Phân tích bài Câu cá mùa thu (Thu điếu) chọn lọc hay nhất - Văn mẫu 11

“Câu cá mùa thu” hay còn gọi là Thu Điếu là một tác phẩm hay và ý nghĩa trong chương trình Ngữ Văn lớp 11. Để cảm nhận bài thơ đầy hình tượng này, hãy cùng theo dõi bài viết sau nhé.

Thông tin:
4 trang 3 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích bài Câu cá mùa thu (Thu điếu) chọn lọc hay nhất - Văn mẫu 11

“Câu cá mùa thu” hay còn gọi là Thu Điếu là một tác phẩm hay và ý nghĩa trong chương trình Ngữ Văn lớp 11. Để cảm nhận bài thơ đầy hình tượng này, hãy cùng theo dõi bài viết sau nhé.

40 20 lượt tải Tải xuống
Nguyễn Khuyến nổi tiếng với tập thơ mùa thu gồm ba bài thơ bằng chữ Nôm, một
trong số đó bài “Câu mùa thu”. Xuyên suốt bài thơ vẻ đẹp tĩnh lặng của cảnh
quê xưa, thể hiện nét đơn trong tâm hồn của một nhà Nho yêu quê hương lúc
bấy giờ. Sau một thời gian ông từ quan trở về, hàng loạt tác phẩm ra đời như Thu
điếu”, Thu ẩm” , Thu vịnh”. Với kết câu thơ thất ngôn bát cú, bài thơ mở đầu với
hai câu đề:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu tẻo teo”
Chỉ cần đọc hai câu thơ, ta thể hình dung ra khung cảnh mùa thu, một không gian
nghệ thuật bao trùm lấy ta. Ao thu một hình tượng đặc trưng của làng quê vùng
đồng bằng Bắc Bộ. Mỗi khi nhìn thấy ao làng, lòng người lại bồi hồi nhớ về quê
hương. Nước ao trong vắt giúp ta thể nhìn xuyên qua mặt ao, hơi lạnh đang lan
tỏa khắp không gian. Không còn cái se lạnh của chớm thu đã tiết thu phân,
trời đã sang thu nên se lạnh đến nao lòng. Không biết từ lúc nào, giữa không gian
bao la của mặt nước ao hiện ra một chiếc thuyền câu như thể nỗi đơn của con
thuyền lan tỏa khắp không gian. "Bé tẻo teo" nghĩa rất nhỏ, cách sử dụng tính
từ như khiến sự bỏng của chiếc thuyền càng thêm đơn, nhỏ nhoi. Âm điệu
của bài thơ cũng gợi lên sự hun hút của cảnh vật quanh ao ("trong veo" - "bé tẻo
teo"). Đó một mùa thu đẹp yên bình, làm bản lề cho thế giới nghệ thuật
người đọc sắp sửa bước vào từ hai câu thực:
Sóng nước theo làn hơi gợn
vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai câu thơ miêu tả cảnh vật xung quanh trong một không gian hai chiều mắt
thể nhìn thấy sóng gợn li ti, tai thể nghe thấy tiếng xào xạc trong gió. Sự rung
cảm trước cảnh vật của người thi cùng giản dị mộc mạc nhưng cũng thể
cho người ta thấy sự hài hòa về màu sắc được tác giả miêu tả với sóng xanh
vàng. Làn gió hiu hiu đủ để lay nhẹ những chiếc thu vàng, cuốn những con sóng
xanh lăn tăn từng đợt. Trong câu thơ chỉ vỏn vẹn 7 chữ của mình, nhà thơ còn kết
hợp sử dụng phép tương phản một cách rất tài tình giúp nhấn mạnh vào trọng tâm
để người đọc thể hình dung ra không gian tác giả đang miêu tả như hiện ra
trước mắt mình, rất chân thực ràng. Phải công nhận rằng ngòi bút của Nguyễn
Khuyến cùng tinh tế trong cách dùng từ cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng
"hơi gợn tí" phối cảnh với độ bay xoay xoay "khẽ đưa vèo" của chiếc thu. Chữ
"vèo" một nhân tự sau này thi Tản Đà rất khâm phục tâm đắc. Ông thổ lộ
một đời thơ mới được một câu vừa ý: vèo trông rụng đầy sân (cảm thu, tiễn
thu). Không dừng lại đó, Nguyễn Khuyến còn giúp ta mở rộng tầm mắt hơn hai
câu luận của bài thơ:
Tầng mây lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Bên cạnh ao thu hoài niềm, ngõ trúc lại một lần nữa khắc khoải nỗi niềm của làng
quê nơi tác giả, nơi khung cảnh. Một màu xanh bao la của bầu trời xanh, rộng lớn
xanh thẳm, hòa quyện với màu xanh của sóng nước bao trùm không gian nơi đây.
Mây lặng lẽ trôi trên bầu trời bao la như nhấn mạnh thêm sự bao la của không gian
nơi đây. Thoáng mát, yên tĩnh, êm đềm mềm mại. Đường làng qua các ngõ
không một bóng người qua lại: Ngõ trúc quanh co vắng vẻ không bóng người. "Vắng
teo" một tính từ giản dị, gần gũi, đời thường tưởng chừng vị nhưng lại được
biến hóa khôn lường trong thơ của Nguyễn Khuyến. gợi cho người ta cái yên
lặng cùng của cảnh vật, lại cũng gợi sự đơn, trống trải của lòng người. Ngõ
trúc trong thơ Tam Nguyên Yên Đổ luôn gợi lên một nỗi niềm da diết, không thể chối
từ về tình quê:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
Trong thơ về tình làng quên, lẽ người đọc sẽ nhận ra một trong những sự vật
quen thuộc với hình ảnh làng quê đó ngõ trúc tầng mây. Đây nhưng sự vật
từng xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm văn thơ nghệ thuật. vẻ như tác giả
đang tự hòa mình đắm chìm vào trong cảnh sắc nơi đây nên mới thể miêu tả
một cách cùng chân thực được như vậy. Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới
xuất hiện một đối tượng khác:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
đâu đớp động dưới chân bèo”
Thu điếu nghĩa câu vào mùa thu. Sáu câu đầu chỉ cảnh sắc: ao thu, thuyền
câu, sóng biếc, vàng, tầng mây, ngõ trúc Hình ảnh người câu đến tận đoạn
cuối cùng mới hiện lên với thế tựa vào chiếc gối, trấn tĩnh nhàn nhã. Đợi một
lúc lâu, tác giả chợt tỉnh giấc khi nghe tiếng đớp mồi dưới chân bèo. Sự chờ đợi
bấy lâu nay đã được đền đáp phần nào. Người câu dường như thờ ơ với mọi
phiền nhiễu, chỉ tập trung hòa mình vào cảnh sắc mùa thu, bỗng chợt tỉnh giấc mộng
của mình để quay về hiện thực. Nhưng không! Nguyễn Khuyến đâu còn chờ thời.
Khi thả hồn ngồi chờ cá, nhà thờ đã chỉ muốn hòa mình vào thiên cảm nhận
được hết không khí chính nơi thôn quê mình đang sinh sống. thể thấy, toàn bộ
hình tượng thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này.
Ba chữ “đ” (đâu, đớp, dộng) miêu tả một chút xao động trong làn ao rất nhiều xao
động trong lòng thật tài tình khiến cho người khác phải ngã thán phục. Kết
hợp nghệ thuật lấy động tả tĩnh như khiến mạch suy nghĩ của nhân vật lại càng
thêm khắc khoải luyến tiếc. Ngụ ý của câu thơ muốn ta hiểu được cái cảm giác
nao nòng của người câu khi đi câu lòng lại xao xuyến không nguôi cảnh
vật. Người đọc liên tưởng đến một Vọng câu chờ thời bên bờ sông Vị cách
đây mấy nghìn năm. Sau tiếng thu chỉ còn một tiếng đập, đó tiếng thu của
làng cũ. Âm thanh ấy hòa với âm thanh trong không trung, như đưa hồn ta về với
mùa thu của quê hương. Người đánh sống trong một tâm trạng buồn đơn
lặng lẽ. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng quý.
Thu Điếu một trong những tác phẩm lớn của tác giả Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu
từng tâm sự rằng bài thơ của Nguyễn Khuyến một nét xanh tuyệt vời miêu
tả không thể hiểu hết vẻ đẹp, sự tinh túy. Nào xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh
trúc, xanh tre, bèo… chỉ một màu vàng của những chiếc mùa thu "khẽ đưa
vèo". Tuy nhiên, ẩn sâu dưới đáy khoảng lặng này lại ẩn chứa một nỗi buồn miên
man của tác giả. Tâm hồn thư thái, quý phái gắn với mùa thu quê hương, với tình
yêu tha thiết. Mỗi nét của mùa thu một màu thu, âm thanh của mùa thu gợi lên
hồn quê tiết trời thu, vần: veo - teo - vo - teo - bèo, tương phản tạo nên sự hài hòa
cân đối, giàu sức biểu lộ lại tạo nhạc điệu thơ nhẹ nhàng, trầm bổng. .thể hiện một
phong cách nghệ thuật cùng điêu luyện hồn nhiên - thực sự xuất sắc trong các
chương. Thu điếu xứng đáng một tác phẩm tả cảnh ngụ tình tiêu biểu xuất sắc
trong chương trình ngữ văn lớp 11.
| 1/4

Preview text:

Nguyễn Khuyến nổi tiếng với tập thơ mùa thu gồm ba bài thơ bằng chữ Nôm, một
trong số đó là bài “Câu cá mùa thu”. Xuyên suốt bài thơ là vẻ đẹp tĩnh lặng của cảnh
quê xưa, thể hiện nét cô đơn trong tâm hồn của một nhà Nho yêu quê hương lúc
bấy giờ. Sau một thời gian ông từ quan trở về, hàng loạt tác phẩm ra đời như “ Thu
điếu”, “ Thu ẩm” , “ Thu vịnh”. Với kết câu thơ thất ngôn bát cú, bài thơ mở đầu với hai câu đề:
“ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Chỉ cần đọc hai câu thơ, ta có thể hình dung ra khung cảnh mùa thu, một không gian
nghệ thuật bao trùm lấy ta. Ao thu là một hình tượng đặc trưng của làng quê vùng
đồng bằng Bắc Bộ. Mỗi khi nhìn thấy ao làng, lòng người lại bồi hồi nhớ về quê
hương. Nước ao trong vắt giúp ta có thể nhìn xuyên qua mặt ao, hơi lạnh đang lan
tỏa khắp không gian. Không còn cái se lạnh của chớm thu mà đã là tiết thu phân,
trời đã sang thu nên se lạnh đến nao lòng. Không biết từ lúc nào, giữa không gian
bao la của mặt nước ao hiện ra một chiếc thuyền câu như thể nỗi cô đơn của con
thuyền lan tỏa khắp không gian. "Bé tẻo teo" có nghĩa là rất nhỏ, cách sử dụng tính
từ như khiến sự bé bỏng của chiếc thuyền càng thêm cô đơn, nhỏ nhoi. Âm điệu
của bài thơ cũng gợi lên sự hun hút của cảnh vật quanh ao ("trong veo" - "bé tẻo
teo"). Đó là một mùa thu đẹp và yên bình, làm bản lề cho thế giới nghệ thuật mà
người đọc sắp sửa bước vào từ hai câu thực:
“ Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai câu thơ miêu tả cảnh vật xung quanh trong một không gian hai chiều mà mắt có
thể nhìn thấy sóng gợn li ti, tai có thể nghe thấy tiếng lá xào xạc trong gió. Sự rung
cảm trước cảnh vật của người thi sĩ vô cùng giản dị và mộc mạc nhưng cũng có thể
cho người ta thấy sự hài hòa về màu sắc được tác giả miêu tả với sóng xanh và lá
vàng. Làn gió hiu hiu đủ để lay nhẹ những chiếc lá thu vàng, cuốn những con sóng
xanh lăn tăn từng đợt. Trong câu thơ chỉ vỏn vẹn 7 chữ của mình, nhà thơ còn kết
hợp sử dụng phép tương phản một cách rất tài tình giúp nhấn mạnh vào trọng tâm
để người đọc có thể hình dung ra không gian mà tác giả đang miêu tả như hiện ra
trước mắt mình, rất chân thực và rõ ràng. Phải công nhận rằng ngòi bút của Nguyễn
Khuyến vô cùng tinh tế trong cách dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng
"hơi gợn tí" phối cảnh với độ bay xoay xoay "khẽ đưa vèo" của chiếc lá thu. Chữ
"vèo" là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản Đà rất khâm phục và tâm đắc. Ông thổ lộ
một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn
thu). Không dừng lại ở đó, Nguyễn Khuyến còn giúp ta mở rộng tầm mắt hơn ở hai câu luận của bài thơ:
“ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Bên cạnh ao thu hoài niềm, ngõ trúc lại một lần nữa khắc khoải nỗi niềm của làng
quê nơi tác giả, nơi khung cảnh. Một màu xanh bao la của bầu trời xanh, rộng lớn và
xanh thẳm, hòa quyện với màu xanh của sóng nước bao trùm không gian nơi đây.
Mây lặng lẽ trôi trên bầu trời bao la như nhấn mạnh thêm sự bao la của không gian
nơi đây. Thoáng mát, yên tĩnh, êm đềm và mềm mại. Đường làng qua các ngõ
không một bóng người qua lại: Ngõ trúc quanh co vắng vẻ không bóng người. "Vắng
teo" là một tính từ giản dị, gần gũi, đời thường tưởng chừng vô vị nhưng lại được
biến hóa khôn lường trong thơ của Nguyễn Khuyến. Nó gợi cho người ta cái yên
lặng vô cùng của cảnh vật, lại cũng gợi sự cô đơn, trống trải của lòng người. Ngõ
trúc trong thơ Tam Nguyên Yên Đổ luôn gợi lên một nỗi niềm da diết, không thể chối từ về tình quê:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây? (Nhớ núi Đọi)
Trong thơ về tình làng quên, có lẽ người đọc sẽ nhận ra một trong những sự vật
quen thuộc với hình ảnh làng quê đó là ngõ trúc và tầng mây. Đây là nhưng sự vật
từng xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm văn thơ nghệ thuật. Có vẻ như tác giả
đang tự hòa mình và đắm chìm vào trong cảnh sắc nơi đây nên mới có thể miêu tả
một cách vô cùng chân thực được như vậy. Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới
xuất hiện một đối tượng khác:
“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Thu điếu nghĩa là câu cá vào mùa thu. Sáu câu đầu chỉ có cảnh sắc: ao thu, thuyền
câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc … Hình ảnh người câu cá đến tận đoạn
cuối cùng mới hiện lên với tư thế tựa vào chiếc gối, trấn tĩnh và nhàn nhã. Đợi một
lúc lâu, tác giả chợt tỉnh giấc khi nghe tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Sự chờ đợi
bấy lâu nay đã được đền đáp phần nào. Người câu cá dường như thờ ơ với mọi
phiền nhiễu, chỉ tập trung hòa mình vào cảnh sắc mùa thu, bỗng chợt tỉnh giấc mộng
của mình để quay về hiện thực. Nhưng không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời.
Khi thả hồn ngồi chờ câ cá, nhà thờ đã chỉ muốn hòa mình vào thiên cảm nhận
được hết không khí ở chính nơi thôn quê mình đang sinh sống. Có thể thấy, toàn bộ
hình tượng thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này.
Ba chữ “đ” (đâu, đớp, dộng) miêu tả một chút xao động trong làn ao và rất nhiều xao
động trong lòng thật là tài tình khiến cho người khác phải ngã mũ thán phục. Kết
hợp nghệ thuật lấy động tả tĩnh như khiến mạch suy nghĩ của nhân vật lại càng
thêm khắc khoải vì luyến tiếc. Ngụ ý của câu thơ muốn ta hiểu được cái cảm giác
nao nòng của người câu cá khi đi câu mà lòng lại xao xuyến không nguôi vì cảnh
vật. Người đọc liên tưởng đến một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị cách
đây mấy nghìn năm. Sau tiếng lá thu chỉ còn một tiếng cá đập, đó là tiếng thu của
làng cũ. Âm thanh ấy hòa với âm thanh trong không trung, như đưa hồn ta về với
mùa thu của quê hương. Người đánh cá sống trong một tâm trạng buồn cô đơn và
lặng lẽ. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng quý.
Thu Điếu là một trong những tác phẩm lớn của tác giả Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu
từng tâm sự rằng ở bài thơ của Nguyễn Khuyến có một nét xanh tuyệt vời mà miêu
tả không thể hiểu hết vẻ đẹp, sự tinh túy. Nào là xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh
trúc, xanh tre, bèo… và chỉ có một màu vàng của những chiếc lá mùa thu "khẽ đưa
vèo". Tuy nhiên, ẩn sâu dưới đáy khoảng lặng này lại ẩn chứa một nỗi buồn miên
man của tác giả. Tâm hồn thư thái, quý phái gắn bó với mùa thu quê hương, với tình
yêu tha thiết. Mỗi nét của mùa thu là một màu thu, âm thanh của mùa thu gợi lên
hồn quê tiết trời thu, vần: veo - teo - vo - teo - bèo, tương phản tạo nên sự hài hòa
cân đối, giàu sức biểu lộ lại tạo nhạc điệu thơ nhẹ nhàng, trầm bổng. .thể hiện một
phong cách nghệ thuật vô cùng điêu luyện và hồn nhiên - thực sự xuất sắc trong các
chương. Thu điếu lá xứng đáng là một tác phẩm tả cảnh ngụ tình tiêu biểu xuất sắc
trong chương trình ngữ văn lớp 11.