Phân ch 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất
1. Hướng dẫn phân ch 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ D
1.1. Phân ch khổ thơ đầu
- Câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?có thể được hiu theo hai cách: Đây vừa có
thđược coi là một lời mời gọi, trách móc nhẹ nhàng của người con gái, lại vừa là câu hỏi tự
nhà thơ đặt ra cho bản thân mình. Dù phân ch theo nghĩa nào thì câu thơ cũng đề cập đến việc
quay trở về xứ Huế: dùng từ "không về" bởi nhà thơ đang mắc phải căn bệnh phong quái ác.
- Bức tranh phong cảnh thôn Vĩ được nhà thơ khắc họa từ xa đến gần, từ cao xuống thấp:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên" => T"nắng" được lặp lại gợi lên một khung cảnh tràn ngp
ánh sáng, dịu dàng và trong tro và cũng kèm theo đó là hình ảnh đặc trưng của những hàng
cau nơi xứ Huế
"Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" => Trong câu thơ sử dụng hình ảnh so sánh khiến cho người
đọc cảm nhận được vẻ đẹp tươi tốt, xanh mơn mởn của khu vườn thôn Vĩ cũng đồng thời gợi
lên một ấn tượng mạnh mẽ.
"Lá trúc che ngang mặt chữ điền" => Tác giả gợi ra hình ảnh người con gái xứ Huế với vẻ e ấp,
thẹn thùng và khuôn mặt "chữ điền" - một nét đẹp dân dã và đặc trưng.
1.2. Phân ch khổ thơ thứ 2
"Gió theo lối gió,y đườngy" => Bức tranh phong cảnh có sự vận động, thay đổi từ cảnh
ờn sang sông nước. Gvà mây chia cắt, chia lìa riêng biệt.
"Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay" => Sử dụng hình ảnh nhân hóa “dòng nước buồn thiuđể
thhiện nỗi buồn nặng trĩu trong lòng. Động từ “laymiêu tả chuyển động nhẹ nhàng nhưng
cũng gợi ra sự đìu hiu, vắng vẻ đến đượm buồn của cảnh vt.
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay" => Cho thấy tâm trạng lo lắng,
bồn chồn, thấp thỏm của nhà thơ.
2. Phân ch 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất
2.1. Phân ch 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dchọn lọc hay nhất - Mẫu số 1
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ
mới. Xuất phát từ mối nh của bản thân với cô gái quê ở Vĩ Dạ - một thôn nhỏ bên dòng sông
ơng nơi xứ Huế thơ mộng và trữ nh, Hàn Mặc Tử đã viết nên bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" đầy
cảm xúc. Đặc biệt, tâm tư của nhà thơ được thể hiện rõ nét qua hai khổ thơ đầu.
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ"
Câu thơ mở đầu như một câu hỏi nhưng ẩn trong đó lại là một nỗi niềm rất đỗi dịu dàng và xúc
động. Câu hỏi này cũng có sức hấp dẫn khó cưỡng đối với nhà thơ vềgái thôn Vĩ hoặc đó
cũng có thể là sự nhầm lẫn của chính tác giả, nỗi niềm thầm kín của nhà thơ khi được tr lại
thăm nơi làng quê và cả những con nời thôn Vĩ. Bài thơ tuy không dùng từ “về thămmà lại
dùng từ “về chơi, hàm ý sắc thái tự nhiên, thân mật. Hai khổ thơ ếp theo là hình ảnh về thiên
nhiên, về khu vườn nhỏ thôn Vĩ trong kí ức của nhà thơ.
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
ờn ai mướt quá xanh như ngọc"
Có thể thy được nhà thơ không đơn thuần tả cảnh mà chỉ gợi ra cảnh đó những hình ảnh gợi
hình nhất, đẹp nhất. Được ánh ban mai chiếu rọi, những hàng cau cao vút như trải dài khung
cảnh thôn dã, khoáng đạt của thôn Vĩ. Ánh sáng sớm mai làm đẹp cho cây cau, nắng sớm tri
đều trên cây cau tạo nên vẻ đẹp hài hòa, thống nhất, là sự hài hòa giữa thiên nhiên và cảnh vật.
Câu thơ “ờn ai mướt quá xanh như ngọckhiến người ta có cảm giác như nhà thơ đang đi
gia khu vườn thôn Vĩ. Việc sử dụng độc đáo các nh từ đầy màu sắc, gợi hình như “ớtvới
“xanhvà hình ảnh so sánh “ớt như ngọcđã tạo ấn tượng về một khu vườn với một u
xanh nh khiết, lấp lánh như màu xanh ngọc bích. Khu vườn quê nơi thôn Vĩ với vẻ mộc mạc
xinh đẹp dưới ánh nắng ban mai.
"Lá trúc che ngang mặt chđin"
Sự xuất hiện đột ngột của con người trong câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điềncàng làm
cho cảnh vật thêm sinh động, có lẽ đây là chủ nhân của khu vườn. Sự xuất hiện này có phần hơi
trầm lặng, nhút nhát, khuôn mặt hiền hu lấp ló sau lớp lá trúc. Có thể nói, Hàn Mặc T đã miêu
tả rõ nét không chỉ con người thôn Vĩ mà cả thiên nhiên như khu vườn xinh đẹp, con người
chân chất, nhân hậu chỉ gói gọn trong bốn dòng của khổ thơ đầu ên. Từ khu vườn nhỏ thôn Vĩ,
tác giả đưa người đọc vào một thế giới nh cảm nhẹ nhàng, nghiêm trang nhưng cũng đầy ưu
tư, trăn trở của người thi nhân.
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay"
Nỗi buồn chia tay, cảm giác tội lỗi khi chia tay được bộc lộ qua câu thơ "Gió theo lối gió, mây
đường mây". Đoạn thơ gợi lên nhịp điệu êm đềm, dịu dàng của dòng sông và sbiến hóa của
mây gió. Mây và gió thực chất là một cặp hình ảnh thể hiện mối quan hệ gắn bó, không thể tách
rời, nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử, thay vì đến với nhau, gió và mây lại đi ngược chiều nhau.
Trong thực tế, gió thổi, mây bay, gió sông thổi mới tạo nên sóng, nhưng ở đây mây và gió lại
tách ri nhau, điều này hoàn toàn ngược lại với cảm xúc của nhà thơ. Mây gió không đồng điệu
nên dòng nước không lăn tăn gợn sóng, chỉ buồn nhìn “hoa bắp khẽ layđung đưa nhè nhẹ.
Hìnhnh dòng sông tuy đẹp nhưng lại hoang vắng, lạnh lẽo, vắng vẻ và chất chứa nỗi buồn, sự
cô đơn, mất mát của cuộc đời, của nhà thơ.
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Nhà thơ tuy cảm thấy buồn và cô đơn, nhưng không mất hy vọng vào nh yêu và sự đáp lại.
Tình yêu của tác giả không chỉ dành cho cô gái thôn Vĩ, mà còn dành cho thiên nhiên và con
người nơi đây. Cảnh sông trở nên hư ảo, thơ mộng và rạng ngời, và dòng sông không chỉ là dòng
sông đơn thuần nữa là dòng sông trăng tràn ngập ánh sáng. Con thuyền không chỉ chở ánh
trăng, mà còn chở cả niềm hy vọng khiêm tốn của nhà thơ. Câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối
nay?thhiện sự lo lắng, sợ hãi, nhưng trong màn sương mù dày đặc của tuyệt vọng và đau
thương, một niềm hy vọng nhỏ nhoi vẫn cháy bỏng trong tâm hồn nhà thơ. Chỉ có trăng mới
hiểu được những nỗi niềm thầm kín của nhà thơ, có lẽ vì nhà thơ quá cô đơn, quá trống vắng,
hay chờ đợi quá lâu. nhà thơ. Bằng cách sử dụng khéo léo câu hỏi tu từ và những ngôn ngữ
miêu tả độc đáo và tràn ngập nh gợi hình, nhà thơ đã tạo nên những bức tranh thiên nhiên
đẹp đẽ. Nhịp thơ và phép đối được sử dụng để tạo nên sự đối lập trong mỗi câu thơ. Hình ảnh
thơ được nhân cách hóa độc đáo tạo nên chất thơ trữ nh độc đáo, sâu sắc.
Qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, nhà thơ Hàn Mặc T đã mở rộng tầm mắt
cho người đọc hiểu về thiên nhiên thơ mộng và con người xứ Huế. Qua đó ta cũng phần nào
hiểu được những tâm tư, nỗi buồn sâu thẳm trong lòng tác giả. Một thôn nhỏ ven dòng sông
Hương trở thành một hình ảnh đẹp đẽ, sắc nét và đậm chất Huế nhờ vào ngòi bút của Hàn Mặc
Tử.
2. Phân ch 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất - Mẫu số 2
Có lẽ không một nhà thơ nào trong phong trào thơ mới (giai đoạn 1932 - 1945) phải chịu đựng
số phận cay đắng, nghiệt ngã hơn Hàn Mặc Tử. Số mệnh cay đắng của Hàn Mạch Tđược đoán
trước qua ý nghĩa của các biệt danh như Phong Trần (Gió Bụi), Lệ Thanh. Người thi sĩ đi trong
giá lạnh với lòng không yên, trải tâm tư trên trang giấy mỏng manh và đã sáng tác nhiều bài thơ
độc đáo, một trong số đó có "Đây thôn Vĩ Dạ". Khi đọc bài thơ, người đọc sẽ không khỏi n
ợng với hai khổ thơ đầu ên.
Đối với mỗi nhà thơ, thơ chính là cuộc sống. Để trở thành thơ, mỗi câu từ phải được tâm hồn
nhà thơ thanh lọc và cảm nhận. Thơ là những hình ảnh tươi nguyên được tái hiện qua lăng kính
cảm xúc của người nghệ sĩ. Vì thế, nếu một bài thơ không có tư tưởng, nh cảm thì nhàm chán,
vô vị, chỉ là những câu sáo rỗng được chọn lọc làm thú vui êu khiển, và ngôn từ không thể
đánh lừa người đọc. Đối với "Đây thôn Vĩ Dạ", bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
Đây là câu hỏi tu từ của nhà thơ, nhà thơ hóa thành một cô gái Huế mang chút hờn dỗi, nhưng
đằng sau đó là một li mời rất chân thành khi nhà thơ dùng từ "chơi" gợi sự thân thiết, có lẽ
câu hỏi tu từ này là nhà thơ tự hỏi và cũng là câu tự trách mình. Đó là một câu hỏi lớn và một
nỗi đau nhức nhối, mà giờ đây lại là niềm mong ước, khắc khoải được trở li Huế của nhà thơ.
Nhà thơ có thể đã ở giai đoạn cuối của bệnh phong khi ông viết bài thơ này nên trong bài thơ
chỉ toàn là sự nuối ếc, mong mỏi được quay về thôn Vĩ với cảnh sắc thiên nhiên đẹp đến nao
lòng:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
ờn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chđin"
Bức tranh thôn Vĩ xinh xắn thơ mộng được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. Câu thơ với điệp từ
"nắng" đã gợi lên trong mắt người đọc một không gian tràn ngập ánh sáng. Cau đó là một loại
y mang vẻ đẹp đặc trưng của thôn Vĩ, với thân hình thẳng tắp tán lá xanh tươi, vườn cây thôn
Vĩ tươi tốt đến mức khách ở xa về phải trầm trồ "vườn ai mướt quá xanh như ngọc" vườn ai
không xác định nhưng người đọc vẫn có thể hiểu là vườn của cô gái Huế.
Từ "mướt quá" là sự đặc t sắc xanh của cây lá. Ti sao tác giả không dùng màu xanh da tri,
xanh thẫm mà dùng màu xanh ngọc bích, có lẽ đó là màu xanh nh khiết, nh túy, quyến rũ. Bức
tranh thôn Vĩ ngày càng đẹp hơn, hiện lên đầy đủ hoàn hảo hơn, khi có sự xuất hiện của người
con gái "lá trúc che ngang mặt chữ đin". Vĩ Dạ nổi ếng với màu xanh của trúc một loại cây
được trồng trước ngõ, trong tâm tưởng của thi nhân bất chợt hin về qua mặt chữ điền lấp ló
sau hàng trúc. Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi lên sự vuông vắn, phúc hậuTất cả to
nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người và thiên nhiên.
Nếu nhưkhổ thơ đầu nhà thơ nhìn cảnh vật với niềm lạc quan yêu đời thì ở khổ thơ thứ hai
đã có sự thay đổi trong cảm giác mặc cảm của cảnh chia tay:
"Gió theo lối gió,y đườngy
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay"
Vẻ đẹp nh túy của xứ Huế được miêu tả trong hai câu thơ, là dòng sông hương chậm rãi chảy,
hai bên bờ có vườn bắp, hoa khẽ đung đưa, gió cuốn theo gió, trên đường mây có mây. Trên
thực tế, hóa ra gió và mây không thể tách rời. Bởi vì khi gió thổi, mây trời mới có thể bay. Tuy
nhiên, hai từ chia tay cũng đến, và dòng nước buồn thiu như mang theo một cảm giác khó tả.
Cho đến hai câu thơ ếp theo, vẫn là hình ảnh dòng sông Hương với hương sắc mơ màng,
nhưng không còn nắng hay sắc xanh từ Vĩ Dạ, mà trở thành không gian tràn ngập ánh trăng
sáng trước mắt người đọc, con thuyền trở thành thuyền trăng, dòng sông thành dòng sông
trăng và bến đò thì trở thành bến Trăng.
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"
Từ xưa đến nay, ta thường bắt gặp hình ảnh những thuyền trăng, bến trăng thì nay ta lại bắt gặp
một hình ảnh mới là dòng sông trăng. Đọc thơ, người đọc mới có cảm giác như lạc vào cõi
mộng, như thể nhà thơ sống trong nỗi khắc khoải, trông mong vô tận. Ở khổ thơ đầu, câu hỏi tu
từ xuất hin ở câu đầu, còn đối với khổ thứ hai thì câu hỏi tu từ lại xuất hiện ở câu cuối. Dường
như n thơ đã dự cảm được sự thất vọng và cũng như ý thức được rằng nếu trăng không về
kịp thì mình sẽ vĩnh viễn rơi vào thế giới đau đớn, tuyệt vọng.
Thành công của đoạn văn là nhờ vào việc sử dụng các biện pháp tu từ như điệp từ, câu hỏi tu
từ, bin pháp so sánh sử dụng nghệ thuật liên tưởng và câu hỏi tu từ trong suốt bài thơ. Nhà
thơ đã vẽ ra trước mắt ta một khung cảnh thơ mộng, tràn đầy sức sống và ẩn chứa trong đó
tấm lòng của nhà thơ. Đó là một bức tranh đẹp về con người. Một tâm hồn thơ mộng, giàu trí
ởng tượng và yêu đời của một nhà thơ đa sầu, đa cảm. Và Hàn Mặc T đã thể hiện chân thực
tâm trạng dao động của một nhân vật trữ nh mang tâm trạng nặng trĩu.

Preview text:

Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất
1. Hướng dẫn phân tích 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ
1.1. Phân tích khổ thơ đầu
- Câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” có thể được hiểu theo hai cách: Đây vừa có
thể được coi là một lời mời gọi, trách móc nhẹ nhàng của người con gái, lại vừa là câu hỏi tự
nhà thơ đặt ra cho bản thân mình. Dù phân tích theo nghĩa nào thì câu thơ cũng đề cập đến việc
quay trở về xứ Huế: dùng từ "không về" bởi nhà thơ đang mắc phải căn bệnh phong quái ác.
- Bức tranh phong cảnh thôn Vĩ được nhà thơ khắc họa từ xa đến gần, từ cao xuống thấp:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên" => Từ "nắng" được lặp lại gợi lên một khung cảnh tràn ngập
ánh sáng, dịu dàng và trong trẻo và cũng kèm theo đó là hình ảnh đặc trưng của những hàng cau nơi xứ Huế
"Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" => Trong câu thơ sử dụng hình ảnh so sánh khiến cho người
đọc cảm nhận được vẻ đẹp tươi tốt, xanh mơn mởn của khu vườn thôn Vĩ cũng đồng thời gợi
lên một ấn tượng mạnh mẽ.
"Lá trúc che ngang mặt chữ điền" => Tác giả gợi ra hình ảnh người con gái xứ Huế với vẻ e ấp,
thẹn thùng và khuôn mặt "chữ điền" - một nét đẹp dân dã và đặc trưng.
1.2. Phân tích khổ thơ thứ 2
"Gió theo lối gió, mây đường mây" => Bức tranh phong cảnh có sự vận động, thay đổi từ cảnh
vườn sang sông nước. Gió và mây chia cắt, chia lìa riêng biệt.
"Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay" => Sử dụng hình ảnh nhân hóa “dòng nước buồn thiu” để
thể hiện nỗi buồn nặng trĩu trong lòng. Động từ “lay” miêu tả chuyển động nhẹ nhàng nhưng
cũng gợi ra sự đìu hiu, vắng vẻ đến đượm buồn của cảnh vật.
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay" => Cho thấy tâm trạng lo lắng,
bồn chồn, thấp thỏm của nhà thơ.
2. Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất
2.1. Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất - Mẫu số 1
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ
mới. Xuất phát từ mối tình của bản thân với cô gái quê ở Vĩ Dạ - một thôn nhỏ bên dòng sông
Hương nơi xứ Huế thơ mộng và trữ tình, Hàn Mặc Tử đã viết nên bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" đầy
cảm xúc. Đặc biệt, tâm tư của nhà thơ được thể hiện rõ nét qua hai khổ thơ đầu.
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ"
Câu thơ mở đầu như một câu hỏi nhưng ẩn trong đó lại là một nỗi niềm rất đỗi dịu dàng và xúc
động. Câu hỏi này cũng có sức hấp dẫn khó cưỡng đối với nhà thơ về cô gái thôn Vĩ hoặc đó
cũng có thể là sự nhầm lẫn của chính tác giả, nỗi niềm thầm kín của nhà thơ khi được trở lại
thăm nơi làng quê và cả những con người thôn Vĩ. Bài thơ tuy không dùng từ “về thăm” mà lại
dùng từ “về chơi”, hàm ý sắc thái tự nhiên, thân mật. Hai khổ thơ tiếp theo là hình ảnh về thiên
nhiên, về khu vườn nhỏ thôn Vĩ trong kí ức của nhà thơ.
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"
Có thể thấy được nhà thơ không đơn thuần tả cảnh mà chỉ gợi ra cảnh đó những hình ảnh gợi
hình nhất, đẹp nhất. Được ánh ban mai chiếu rọi, những hàng cau cao vút như trải dài khung
cảnh thôn dã, khoáng đạt của thôn Vĩ. Ánh sáng sớm mai làm đẹp cho cây cau, nắng sớm trải
đều trên cây cau tạo nên vẻ đẹp hài hòa, thống nhất, là sự hài hòa giữa thiên nhiên và cảnh vật.
Câu thơ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” khiến người ta có cảm giác như nhà thơ đang đi
giữa khu vườn thôn Vĩ. Việc sử dụng độc đáo các tính từ đầy màu sắc, gợi hình như “mướt” với
“xanh” và hình ảnh so sánh “mướt như ngọc” đã tạo ấn tượng về một khu vườn với một màu
xanh tinh khiết, lấp lánh như màu xanh ngọc bích. Khu vườn quê nơi thôn Vĩ với vẻ mộc mạc
xinh đẹp dưới ánh nắng ban mai.
"Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
Sự xuất hiện đột ngột của con người trong câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” càng làm
cho cảnh vật thêm sinh động, có lẽ đây là chủ nhân của khu vườn. Sự xuất hiện này có phần hơi
trầm lặng, nhút nhát, khuôn mặt hiền hậu lấp ló sau lớp lá trúc. Có thể nói, Hàn Mặc Tử đã miêu
tả rõ nét không chỉ con người thôn Vĩ mà cả thiên nhiên như khu vườn xinh đẹp, con người
chân chất, nhân hậu chỉ gói gọn trong bốn dòng của khổ thơ đầu tiên. Từ khu vườn nhỏ thôn Vĩ,
tác giả đưa người đọc vào một thế giới tình cảm nhẹ nhàng, nghiêm trang nhưng cũng đầy ưu
tư, trăn trở của người thi nhân.
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay"
Nỗi buồn chia tay, cảm giác tội lỗi khi chia tay được bộc lộ qua câu thơ "Gió theo lối gió, mây
đường mây". Đoạn thơ gợi lên nhịp điệu êm đềm, dịu dàng của dòng sông và sự biến hóa của
mây gió. Mây và gió thực chất là một cặp hình ảnh thể hiện mối quan hệ gắn bó, không thể tách
rời, nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử, thay vì đến với nhau, gió và mây lại đi ngược chiều nhau.
Trong thực tế, gió thổi, mây bay, gió sông thổi mới tạo nên sóng, nhưng ở đây mây và gió lại
tách rời nhau, điều này hoàn toàn ngược lại với cảm xúc của nhà thơ. Mây gió không đồng điệu
nên dòng nước không lăn tăn gợn sóng, chỉ buồn nhìn “hoa bắp khẽ lay” đung đưa nhè nhẹ.
Hình ảnh dòng sông tuy đẹp nhưng lại hoang vắng, lạnh lẽo, vắng vẻ và chất chứa nỗi buồn, sự
cô đơn, mất mát của cuộc đời, của nhà thơ.
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Nhà thơ tuy cảm thấy buồn và cô đơn, nhưng không mất hy vọng vào tình yêu và sự đáp lại.
Tình yêu của tác giả không chỉ dành cho cô gái thôn Vĩ, mà còn dành cho thiên nhiên và con
người nơi đây. Cảnh sông trở nên hư ảo, thơ mộng và rạng ngời, và dòng sông không chỉ là dòng
sông đơn thuần nữa mà là dòng sông trăng tràn ngập ánh sáng. Con thuyền không chỉ chở ánh
trăng, mà còn chở cả niềm hy vọng khiêm tốn của nhà thơ. Câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối
nay?” thể hiện sự lo lắng, sợ hãi, nhưng trong màn sương mù dày đặc của tuyệt vọng và đau
thương, một niềm hy vọng nhỏ nhoi vẫn cháy bỏng trong tâm hồn nhà thơ. Chỉ có trăng mới
hiểu được những nỗi niềm thầm kín của nhà thơ, có lẽ vì nhà thơ quá cô đơn, quá trống vắng,
hay chờ đợi quá lâu. nhà thơ. Bằng cách sử dụng khéo léo câu hỏi tu từ và những ngôn ngữ
miêu tả độc đáo và tràn ngập tính gợi hình, nhà thơ đã tạo nên những bức tranh thiên nhiên
đẹp đẽ. Nhịp thơ và phép đối được sử dụng để tạo nên sự đối lập trong mỗi câu thơ. Hình ảnh
thơ được nhân cách hóa độc đáo tạo nên chất thơ trữ tình độc đáo, sâu sắc.
Qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã mở rộng tầm mắt
cho người đọc hiểu về thiên nhiên thơ mộng và con người xứ Huế. Qua đó ta cũng phần nào
hiểu được những tâm tư, nỗi buồn sâu thẳm trong lòng tác giả. Một thôn nhỏ ven dòng sông
Hương trở thành một hình ảnh đẹp đẽ, sắc nét và đậm chất Huế nhờ vào ngòi bút của Hàn Mặc Tử.
2. Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất - Mẫu số 2
Có lẽ không một nhà thơ nào trong phong trào thơ mới (giai đoạn 1932 - 1945) phải chịu đựng
số phận cay đắng, nghiệt ngã hơn Hàn Mặc Tử. Số mệnh cay đắng của Hàn Mạch Tử được đoán
trước qua ý nghĩa của các biệt danh như Phong Trần (Gió Bụi), Lệ Thanh. Người thi sĩ đi trong
giá lạnh với lòng không yên, trải tâm tư trên trang giấy mỏng manh và đã sáng tác nhiều bài thơ
độc đáo, một trong số đó có "Đây thôn Vĩ Dạ". Khi đọc bài thơ, người đọc sẽ không khỏi ấn
tượng với hai khổ thơ đầu tiên.
Đối với mỗi nhà thơ, thơ chính là cuộc sống. Để trở thành thơ, mỗi câu từ phải được tâm hồn
nhà thơ thanh lọc và cảm nhận. Thơ là những hình ảnh tươi nguyên được tái hiện qua lăng kính
cảm xúc của người nghệ sĩ. Vì thế, nếu một bài thơ không có tư tưởng, tình cảm thì nhàm chán,
vô vị, chỉ là những câu sáo rỗng được chọn lọc làm thú vui tiêu khiển, và ngôn từ không thể
đánh lừa người đọc. Đối với "Đây thôn Vĩ Dạ", bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
Đây là câu hỏi tu từ của nhà thơ, nhà thơ hóa thành một cô gái Huế mang chút hờn dỗi, nhưng
đằng sau đó là một lời mời rất chân thành khi nhà thơ dùng từ "chơi" gợi sự thân thiết, có lẽ
câu hỏi tu từ này là nhà thơ tự hỏi và cũng là câu tự trách mình. Đó là một câu hỏi lớn và một
nỗi đau nhức nhối, mà giờ đây lại là niềm mong ước, khắc khoải được trở lại Huế của nhà thơ.
Nhà thơ có thể đã ở giai đoạn cuối của bệnh phong khi ông viết bài thơ này nên trong bài thơ
chỉ toàn là sự nuối tiếc, mong mỏi được quay về thôn Vĩ với cảnh sắc thiên nhiên đẹp đến nao lòng:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
Bức tranh thôn Vĩ xinh xắn thơ mộng được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. Câu thơ với điệp từ
"nắng" đã gợi lên trong mắt người đọc một không gian tràn ngập ánh sáng. Cau đó là một loại
cây mang vẻ đẹp đặc trưng của thôn Vĩ, với thân hình thẳng tắp tán lá xanh tươi, vườn cây thôn
Vĩ tươi tốt đến mức khách ở xa về phải trầm trồ "vườn ai mướt quá xanh như ngọc" vườn ai
không xác định nhưng người đọc vẫn có thể hiểu là vườn của cô gái Huế.
Từ "mướt quá" là sự đặc tả sắc xanh của cây lá. Tại sao tác giả không dùng màu xanh da trời,
xanh thẫm mà dùng màu xanh ngọc bích, có lẽ đó là màu xanh tinh khiết, tinh túy, quyến rũ. Bức
tranh thôn Vĩ ngày càng đẹp hơn, hiện lên đầy đủ hoàn hảo hơn, khi có sự xuất hiện của người
con gái "lá trúc che ngang mặt chữ điền". Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trúc một loại cây
được trồng trước ngõ, trong tâm tưởng của thi nhân bất chợt hiện về qua mặt chữ điền lấp ló
sau hàng trúc. Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi lên sự vuông vắn, phúc hậu… Tất cả tạo
nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người và thiên nhiên.
Nếu như ở khổ thơ đầu nhà thơ nhìn cảnh vật với niềm lạc quan yêu đời thì ở khổ thơ thứ hai
đã có sự thay đổi trong cảm giác mặc cảm của cảnh chia tay:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay"
Vẻ đẹp tinh túy của xứ Huế được miêu tả trong hai câu thơ, là dòng sông hương chậm rãi chảy,
hai bên bờ có vườn bắp, hoa khẽ đung đưa, gió cuốn theo gió, trên đường mây có mây. Trên
thực tế, hóa ra gió và mây không thể tách rời. Bởi vì khi gió thổi, mây trời mới có thể bay. Tuy
nhiên, hai từ chia tay cũng đến, và dòng nước buồn thiu như mang theo một cảm giác khó tả.
Cho đến hai câu thơ tiếp theo, vẫn là hình ảnh dòng sông Hương với hương sắc mơ màng,
nhưng không còn nắng hay sắc xanh từ Vĩ Dạ, mà trở thành không gian tràn ngập ánh trăng
sáng trước mắt người đọc, con thuyền trở thành thuyền trăng, dòng sông thành dòng sông
trăng và bến đò thì trở thành bến Trăng.
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"
Từ xưa đến nay, ta thường bắt gặp hình ảnh những thuyền trăng, bến trăng thì nay ta lại bắt gặp
một hình ảnh mới là dòng sông trăng. Đọc thơ, người đọc mới có cảm giác như lạc vào cõi
mộng, như thể nhà thơ sống trong nỗi khắc khoải, trông mong vô tận. Ở khổ thơ đầu, câu hỏi tu
từ xuất hiện ở câu đầu, còn đối với khổ thứ hai thì câu hỏi tu từ lại xuất hiện ở câu cuối. Dường
như nhà thơ đã dự cảm được sự thất vọng và cũng như ý thức được rằng nếu trăng không về
kịp thì mình sẽ vĩnh viễn rơi vào thế giới đau đớn, tuyệt vọng.
Thành công của đoạn văn là nhờ vào việc sử dụng các biện pháp tu từ như điệp từ, câu hỏi tu
từ, biện pháp so sánh sử dụng nghệ thuật liên tưởng và câu hỏi tu từ trong suốt bài thơ. Nhà
thơ đã vẽ ra trước mắt ta một khung cảnh thơ mộng, tràn đầy sức sống và ẩn chứa trong đó
tấm lòng của nhà thơ. Đó là một bức tranh đẹp về con người. Một tâm hồn thơ mộng, giàu trí
tưởng tượng và yêu đời của một nhà thơ đa sầu, đa cảm. Và Hàn Mặc Tử đã thể hiện chân thực
tâm trạng dao động của một nhân vật trữ tình mang tâm trạng nặng trĩu.