 tuyến luồng còn 
lại gồm: Hải Phòng (đoạn Lạch Huyện), Cửa Hội – Bến Thủy, 
Đà Nẵng, Nghi Sơn, Cửa Lò, Vũng Áng hiện chưa tìm được 
phương án đổ vật liệu lên bờ phù hợp, dự kiến phải thực hiện 
thủ tục để đổ chất nạo vét ra biển, do đó kế hoạch đề ra phải 
kéo dài thời gian thực hiện sang năm 2022. Công tác nạo vét 
duy tu khu vực phía Nam được thực hiện tại 04 tuyến luồng, 
bao gồm: Sài Gòn – Vũng Tàu, Rạch Giá, Vũng Tàu – Thị 
Vải (bao gồm luồng hàng hải Sông 
Dinh) và luồng hàng hải cho tàu biển trọng tải lớn vào Sông  Hậu  TUY NHIÊN:  
- theo Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, với 
hơn 90% hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam thông qua 
cảng biển, việc phân bổ cảng biển vẫn có tình trạng “chỗ thừa,      lOMoAR cPSD| 36006831
chỗ thiếu”. Ví dụ, tại Đồng bằng sông Cửu Long đang có 
khoảng 65% hàng nông sản, 70% hàng hoa quả xuất khẩu, 
tuy nhiên, do khu vực này thiếu cảng nước sâu nên hàng hóa 
xuất nhập khẩu đều phải qua các cảng biển tại Thành phố Hồ 
Chí Minh và Bà Rịa – Vũng Tàu. 
- Theo Hiệp hội Cảng biển Việt Nam, hiện nay, ngoài cảng cửa 
ngõ quốc tế Hải Phòng (Lạch Huyện), cảng biển Việt Nam 
đang dần “lạc hậu” với xu thế container hóa của thế giới bởi 
tình trạng phân mảnh, các bến cảng thiếu sự liên thông. Điển 
hình nhất là tại cụm cảng Cái Mép – Thị Vải. 
- kết nối giao thông cũng là “điểm nghẽn” phát triển cảng biển. 
Hầu hết các trục đường kết nối đến cảng các khu vực như Hải 
Phòng, Bà Rịa – Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh có quy 
mô chưa tương xứng với năng lực cảng biển. Các cụm cảng 
Lạch Huyện, Cái Mép – Thị Vải dù được quy hoạch là cảng 
cửa ngõ, trung chuyển quốc tế nhưng lại chưa có kết nối 
đường sắt, kết nối đường thủy còn yếu, dẫn tới hàng hóa chủ 
yếu thông thương bằng đường bộ, các trục đường dẫn tới 
cảng thường xuyên tắc nghẽn.   GIẢI PHÁP 
- Bộ Giao thông vận tải đã giao Cục Hàng hải là cơ quan lập 
quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam 
giai đoạn 2022-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quy hoạch sẽ 
tập trung xây dựng các giải pháp phát triển hạ tầng đường 
biển nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển cảng tại Việt 
Nam đảm bảo sự đồng bộ giữa phát triển hạ tầng cảng biển 
và hạ tầng giao thông kết nối, giữa khai thác cảng biển và các 
dịch vụ sau cảng, tăng tính liên kết ngành, liên kết vùng trong 
phát triển cảng biển để góp phần sử dụng hiệu quả nguồn tài 
nguyên quốc gia, giảm chi phí logistics. 
- Bên cạnh đầu tư khai thác các bến “cảng cứng”, các “bến 
mềm”- bến phao cũng được sử dụng hiệu quả để thực hiện 
các dịch vụ xếp dỡ, chuyển tải hàng hóa khi hệ thống “cảng 
cứng” không đáp ứng được nhu cầu. Tuy nhiên, “bến mềm” 
thời gian qua chủ yếu được xem như giải pháp tạm thời để 
giải quyết các nhu cầu bức thiết phát sinh trong vận tải hàng 
hóa bằng đường thủy – đường biển.      lOMoAR cPSD| 36006831 b) 
Đội tàu biển Việt 
Nam - Đội tàu biển hiện nay có 1.576 tàu 
 (trong đó đội tàu vận 
tải là 1.049 tàu) với tổng dung tích khoảng 6,1 triệu GT, 
tổng trọng tải khoảng 9,3 triệu DWT. Trong đó, tàu hàng 
rời, tổng hợp có 764 tàu, (chiếm 72%); tàu chở dầu, hóa 
chất có 162 tàu (chiếm 15%); tàu chuyên dụng khí hóa lỏng 
có 19 tàu chiếm (1,8%); tàu chở khách có 66 tàu (chiếm  6,2%) và đội 
tàu container Tuổi tàu trung bình là 15,5 tuổi. -> chỉ 
được nâng lên 38 tàu (chiếm 3,6%). 
phù hợp với những tuyến đường quốc tế ngắn ( TQ, 
Đông Nam Á,..) và tuyến ven biển nội địa  
- cơ cấu đội tàu đã có sự chuyển biến tích cực , đứng thứ 4  trong  khu 
vực ASEAN về số lượng, trẻ hơn đội tàu thế giới 5,8 tuổi 
(theo số liệu thống kê của Diễn đàn Thương mại và phát 
triển Liên hiệp quốc). Tuy nhiên, Cục Hàng hải Việt Nam 
đánh giá, sức cạnh tranh trên trường quốc tế của đội tàu 
Việt còn yếu. Nguyên nhân bởi đa số các chủ tàu biển Việt 
Nam phát triển nhỏ, trong 1.049 tàu vận tải có đến 550 chủ 
sở hữu. Trong đó, chỉ có khoảng 30 chủ tàu sở hữu đội tàu 
trên 10.000 DWT, còn lại bình quân mỗi chủ tàu chỉ sở hữu  từ 1 - 2 tàu. 
- Cơ cấu đội tàu cũng phát triển chưa hợp lý khi xu hướng  vận tải hàng 
hóa trên thế giới theo hướng container hóa, đội tàu 
container Việt Nam chỉ có 38 tàu, chiếm tỷ trọng nhỏ nhoi 
(3,7%) trong cơ cấu đội tàu vận tải (đội tàu container thế 
giới chiếm 13% trong tổng cơ cấu đội tàu). Cùng đó, trên 
thế giới đã phát triển loại tàu container có sức chở trên 
20.000 TEUS, nhưng doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ đầu 
tư được tàu có sức chở 1.800 TEUS. 
- Như vậy, sự phát triển của đội tàu Việt Nam ngày càng cách 
biệt so với sự phát triển của đội tàu thế giới. Đó là lý do thị 
phần vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu của đội tàu Việt Nam 
ngày càng giảm, từ 10% (2015) chỉ còn 5% (2020)”, Cục  Hàng hải chỉ rõ. 
- Đồng thời sau đại dịch COVID một số lượng lớn tàu đóng 
mới đang khiến cho công suất vận chuyển dư thừa tăng cao      lOMoAR cPSD| 36006831  
 Đội tàu mỏng yếu không chỉ khiến đội tàu VN khó   
tham gia vào hệ thống logistics quốc tế    
doanh nghiệp xuất nhập khẩu VN gặp khó khăn khi   
hàng hóa xuất đi không thể cạnh tranh vì giá cao, đồng 
thời chỉ có thể đi được những chuyến ngắn, thị phần nhỏ  do giá cước cao   
VN cần tái cơ cấu, cắt giảm chi phí, nâng cấp các mối   
quan hệ và chiến lược phát triển, phát triển ở những thị  trường mới. 
3. Hiện trạng phát triển mạng lưới giao thông đường biển 
- Biển Việt Nam thuộc bên bờ biển Đông, trong đó vùng biển rộng trên 1 triệu km2 
chảy dài khắp cả nước, là con đường giao thương hàng hóa quốc tế giữa Ấn Độ 
Dương và Thái Bình Dương. Đặc biệt, hoạt động thương mại trên biển Đông của các 
nước thuộc khu vực Châu Á – Thái BÌnh Dương diễn ra sôi nổi. Điều này thể hiện 
nước ta có mạng lưới vận tải đường biển nhộn nhịp, đông vui và năng động nhất các  vùng biển thế giới. 
- Trong 39 tuyến đường hàng hải hiện đang hoạt động trên thế giới có 29 tuyến đi qua 
địa phận biển Đông. Trong 10 tuyến hàng hải lớn nhất thế giới thì khu vực biển Đông 
có 1 tuyến đi qua và 5 tuyến có liên quan. Trung bình mỗi ngày có 250-300 lượt tàu 
biển vận chuyển qua biển Đông, trong đó, có hơn 50% tàu có trọng tải trên 
5.000DWT, khoảng 15-20% tàu có trọng tải từ 30.000DWT trở lên, chiếm ¼ lưu 
lượng tàu hoạt động trên các vùng biển của thế giới. 
- Có thể nói, Viêt Nam đang nằm trên tuyến đường biển quan trọng giữa các khu vực ̣  
 lân cận và thế giới, tạo điều kiện thuận lợi phát triển ngành vận tải biển, thúc đẩy 
giao lưu văn hóa, kinh tế. Đồng thời, dọc bờ biển được trang bị cảng biển với quy mô 
lớn, hỗ trợ vận chuyển nội địa và quốc tế diễn ra suôn sẻ. Ngoài hoạt động giao thông 
vận tải đường biển, nước ta còn tập trung tiềm lực vào khai thác nhiều ngành nghề 
khác như du lịch, hải sản, khoáng sản.      lOMoAR cPSD| 36006831
- Ngoài ra, cùng với sự hình thành mạng lưới cảng biển, các tuyến đường bộ, đường sắt 
dọc ven biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là các tuyến đường xuyên 
Á) cho phép vùng biển và ven biển VN có khả năng chuyển tải hàng hóa nhập khẩu tới 
mọi miền đất nước một cách nhanh chóng và thuận lợi. Hàng hóa xuất và nhập khẩu  của Viêt Nam ̣ 
sẽ không cần phải quá cảnh qua những nước láng giềng. Ngược 
lại, hàng hóa của vùng Đông Bắc Thái Lan, Lào, Campuchia và tỉnh Vân Nam (Trung 
Quốc) xuất khẩu sang những nước khác có tiềm năng quá cảnh và tạm thời lưu kho 
trên lãnh thổ VN, Thái Lan, Myanmar và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). 
- Tuy nhiên Nhà nước chưa khai thác tối đa tiềm lực và phát triển ngành một cách 
mạnh mẽ. Các cấp lãnh đạo chưa đề ra chính sách, chiến lược mở rộng phù hợp, đa 
dang hóa vận tải biển. Bên cạnh đó, chủ trương xây dựng hay nâng cấp, sửa chữa hệ 
thống cảng hoặc cơ sở hạ tầng liên quan khác ít được quan tâm. Vì vậy, mạng lưới 
giao thông đường biển hội nhập vào cung đường giao thương hàng hóa toàn cầu 
không đạt hiệu quả cao.  - 
khắc phục Nhà nước cần xây dựng chiến lược, chính sách phát triển mạng lưới vận 
tải và cơ sở hạ tầng hợp lý, nhanh chóng đưa ngành về đúng vị trí theo tiếm năng mà 
nó làm được, giúp vận tải nước nhà hội nhập với mạng lưới vận tải đường biển Châu Á  và Thế giới. 
- Hiện nay, các Doanh nghiệp càng ngày càng quan tâm đến Ngành vận tải biển, chuyển 
hướng đầu từ vào ngành này cũng khá nhiều. Đi đôi với đó là sự phát triển kinh tế 
cũng như giao thương giữa các nước cũng được mở rộng thúc đẩy sự phát triển mạnh 
mẽ của Ngành vận tải biển.    
