lOMoARcPSD| 59062190
e) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài chưa có hiệu lực bắt buộc đối với các bên;
g) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài bị cơ quan thẩm quyền của nước nơi phán quyết
đã được tuyên hoặc của nước có pháp luật đã được áp dụng hủy bỏ hoặc đình chỉ thi hành.
2. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài cũng không được công nhận, nếu Tòa án Việt Nam
xét thấy:
a) Theo pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể thức trọng tài;
b) Việc công nhận cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài ớc ngoài tráivới
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bài nói
e) Đối với trường hợp này chúng ta phải lưu ý thật kỹ, thứ nhất, về mặt lý luận, phán quyết
của trọng i có giá trị chung thẩm và sẽ phát sinh hiệu lực ngay sau khi tuyên, vậy câu hỏi
được đặt ra sau khi phán quyết được tuyên thì có hiệu lực pháp luật ngay thì làm
trường hợp nào phán quyết nào chưa có hiệu lực pháp luật ?. Vì thế đây ta phải
lưu ý một trường hợp đặc biệt mặc pháp luật đều ghi nhận gtrị của phán quyết là
giá trị chung thẩm có hiệu lực pháp luật ngay nhưng cũng những trường hợp phán
quyết của trọng tài có thể bị can thiệp bởi Tòa án có thẩm quyền. Có thể kể đến như trong
quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hay quá trình tiến hành c trình tự, thủ tục
trong tố tụng trọng tài vi phạm các nguyên tắc bản hay thẩm quyền trọng tài
không c lập hoặc thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực nhưng trọng tài vẫn cứ tiến hành.
Và khi trọng tài tiến hành như thế thì sẽ bị Tòa án can thiệp. Vậy thì, trong trường hợp một
phiên trọng tài được tổ chức cũng như đã có phán quyết được tuyên nhưng sau đó bị Tòa
án xem xét thì trong giai đoạn này phán quyết của trọng tài được coi như chưa hiệu
lực pháp luật và cũng xem như đối tượng công nhận và thi hành chưa có trên thực tế.
g) Phán quyết đã tuyên ra nhưng Tòa án xem t theo yêu cầu đương s soát lại quá trình
trọng tài và Tòa nhận thấy rằng quá trình trọng tài này là vi phạm trình tự, thủ tục tố tụng,
các quy định của pháp luật dẫn đến Tòa án tuyên phán quyết này bị đình chỉ hoặc hủy bỏ,
điều này đồng nghĩa với giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài bị xóa bỏ.
Khoản 2
a) dụ, theo quy định pháp luật Việt Nam thì trọng tài chỉ được giải quyết đối với
cáctranh chấp thương mại, nhưng tranh chấp giữa các bên không phải tranh chấp thương
mại mà đó tranh chấp dân sự thông thường, việc trọng tài nước ngoài xử có thể phù hợp
theo pháp luật của ớc nơi trọng tài nhưng theo pháp luật Việt Nam nó không phù hợp.
Theo đó, phán quyết bị từ chối theo điểm này.
lOMoARcPSD| 59062190
b) Trường hợp cuối cùng trường hợp bảo lưu trật tự công cộng, tức việc công
nhậnvà cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài nó làm ảnh hưởng hoặc làm xáo trộn
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì lúc này, cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam có quyền từ chối và công nhận phán quyết của trọng tài nước ngoài.
Tóm lại, xuyên suốt các quy định của Điều 459 BLTTDS 2015 thì không phải bất kỳ phán
quyết nào của trọng tài nước ngoài đều được công nhận cho thi hành phải phù
hợp với các trường hợp pháp luật cho phép, nếu quan thẩm quyền viện dẫn ra
được các trường hợp phán quyết trọng tài nước ngoài rơi vào c tình huống đã được
dự liệu tại Điều 459 này thì chắc chắn phán quyết đó bị từ chối công nhận và cho thi hành
Việt Nam. Điều này được ghi nhận không phải là do pháp luật Việt Nam mà nó là những
chuẩn mực mà Công ước New York năm 1958 đã đặt ra.
Xu hướng giải quyết tranh chấp bằng c phương thức giải quyết tranh chấp thay thế
phương thức Tòa án ngày càng phát triển phổ biến trên thế giới. Với ưu điểm về tính
linh hoạt, tiết kiệm thời gian bảo mật cao, trọng tài thương mại đang một trong những
phương thức được các bên tranh chấp ưu tiên lựa chọn. Tại Việt Nam, pháp luật điều chỉnh
về trọng tài thương mại những sở pháp bản để thiết lập và phát triển phương
thức giải quyết bằng trọng i, đang từng bước được hoàn thiện, ng tới xây dựng hệ
thống pháp luật thống nhất, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
Bản Án của Tòa Án và Phán Quyết của Trọng Tài Nước Ngoài tại Việt Nam - YKVN (ykvn-law.com)
Vào ngày 25 tháng 9 năm 2020, Bộ Tư pháp đã công bố cơ sở dữ liệu về công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước
ngoài tại Việt Nam (“Cơ Sở Dữ Liệu”).
Cho đến thời điểm gần đây, các tòa án Việt Nam chưa từng đưa ra quan điểm và ý kiến cởi
mở như thế này trên các diễn đàn giải quyết tranh chấp nước ngoài.
Chỉ mới 3 năm trước đây, Tòa Án Nhân Dân Tối Cao Việt Nam bắt đầu công bố các bản
án, quyết định của các cấp tòa án, công nhận và xuất bản các án lệ, qua đó làm sáng tỏ
quy trình xét xử chưa đủ công khai minh bạch tại Việt Nam.
lOMoARcPSD| 59062190
Cơ Sở Dữ Liệu bao gồm các quyết định của Tòa án Việt Nam đối với 26 bản án, quyết
định của tòa án nước ngoài và 83 phán quyết của trọng tài nước ngoài trong giai đoạn từ
ngày 1 tháng 1 năm 2012 đến ngày 30 tháng 9 năm 2019.
Căn cứ vào Cơ Sở Dữ Liệu, trừ các vụ án bị đình chỉ do nhiều nguyên nhân khác nhau
theo quy định của Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2015 (trong đó chủ yếu là do người nộp đơn
yêu cầu rút đơn), 46% bản án, quyết định của tòa án nước ngoài (12/26) và 49% phán
quyết trọng tài (41/83) đã được công nhận và thi hành tại Việt Nam; và chỉ có 19% bản
án, quyết định của tòa án nước ngoài (5/26) và 36% phán quyết trọng tài (30/83) bị từ
chối công nhận và cho thi hành.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59062190
e) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài chưa có hiệu lực bắt buộc đối với các bên;
g) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài bị cơ quan có thẩm quyền của nước nơi phán quyết
đã được tuyên hoặc của nước có pháp luật đã được áp dụng hủy bỏ hoặc đình chỉ thi hành.
2. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài cũng không được công nhận, nếu Tòa án Việt Nam xét thấy:
a) Theo pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể thức trọng tài;
b) Việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài tráivới
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Bài nói
e) Đối với trường hợp này chúng ta phải lưu ý thật kỹ, thứ nhất, về mặt lý luận, phán quyết
của trọng tài có giá trị chung thẩm và sẽ phát sinh hiệu lực ngay sau khi tuyên, vậy câu hỏi
được đặt ra là sau khi phán quyết được tuyên thì có hiệu lực pháp luật ngay thì làm gì có
trường hợp nào mà phán quyết nào mà chưa có hiệu lực pháp luật ?. Vì thế ở đây ta phải
lưu ý một trường hợp đặc biệt là mặc dù pháp luật đều ghi nhận giá trị của phán quyết là
giá trị chung thẩm và có hiệu lực pháp luật ngay nhưng cũng có những trường hợp phán
quyết của trọng tài có thể bị can thiệp bởi Tòa án có thẩm quyền. Có thể kể đến như trong
quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hay quá trình tiến hành các trình tự, thủ tục
trong tố tụng trọng tài mà nó vi phạm các nguyên tắc cơ bản hay thẩm quyền trọng tài
không xác lập hoặc thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực nhưng trọng tài vẫn cứ tiến hành.
Và khi trọng tài tiến hành như thế thì sẽ bị Tòa án can thiệp. Vậy thì, trong trường hợp một
phiên trọng tài được tổ chức cũng như đã có phán quyết được tuyên nhưng sau đó bị Tòa
án xem xét thì trong giai đoạn này phán quyết của trọng tài được coi như là chưa có hiệu
lực pháp luật và cũng xem như đối tượng công nhận và thi hành chưa có trên thực tế.
g) Phán quyết đã tuyên ra nhưng Tòa án xem xét theo yêu cầu đương sự rà soát lại quá trình
trọng tài và Tòa nhận thấy rằng quá trình trọng tài này là vi phạm trình tự, thủ tục tố tụng,
các quy định của pháp luật dẫn đến Tòa án tuyên phán quyết này bị đình chỉ hoặc hủy bỏ,
điều này đồng nghĩa với giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài bị xóa bỏ. Khoản 2 a)
Ví dụ, theo quy định pháp luật Việt Nam thì trọng tài chỉ được giải quyết đối với
cáctranh chấp thương mại, nhưng tranh chấp giữa các bên không phải là tranh chấp thương
mại mà đó là tranh chấp dân sự thông thường, việc trọng tài nước ngoài xử có thể phù hợp
theo pháp luật của nước nơi có trọng tài nhưng theo pháp luật Việt Nam nó không phù hợp.
Theo đó, phán quyết bị từ chối theo điểm này. lOMoAR cPSD| 59062190 b)
Trường hợp cuối cùng là trường hợp bảo lưu trật tự công cộng, tức là việc công
nhậnvà cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài nó làm ảnh hưởng hoặc làm xáo trộn
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì lúc này, cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam có quyền từ chối và công nhận phán quyết của trọng tài nước ngoài.
Tóm lại, xuyên suốt các quy định của Điều 459 BLTTDS 2015 thì không phải bất kỳ phán
quyết nào của trọng tài nước ngoài đều được công nhận và cho thi hành mà nó phải phù
hợp với các trường hợp mà pháp luật cho phép, nếu cơ quan có thẩm quyền viện dẫn ra
được các trường hợp mà phán quyết trọng tài nước ngoài nó rơi vào các tình huống đã được
dự liệu tại Điều 459 này thì chắc chắn phán quyết đó bị từ chối công nhận và cho thi hành
ở Việt Nam. Điều này được ghi nhận không phải là do pháp luật Việt Nam mà nó là những
chuẩn mực mà Công ước New York năm 1958 đã đặt ra.
Xu hướng giải quyết tranh chấp bằng các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế
phương thức Tòa án ngày càng phát triển và phổ biến trên thế giới. Với ưu điểm về tính
linh hoạt, tiết kiệm thời gian và bảo mật cao, trọng tài thương mại đang là một trong những
phương thức được các bên tranh chấp ưu tiên lựa chọn. Tại Việt Nam, pháp luật điều chỉnh
về trọng tài thương mại – những cơ sở pháp lý cơ bản để thiết lập và phát triển phương
thức giải quyết bằng trọng tài, đang từng bước được hoàn thiện, hướng tới xây dựng hệ
thống pháp luật thống nhất, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
Bản Án của Tòa Án và Phán Quyết của Trọng Tài Nước Ngoài tại Việt Nam - YKVN (ykvn-law.com)
Vào ngày 25 tháng 9 năm 2020, Bộ Tư pháp đã công bố cơ sở dữ liệu về công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước
ngoài tại Việt Nam (“Cơ Sở Dữ Liệu”).
Cho đến thời điểm gần đây, các tòa án Việt Nam chưa từng đưa ra quan điểm và ý kiến cởi
mở như thế này trên các diễn đàn giải quyết tranh chấp nước ngoài.
Chỉ mới 3 năm trước đây, Tòa Án Nhân Dân Tối Cao Việt Nam bắt đầu công bố các bản
án, quyết định của các cấp tòa án, công nhận và xuất bản các án lệ, qua đó làm sáng tỏ
quy trình xét xử chưa đủ công khai minh bạch tại Việt Nam. lOMoAR cPSD| 59062190
Cơ Sở Dữ Liệu bao gồm các quyết định của Tòa án Việt Nam đối với 26 bản án, quyết
định của tòa án nước ngoài và 83 phán quyết của trọng tài nước ngoài trong giai đoạn từ
ngày 1 tháng 1 năm 2012 đến ngày 30 tháng 9 năm 2019.
Căn cứ vào Cơ Sở Dữ Liệu, trừ các vụ án bị đình chỉ do nhiều nguyên nhân khác nhau
theo quy định của Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2015 (trong đó chủ yếu là do người nộp đơn
yêu cầu rút đơn), 46% bản án, quyết định của tòa án nước ngoài (12/26) và 49% phán
quyết trọng tài (41/83) đã được công nhận và thi hành tại Việt Nam; và chỉ có 19% bản
án, quyết định của tòa án nước ngoài (5/26) và 36% phán quyết trọng tài (30/83) bị từ
chối công nhận và cho thi hành.