Phân biệt công chức, viên chức - Pháp luật đại cương | Đại học Tôn Đức Thắng
Ở nước ta, khái niệm “cán bộ”, “công chức” có từ lâu. Nhưng chỉ đến năm 1950,sau 05 năm đất nước ta giành độc lập thì khái niệm đó mới xuất hiện trong văn bản quyphạm pháp luật của Nhà nước. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (PL101)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Ở nước ta, khái niệm “cán bộ”, “công chức” có từ lâu. Nhưng chỉ đến năm 1950,
sau 05 năm đất nước ta giành độc lập thì khái niệm đó mới xuất hiện trong văn bản quy
phạm pháp luật của Nhà nước.
Văn bản đầu tiên là Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch Nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa quy định quy chế công chức Việt Nam. Điều 1 của Sắc lệnh ghi: “Những công
dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong cơ
quan Chính phủ, ở trong nước hay ở nước ngoài đều là công chức theo quy chế này, trừ
trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”.
Trải qua diễn biến phát triển của đất nước, các khái niện trên cũng có nhiều cách gọi,
được thể hiện dưới nhiều thể loại văn bản khác nhau. Cuối những năm 80 của thế kỷ trước,
khái niệm “cán bộ, công chức” được gọi chung là “cán bộ, công nhân viên chức nhà nước”.
Khái niệm này được gọi chung cho tất cả những người làm việc cho Nhà nước, không có sự
phân biệt rõ ràng. Đội ngũ này được hình thành từ nhiều con đường, có thể do bầu cử, có thể
do phân công sau khi tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp, có thể do tuyển dụng, bổ nhiệm…
Đến thời kỳ đổi mới (sau năm 1986), trước yêu cầu khách quan cải cách nền hành chính
và đòi hỏi phải chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức nhà nước, khái niệm công chức được sử
dụng trở lại trong Nghị định 169/HĐBT ngày 25/5/1991 của Chính phủ. Nghị định nêu rõ:
“Công dân Việt nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một
công sở của nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay ngoài nước, đã được
xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp gọi là công chức nhà nước”.
Năm 1998, Pháp lệnh Cán bộ, công chức ra đời, là văn bản pháp lý cao nhất của nước ta
về cán bộ, công chức. Dưới Pháp lệnh là Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Nghị định đã cụ thể hóa khái niệm công chức“là
công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm những
người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công việc thường xuyên, được phân loại
theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp;
những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân và công an nhân
dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và công nhân quốc phòng”.
Sau hai lần sửa đổi, năm 2003, Pháp lệnh Cán bộ, công chức cho khái niệm gộp cả cán
bộ, công chức (quy định tại Điều 1) như sau:
“Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam trong biên chế bao gồm:
a) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -xã hội ở Trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
b) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên
làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
c) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ
một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
d) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ
một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của nhà nước; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội;
đ) Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
e) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên
làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công
an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp;
g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo theo nhiệm kỳ trong thường
trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ; Người đứng đầu tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội xã, phường, thị trấn;
h) Những người được tuyển dụng, giao giữ chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ
ban nhân dân cấp xã”.
Mặc dù tiến bộ hơn rất nhiều so với Pháp lệnh năm 1998 và sửa đổi năm 2000, Pháp
lệnh Cán bộ công chức sửa đổi năm 2003 đã phân định được đối tượng làm việc trong các
đơn vị sự nghiệp nhà nước được gọi là “viên chức”. Khái niệm “viên chức” xuất hiện từ lần
sửa đổi Pháp lệnh năm 2003. Tuy nhiên, Pháp lệnh vẫn chưa phân biệt rạch ròi giữa khái
niệm “cán bộ”, “công chức” và “viên chức”.
Các khái niệm trên lần lượt được Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức của Nhà
nước ta bước đầu phân biệt rõ ràng. Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Khoản 1 Điều 4 quy định về cán bộ:
“ Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức
danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị- xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh), ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
Khoản 2 Điều 4 quy định về công chức:
“Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản
lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật”.
Bên cạnh các khái niệm “cán bộ”, “công chức” là khái niệm “viên chức”. Luật Viên
chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông
qua ngày 15 tháng 11 năm 2010. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2012. Điều 2 quy định:
“Viên chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại
đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn
vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.
Viên chức là người thực hiện các công việc hoặc nhiệm vụ có yêu cầu về năng lực, kỹ
năng chuyên môn, nghiệp vụ trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc các lĩnh vực: giáo
dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, văn hóa, thể dục thể thao, du lịch, lao động - thương
binh và xã hội, thông tin - truyền thông, tài nguyên - môi trường, dịch vụ... như bác sĩ, giáo
viên, giảng viên đại học..., hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Từ các khái niệm được quy định tại 02 văn bản Luật trên, chúng ta có thể phân biệt khái
niệm “cán bộ”, “công chức”, “viên chức” theo các tiêu chí cơ bản sau: Khái niệm Cán bộ Công chức Viên chức Tiêu chí cơ bản
- Vận hành quyền lực nhà- Vận hành quyền lực- Thực hiện chức năng
nước, làm nhiệm vụ nhà nước, làm nhiệm xã hội, trực tiếp thực
quản lý; nhân danh vụ quản lý. hiện kỹ năng, nghiệp quyền lực chính trị, vụ chuyên sâu.
1. Tính chất quyền lực công. - Thực hiện công vụ thường xuyên - Thực hiện các hoạt - Theo nhiệm kỳ. động thuần túy mang tính nghiệp vụ, chuyên môn.
- Được bầu cử, phê - Thi tuyển, bổ nhiệm,- Xét tuyển, ký hợp
chuẩn, bổ nhiệm, trong có quyết định của cơ đồng làm việc. biên chế. quan nhà nước có thẩm 2. Nguồn gốc,
quyền, trong biên chế. - Trách nhiệm trước cơ
trách nhiệm - Trách nhiệm chính trị quan, người đứng đầu pháp lý
trước Đảng, Nhà nước,- Trách nhiệm chính trị, tổ chức, cơ quan xét
nhân dân và trước cơ trách nhiệm hành tuyển, ký hợp đồng.
quan, tổ chức có thẩm chính của công chức quyền.
Hưởng lương từ ngân Hưởng lương từ ngân Lương hưởng một 3. Chế độ
sách nhà nước, theo vị sách nhà nước, theo phần từ ngân sách, còn lương trí, chức danh. ngạch bậc. lại là nguồn thu sự nghiệp.
Cơ quan của Đảng cộng Cơ quan Đảng, nhà Đơn vị sự nghiệp nhà 4. Nơi làm
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức CT-XH, nước, các tổ chức xã việc
nước, tổ chức chính trị, Quân đội, Công an, hội.
tổ chức chính trị- xã hội. Toà án, Viện kiểm sát.
5. Tiêu chí - Năng lực lãnh đạo, điều - Năng lực, trình độ - Năng lực, trình độ
hành, tổ chức, quản lý; chuyên môn nghiệp chuyên môn nghiệp đánh giá vụ; vụ; - Tinh thần trách nhiệm;
- Tiến độ và kết quả- Hiệu quả công việc
- Hiệu quả thực hiện thực hiện nhiệm vụ;
(số lượng, chất lượng). nhiệm vụ
- Tinh thần trách nhiệm- Thái độ phục vụ nhân
và phối hợp trong thực dân. thi nhiệm vụ;
- Thái độ phục vụ nhân dân. - Khiển trách; - Khiển trách; - Khiển trách; - Cảnh cáo; - Cảnh cáo; - Cảnh cáo; 6. Hình thức - Cách chức; - Hạ bậc lương; - Cách chức; kỷ luật - Bãi nhiệm. - Giáng chức; - Buộc thôi việc. - Cách chức; - Buộc thôi việc.
Trên đây là những hiểu biết ban đầu của tôi, hy vọng sẽ được Bạn đọc cùng tham gia,
góp thêm ý kiến của mình để sự hiểu biết của chúng ta về pháp luật được nhân lên, góp phần
xây dựng, cải cách nền hành chính nước nhà./.