Phân tích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” - Văn mẫu lớp 11 sách Cánh Diều

a. Tác giả - Nguyễn Du (1765-1820) có tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. - Ông sinh ra trong gia đình đại quý tộc vừa có truyền thống khoa bảng vừa có truyền thống văn hóa, văn học. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
13 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” - Văn mẫu lớp 11 sách Cánh Diều

a. Tác giả - Nguyễn Du (1765-1820) có tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. - Ông sinh ra trong gia đình đại quý tộc vừa có truyền thống khoa bảng vừa có truyền thống văn hóa, văn học. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

28 14 lượt tải Tải xuống
Dàn ý Phân tích Anh hùng tiếng đã gọi rằng mẫu 1
I. Mở bài: Dẫn dắt giới thiệu về đoạn trích.
II. Thân bài:
1. Khái quát chung:
a. Tác giả
- Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê Tiên
Điền, Nghi Xuân, Tĩnh.
- Ông sinh ra trong gia đình đại quý tộc vừa truyền thống khoa bảng vừa
truyền thống văn hóa, văn học.
- Thời đại Nguyễn Du sống thời đại nhiều biến cố lịch sử như nhà -Trịnh sụp
đổ, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tiếp tiêu biểu cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn, triều Tây Sơn sụp đổ Nguyễn Ánh lập ra triều đại nhà Nguyễn,...
- Nguyễn Du sáng tác cả chữ Hán chữ Nôm. Các tác phẩm của ông vừa giàu giá
trị nghệ thuật lại vừa phản ánh được hiện thực hội tinh thần nhân đạo sâu
sắc.
b. Tác phẩm
- Đoạn trích nằm trong “Truyện Kiều”, từ câu 2419 đến 2450.
- Bố cục:
+ Phần 1 (Từ đầu đến “cam lòng”): Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều - Từ Hải
cuộc khởi binh của Từ Hải.
- Phần 2 (Còn lại): Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện qua hành động.
2. Phân tích:
a. Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều - Từ Hải cuộc khởi binh của Từ Hải
- Thúy Kiều tạ ân với Từ Hải, tôn vinh sức mạnh công ơn của Từ Hải:
+ Kiều tự nhận mình “thân bồ liễu” mỏng manh yếu ớt.
+ Ân nghĩa của Từ Hải đối với Thúy Kiều điều không thể nào quên: “Chạm xương
chép dạ xiết chỉ/Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
- Từ Hải hiện lên với vẻ đẹp hoàn hảo, vừa bình dị lại vừa phi thường:
+ Từ nhận mình “Quốc sĩ”, ý thức được tài năng sức mạnh của bản thân.
+ Từ Hải coi việc giúp đỡ Thúy Kiều điều tất yếu bậc quân tử nên làm:
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng/Giữa dường dẫu thấy bất bằng tha”.
+ Từ Hải coi Thúy Kiều bậc tri âm, tri kỉ: “Huống chỉ việc cũng việc nhà/Lọ thâm
tạ với tri ân”.
b. Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện hành động
- Từ Hải vị thủ lĩnh đầy quyền uy: “Vội truyền sửa tiệc quân trung/Muôn binh nghìn
tướng hội đồng tẩy oan”.
- Từ Hải khát vọng tự do, sức mạnh lay chuyển đất trời, không sợ quyền uy của
triều đình: “Thừa trúc chẻ mái tan/Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài/Triều đình
riêng một góc trời/Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”.
- Từ Hải còn sự hòa quyện giữa vẻ hào hoa, nho nhã của bậc “Quốc sĩ” sự
từng trải, phong trần của một tráng sĩ: “Phong trần mải một lưỡi gươm/Những loài
giả áo túi cơm gì!”.
3. Tổng kết:
- Nội dung: Đoạn trích đã thể hiện vẻ đẹp hoàn hảo của người anh hùng Từ Hải. Từ
Hải chính đại diện cho ước về công lí, sự bình đẳng hạnh phúc ấm no của
người dân.
- Nghệ thuật:
+ Thể thơ lục bát truyền thống.
+ Bút pháp đậm tính sử thi.
+ Ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng.
+ Xây dựng hình tượng nhân vật vĩ, đặc sắc.
III. Kết bài
Dàn ý Phân tích Anh hùng tiếng đã gọi rằng mẫu 2
I.Mở bài
- Dẫn dắt giới thiệu về đoạn trích.
- Giới thiệu khái quát về Nguyễn Du tác phẩm Truyện Kiều
II. Thân bài
1. Khái quát chung:
a. Tác giả
- Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê Tiên
Điền, Nghi Xuân, Tĩnh.
- Ông sinh ra trong gia đình đại quý tộc vừa truyền thống khoa bảng vừa
truyền thống văn hóa, văn học.
- Thời đại Nguyễn Du sống thời đại nhiều biến cố lịch sử như nhà -Trịnh sụp
đổ, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tiếp tiêu biểu cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn, triều Tây Sơn sụp đổ Nguyễn Ánh lập ra triều đại nhà Nguyễn,...
- Nguyễn Du sáng tác cả chữ Hán chữ Nôm. Các tác phẩm của ông vừa giàu giá
trị nghệ thuật lại vừa phản ánh được hiện thực hội tinh thần nhân đạo sâu
sắc.
b. Tác phẩm
- Đoạn trích nằm trong “Truyện Kiều”, từ câu 2419 đến 2450.
- Bố cục:
+ Phần 1 (Từ đầu đến “cam lòng”): Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều - Từ Hải
cuộc khởi binh của Từ Hải.
- Phần 2 (Còn lại): Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện qua hành động.
2. Phân tích:
a. Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều - Từ Hải cuộc khởi binh của Từ Hải
- Thúy Kiều tạ ân với Từ Hải, tôn vinh sức mạnh công ơn của Từ Hải:
+ Kiều tự nhận mình “thân bồ liễu” mỏng manh yếu ớt.
+ Ân nghĩa của Từ Hải đối với Thúy Kiều điều không thể nào quên: “Chạm xương
chép dạ xiết chỉ/Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
- Từ Hải hiện lên với vẻ đẹp hoàn hảo, vừa bình dị lại vừa phi thường:
+ Từ nhận mình “Quốc sĩ”, ý thức được tài năng sức mạnh của bản thân.
+ Từ Hải coi việc giúp đỡ Thúy Kiều điều tất yếu bậc quân tử nên làm:
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng/Giữa đường dẫu thấy bất bằng tha”.
+ Từ Hải coi Thúy Kiều bậc tri âm, tri kỉ: “Huống chi việc cũng việc nhà/Lọ thâm
tạ với tri ân”.
b. Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện hành động
- Từ Hải vị thủ lĩnh đầy quyền uy: “Vội truyền sửa tiệc quân trung/Muôn binh nghìn
tướng hội đồng tẩy oan”.
- Từ Hải khát vọng tự do, sức mạnh lay chuyển đất trời, không sợ quyền uy của
triều đình: “Thừa trúc chẻ mái tan/Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài/Triều đình
riêng một góc trời/Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”.
- Từ Hải còn sự hòa quyện giữa vẻ hào hoa, nho nhã của bậc “Quốc sĩ” sự
từng trải, phong trần của một tráng sĩ: “Phong trần mài một lưỡi gươm/Những loài
giả áo túi cơm gì!”.
3. Tổng kết:
- Nội dung: Đoạn trích đã thể hiện vẻ đẹp hoàn hảo của người anh hùng Từ Hải. Từ
Hải chính đại diện cho ước về công lí, sự bình đẳng hạnh phúc ấm no của
người dân.
- Nghệ thuật:
+ Thể thơ lục bát truyền thống.
+ Bút pháp đậm tính sử thi.
+ Ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng.
+ Xây dựng hình tượng nhân vật vĩ, đặc sắc.
III. Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề
Phân tích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” mẫu 1
“Một nước không thể không quốc hoa, “Truyện Kiều” quốc hoa của ta; một
nước không thể không quốc túy, “Truyện Kiều” quốc túy của ta; một nước
không thể không quốc hồn, “Truyện Kiều” quốc hồn của ta” - đó lời nhận xét
của nhà văn hóa Phạm Quỳnh về giá trị của “Truyện Kiều”. Để trở thành “quốc hoa”,
“quốc túy” “quốc hồn” thì 3254 câu lục bát của Nguyễn Du phải thực sự trở thành
tiếng nói đồng điệu với tâm hồn phong phú của người dân đất Việt. Đọc đoạn trích
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng”, ta thể thấy khát khao hòa bình, hạnh phúc, công
bằng của nhân dân được Nguyễn Du gửi gắm qua hình ảnh Từ Hải.
Đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” kéo dài từ câu 2419 đến câu 2450 thuộc
phần “Gia biến lưu lạc” của “Truyện Kiều”, ngay sau đoạn Từ Hải giúp Kiều báo
ân báo oán. Bằng tài năng văn học cùng tấm lòng nhân đạo cao cả của mình,
Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải oai nghiêm, phi thường nhưng cũng hết
sức bình dị, gần gũi để thể hiện ước của nhân dân về hạnh phúc công
trong hội phong kiến.
Mở đầu đoạn trích cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều Từ Hải. Khi gặp Từ Hải, Thúy
Kiều đã trải qua khoảng thời gian lưu lạc đầy đau thương. Tiếng khóc “đoạn trường”
do bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần của nàng tưởng như không bao giờ chấm dứt.
Sự xuất hiện của Từ Hải nguồn sáng cứu vớt Kiều thoát khỏi tăm tối, cho Kiều
hội ngồi trên công đường báo ân báo oán. Chính thế, những lời Kiều bày tỏ với
Từ Hải đều rất chân tình, thể hiện sự kính trọng hàm ơn:
“Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng
Tạ ân lạy trước Từ công:
“Chút thân bồ liễu nào mong này!
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!”
Thúy Kiều cúi đầu lạy tạ Từ Hải - ân công của nàng khiến không khí cuộc đối thoại
trở nên trang trọng. Đối với Kiều, Từ Hải không chỉ người bạn tri âm còn vị
ân nhân cứu thế. Nàng tự nhận mình “thân bồ liễu” nhỏ nhoi, hèn mọn, nào dám
tới sẽ ngày này. Từ Hải không những cưu mang, che chở cho nàng còn
thấu hiểu nguyện vọng thầm kín của nàng. Việc đưa một người phụ nữ lên vị trí
công đường điều xưa nay chưa từng tiền lệ nhưng bằng quyền uy, sức mạnh
của mình Từ Hải đã giúp Kiều hiện thực hóa niềm mong ước, giãi bày nỗi thống
khổ suốt bao nhiêu năm. Thúy Kiều ý thức được điều ấy nên nàng hết sức kính cẩn
trước Từ Hải. Từ Hải được với “sấm sét” uy cùng.
“Chạm xương chép dạ xiết chỉ,
Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
Đứng trước Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định sẽ ghi dòng tạc dạ ơn nghĩa này như
khắc vào xương, như ghi vào lòng. Khi Kiều báo ân báo oán, nàng đã coi Thúc Sinh
cũng một người ơn với mình nên đã tặng cho Thúc Sinh “Gấm trăm cuốn, bạc
nghìn cân”. Gấm, bạc đều những vật cùng quý giá lại đi với những từ chỉ số
lượng “trăm”, “nghìn” đã thể hiện tấm lòng trân trọng của Kiều dành cho Thúc Sinh.
Tuy nhiên, tình nghĩa giữa Thúy Kiều với Thúc Sinh vẫn được đong đếm cụ thể
bằng những vật chất hữu hình. đây, với Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định ơn của
Từ Hải lớn như trời mây, dẫu Kiều “đem gan óc” cũng không thể trả đủ nên vốn
không thể đo lường được. Sự khiêm nhường của Thúy Kiều đã nâng cao vị
thế của Từ Hải. Nguyễn Du khắc họa Từ Hải một cách gián tiếp bằng cách mượn lời
Kiều, nhấn mạnh vào những công đức của Từ Hải khiến nhân vật càng trở nên ấn
tượng.
Đáp lại lời của Kiều, Từ Hải đã tự lên tiếng bộc lộ tấm lòng của mình. Từ những suy
nghĩ, lời nói ấy, cốt cách anh hùng đáng quý của Từ Hải càng được thể hiện ràng:
“Từ rằng: "Quốc xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa dường dẫu thấy bất bằng tha!”
Từ Hải đã tự coi minh bậc “Quốc sĩ" trong thiên hạ, thể hiện sự ý thức ràng về
tài năng phẩm giá của bản thân. Nếu Kiều coi bản thân kẻ hàm ơn thì với Từ
Hải, việc giúp đỡ Kiều xuất phát từ tấm lòng tri âm tri kỉ. Người anh hùng không hề
cao ngạo hết mực khiêm tốn quý trọng Kiều. Những bậc hảo hán xưa nay
trong thiên hạ đều mong muốn tìm được người tâm giao nhưng đó đâu phải chuyện
dễ dàng! Thế nên, ngay từ buổi gặp Kiều, Từ Hải đã thể hiện tấm lòng chân thành,
ngay thẳng của mình:
“Từ rằng: tâm phúc tương cờ,
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?”
Không chỉ vậy, ta còn thấy được sự hòa quyện giữa vẻ đẹp thanh cao với sự phong
trần nhân vật này qua hai tiếng “Anh hùng”. Nếu “Truyện Lục Vân Tiên” chàng
Vân Tiên “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi” thì “Truyện Kiều” cũng một Từ Hải phi phàm
“Giữa đường dẫu thấy bất bằng tha!”. Đây chính quan niệm sống lối ứng
xử cao đẹp, thể hiện “Chí làm trai” của đấng nam nhi thời phong kiến. Từ Hải
chính người quân tử sẵn sàng giúp đỡ kẻ yếu thế, lấy hạnh phúc của người dân
động lực để tranh đấu. Từ Hải quả thực người anh hùng nhân dân hằng ao
ước!
Sau khi đề cập đến trách nhiệm chí khí của người anh hùng, Từ Hải nhắc đến
tình cảm riêng đối với Kiều:
“Huống chỉ việc cũng việc nhà,
Lọ thâm tạ mới tri ân?
Xót nàng còn chút song thân
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt ta cam lòng.”
Cách nói “Huống chỉ” kết hợp với hai chữ “việc nhà” cho thấy đối với Từ Hải, việc
giúp Kiều báo ân báo oán chỉ một việc hết sức thường tình. Từ Hải coi đó “việc
nhà”, đồng nhất tưởng anh hùng với việc giúp đỡ Kiều. Thúy Kiều hiện thân cho
những con người hồng nhan bạc mệnh, đại diện cho những số phận yếu thế, bị
đày đọa bởi hội đồng tiền nên tưởng hành hiệp trượng nghĩa để cứu đời trong
lòng Từ Hải được thể hiện cụ thể với nàng. thể thấy, từ mục đích đến cách hành
động của Từ Hải đều xuất phát từ tấm lòng nhân nghĩa giàu tình thương. một
quan nhưng Từ Hải không mang vẻ thô kệch, sỗ sàng trái lại, rất mực nho
nhã tinh tế. Từ Hải đã thấu hiểu cho hoàn cảnh ngang trái của Kiều. “kẻ Việt
người Tần” ý nghĩa chỉ việc Kiều lưu lạc nhiều năm, phải xa gia đình, không hay
biết chút tin tức về cha mẹ. Chứng kiến tình cảnh ấy, Từ Hải đã nảy sinh sự xót
thương, nguyện dốc sức “Sao cho muôn dặm một nhà”. Người anh hùng “Chọc trời
khuấy nước mặc dầu” ấy không phải một con người ngồi trên vị thế cao cao tại
thượng xa cách với nhân dân. Từ Hải quan tâm đến từng số phận nhân, mong
muốn cho “muôn dặm” được an vui thì mới yên lòng.
Như vậy, phần đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải qua lời
nói của Kiều để nhân vật tự khẳng định mình qua lời nói, suy nghĩ. Từ đó, nhà
thơ làm nổi bật lên nhân vật vẻ đẹp vừa mộc mạc, gần gũi lại vừa phi thường. Khi
miêu tả Từ Hải, Nguyễn Du đã dành cho nhân vật sự kính nể, ngợi ca. Từ Hải hội tụ
đầy đủ phẩm chất của một người anh hùng chính nghĩa, đại diện cho nhân dân, đối
lập với thế lực phong kiến bạo tàn.
Sang phần hai, không gian của đoạn trích được mở rộng hơn. Hình ảnh Từ Hải hiện
lên oai hùng, đầy uy dũng trên phông nền chiến trường đậm chất sử thi hoành tráng:
“Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa trúc chẻ mái tan,
Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài,
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.”
Những cụm từ mang tính chất phóng đại như “Muôn binh nghìn tướng”, “trúc chẻ
mái tan” đã khắc họa sức mạnh song của Từ Hải. Dưới trướng của người anh
hùng đội quân oai vệ với hàng ngàn binh lính. Khí thế của họ khiến “trúc chẻ mái
tan”, sấm rền vang trời đất. Cái oai phong, lẫm liệt, ngang tàng, khí phách của Từ
Hải đối lập với sức mạnh chuyên quyền áp bức con người của triều đình phong kiến
nên người anh hùng đã lập ra “Triều đình riêng một góc trời”. Cách nói “rạch đôi sơn
hà” cho thấy khí phách ngạo nghễ, không chịu cúi đầu thuần phục bọn quan tham lại
nhũng của con người văn song toàn.
“Đòi cơn gió quét mưa sa
Huyện thành đạp đổ năm toà cõi Nam
Phong trần mải một lưỡi gươm
Những loài giả áo túi cơm
Nghênh ngang một cõi biên thuỷ
Thiếu quả, thiểu vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần”
Không gian để Từ Hải tỏa sáng phải nơi đất trời rộng lớn: “Huyện thành”, “cõi
Nam”, “một phương hải tần”. đây, Nguyễn Du đã sử dụng một loạt những hình
ảnh thiên nhiên với sức công phá mãnh liệt như “gió quét”, “mưa sa”, “sơn hà”
cùng các động từ mạnh như “đạp đổ”, “rạch đôi”, “vội truyền”,... khiến chân dung Từ
Hải hiện lên đẹp rực rỡ như bức tượng đài sừng sững sánh ngang trời đất. Những
cụm từ “Đòi cơn”, “sá gì”, “Thiếu gì”, “ai dám” cho thấy khẩu khí ngang tàng, gai góc
người anh hùng trăm trận trăm thắng. Sống trong thời “Phong trần” loạn lạc nhưng
lưỡi gươm công của Từ Hải luôn giương cao, không chịu luồn cúi trước triều đình
ô trọc. Với Từ Hải, bọn quan lại trong triều chỉ hạng “giả áo túi cơm” thấp kém,
hèn hạ. Chỉ một từ láy “Nghênh ngang”, Nguyễn Du đã khắc họa nét cả thái độ
hành động cao ngạo, không sợ trời không sợ đất Từ Hải. Đoạn thơ cho thấy bản
lĩnh, tài năng thao lược của Từ Hải. Sự xuất hiện của người hùng này tựa như sấm
sét, làm đảo lộn giang sơn. Một hội công bằng, một cuộc sống ấm no luôn ước
của nhân dân từ bao đời nay. Nếu trong văn học dân gian chàng Thạch Sanh
diệt đại bàng cứu công chúa, Thánh Gióng cưỡi ngựa đánh giặc Ân thì đến với văn
học viết với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, niềm tin ấy lại được thể hiện người anh
hùng Từ Hài “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.
Bằng bút pháp đậm tính sử thi, ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng, xây dựng
hình tượng nhân vật vĩ, đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” đã khắc họa
thành công hình tượng nhân vật Từ Hải với lối sống cao đẹp, tinh thần trượng
nghĩa, sức mạnh quyền uy phi thường nhưng cũng hết sức gần gũi, mộc mạc.
Nhân vật đại diện cho khát vọng hạnh phúc, hòa bình, chính nghĩa của nhân dân
trong bất thời đại nào, góp phần làm nên sức sống bất diệt cho “Truyện Kiều”:
“Quê hương tôi múa xoè, hát đúm
hội xuân liên tiếp những đêm chèo
Nguyễn Trãi, “Bình Ngô đại cáo”
Nguyễn Du chỉ một “Truyện Kiều”"
(Nguyễn Bính)
Phân tích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” mẫu 2
Nguyễn Du đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam nhiều tác phẩm văn chương
bất hủ. Trong đó tác phẩm “Truyện Kiều” nói về người con gái tài sắc vẹn toàn
nhưng lại bị chà đạp dưới thế lực phong kiến xưa. Không chỉ vậy, Nguyễn Du còn
gửi gắm trong tác phẩm này một giấc anh hùng, giấc về tự do công bằng
hội. Điều đó thể hiện qua nhân vật Từ Hải trong đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi
rằng” với bút pháp lãng mạn, hào sáng nhất.
Mở đầu đoạn trích lời nói của Thúy Kiều:
Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh long
Tạ ân lạy trước Từ công
“Chút thân bồ liễu nào mong rày!”
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi
Đối mặt với Hải, Kiều không thể hiện giống một người bạn nữa như một nạn
nhân được ân nhân Từ Hải cứu vớt che chở đã ra tay tế độ. Nếu Từ Hải giấc
của Nguyễn Du thì ngay đến Kiều cũng không nghĩ cuộc đời mình sẽ gặp
được Từ Hải. Tự thấy mình không xứng với Từ Hải, Kiều ca ngợi Từ Hải như một
bậc từ bi giáng thế cứu rỗi tâm hồn đầy oan trái, rửa sạch oan khiên cho mình. Bằng
những từ ngữ mang tính ước lệ, Từ Hải hiện lên trong cái nhìn của Kiều thật phi
thường, mang tầm vóc trụ: “Trộm nhờ sấm sét ra tay”. Ơn nghĩa này với Kiều
cùng rộng lớn, để rồi phải khắc vào xương, ghim sâu vào dạ, đời đời kiếp kiếp
không thể nào quên:
Chạm xương Chéo dạ xiết chi
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây
Phẩm cách anh hùng bình dị, siêu phàm của Từ Hải không chỉ được bộc lộ qua lời
nói của Kiều còn được khắc họa nét qua chính lời nói của nhân vật. Với Kiều,
việc Từ Hải đã cứu rỗi mình từ kiếp ô nhục hồi sinh trở về bậc mệnh phụ phu nhân
một ơn nặng nghĩa đầy cả đời không trả hết. Nhưng với Từ Hải, đều đó việc
quá đỗi thường tình:
Từ rằng: “Quốc xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng tha!
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ thâm tạ với tri ân?
Từ Hải tự nhận mình “quốc sĩ”, coi Kiều “tri kỉ” nên việc giúp đỡ Kiều việc
nghĩa khí đương nhiên bậc hảo hán xưa nay vẫn xem trọng. Trong cuộc đời Từ
Hải không hai chữ “dung tha” cho bất cứ “bất bằng” nào hội. Chỉ với một câu
nói đĩnh đạc bậc anh hùng đã thể hiện tưởng cao đẹp như một lời thách đấu
với tội ác, với bất công của cuộc đời. Trong khi Kiều thì coi trọng ân nghĩa, từ Hải thì
xem đó “việc nhà” đó chính sự tương phản càng làm cho Từ Hải hiện lên lớn
lao, đại hơn. Đó phải chăng cũng nét oai hùng của kẻ sĩ? Phải chăng cũng
sự khâm phục, đề cao của Nguyễn Du về người anh hùng ngang tàn, lừng lẫy.
Từ Hải không chỉ biết mình còn rất biết người. Bậc anh hùng này người
tình nghĩa, thấu hiểu được nỗi đau ước muốn thầm kín của Kiều:
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tấn cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt ta cam lòng”
Ước mong riêng của Kiều đã được Từ Hải cảm nhận với cách tri ân, tri kỉ. Tuy
nàng không nói nhưng chàng tự cho mình cái bổn phận để thấu hiểu. Biết rằng Kiều
mong ước trở về cố hương, đoàn tụ với người thân, người anh hùng đó đã chủ
động đáp ứng nguyện vọng đó nhưng với cách khác thường chỉ mong thấy Kiều
được hạnh phúc thì “ta mới cam lòng”:
Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn hình nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa trúc chẻ mái tan
Bình uy từ đấy sấm ran trong ngoài.
...
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu quả, thiếu vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Với đội quân hùng hậu đi đến đâu hùng hổ như bão “trúc chẻ mái tan”, binh uy thì
“sấm ran trong ngoài”. Từ Hải đã gây dựng nên triều đình làm chủ “một góc trời”,
bày binh bố trận ràng “Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Từ Hải đánh đến đâu
thắng đến đấy như “gió quét mưa sa”, càn quét cả “năm thành cõi nam”. Đối với Từ
Hải, bọn gian thần triều đình chỉ “loài giá áo túi cơm” thôi. Từ Hải hiện lên
dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du oai phong lẫm liệt như vị thần linh huyền
thoại, như bậc anh hùng sử thi. Từ Hải không hẳn chỉ giúp Kiều đổ đời còn hi
sinh Kiều, đem đến hạnh phúc cho Kiều cũng như bao sinh linh khác. Với những
ngôn từ đầy quyền uy: binh uy, vương, sơn hà,... hay những động từ chỉ sự
mạnh mẽ, ngang tàn: trúc chè, gió quét mưa sa, đòi phen, ai dám,... Không gian
trụ trở thành khoảng không gian rộng lớn tung hoành y như khí chất hơn người của
Từ Hải.
Đoạn trích trên thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải thể hiện qua những câu từ
đọng, ước lệ với tầm vóc hoành tráng của bậc nghĩa oai hùng. Với màu sắc sử thi
hình tượng vĩ, Nguyễn Du đã thành công đưa nhân vật Từ Hải từ một hảo hán
trở thành bậc anh hùng đích thực. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải như một con đại bàng
mỗi khi cất cánh, che trở cứu rỗi những con người thấp cổ họng, cứu
rỗi nạn nhân của hội tăm tối mịt như cuộc đời Thúy Kiều.
Phân tích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” mẫu 3
Nguyễn Du, với tác phẩm “Truyện Kiều”, đã góp phần làm cho văn học Việt Nam
thêm phần phong phú đa dạng. Đoạn trích trên một phần nhỏ trong câu chuyện
đầy cảm xúc tình cảm của Kiều. một tấm gương sáng cho cuộc sống, mang
đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về tình yêu, số phận khát vọng của
con người.
Truyện Kiều xoay quanh cuộc sống của Thúy Kiều một người con gái thông minh,
tài năng xinh đẹp. Nhưng số phận đã đưa vào những trường đau khổ thử
thách khắc nghiệt. Qua những biến cố gian nan, Kiều trở thành biểu tượng của
sự kiên cường lòng dũng cảm.
Trong đoạn trích, chúng ta được chứng kiến cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa giữa Kiều
Từ Hải. Với cái nhìn sâu sắc tình cảm mãnh liệt, Kiều nhìn thấy Từ Hải như một
người anh hùng, người đã cứu rỗi khỏi cảnh đau khổ che chở khỏi những
gian nan. Từ Hải, với tấm lòng nhân hậu lòng dũng cảm, đã trở thành người bảo
vệ của Kiều, như một con đại bàng mỗi khi cất cánh, che trở cứu rỗi
những con người thấp cổ họng, cứu rỗi nạn nhân của hội tăm tối mịt như
cuộc đời Thúy Kiều.
Từ Hải không chỉ một người anh hùng trong mắt Kiều, còn biểu tượng của
sự công bằng tự do trong hội. Với tấm lòng cao thượng tình yêu thương
điều kiện, Từ Hải đã truyền cảm hứng khích lệ cho những người xung quanh.
Bằng cách giúp đỡ Kiều, anh đã khẳng định rằng một người anh hùng không chỉ
người sức mạnh vật chất còn người tấm lòng nhân ái sẵn sàng hy
sinh cho người khác.
Qua những lời nói hành động của Từ Hải, chúng ta cảm nhận được sự bình dị
siêu phàm của một người anh hùng. Anh ta không chỉ đơn thuần một người hùng
đại, còn người sống đạo đức trách nhiệm hội. Từ Hải không chấp
nhận sự bất công luôn đấu tranh cho sự công bằng trong hội. Ông đã thể hiện
sự cao đẹp của mình trong những lời nói đầy ý nghĩa: “Quốc xưa nay, chọn người
tri kỉ một ngày được chăng? Anh hùng tiếng đã gọi rằng: giữa đường dẫu thấy bất
bằng tha! Huống chi việc cũng việc nhà, lọ thâm tạ với tri ân?”.
Với sự tương phản giữa Kiều Từ Hải, Nguyễn Du đã tạo nên một câu chuyện đầy
cảm xúc ý nghĩa. Truyện Kiều không chỉ một tác phẩm văn học nổi tiếng
còn một tấm gương sáng cho con người, cho cuộc sống. khơi dậy trong chúng
ta những suy ngẫm về tình yêu, sự hy sinh ý nghĩa của cuộc sống.
Từ Hải không chỉ một anh hùng đại còn một người trái tim nhân ái
sự hiểu biết sâu sắc về con người. Anh không chỉ biết về bản thân mình còn
khả năng ấm áp chia sẻ tình yêu đối với những người xung quanh, như trường
hợp của Kiều:
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tấn cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt ta cam lòng”
Ước mong riêng của Kiều đã được Từ Hải cảm nhận đáp ứng với lòng biết ơn
tình cảm. Kiều không thể nói ra, nhưng Từ Hải đã tự mình nhận thức hiểu
mong muốn đó. Anh biết rằng Kiều khao khát được trở về quê hương, được ôm
trong lòng gia đình người thân. thế, anh đã tự nguyện đáp lại mong muốn ấy,
mặc theo một cách khác thường. Anh chỉ muốn thấy Kiều hạnh phúc, bởi vậy
“ta mới cam lòng”:
Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn hình nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa trúc chẻ mái tan
Bình uy từ đấy sấm ran trong ngoài.
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu quả, thiếu vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Với quân đội mạnh mẽ của mình, Từ Hải đã tỏ ra mạnh mẽ oai phong như một
cơn bão. Anh đã xây dựng một triều đình vững mạnh trở thành chủ nhân của
“một góc trời”. Anh đã sắp đặt quân đội tạo ra những chiến thuật ràng: “Gồm
hai mặt văn võ, chia đôi trời đất”. Từ Hải đã chiến thắng mọi nơi anh đi qua,
giống như “gió quét mưa sa”, quét sạch “năm thành cõi nam”. Đối với Từ Hải, các
quan lại triều đình chỉ “những người mặc áo ăn cơm” thôi. Từ Hải được
miêu tả bởi Nguyễn Du với những từ ngữ uy nghiêm như binh uy, vương, sơn
hà,… hay những động từ mạnh mẽ như trúc chẻ, gió quét mưa sa, đòi phen, ai
dám,… Không gian trụ trở thành một không gian rộng lớn, nơi Từ Hải tỏ ra mạnh
mẽ oai phong hơn người.
Đoạn trích trên thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải thông qua những câu từ tường
thuật sắc sảo, ước lệ đại của một anh hùng đích thực. Với sự tả sử thi
hình tượng kỳ vĩ, Nguyễn Du đã thành công khi đưa nhân vật Từ Hải từ một anh
hùng hảo hán trở thành một anh hùng sử thi. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải giống như
một con đại bàng, mỗi khi bay lên, che chở cứu rỗi những con người yếu đuối,
giải cứu những nạn nhân của hội tăm tối như cuộc đời của Thúy Kiều.
Phân tích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” mẫu 4
lẽ thế, Từ Hải một giấc của Nguyễn Du - giấc anh hùng, giấc tự do
công lý. Cho nên Từ Hải phải một con người siêu phàm. Con người ấy đến từ
một giấc lại như một huyền thoại. Hiện diện trong "Truyện Kiều" như một
nhân cách sử thi, Từ Hài đã làm nên những trang sôi động nhất, hào sáng nhất,
trong cái thế giới buồn đau dằng dặc của "Đoạn trường tân thanh". Khắc họa một
nhân vật như thế, không dùng bút pháp lãng mạn hoá, tưởng hoá, thì khó nổi
bật. Để đậm tầm vác phi thường của hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du đã khác
chạm bằng nhiều cách, từ nhiều phía. Ông đã giới thiệu lai lịch, đã tả ngoại hình,
đã phô bày những tính... đây trong đoạn trích "Anh hùng tiếng đã gọi rằng..."
này, phẩm chất Từ Hải được hiện lên chủ yếu bằng ngôn ngữ hùng tráng kỳ tích
anh hùng. Tuyên ngôn hành động bao giờ cũng một Phát ngôn được nấu
nướng, kết tình từ hành động, còn hành động sự thể hiện, thước đo của phát
ngôn. Nhờ đó Từ Hải thực sự một vẻ đẹp tưởng hoàn hảo
Đoạn thơ tự hình thành hai phần: cuộc trò chuyện Thuý Kiều - Từ Hải cuộc
khởi binh đầy kỳ tích của Từ Hải phần một, nhân cách anh hùng của Từ Hải trong
lời nói, phần hai - phẩm cách anh hùng trong hành vi xuất chúng Từ không gian màn
trướng khuê phòng ra không gian giang sơn trời đất, Từ Hải đã bước thẳng đền
chính mình bằng những bước siêu phàm.
Mở đầu cuộc đối thoại lời Thuý Kiều. Trước Từ, Kiều không hiện ra như một
người bạn trăm năm, như một nạn nhân được cứu vớt che chở trước một ân
nhân đã ra tay tế độ. Kiều càng tự thấy nhỏ bao nhiêu, Từ càng suy nghĩ, kỳ
bấy nhiêu. Đôi với Nguyễn Du, Từ Hải một giấc mơ, thì đối với Kiều, ngay đến
cũng không dám nghĩ rằng mình Từ Hải. Tự nhận mình hèn mọn, Kiều tôn vinh
Từ Hải như một bậc cứu nhân độ thế, rửa sạch oan khiên. Bằng những lời ước lệ,
thậm xưng, Từ Hải trong tâm trí Kiều đã hiện lên trong tầm vóc trụ, phi phàm:
"Trộm nhờ sấm sét ra tay", "Dế đem gan óc đền nghì trời mây". thể nói đó
cách gián tiếp để khắc họa Từ Hài, nghĩa lối mượn lời nhân vật này để tạo dựng
nhân vật khác.
Nhưng lẽ, chính trong lời Từ Hải, phẩm cách anh hùng nhân vật này được bộc
lộ nhiều hơn: vừa bình dị vừa siêu phàm. Cái việc Từ đã làm cho Kiều một cuộc
đổi đời, hồi sinh cùng lớn lao. Từ đã đưa Kiếu từ tận cùng ô nhục ("Thanh lâu hai
lượt thanh y hai lần") lên tột bậc danh giá! Từ gái lầu xanh lên bậc mệnh phụ phu
nhân, tạo điều kiện cho nàng được ân đền oán trả. Những việc phi phàm ấy lại được
Từ giải bằng những động rất thường tình, rất tự nhiên đối với minh:
Từ rằng: "Quốc xưa nay,
Chọn người tri kỳ một ngày được chăng
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng tha!
Huống chi việc cũng việc nhà
Lo thầm tạ mới tri ân!
Kiều cảm nhận sự việc bằng tâm thế một nạn nhân, ngưỡng vọng ơn trời bể. Còn
Từ Hải lại xem một việc vẫn thường làm đối với mình. Cả hai cách nói cũng như
hai cách nhìn nhận đánh giá sự việc đều đạt một hiệu quả làm cho Từ Hải hiện ra
càng lớn lao hơn. Nhưng trong lời Từ, xét ra không phải chỉ sự khiêm nhường:
người này thực ra ý thức khá sâu sắc về giá trị uy của mình. Từ coi minh
"quốc sĩ", nghĩa kẻ tầm cỡ quốc gia, lại gọi mình "anh hùng". Vậy văn
song toàn! Chẳng phải sự hào hoa như một nghệ hài hoà với sự ngang tàng hào
hùng của bậc trượng phu vốn đã vẻ đẹp của Từ từng được Nguyễn Du trực tiếp
khắc hoạ: "Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo" đấy ư. Từ đâu chỉ kẻ biết
người, Từ cũng một kẻ rất biết mình!.
tưởng anh hùng của Từ Hải đối với đời thể hiện trong hành vi nghĩa hiệp đối với
một con người cụ thể ấy Thuý Kiều. Cứu đời, trước hết cứu Thuý Kiều. Thực
hiện công cho đời, trước hết cho nàng Kiều. Sở nguyện, khao khát chân chính
của những nạn nhân trở thành tưởng mục đích của người anh hùng. Người anh
hùng đứng lên sống cho họ, sống họ. Ước ao thầm kín của Kiều đã được Từ
cảm nhận như một tri kỷ, tri âm. Nàng không nói, nhưng chàng tự coi mình bổn
phận đáp ứng. Kỳ tích anh hùng đã nảy sinh từ tấm lòng tri âm.
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt ta cam lòng.
Kiều một mong ước thầm kín da diết, đó được trở về cố hương, đoàn tụ
với gia đình, gặp lại song thân. Để đáp ứng sở nguyện ấy, người anh hùng đã thực
hiện theo cung cách thật khác thường: không phải tìm đường hộ tống nàng hổi
hương, khởi binh, dựng nghiệp, lập ra cả một triều đình, đánh chiếm hàng loạt
huyện thành, vạch đôi sơn hà, để dẹp đường cho hồng nhan tri kỷ gặp lại song
thân... Thế đấy, Từ Hải không chỉ đổi đời cho Kiều còn Kiều, đem hạnh phúc
đến cho biết bao sinh linh khác. Để đáp ứng một nguyện vọng mọn, Từ sẵn sàng
làm những chuyện lớn lao. Hạnh phúc của Từ Hải đem được hạnh phúc đến cho
Thuý Kiều. Thấy Kiều hạnh phúc thì Từ mới cam lòng. "Sao cho thấy mặt ta cam
lòng” Qua lời Từ Hài, chúng ta đã thể thấy nhân cách anh hùng của Từ một sự
hài hòa tuyệt vời giữa khiêm nhường xuất chúng, giữa cốt cách hào hoa quốc
phẩm cách anh hùng, giữa lòng trung hậu nhân từ sự ngang tàng đấy uy vũ...
Phần sau, Từ Hải hiện ra qua lời trần thuật trực tiếp của Nguyễn Du về hành động
của Từ Hài. Không còn cuộc đối thoại trong màn trướng cuộc dấy binh trên
chiến trường, giữa dọc ngang trời đất. Nhân cách anh hùng được khắc hoạ trong
không gian sử thi
Trong cuộc đối thoại nói trên, Từ đã tôn vinh Thuý Kiều bằng cách phá vỡ, xoá sạch
khoảng cách giữa mình Kiều: tương quan sang - hèn, ân nhân - nạn nhân đã
được Từ Hải nâng lên thành quan hệ tri kỷ - tri âm. Kiều đã được đặt ngang tầm,
bình đẳng với Từ. Họ trở thành một cặp "Trai anh hùng gái thuyền quyên", "Người
quốc sắc kẻ thiên tài". Ấy một phía của nhân cách anh hùng
đây ta thấy một phía khác. Từ quyết tạo ra một tương quan bình đẳng khác: bình
đẳng với quyển uy tột đỉnh của nhà nước phong kiến. Từ cúi mình cứu vớt nạn
nhân, nhưng cũng sẵn sàng tranh tài đọ sức, tranh hùng tranh với triều đình!
Để khác hoạ tầm cỡ đó của Từ Hài, Nguyễn Du đã dùng đến một hệ thống ngôn từ
cũng đầy quyền uy: binh tướng, binh uy, bả vương, sơn hà, tranh cường, hùng cứ...
viết về hành vi của Từ Hài dứt khoát phải dùng những động từ chỉ động Từ Hải
mạnh mẽ: Vội truyền, trúc chẻ, ngôi tản, gió quét mưa sa, huyện thành đạp đổ...,
những giọng điệu đấy ngang tàng thách thức mang khẩu khí anh hùng: đòi phen,.
Không gian trụ, không gian sử thi trở thành khoảng không gian tung hoành phù
hợp với khí phách Từ Hài. Những đơn vị địa lý, địa vực cứ được nới rộng đến cực
đại để cho tính cách anh hùng của Từ được vùng vẫy, lẽ phải tạo một không
gian như thế thì mới thể hiện được tầm vóc của Từ: Triều đình riêng một góc trời,
huyện thành đạp đổ, năm tòa côi nam, gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà, nghênh
ngang một cõi biên thuỳ, năm năm hùng cứ một phương hải tần... Những thi liệu ấy
được phối hợp với những tiết tấu mạnh mẽ, âm điệu dồn dập, sôi động, biểu hiện
binh lực hùng hậu. khi thế bách chiến bách thắng của Từ Hài. sâu xa hơn.
biểu hiện được chi khí dám đương đầu, dám sông mái, đua tranh với thế lực thượng
thời phong kiến. Nói theo giọng đời thường hiện Đại cái chi khi "không ngán gi!"
của Từ Hải.
Thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải, Nguyễn Du đã luôn đúc ngôn ngữ của
mình thành những câu thơ tầm khái quát hào hùng lãng mạn: cánh hồng bay
bông tuyết với Giang hồ quen thói vẫy vùng. Dày lâu bể Sở sông Ngô tung hoành.
Đội trời đạp Đất đời, Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Năm năm trời biền ngang
tàng, Dọc ngang trời rộng vẫy vùng biển khơi, Làm cho động địa kinh thiên đùng
đùng.v.v... Những khái quát mang tính ước lệ, cách điệu ấy đã làm cho cái lai lịch
anh hùng của Từ Hải một tầm vóc hoành tráng. Còn riêng đoạn thơ này, hướng
tả của Nguyễn Du phần khác. Nhà thơ gắn với những biến cố thực tại, những
hành động phần cụ thể hơn của Từ Hải nhằm giao tranh, đạp đổ, phủ định cái
trật tự phong kiến của triều đình, tự tay lập nên một trật tự của riêng mình. Bản lĩnh
của Từ Hải hiện ra đây bằng hàng loạt hành động đảo lộn thời thế, cải tạo thực
tại: Huyện thành đạp đổ, rạch đôi sơn hà, năm năm hùng cứ v.v... đây cũng
không thiếu những câu thơ tự đã những nét chân dung khái quát về tầm vóc,
cốt cách anh hùng của Từ Hải:
Nghênh ngang một cõi biên thuỳ
Trước cờ, ai dám tranh cường
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Nhưng đặc sắc hơn cả, sức kết tình hơn cả vần hình ảnh này
Phong trần mài một lưỡi gươm
Những phường giá áo túi cơm gì.
Ấy một. hình tượng thuộc về tầm vóc sử thi. đó một sự tương phản gay gắt
tráng lệ. Sự tương phản đối chọi giữa một thể cả một tập đoàn, sự đối lập
giữa cái cao cả cái thấp hèn, cái đẹp sự phàm tục. Hình tượng lưỡi gươm
công lý. mũi kiếm tự do biểu hiện ý chí khát vọng cao quý của Từ Hài. Ta đã
được thấy cảnh "mài gươm dưới trăng” của Đặng Dung, giờ lại được chiêm ngưỡng
"phong trần mài một lưỡi gươm" của Từ Hải. Vậy Hải còn một sự hài hoà
khác: sự hài hoà giữa cốt cách hào hoa của một bậc quốc vẻ phong trần của
một tráng Hai chữ "phong trần" làm hiện lên gương mặt dài dấu từng trải, cuộc
đời phong trần cát bụi. ngày tháng phong trần nấu nung ý chí, lưỡi gươm phong trần
mục đích thanh cao... "Phong trần mài một lưỡi gươm" Từ Hải sừng sững giữa
không gian thời gian một cốt cách kiêu hùng.
Vâng, phải con người ấy mới thể thực hiện được khát vọng tự do, công của
Nguyễn Du. Từ Hải như một con đại bàng mỗi khi vỗ cánh lại làm xáo động cả
đất trời. Chi đôi cánh áy mới che chở được cho những nạn nhân như Thuý Kiều.
Chỉ đôi cánh ấy mới mang chồ được khát vọng nghìn đời của những con người
thấp cổ họng sống dưới cái gầm trời tăm tối của thế giới "Truyện Kiều".
| 1/13

Preview text:

Dàn ý Phân tích Anh hùng tiếng đã gọi rằng mẫu 1
I. Mở bài: Dẫn dắt và giới thiệu về đoạn trích. II. Thân bài: 1. Khái quát chung: a. Tác giả
- Nguyễn Du (1765-1820) có tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở Tiên
Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
- Ông sinh ra trong gia đình đại quý tộc vừa có truyền thống khoa bảng vừa có
truyền thống văn hóa, văn học.
- Thời đại Nguyễn Du sống là thời đại có nhiều biến cố lịch sử như nhà Lê -Trịnh sụp
đổ, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tiếp mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn, triều Tây Sơn sụp đổ và Nguyễn Ánh lập ra triều đại nhà Nguyễn,...
- Nguyễn Du sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm. Các tác phẩm của ông vừa giàu giá
trị nghệ thuật lại vừa phản ánh được hiện thực xã hội và có tinh thần nhân đạo sâu sắc. b. Tác phẩm
- Đoạn trích nằm trong “Truyện Kiều”, từ câu 2419 đến 2450. - Bố cục:
+ Phần 1 (Từ đầu đến “cam lòng”): Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều - Từ Hải và
cuộc khởi binh của Từ Hải.
- Phần 2 (Còn lại): Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện qua hành động. 2. Phân tích:
a. Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều - Từ Hải và cuộc khởi binh của Từ Hải
- Thúy Kiều tạ ân với Từ Hải, tôn vinh sức mạnh và công ơn của Từ Hải:
+ Kiều tự nhận mình là “thân bồ liễu” mỏng manh yếu ớt.
+ Ân nghĩa của Từ Hải đối với Thúy Kiều là điều không thể nào quên: “Chạm xương
chép dạ xiết chỉ/Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
- Từ Hải hiện lên với vẻ đẹp hoàn hảo, vừa bình dị lại vừa phi thường:
+ Từ nhận mình là “Quốc sĩ”, ý thức được tài năng và sức mạnh của bản thân.
+ Từ Hải coi việc giúp đỡ Thúy Kiều là điều tất yếu mà bậc quân tử nên làm:
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng/Giữa dường dẫu thấy bất bằng mà tha”.
+ Từ Hải coi Thúy Kiều là bậc tri âm, tri kỉ: “Huống chỉ việc cũng việc nhà/Lọ là thâm tạ với là tri ân”.
b. Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện hành động
- Từ Hải là vị thủ lĩnh đầy quyền uy: “Vội truyền sửa tiệc quân trung/Muôn binh nghìn
tướng hội đồng tẩy oan”.
- Từ Hải có khát vọng tự do, sức mạnh lay chuyển đất trời, không sợ quyền uy của
triều đình: “Thừa cơ trúc chẻ mái tan/Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài/Triều đình
riêng một góc trời/Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”.
- Từ Hải còn có sự hòa quyện giữa vẻ hào hoa, nho nhã của bậc “Quốc sĩ” và sự
từng trải, phong trần của một tráng sĩ: “Phong trần mải một lưỡi gươm/Những loài
giả áo túi cơm sá gì!”. 3. Tổng kết:
- Nội dung: Đoạn trích đã thể hiện vẻ đẹp hoàn hảo của người anh hùng Từ Hải. Từ
Hải chính là đại diện cho ước mơ về công lí, sự bình đẳng và hạnh phúc ấm no của người dân. - Nghệ thuật:
+ Thể thơ lục bát truyền thống.
+ Bút pháp đậm tính sử thi.
+ Ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng.
+ Xây dựng hình tượng nhân vật kì vĩ, đặc sắc. III. Kết bài
Dàn ý Phân tích Anh hùng tiếng đã gọi rằng mẫu 2 I.Mở bài
- Dẫn dắt và giới thiệu về đoạn trích.
- Giới thiệu khái quát về Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều II. Thân bài 1. Khái quát chung: a. Tác giả
- Nguyễn Du (1765-1820) có tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở Tiên
Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
- Ông sinh ra trong gia đình đại quý tộc vừa có truyền thống khoa bảng vừa có
truyền thống văn hóa, văn học.
- Thời đại Nguyễn Du sống là thời đại có nhiều biến cố lịch sử như nhà Lê -Trịnh sụp
đổ, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tiếp mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn, triều Tây Sơn sụp đổ và Nguyễn Ánh lập ra triều đại nhà Nguyễn,...
- Nguyễn Du sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm. Các tác phẩm của ông vừa giàu giá
trị nghệ thuật lại vừa phản ánh được hiện thực xã hội và có tinh thần nhân đạo sâu sắc. b. Tác phẩm
- Đoạn trích nằm trong “Truyện Kiều”, từ câu 2419 đến 2450. - Bố cục:
+ Phần 1 (Từ đầu đến “cam lòng”): Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều - Từ Hải và
cuộc khởi binh của Từ Hải.
- Phần 2 (Còn lại): Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện qua hành động. 2. Phân tích:
a. Cuộc trò chuyện giữa Thuý Kiều - Từ Hải và cuộc khởi binh của Từ Hải
- Thúy Kiều tạ ân với Từ Hải, tôn vinh sức mạnh và công ơn của Từ Hải:
+ Kiều tự nhận mình là “thân bồ liễu” mỏng manh yếu ớt.
+ Ân nghĩa của Từ Hải đối với Thúy Kiều là điều không thể nào quên: “Chạm xương
chép dạ xiết chỉ/Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
- Từ Hải hiện lên với vẻ đẹp hoàn hảo, vừa bình dị lại vừa phi thường:
+ Từ nhận mình là “Quốc sĩ”, ý thức được tài năng và sức mạnh của bản thân.
+ Từ Hải coi việc giúp đỡ Thúy Kiều là điều tất yếu mà bậc quân tử nên làm:
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng/Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”.
+ Từ Hải coi Thúy Kiều là bậc tri âm, tri kỉ: “Huống chi việc cũng việc nhà/Lọ là thâm tạ với là tri ân”.
b. Phẩm cách anh hùng của Từ Hải được thể hiện hành động
- Từ Hải là vị thủ lĩnh đầy quyền uy: “Vội truyền sửa tiệc quân trung/Muôn binh nghìn
tướng hội đồng tẩy oan”.
- Từ Hải có khát vọng tự do, sức mạnh lay chuyển đất trời, không sợ quyền uy của
triều đình: “Thừa cơ trúc chẻ mái tan/Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài/Triều đình
riêng một góc trời/Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”.
- Từ Hải còn có sự hòa quyện giữa vẻ hào hoa, nho nhã của bậc “Quốc sĩ” và sự
từng trải, phong trần của một tráng sĩ: “Phong trần mài một lưỡi gươm/Những loài
giả áo túi cơm sá gì!”. 3. Tổng kết:
- Nội dung: Đoạn trích đã thể hiện vẻ đẹp hoàn hảo của người anh hùng Từ Hải. Từ
Hải chính là đại diện cho ước mơ về công lí, sự bình đẳng và hạnh phúc ấm no của người dân. - Nghệ thuật:
+ Thể thơ lục bát truyền thống.
+ Bút pháp đậm tính sử thi.
+ Ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng.
+ Xây dựng hình tượng nhân vật kì vĩ, đặc sắc. III. Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề
Phân tích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” mẫu 1
“Một nước không thể không có quốc hoa, “Truyện Kiều” là quốc hoa của ta; một
nước không thể không có quốc túy, “Truyện Kiều” là quốc túy của ta; một nước
không thể không có quốc hồn, “Truyện Kiều” là quốc hồn của ta” - đó là lời nhận xét
của nhà văn hóa Phạm Quỳnh về giá trị của “Truyện Kiều”. Để trở thành “quốc hoa”,
“quốc túy” và “quốc hồn” thì 3254 câu lục bát của Nguyễn Du phải thực sự trở thành
tiếng nói đồng điệu với tâm hồn phong phú của người dân đất Việt. Đọc đoạn trích
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng”, ta có thể thấy khát khao hòa bình, hạnh phúc, công
bằng của nhân dân được Nguyễn Du gửi gắm qua hình ảnh Từ Hải.
Đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” kéo dài từ câu 2419 đến câu 2450 thuộc
phần “Gia biến và lưu lạc” của “Truyện Kiều”, ngay sau đoạn Từ Hải giúp Kiều báo
ân báo oán. Bằng tài năng văn học cùng tấm lòng nhân đạo cao cả của mình,
Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải oai nghiêm, phi thường nhưng cũng hết
sức bình dị, gần gũi để thể hiện ước mơ của nhân dân về hạnh phúc và công lí trong xã hội phong kiến.
Mở đầu đoạn trích là cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải. Khi gặp Từ Hải, Thúy
Kiều đã trải qua khoảng thời gian lưu lạc đầy đau thương. Tiếng khóc “đoạn trường”
do bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần của nàng tưởng như không bao giờ chấm dứt.
Sự xuất hiện của Từ Hải là nguồn sáng cứu vớt Kiều thoát khỏi tăm tối, cho Kiều có
cơ hội ngồi trên công đường báo ân báo oán. Chính vì thế, những lời Kiều bày tỏ với
Từ Hải đều rất chân tình, thể hiện sự kính trọng và hàm ơn:
“Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng
Tạ ân lạy trước Từ công:
“Chút thân bồ liễu nào mong có này!
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!”
Thúy Kiều cúi đầu lạy tạ Từ Hải - ân công của nàng khiến không khí cuộc đối thoại
trở nên trang trọng. Đối với Kiều, Từ Hải không chỉ là người bạn tri âm mà còn là vị
ân nhân cứu thế. Nàng tự nhận mình là “thân bồ liễu” nhỏ nhoi, hèn mọn, nào dám
mơ tới sẽ có ngày này. Từ Hải không những cưu mang, che chở cho nàng mà còn
thấu hiểu nguyện vọng thầm kín của nàng. Việc đưa một người phụ nữ lên vị trí
công đường là điều xưa nay chưa từng có tiền lệ nhưng bằng quyền uy, sức mạnh
của mình mà Từ Hải đã giúp Kiều hiện thực hóa niềm mong ước, giãi bày nỗi thống
khổ suốt bao nhiêu năm. Thúy Kiều ý thức được điều ấy nên nàng hết sức kính cẩn
trước Từ Hải. Từ Hải được ví với “sấm sét” uy vũ vô cùng.
“Chạm xương chép dạ xiết chỉ,
Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
Đứng trước Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định sẽ ghi dòng tạc dạ ơn nghĩa này như
khắc vào xương, như ghi vào lòng. Khi Kiều báo ân báo oán, nàng đã coi Thúc Sinh
cũng là một người có ơn với mình nên đã tặng cho Thúc Sinh “Gấm trăm cuốn, bạc
nghìn cân”. Gấm, bạc đều là những vật vô cùng quý giá lại đi với những từ chỉ số
lượng “trăm”, “nghìn” đã thể hiện tấm lòng trân trọng của Kiều dành cho Thúc Sinh.
Tuy nhiên, tình nghĩa giữa Thúy Kiều với Thúc Sinh vẫn được đong đếm cụ thể
bằng những vật chất hữu hình. Ở đây, với Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định ơn của
Từ Hải lớn như trời mây, dẫu Kiều có “đem gan óc” cũng không thể trả đủ nên vốn dĩ
không gì có thể đo lường được. Sự khiêm nhường của Thúy Kiều đã nâng cao vị
thế của Từ Hải. Nguyễn Du khắc họa Từ Hải một cách gián tiếp bằng cách mượn lời
Kiều, nhấn mạnh vào những công đức của Từ Hải khiến nhân vật càng trở nên ấn tượng.
Đáp lại lời của Kiều, Từ Hải đã tự lên tiếng bộc lộ tấm lòng của mình. Từ những suy
nghĩ, lời nói ấy, cốt cách anh hùng đáng quý của Từ Hải càng được thể hiện rõ ràng:
“Từ rằng: "Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa dường dẫu thấy bất bằng mà tha!”
Từ Hải đã tự coi minh là bậc “Quốc sĩ" trong thiên hạ, thể hiện sự ý thức rõ ràng về
tài năng và phẩm giá của bản thân. Nếu Kiều coi bản thân là kẻ hàm ơn thì với Từ
Hải, việc giúp đỡ Kiều xuất phát từ tấm lòng tri âm tri kỉ. Người anh hùng không hề
cao ngạo mà hết mực khiêm tốn và quý trọng Kiều. Những bậc hảo hán xưa nay
trong thiên hạ đều mong muốn tìm được người tâm giao nhưng đó đâu phải chuyện
dễ dàng! Thế nên, ngay từ buổi gặp Kiều, Từ Hải đã thể hiện tấm lòng chân thành, ngay thẳng của mình:
“Từ rằng: tâm phúc tương cờ,
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?”
Không chỉ vậy, ta còn thấy được sự hòa quyện giữa vẻ đẹp thanh cao với sự phong
trần ở nhân vật này qua hai tiếng “Anh hùng”. Nếu “Truyện Lục Vân Tiên” có chàng
Vân Tiên “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi” thì “Truyện Kiều” cũng có một Từ Hải phi phàm
“Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!”. Đây chính là quan niệm sống và lối ứng
xử cao đẹp, thể hiện rõ “Chí làm trai” của đấng nam nhi thời phong kiến. Từ Hải
chính là người quân tử sẵn sàng giúp đỡ kẻ yếu thế, lấy hạnh phúc của người dân
là động lực để tranh đấu. Từ Hải quả thực là người anh hùng mà nhân dân hằng ao ước!
Sau khi đề cập đến trách nhiệm và chí khí của người anh hùng, Từ Hải nhắc đến
tình cảm riêng đối với Kiều:
“Huống chỉ việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ mới là tri ân?
Xót nàng còn chút song thân
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa. Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.”
Cách nói “Huống chỉ” kết hợp với hai chữ “việc nhà” cho thấy đối với Từ Hải, việc
giúp Kiều báo ân báo oán chỉ là một việc hết sức thường tình. Từ Hải coi đó là “việc
nhà”, đồng nhất lý tưởng anh hùng với việc giúp đỡ Kiều. Thúy Kiều là hiện thân cho
những con người hồng nhan mà bạc mệnh, đại diện cho những số phận yếu thế, bị
đày đọa bởi xã hội đồng tiền nên tư tưởng hành hiệp trượng nghĩa để cứu đời trong
lòng Từ Hải được thể hiện cụ thể với nàng. Có thể thấy, từ mục đích đến cách hành
động của Từ Hải đều xuất phát từ tấm lòng nhân nghĩa và giàu tình thương. Là một
quan võ nhưng Từ Hải không mang vẻ thô kệch, sỗ sàng mà trái lại, rất mực nho
nhã và tinh tế. Từ Hải đã thấu hiểu cho hoàn cảnh ngang trái của Kiều. “kẻ Việt
người Tần” có ý nghĩa chỉ việc Kiều lưu lạc nhiều năm, phải xa gia đình, không hay
biết chút tin tức gì về cha mẹ. Chứng kiến tình cảnh ấy, Từ Hải đã nảy sinh sự xót
thương, nguyện dốc sức “Sao cho muôn dặm một nhà”. Người anh hùng “Chọc trời
khuấy nước mặc dầu” ấy không phải là một con người ngồi trên vị thế cao cao tại
thượng xa cách với nhân dân. Từ Hải quan tâm đến từng số phận cá nhân, mong
muốn cho “muôn dặm” được an vui thì mới yên lòng.
Như vậy, ở phần đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải qua lời
nói của Kiều và để nhân vật tự khẳng định mình qua lời nói, suy nghĩ. Từ đó, nhà
thơ làm nổi bật lên ở nhân vật vẻ đẹp vừa mộc mạc, gần gũi lại vừa phi thường. Khi
miêu tả Từ Hải, Nguyễn Du đã dành cho nhân vật sự kính nể, ngợi ca. Từ Hải hội tụ
đầy đủ phẩm chất của một người anh hùng chính nghĩa, đại diện cho nhân dân, đối
lập với thế lực phong kiến bạo tàn.
Sang phần hai, không gian của đoạn trích được mở rộng hơn. Hình ảnh Từ Hải hiện
lên oai hùng, đầy uy dũng trên phông nền chiến trường đậm chất sử thi hoành tráng:
“Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan,
Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài,
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.”
Những cụm từ mang tính chất phóng đại như “Muôn binh nghìn tướng”, “trúc chẻ
mái tan” đã khắc họa rõ sức mạnh vô song của Từ Hải. Dưới trướng của người anh
hùng là đội quân oai vệ với hàng ngàn binh lính. Khí thế của họ khiến “trúc chẻ mái
tan”, sấm rền vang trời đất. Cái oai phong, lẫm liệt, ngang tàng, khí phách của Từ
Hải đối lập với sức mạnh chuyên quyền áp bức con người của triều đình phong kiến
nên người anh hùng đã lập ra “Triều đình riêng một góc trời”. Cách nói “rạch đôi sơn
hà” cho thấy khí phách ngạo nghễ, không chịu cúi đầu thuần phục bọn quan tham lại
nhũng của con người văn võ song toàn.
“Đòi cơn gió quét mưa sa
Huyện thành đạp đổ năm toà cõi Nam
Phong trần mải một lưỡi gươm
Những loài giả áo túi cơm sá gì
Nghênh ngang một cõi biên thuỷ
Thiếu gì cô quả, thiểu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần”
Không gian để Từ Hải tỏa sáng phải là nơi đất trời rộng lớn: “Huyện thành”, “cõi
Nam”, “một phương hải tần”. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng một loạt những hình
ảnh thiên nhiên kì vĩ với sức công phá mãnh liệt như “gió quét”, “mưa sa”, “sơn hà”
cùng các động từ mạnh như “đạp đổ”, “rạch đôi”, “vội truyền”,... khiến chân dung Từ
Hải hiện lên đẹp rực rỡ như bức tượng đài sừng sững sánh ngang trời đất. Những
cụm từ “Đòi cơn”, “sá gì”, “Thiếu gì”, “ai dám” cho thấy khẩu khí ngang tàng, gai góc
ở người anh hùng trăm trận trăm thắng. Sống trong thời “Phong trần” loạn lạc nhưng
lưỡi gươm công lí của Từ Hải luôn giương cao, không chịu luồn cúi trước triều đình
ô trọc. Với Từ Hải, bọn quan lại trong triều chỉ là hạng “giả áo túi cơm” thấp kém,
hèn hạ. Chỉ một từ láy “Nghênh ngang”, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét cả thái độ và
hành động cao ngạo, không sợ trời không sợ đất ở Từ Hải. Đoạn thơ cho thấy bản
lĩnh, tài năng thao lược của Từ Hải. Sự xuất hiện của người hùng này tựa như sấm
sét, làm đảo lộn giang sơn. Một xã hội công bằng, một cuộc sống ấm no luôn là ước
mơ của nhân dân từ bao đời nay. Nếu trong văn học dân gian có chàng Thạch Sanh
diệt đại bàng cứu công chúa, Thánh Gióng cưỡi ngựa đánh giặc Ân thì đến với văn
học viết với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, niềm tin ấy lại được thể hiện ở người anh
hùng Từ Hài “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.
Bằng bút pháp đậm tính sử thi, ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng, xây dựng
hình tượng nhân vật kì vĩ, đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” đã khắc họa
thành công hình tượng nhân vật Từ Hải với lối sống cao đẹp, tinh thần trượng
nghĩa, có sức mạnh và quyền uy phi thường nhưng cũng hết sức gần gũi, mộc mạc.
Nhân vật là đại diện cho khát vọng hạnh phúc, hòa bình, chính nghĩa của nhân dân
trong bất kì thời đại nào, góp phần làm nên sức sống bất diệt cho “Truyện Kiều”:
“Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm
Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo
Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”
Có Nguyễn Du và chỉ một “Truyện Kiều”" (Nguyễn Bính)
Phân tích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” mẫu 2
Nguyễn Du đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam nhiều tác phẩm văn chương
bất hủ. Trong đó có tác phẩm “Truyện Kiều” nói về người con gái tài sắc vẹn toàn
nhưng lại bị chà đạp dưới thế lực phong kiến xưa. Không chỉ vậy, Nguyễn Du còn
gửi gắm trong tác phẩm này một giấc mơ anh hùng, giấc mơ về tự do công bằng xã
hội. Điều đó thể hiện qua nhân vật Từ Hải trong đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi
rằng” với bút pháp lãng mạn, hào sáng nhất.
Mở đầu đoạn trích là lời nói của Thúy Kiều:
Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh long
Tạ ân lạy trước Từ công
“Chút thân bồ liễu nào mong có rày!”
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi
Đối mặt với Tù Hải, Kiều không thể hiện giống một người bạn nữa mà như một nạn
nhân được ân nhân Từ Hải cứu vớt và che chở đã ra tay tế độ. Nếu Từ Hải là giấc
mơ của Nguyễn Du thì ngay đến mơ Kiều cũng không nghĩ cuộc đời mình sẽ gặp
được Từ Hải. Tự thấy mình không xứng với Từ Hải, Kiều ca ngợi Từ Hải như một
bậc từ bi giáng thế cứu rỗi tâm hồn đầy oan trái, rửa sạch oan khiên cho mình. Bằng
những từ ngữ mang tính ước lệ, Từ Hải hiện lên trong cái nhìn của Kiều thật phi
thường, mang tầm vóc vũ trụ: “Trộm nhờ sấm sét ra tay”. Ơn nghĩa này với Kiều vô
cùng rộng lớn, để rồi phải khắc vào xương, ghim sâu vào dạ, đời đời kiếp kiếp không thể nào quên:
Chạm xương Chéo dạ xiết chi
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây
Phẩm cách anh hùng bình dị, siêu phàm của Từ Hải không chỉ được bộc lộ qua lời
nói của Kiều mà còn được khắc họa rõ nét qua chính lời nói của nhân vật. Với Kiều,
việc Từ Hải đã cứu rỗi mình từ kiếp ô nhục hồi sinh trở về bậc mệnh phụ phu nhân
là một ơn nặng nghĩa đầy cả đời không trả hết. Nhưng với Từ Hải, đều đó là việc quá đỗi thường tình:
Từ rằng: “Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ với là tri ân?
Từ Hải tự nhận mình là “quốc sĩ”, coi Kiều là “tri kỉ” nên việc giúp đỡ Kiều là việc
nghĩa khí đương nhiên mà bậc hảo hán xưa nay vẫn xem trọng. Trong cuộc đời Từ
Hải không có hai chữ “dung tha” cho bất cứ “bất bằng” nào ở xã hội. Chỉ với một câu
nói đĩnh đạc là bậc anh hùng đã thể hiện lý tưởng cao đẹp như một lời thách đấu
với tội ác, với bất công của cuộc đời. Trong khi Kiều thì coi trọng ân nghĩa, từ Hải thì
xem đó là “việc nhà” đó chính là sự tương phản càng làm cho Từ Hải hiện lên lớn
lao, vĩ đại hơn. Đó phải chăng cũng là nét oai hùng của kẻ sĩ? Phải chăng cũng là
sự khâm phục, đề cao của Nguyễn Du về người anh hùng ngang tàn, lừng lẫy.
Từ Hải không chỉ biết mình mà còn rất biết người. Bậc anh hùng này là người có
tình có nghĩa, thấu hiểu được nỗi đau và ước muốn thầm kín của Kiều:
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tấn cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng”
Ước mong riêng của Kiều đã được Từ Hải cảm nhận với tư cách là tri ân, tri kỉ. Tuy
nàng không nói nhưng chàng tự cho mình cái bổn phận để thấu hiểu. Biết rằng Kiều
có mong ước trở về cố hương, đoàn tụ với người thân, người anh hùng đó đã chủ
động đáp ứng nguyện vọng đó nhưng với cách khác thường chỉ mong thấy Kiều
được hạnh phúc thì “ta mới cam lòng”:
Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn hình nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan
Bình uy từ đấy sấm ran trong ngoài. ...
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Với đội quân hùng hậu đi đến đâu hùng hổ như vũ bão “trúc chẻ mái tan”, binh uy thì
“sấm ran trong ngoài”. Từ Hải đã gây dựng nên triều đình làm chủ “một góc trời”,
bày binh bố trận rõ ràng “Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Từ Hải đánh đến đâu
thắng đến đấy như “gió quét mưa sa”, càn quét cả “năm thành cõi nam”. Đối với Từ
Hải, bọn gian thần triều đình chỉ là “loài giá áo túi cơm” mà thôi. Từ Hải hiện lên
dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du oai phong lẫm liệt như vị thần linh huyền
thoại, như bậc anh hùng sử thi. Từ Hải không hẳn chỉ giúp Kiều đổ đời mà còn hi
sinh vì Kiều, đem đến hạnh phúc cho Kiều cũng như bao sinh linh khác. Với những
ngôn từ đầy quyền uy: binh uy, bá vương, sơn hà,... hay những động từ chỉ sự
mạnh mẽ, ngang tàn: trúc chè, gió quét mưa sa, đòi phen, ai dám,... Không gian vũ
trụ trở thành khoảng không gian rộng lớn tung hoành y như khí chất hơn người của Từ Hải.
Đoạn trích trên thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải thể hiện qua những câu từ cô
đọng, ước lệ với tầm vóc hoành tráng của bậc nghĩa sĩ oai hùng. Với màu sắc sử thi
và hình tượng kì vĩ, Nguyễn Du đã thành công đưa nhân vật Từ Hải từ một hảo hán
trở thành bậc anh hùng đích thực. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải như một con đại bàng
mà mỗi khi cất cánh, nó che trở và cứu rỗi những con người thấp cổ bé họng, cứu
rỗi nạn nhân của xã hội tăm tối mù mịt như cuộc đời Thúy Kiều.
Phân tích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” mẫu 3
Nguyễn Du, với tác phẩm “Truyện Kiều”, đã góp phần làm cho văn học Việt Nam
thêm phần phong phú và đa dạng. Đoạn trích trên là một phần nhỏ trong câu chuyện
đầy cảm xúc và tình cảm của Kiều. Nó là một tấm gương sáng cho cuộc sống, mang
đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về tình yêu, số phận và khát vọng của con người.
Truyện Kiều xoay quanh cuộc sống của Thúy Kiều – một người con gái thông minh,
tài năng và xinh đẹp. Nhưng số phận đã đưa cô vào những trường đau khổ và thử
thách khắc nghiệt. Qua những biến cố và gian nan, Kiều trở thành biểu tượng của
sự kiên cường và lòng dũng cảm.
Trong đoạn trích, chúng ta được chứng kiến cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa giữa Kiều và
Từ Hải. Với cái nhìn sâu sắc và tình cảm mãnh liệt, Kiều nhìn thấy Từ Hải như một
người anh hùng, người đã cứu rỗi cô khỏi cảnh đau khổ và che chở cô khỏi những
gian nan. Từ Hải, với tấm lòng nhân hậu và lòng dũng cảm, đã trở thành người bảo
vệ của Kiều, như một con đại bàng mà mỗi khi cất cánh, nó che trở và cứu rỗi
những con người thấp cổ bé họng, cứu rỗi nạn nhân của xã hội tăm tối mù mịt như cuộc đời Thúy Kiều.
Từ Hải không chỉ là một người anh hùng trong mắt Kiều, mà còn là biểu tượng của
sự công bằng và tự do trong xã hội. Với tấm lòng cao thượng và tình yêu thương vô
điều kiện, Từ Hải đã truyền cảm hứng và khích lệ cho những người xung quanh.
Bằng cách giúp đỡ Kiều, anh đã khẳng định rằng một người anh hùng không chỉ là
người có sức mạnh vật chất mà còn là người có tấm lòng nhân ái và sẵn sàng hy sinh cho người khác.
Qua những lời nói và hành động của Từ Hải, chúng ta cảm nhận được sự bình dị và
siêu phàm của một người anh hùng. Anh ta không chỉ đơn thuần là một người hùng
vĩ đại, mà còn là người sống đạo đức và có trách nhiệm xã hội. Từ Hải không chấp
nhận sự bất công và luôn đấu tranh cho sự công bằng trong xã hội. Ông đã thể hiện
sự cao đẹp của mình trong những lời nói đầy ý nghĩa: “Quốc sĩ xưa nay, chọn người
tri kỉ một ngày được chăng? Anh hùng tiếng đã gọi rằng: giữa đường dẫu thấy bất
bằng mà tha! Huống chi việc cũng việc nhà, lọ là thâm tạ với là tri ân?”.
Với sự tương phản giữa Kiều và Từ Hải, Nguyễn Du đã tạo nên một câu chuyện đầy
cảm xúc và ý nghĩa. Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm văn học nổi tiếng mà
còn là một tấm gương sáng cho con người, cho cuộc sống. Nó khơi dậy trong chúng
ta những suy ngẫm về tình yêu, sự hy sinh và ý nghĩa của cuộc sống.
Từ Hải không chỉ là một anh hùng vĩ đại mà còn là một người có trái tim nhân ái và
sự hiểu biết sâu sắc về con người. Anh không chỉ biết về bản thân mình mà còn có
khả năng ấm áp và chia sẻ tình yêu đối với những người xung quanh, như trường hợp của Kiều:
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tấn cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng”
Ước mong riêng của Kiều đã được Từ Hải cảm nhận và đáp ứng với lòng biết ơn và
tình cảm. Dù Kiều không thể nói ra, nhưng Từ Hải đã tự mình nhận thức và hiểu rõ
mong muốn đó. Anh biết rằng Kiều khao khát được trở về quê hương, được ôm
trong lòng gia đình và người thân. Vì thế, anh đã tự nguyện đáp lại mong muốn ấy,
mặc dù theo một cách khác thường. Anh chỉ muốn thấy Kiều hạnh phúc, và bởi vậy “ta mới cam lòng”:
Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn hình nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan
Bình uy từ đấy sấm ran trong ngoài. …
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Với quân đội mạnh mẽ của mình, Từ Hải đã tỏ ra mạnh mẽ và oai phong như một
cơn bão. Anh đã xây dựng một triều đình vững mạnh và trở thành chủ nhân của
“một góc trời”. Anh đã sắp đặt quân đội và tạo ra những chiến thuật rõ ràng: “Gồm
hai mặt văn và võ, chia đôi trời đất”. Từ Hải đã chiến thắng ở mọi nơi anh đi qua,
giống như “gió quét mưa sa”, quét sạch “năm thành cõi nam”. Đối với Từ Hải, các
quan lại và triều đình chỉ là “những người mặc áo và ăn cơm” thôi. Từ Hải được
miêu tả bởi Nguyễn Du với những từ ngữ uy nghiêm như binh uy, bá vương, sơn
hà,… hay những động từ mạnh mẽ như trúc chẻ, gió quét mưa sa, đòi phen, ai
dám,… Không gian vũ trụ trở thành một không gian rộng lớn, nơi Từ Hải tỏ ra mạnh
mẽ và oai phong hơn người.
Đoạn trích trên thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải thông qua những câu từ tường
thuật sắc sảo, ước lệ và vĩ đại của một anh hùng đích thực. Với sự mô tả sử thi và
hình tượng kỳ vĩ, Nguyễn Du đã thành công khi đưa nhân vật Từ Hải từ một anh
hùng hảo hán trở thành một anh hùng sử thi. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải giống như
một con đại bàng, mỗi khi bay lên, nó che chở và cứu rỗi những con người yếu đuối,
giải cứu những nạn nhân của xã hội tăm tối như cuộc đời của Thúy Kiều.
Phân tích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” mẫu 4
Có lẽ thế, Từ Hải là một giấc mơ của Nguyễn Du - giấc mơ anh hùng, giấc mơ tự do
và công lý. Cho nên Từ Hải phải là một con người siêu phàm. Con người ấy đến từ
một giấc mơ và ở lại như một huyền thoại. Hiện diện trong "Truyện Kiều" như một
nhân cách sử thi, Từ Hài đã làm nên những trang sôi động nhất, hào sáng nhất,
trong cái thế giới buồn đau dằng dặc của "Đoạn trường tân thanh". Khắc họa một
nhân vật như thế, không dùng bút pháp lãng mạn hoá, lý tưởng hoá, thì khó mà nổi
bật. Để tô đậm tầm vác phi thường của hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du đã khác
chạm bằng nhiều cách, từ nhiều phía. Ông đã giới thiệu lai lịch, đã mô tả ngoại hình,
đã phô bày những cá tính... ở đây trong đoạn trích "Anh hùng tiếng đã gọi rằng..."
này, phẩm chất Từ Hải được hiện lên chủ yếu bằng ngôn ngữ hùng tráng và kỳ tích
anh hùng. Tuyên ngôn và hành động bao giờ cũng là một Phát ngôn được nấu
nướng, kết tình từ hành động, còn hành động là sự thể hiện, là thước đo của phát
ngôn. Nhờ đó mà Từ Hải thực sự là một vẻ đẹp lý tưởng và hoàn hảo
Đoạn thơ tự nó hình thành hai phần: cuộc trò chuyện Thuý Kiều - Từ Hải và cuộc
khởi binh đầy kỳ tích của Từ Hải ở phần một, nhân cách anh hùng của Từ Hải trong
lời nói, phần hai - phẩm cách anh hùng trong hành vi xuất chúng Từ không gian màn
trướng khuê phòng ra không gian giang sơn trời đất, Từ Hải đã bước thẳng đền
chính mình bằng những bước siêu phàm.
Mở đầu cuộc đối thoại là lời Thuý Kiều. Trước Từ, Kiều không hiện ra như một
người bạn trăm năm, mà như một nạn nhân được cứu vớt che chở trước một ân
nhân đã ra tay tế độ. Kiều càng tự thấy nhỏ bé bao nhiêu, Từ càng suy nghĩ, kỳ vĩ
bấy nhiêu. Đôi với Nguyễn Du, Từ Hải là một giấc mơ, thì đối với Kiều, ngay đến mơ
cũng không dám nghĩ rằng mình có Từ Hải. Tự nhận mình hèn mọn, Kiều tôn vinh
Từ Hải như một bậc cứu nhân độ thế, rửa sạch oan khiên. Bằng những lời ước lệ,
thậm xưng, Từ Hải trong tâm trí Kiều đã hiện lên trong tầm vóc vũ trụ, phi phàm:
"Trộm nhờ sấm sét ra tay", "Dế đem gan óc đền nghì trời mây". Có thể nói đó là
cách gián tiếp để khắc họa Từ Hài, nghĩa là lối mượn lời nhân vật này để tạo dựng nhân vật khác.
Nhưng có lẽ, chính trong lời Từ Hải, phẩm cách anh hùng ở nhân vật này được bộc
lộ nhiều hơn: vừa bình dị vừa siêu phàm. Cái việc Từ đã làm cho Kiều là một cuộc
đổi đời, hồi sinh vô cùng lớn lao. Từ đã đưa Kiếu từ tận cùng ô nhục ("Thanh lâu hai
lượt thanh y hai lần") lên tột bậc danh giá! Từ gái lầu xanh lên bậc mệnh phụ phu
nhân, tạo điều kiện cho nàng được ân đền oán trả. Những việc phi phàm ấy lại được
Từ lý giải bằng những động cơ rất thường tình, rất tự nhiên đối với minh:
Từ rằng: "Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỳ một ngày được chăng
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà
Lo là thầm tạ mới là tri ân!
Kiều cảm nhận sự việc bằng tâm thế một nạn nhân, ngưỡng vọng ơn trời bể. Còn
Từ Hải lại xem là một việc vẫn thường làm đối với mình. Cả hai cách nói cũng như
hai cách nhìn nhận đánh giá sự việc đều đạt một hiệu quả là làm cho Từ Hải hiện ra
càng lớn lao hơn. Nhưng trong lời Từ, xét ra không phải chỉ có sự khiêm nhường:
người này thực ra ý thức khá sâu sắc về giá trị và uy vũ của mình. Từ coi minh là
"quốc sĩ", nghĩa là kẻ sĩ tầm cỡ quốc gia, lại gọi mình là "anh hùng". Vậy là văn võ
song toàn! Chẳng phải sự hào hoa như một nghệ sĩ hài hoà với sự ngang tàng hào
hùng của bậc trượng phu vốn đã là vẻ đẹp của Từ từng được Nguyễn Du trực tiếp
khắc hoạ: "Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo" đấy ư. Từ đâu chỉ là kẻ biết
người, Từ cũng là một kẻ rất biết mình!.
Lý tưởng anh hùng của Từ Hải đối với đời thể hiện trong hành vi nghĩa hiệp đối với
một con người cụ thể ấy là Thuý Kiều. Cứu đời, trước hết là cứu Thuý Kiều. Thực
hiện công lý cho đời, trước hết là cho nàng Kiều. Sở nguyện, khao khát chân chính
của những nạn nhân trở thành lý tưởng mục đích của người anh hùng. Người anh
hùng đứng lên là sống cho họ, sống vì họ. Ước ao thầm kín của Kiều đã được Từ
cảm nhận như một tri kỷ, tri âm. Nàng không nói, nhưng chàng tự coi mình có bổn
phận đáp ứng. Kỳ tích anh hùng đã nảy sinh từ tấm lòng tri âm.
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.
Kiều có một mong ước thầm kín mà da diết, đó là được trở về cố hương, đoàn tụ
với gia đình, gặp lại song thân. Để đáp ứng sở nguyện ấy, người anh hùng đã thực
hiện theo cung cách thật là khác thường: không phải tìm đường hộ tống nàng hổi
hương, mà khởi binh, dựng nghiệp, lập ra cả một triều đình, đánh chiếm hàng loạt
huyện thành, vạch đôi sơn hà, để dẹp đường cho hồng nhan tri kỷ gặp lại song
thân... Thế đấy, Từ Hải không chỉ đổi đời cho Kiều mà còn vì Kiều, đem hạnh phúc
đến cho biết bao sinh linh khác. Để đáp ứng một nguyện vọng bé mọn, Từ sẵn sàng
làm những chuyện lớn lao. Hạnh phúc của Từ Hải là đem được hạnh phúc đến cho
Thuý Kiều. Thấy Kiều hạnh phúc thì Từ mới cam lòng. "Sao cho thấy mặt là ta cam
lòng” Qua lời Từ Hài, chúng ta đã có thể thấy nhân cách anh hùng của Từ là một sự
hài hòa tuyệt vời giữa khiêm nhường và xuất chúng, giữa cốt cách hào hoa quốc sĩ
và phẩm cách anh hùng, giữa lòng trung hậu nhân từ và sự ngang tàng đấy uy vũ...
Phần sau, Từ Hải hiện ra qua lời trần thuật trực tiếp của Nguyễn Du về hành động
của Từ Hài. Không còn là cuộc đối thoại trong màn trướng mà là cuộc dấy binh trên
chiến trường, giữa dọc ngang trời đất. Nhân cách anh hùng được khắc hoạ trong không gian sử thi
Trong cuộc đối thoại nói trên, Từ đã tôn vinh Thuý Kiều bằng cách phá vỡ, xoá sạch
khoảng cách giữa mình và Kiều: tương quan sang - hèn, ân nhân - nạn nhân đã
được Từ Hải nâng lên thành quan hệ tri kỷ - tri âm. Kiều đã được đặt ngang tầm,
bình đẳng với Từ. Họ trở thành một cặp "Trai anh hùng gái thuyền quyên", "Người
quốc sắc kẻ thiên tài". Ấy là một phía của nhân cách anh hùng
Ở đây ta thấy một phía khác. Từ quyết tạo ra một tương quan bình đẳng khác: bình
đẳng với quyển uy tột đỉnh của nhà nước phong kiến. Từ cúi mình cứu vớt nạn
nhân, nhưng cũng sẵn sàng tranh tài đọ sức, tranh hùng tranh bá với triều đình!
Để khác hoạ tầm cỡ đó của Từ Hài, Nguyễn Du đã dùng đến một hệ thống ngôn từ
cũng đầy quyền uy: binh tướng, binh uy, bả vương, sơn hà, tranh cường, hùng cứ...
và viết về hành vi của Từ Hài dứt khoát phải dùng những động từ chỉ động Từ Hải
mạnh mẽ: Vội truyền, trúc chẻ, ngôi tản, gió quét mưa sa, huyện thành đạp đổ...,
những giọng điệu đấy ngang tàng thách thức mang khẩu khí anh hùng: đòi phen,.
Không gian vũ trụ, không gian sử thi trở thành khoảng không gian tung hoành phù
hợp với khí phách Từ Hài. Những đơn vị địa lý, địa vực cứ được nới rộng đến cực
đại để cho tính cách anh hùng của Từ được vùng vẫy, và có lẽ phải tạo một không
gian như thế thì mới thể hiện được tầm vóc của Từ: Triều đình riêng một góc trời,
huyện thành đạp đổ, năm tòa côi nam, gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà, nghênh
ngang một cõi biên thuỳ, năm năm hùng cứ một phương hải tần... Những thi liệu ấy
được phối hợp với những tiết tấu mạnh mẽ, âm điệu dồn dập, sôi động, biểu hiện
binh lực hùng hậu. khi thế bách chiến bách thắng của Từ Hài. Và sâu xa hơn. nó
biểu hiện được chi khí dám đương đầu, dám sông mái, đua tranh với thế lực thượng
thời phong kiến. Nói theo giọng đời thường hiện Đại là cái chi khi "không ngán gi!" của Từ Hải.
Thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải, Nguyễn Du đã luôn cô đúc ngôn ngữ của
mình thành những câu thơ có tầm khái quát hào hùng và lãng mạn: cánh hồng bay
bông tuyết với Giang hồ quen thói vẫy vùng. Dày lâu bể Sở sông Ngô tung hoành.
Đội trời đạp Đất ở đời, Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Năm năm trời biền ngang
tàng, Dọc ngang trời rộng vẫy vùng biển khơi, Làm cho động địa kinh thiên đùng
đùng.v.v... Những khái quát mang tính ước lệ, cách điệu ấy đã làm cho cái lai lịch
anh hùng của Từ Hải có một tầm vóc hoành tráng. Còn riêng ở đoạn thơ này, hướng
mô tả của Nguyễn Du có phần khác. Nhà thơ gắn với những biến cố thực tại, những
hành động có phần cụ thể hơn của Từ Hải nhằm giao tranh, đạp đổ, phủ định cái
trật tự phong kiến của triều đình, tự tay lập nên một trật tự của riêng mình. Bản lĩnh
của Từ Hải hiện ra ở đây bằng hàng loạt hành động đảo lộn thời thế, cải tạo thực
tại: Huyện thành đạp đổ, rạch đôi sơn hà, năm năm hùng cứ v.v... Và ở đây cũng
không thiếu những câu thơ tự nó đã là những nét chân dung khái quát về tầm vóc,
cốt cách anh hùng của Từ Hải:
Nghênh ngang một cõi biên thuỳ
Trước cờ, ai dám tranh cường
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Nhưng đặc sắc hơn cả, có sức kết tình hơn cả vần là hình ảnh này
Phong trần mài một lưỡi gươm
Những phường giá áo túi cơm sá gì.
Ấy là một. hình tượng thuộc về tầm vóc sử thi. Và đó là một sự tương phản gay gắt
và tráng lệ. Sự tương phản đối chọi giữa một cá thể và cả một tập đoàn, sự đối lập
giữa cái cao cả và cái thấp hèn, cái đẹp và sự phàm tục. Hình tượng lưỡi gươm
công lý. mũi kiếm tự do biểu hiện ý chí và khát vọng cao quý của Từ Hài. Ta đã
được thấy cảnh "mài gươm dưới trăng” của Đặng Dung, giờ lại được chiêm ngưỡng
"phong trần mài một lưỡi gươm" của Từ Hải. Vậy là ở Tù Hải còn có một sự hài hoà
khác: sự hài hoà giữa cốt cách hào hoa của một bậc quốc sĩ và vẻ phong trần của
một tráng sĩ Hai chữ "phong trần" làm hiện lên gương mặt dài dấu từng trải, cuộc
đời phong trần cát bụi. ngày tháng phong trần nấu nung ý chí, lưỡi gươm phong trần
vì mục đích thanh cao... "Phong trần mài một lưỡi gươm" Từ Hải sừng sững giữa
không gian và thời gian một cốt cách kiêu hùng.
Vâng, phải là con người ấy mới có thể thực hiện được khát vọng tự do, công lý của
Nguyễn Du. Từ Hải như một con đại bàng mà mỗi khi vỗ cánh lại làm xáo động cả
đất trời. Chi có đôi cánh áy mới che chở được cho những nạn nhân như Thuý Kiều.
Chỉ có đôi cánh ấy mới mang chồ được khát vọng nghìn đời của những con người
thấp cổ bé họng sống dưới cái gầm trời tăm tối của thế giới "Truyện Kiều".