-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy. | Văn mẫu lớp 9
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, ông là một nhà thơ chiến sĩ, đã từng tham gia phục vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sáng tác tiêu biểu là tập thơ Ánh trăng. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
Dàn ý phân tích bài thơ Ánh Trăng 1. Mở bài
• Trăng từ xưa đến nay đã trở thành đề tài có nhiều sức gợi trong thi ca.
• Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn khơi gợi trong tâm hồn của mỗi độc giả những
cảm xúc mới mẻ, sâu sắc và nhiều ý nghĩa. 2. Thân bài * Tác giả, tác phẩm:
• Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, ông là một nhà thơ chiến
sĩ, đã từng tham gia phục vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sáng tác tiêu biểu là tập thơ Ánh trăng.
• Ánh trăng được sáng tác ở thành phố Hồ Chí Minh, vào năm 1978, ba năm sau ngày
giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. * Phân tích:
- Khổ thơ 1 + 2: Những kỷ niệm trong quá khứ, sự gắn bó của của vầng trăng trong từng bước
đi của cuộc đời nhà thơ.
• Thuở ấu thơ gắn bó mật thiết với đồng ruộng, sông, bể
• Lớn lên đi chiến đấu gắn bó với rừng già.
• Trong suốt quá trình ấy vầng trăng luôn dõi theo và được nhà thơ xem như là người
bạn tri kỷ, không bao giờ quên.
- Khổ 3: Sự thay đổi của cuộc sống, khiến người ta quên đi kỷ niệm xưa cũ
• Quen “ánh điện cửa gương”, cuộc sống xa hoa, phố thị tách biệt với thiên nhiên.
• Ánh trăng trở thành người xa lạ, bị người lính vô tình quên mất
- Khổ bốn: Tình huống bất ngờ và cuộc hội ngộ với vầng trăng.
• Mất điện, là lý do bất ngờ dẫn đến cuộc hội ngộ đầy cảm xúc giữa nhà thơ và vầng trăng.
• Kỷ niệm ùa về, vầng trăng tri kỷ sắt son, cánh đồng, sông, bể, những ngày chiến đấu
gian khổ nhưng đầy ắp kỷ niệm không quên, điều ấy khiến nhà thơ xúc động trào nước mắt.
- Khổ cuối: Sự thức tỉnh của tâm hồn
• Vầng trăng “im phăng phắc”, tròn vành vạnh, hiên ngang, đối diện khiến người lính
phải giật mình xấu hổ.
• Bài học về sự ghi nhớ những ân tình, những kỷ niệm trong cuộc đời của mỗi con
người, quên đi là sự vô tình đầy tội lỗi. 3. Kết bài
Ánh trăng của Nguyễn Duy là một bài thơ dẫu câu từ có vẻ đơn giản, mộc mạc nhưng lại
hàm súc những ý nghĩa lớn, ấy là bài học về sự ghi nhớ những ân tình trong quá khứ, là lời
khuyên, là tấm gương về lối sống nhân nghĩa, luôn trân quý, biết ơn những người, những cảnh vật xưa cũ.
Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy mẫu 1
Nhà văn Nguyễn Tuân có lần từng nói: “Thơ là mở ra một cái gì mà trước câu thơ trước bài
thơ ấy dường như vẫn còn bị phong kín” vì vậy mỗi một sáng tác thơ ca đều phải mở ra một
điều gì đấy mới mẻ về tư tưởng về nội dung về nghệ thuật trong tâm trí của người đọc.
Nếu Lí Bạch đã từng nâng chén cùng với trăng sáng trên cao để thấm thía nỗi cô đơn mình
với bóng là ba, nếu Nguyễn Du đã để vầng trăng là nhân chứng cho mối lương duyên của
Thúy Kiều – Kim Trọng, thì chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng coi trăng như một người bạn tri
kỷ, thân thiết “Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Cũng viết về vầng trăng, hình tượng vốn bấy lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của
thi ca, nhưng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn khơi gợi trong tâm hồn của mỗi độc giả
những cảm xúc mới mẻ, sâu sắc và nhiều ý nghĩa.
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, ông là một nhà thơ chiến sĩ, đã
từng tham gia phục vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sáng tác tiêu biểu là tập thơ Ánh
trăng, một trong những tập thơ đánh dấu son quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy.
Ánh trăng được sáng tác ở thành phố Hồ Chí Minh, vào năm 1978, ba năm sau ngày giải
phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Người lính chiến từ giã chiến trường trở về
giữa phố thị, sống trong cảnh hòa bình, đất nước đổi mới, trong lúc đó dường như sự đủ đầy
vật chất, cuộc sống bộn bề đã khiến con người ta vô tình quên đi những năm tháng gian khổ
nhưng ân tình thủy chung. Để khi yên tĩnh dưới ánh trăng, nhà thơ mới bừng tỉnh nhận ra…
Trong 2 khổ thơ đầu mạch cảm xúc của Nguyễn Duy hướng về những kỷ niệm trong quá khứ,
sự gắn bó của của vầng trăng trong từng bước đi của cuộc đời nhà thơ.
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”
Ngay từ khổ thơ đầu thì nhà thơ đã mở ra trong một dòng hoài niệm hết sức tha thiết về tuổi
ấu thơ của chính mình bằng nhịp thơ đều đặn, với những câu thơ 5 chữ ngắn gọn, đầy cảm
xúc. Đó là lời của một người lính từng đi qua chiến tranh gian khổ này về sống giữa Sài Gòn
xa hoa, người lính ấy hồi tưởng về tuổi thơ, về thời trai tráng chinh chiến sa trường.
Nếu lúc nhỏ cuộc đời của cậu bé Nguyễn Duy gắn bó mật thiết với đồng ruộng, với dòng
sông tươi mát, với vùng biển bao la, thì khi lớn lên vào cuộc chiến, cuộc sống của nhà thơ
lại tiếp tục gắn bó sâu sắc với thiên nhiên núi rừng, như Tố Hữu nói trong Việt Bắc “Rừng
che bộ đội rừng vây quân thù”.
Thế nhưng dẫu hoàn cảnh, điều kiện sống có đổi thay thì duy chỉ có một thứ chẳng hề thay
đổi ấy là vầng trăng trên cao, vầng trăng ấy trong lòng của tác giả đã trở thành tri âm, tri kỷ,
là người bầu bạn trong những năm tháng hoa niên, trong từng bước hành quân chiến đấu.
Trăng chia sẻ những nỗi vui buồn, những niềm gian khó, đi đến đâu trăng theo đến ấy, thân
thương, gần gũi vô cùng. Sự gắn bó, mối quan hệ và tình cảm của nhà thơ và vầng trăng
được làm rõ qua mấy câu thơ.
“Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Cuộc sống của tác giả, từ khi còn thơ ấu đến tuổi thanh niên vào chiến trường vẫn luôn gắn
bó mật thiết và “trần trụi” với thiên nhiên, không che giấu bất kỳ điều gì, tác giả sống một
cách đơn giản, bình yên và hồn nhiên như những loài cây cỏ với sức sống mạnh mẽ dẻo dai.
Trên trời có ánh trăng sáng lúc nào cũng dõi mắt theo cuộc sống vui vẻ ấy của nhà thơ, thân
thuộc đến độ Nguyễn Duy cứ “ngỡ”, cứ đinh ninh chắc nịch rằng bản thân mình sẽ chẳng
bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa, vằng vặc trên cao mà mình vẫn xem là tri kỷ suốt
mấy mươi năm cuộc đời kia.
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thế nhưng những cái “ngỡ” thường khó có thể duy trì vì cuộc đời vốn biến đổi không ngừng,
bởi vật chất xưa nay luôn quyết định ý thức. Rời chiến trường, rời quê hương với những đồng
ruộng, sông bể quê mùa, nhà thơ vào giữa phố thị, được sống trong một cuộc sống dư dả, xa hoa.
Nếu buổi trước kia phải vật vạ, mai phục nơi rừng sâu rậm rạp, phải chân lấm tay bùn với
ánh đèn dầu mờ ảo thì nay cuộc sống đã đổi thay, “ánh điện cửa gương”, đều là những thứ
mới mẻ, dễ khiến người ta ham thích và sống sung sướng mãi rồi cũng quen đi. Bất chợt nhà
thơ chẳng biết từ lúc nào đã quên khuấy đi cái ánh sáng nhàn nhạt dịu nhẹ đến từ thiên
nhiên, đến từ vầng trăng mà mình vẫn hằng coi là tri kỷ.
Không biết là do cuộc sống quá tất bật, bộn bề, hay lòng người vô tâm, bỏ quên kỷ niệm son
sắt xưa cũ mà nay thấy vầng trăng ngự trên trời, cũng chẳng còn trân quý, chỉ là “người dưng
qua đường”. Nói đến đây bỗng thấy thật xót xa, buồn tủi cho vầng trăng kia quá, từng một
thời sát cánh, chia sẻ vui buồn từ đồng quê đến rừng già, từ ấu thơ đến trưởng thành, ấy mà
chỉ vài năm ngắn ngủi, vài ánh điện lạ lẫm mọi thứ đã đổi thay.
“Thình lình đèn điện tắt phòng buyn-đinh tối om vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Giữa sự trớ trêu và buồn tủi như thế, bỗng một tình huống bất ngờ xảy đến – mất điện, căn
phòng tối om, khiến người lính vốn quen với ánh điện sáng trưng sửng sốt và hoang mang.
Ông buộc phải tìm một nguồn sáng khác, cánh cửa mở ra, vầng trăng tròn “đột ngột” chiếu
thẳng vào căn phòng tăm tối, chiếu thẳng vào tâm hồn của nhà thơ khiến ông giật mình.
“Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng”
Vầng trăng và nhà thơ dường như đối diện với nhau một cách trực tiếp và thẳng thắn nhất,
mặt đối mặt, bao kỷ niệm ùa về ùa về trong tâm trí của tác giả như bão tố khiến đôi mắt này
“rưng rưng” nước mắt, nào là vầng trăng tri kỷ vẫn một lòng một dạ sắt son giữa trời xanh,
xa hơn nữa là hình ảnh cánh đồng, bờ biển thuở ấu thơ, con sông xanh mát.
Và có lẽ nhớ nhất chính là hình ảnh cánh rừng, hình ảnh những năm tháng chiến đấu đầy
gian khổ nhưng giàu những kỷ niệm không thể nào quên. Mà chỉ duy nhất một vầng trăng tri
kỷ, vẫn bầu bạn, vẫn sẻ chia, vẫn dõi theo bước chân người lính chiến không rời.
“Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình”
Đối diện với trăng, nhà thơ dường như bị lép vế, bởi sự xấu hổ vì lỗi lầm vô tâm, nỡ bỏ quên
những ân tình trong quá khứ, để chạy theo cuộc sống xô bồ tấp nập, theo “ánh điện cửa
gương”, tách biệt với thiên nhiên, quên cả tri kỷ mà người đã từng “ngỡ không bao giờ quên”.
Trăng không hờn trách, không chỉ trích, trăng vẫn im lặng soi sáng, phủ lên nhà thơ thứ ánh
sáng đẹp đẽ và nhân hậu. Điều ấy càng khiến con người ta thêm “giật mình”, thêm ngỡ
ngàng, thậm chí là bàng hoàng về bản thân, sự im lặng đôi lúc chính là liều thuốc hữu hiệu,
khiến chúng ta phải tự soi xét lại.
Sự bao dung, dịu dàng và thủy chung của vầng trăng khiến nhà thơ hiểu ra được nhiều điều,
có lẽ cái “giật mình” ấy chính là sự tỉnh ngộ. Tỉnh ngộ để tìm lại bản thân, để sống tốt hơn,
để nhớ lại và trân quý những gì tốt đẹp trong quá khứ, để không sống vô tình, vô nghĩa, vầng
trăng chính là một tấm gương sáng về lòng thủy chung của người tri kỷ, để người lính soi vào
và suy ngẫm lại về bản thân mình suốt những năm qua đã sống thực sự nhân nghĩa hay chưa.
Vầng trăng xưa nay vốn đã rất quen thuộc với con người, trăng chiếu rọi xuống những ánh
sáng nhàn nhạt, dịu nhẹ như người bạn, người thân, người tri kỷ sẵn sàng sẻ chia, ôm ấp và
đồng hành với con người trên mọi nẻo đường. Ánh trăng của Nguyễn Duy là một bài thơ dẫu
câu từ có vẻ đơn giản, mộc mạc nhưng lại hàm súc những ý nghĩa lớn, ấy là bài học về sự
ghi nhớ những ân tình trong quá khứ, là lời khuyên, là tấm gương về lối sống nhân nghĩa,
luôn trân quý, biết ơn những người, những cảnh vật xưa cũ.
Bởi dù đó có là những điều quá vãng, nhưng mãi luôn là những giá trị quan trọng xây dựng
nên một tâm hồn, một cuộc đời, dễ dàng lãng quên đồng nghĩa với việc vô tâm, vô cảm với cuộc đời.
Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy mẫu 2
Cát trắng và Ánh trăng là hai tập thơ của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong kháng
chiến chống Mĩ. Một hồn thơ tươi trẻ tỏa mát bóng tre, như con sóng vỗ dòng sông thơ ấu
phảng phất hương vị đồng quê:
Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
Níu váy bà đi chợ Bình Lâm
Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trầm. (Đò Lèn)
Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Ánh trăng, Đò Lèn... là những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Duy.
Bài thơ Ánh trăng rút trong tập thơ cùng tên, được tác giả viết vào năm 1978, tại Thành phố
Hồ Chí Minh, 3 năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bài thơ như một lời tâm sự
chân thành: vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất nước mù nó còn gắn bó với tuổi
thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ, vầng trăng đối với mỗi chúng ta không bao giờ có
thể quên và cũng vô tình lãng quên.
Nếu như trong bài thơ Tre Việt Nam câu thơ lục bát có khi được tách ra thành 2 hoặc 3 dòng
thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng thì ở bài thơ Ánh trăng này lại có
một nét mới. Chữ đầu của dòng thơ, câu thơ không viết hoa. Phải chăng nhà thơ muốn cho
cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian, kỉ niệm?
Hai khổ thơ đầu nói về vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng thời chiến tranh, vầng trăng tuổi
thơ trải rộng trên một không gian bao la: "Hồi nhỏ sống với đồng - với sông rồi với bể". Hai
câu thơ 10 tiếng, gieo vần lưng (đồng - sông); từ "với" được điệp lại 3 lần nhằm diễn tả một
tuổi thơ đi nhiều, được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên, từng
được ngắm trăng trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể. Tuổi
thơ của chúng ta dễ có mấy ai được cái cơ may ấy như nhà thơ? Thuở bé nhà thơ Trần Đăng
Khoa cũng chỉ được ngắm trăng nơi sân nhà: "Ông trăng tròn sáng tỏ - Soi rõ sân nhà em...
Chỉ có trăng sáng tỏ - Soi rõ sân nhà em..." (Trăng sáng sân nhà em).
Tuổi thơ được ngắm trăng thích thế, như một chút hoài niệm xa vời. Hai câu thơ tiếp theo
nói về hồi máu lửa, trăng với người lính, trăng đã thành "tri kỉ":
hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ
"Tri kỉ": biết người như biết mình; bạn tri kỉ là người bạn rất thân, hiểu biết mình. Trăng với
người lính, với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn tri kỉ -
người chiến sĩ nằm ngủ dưới trăng "gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm" (Hồ Chí
Minh). Giữa rừng khuya sương muối, người chiến sĩ đứng chờ giặc tới "đầu súng trăng treo"
(Chính Hữu). Nẻo đường hành quân của người chiến sĩ nhiều đêm đã trở thành "nẻo đường
trăng dát vàng". Trăng đã chia sẻ ngọt bùi hân hoan trong niềm vui thắng trận với người lính
tiền phương. Đất nước trải qua những năm dài máu lửa, trăng với anh bộ đội đã vượt lên
mọi tàn phá hủy diệt của bom đạn quân thù:
Và vầng trăng, vầng trăng Đất nước
Vượt qua quầng lửa, mọc lên cao. (Phạm Tiến Duật)
Các tạo nhân ngày xưa thường "đăng lâu vọng nguyệt", còn anh hộ đội Cụ Hồ một thời trận
mạc đã nhiều phen đứng trên đồi cao, hành quân vượt núi cũng say sưa ngắm vành trăng
cao nguyên. Thật là thú vị khi đọc vần thơ Nguyễn Duy vì nó đã mở ra trong lòng nhiều người
một trường liên tưởng: "hồi chiến tranh ở rừng - vầng trăng thành tri kỉ".
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của
cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Lại một vần lưng nữa
xuất hiện - một ẩn dụ so sánh làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn nhiên người lính những
năm tháng ở rừng. Đó là cốt cách của các anh:
Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ.
Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành "vầng trăng tri kỉ", "vầng
trăng tình nghĩa" ngỡ như không bao giờ có thể quên. Một ý thơ làm động đến đáy tâm hồn,
như một sự thức tỉnh lương lâm đối với những kẻ vô tình: "Ngỡ không bao giờ quên - vầng trăng tình nghĩa".
Sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ. Hoàn cảnh sống đổi thay, con người dễ thay đổi, có
lúc để trở nên vô tình, có kẻ dễ trở thành "ăn ở bạc". Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành
phố, được trưng diện và xài sang: ở buyn đinh, cao ốc, quen ánh điện, cửa gương... và "vầng
trăng tri kỉ", "vầng trăng tình nghĩa" đã bị người lãng quên, dửng dưng. Cách so sánh thấm
thía làm chột dạ nhiều người: Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, trăng như người dưng đi qua, chẳng còn ai nhớ,
chẳng còn ai hay. Người có lương tâm, lương tri mới biết sám hối. Biết sám hối để tự hoàn
thiện nhân cách, tự vươn lên, hướng tâm hồn về ánh sáng và cái cao cả. Không dao lo búa
lớn, không đại ngôn, mà trái lại, giọng thơ thầm thì như trò chuyện, giãi bày lâm sự, nhà thơ
đang trò chuyện với mình. Chất trữ tình của thơ ca trở nên sâu lắng, chân thành.
Cũng như dòng sông có thác ghềnh, có quanh co, uốn khúc, cuộc đời cũng có nhiều biến
động li kì. Ghi lại một tình huống "cuộc sống thị thành" của những con người mới ở rừng về
thành phố, nhà thơ chỉ sử dụng 4 câu thơ 20 từ. Các từ "thình lình", "vội", "đột ngột" gợi tả
tình thái đầy biểu cảm. Có nhà triết học nói: "Cuộc đời dạy ta nhiều hơn trang sách". vần thơ
của Nguyễn Duy nói với ta rất nhiều:
Thình lình đèn điện tắt phòng buyn - đinh tối om vội bật mở cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.
Trăng xưa đã đến với người, vẫn "tròn", vẫn "đẹp", vẫn thủy chung với mọi người, mọi nhà, với
thi nhân, với người lính. Người ngắm trăng rồi suy ngẫm bâng khuâng: Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng, là bể như là sông, là rừng.
Nguyễn Tuân từng coi trăng là "cố nhân", nhà thơ Xuân Diệu, trong bài Nguyệt cầm viết cách
đây hơn 60 năm cũng có câu: "Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần". Trở lại với tâm trạng
người lính trong bài thơ này, một cái nhìn đầy áy náy xót xa: "Ngửa mặt lên nhìn mặt". Hai
chữ "mặt" trong vần thơ: mặt trăng và mặt người cùng "đối diện đàm tâm". Trăng chẳng nổi,
trăng chẳng trách, thế mà người lính cảm thấy "có cái gì rưng rưng". "Rưng rưng" nghĩa là vì
xúc động, nước mắt đang ứa ra, sắp khóc. Giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản lại,
trong sáng lại, cái tốt lành hé lộ. Bao kỉ niệm đẹp một đời người .
Ùa về, tâm hồn gắn bó, chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng, với bể, với
sông, với rừng, với quê hương đất nước. Cấu trúc câu thơ song hành, với biện pháp tu từ so
sánh, với điệp từ (là) cho thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa:... "như là đồng là bể -
như là sông là rừng". Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch chân thành, ở tính biểu cảm, ở tính
hình tượng và hàm súc, từ ngôn ngữ hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ
muốn tâm sự với chúng ta một cách nhẹ nhàng mà thấm thía.
Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí:
Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.
"Tròn vành vạnh" là trăng rằm, một vẻ đẹp viên mãn, "im phăng phắc" là im như tờ, không
một tiếng động nhỏ. vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ "kể chi người vô tình" là biểu tượng
của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi
hỏi đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như
nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thời kì chiến tranh chống Mĩ.
Ánh trăng là một bài thơ hay. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, tài hoa. Sự phong
phú vần điệu, ngôn ngữ trong sáng, giọng thơ tâm tình vừa hướng nội vừa hướng ngoại. Nhà
thơ tâm sự với người đọc những sâu kín nhất nơi lòng mình. Chất triết lí thâm trầm được
diễn tả qua hình tượng "ánh trăng" đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ.
Không nên sống vô tình. Phải thủy chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với bạn bè, đồng
chí, với nhân dân - đó là điều mà Nguyễn Duy nói thật hay, thật cảm động qua bài thơ này.
Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy mẫu 3
Ánh trăng từ lâu đã trở thành đề tài muôn thuở, khơi gợi dòng cảm xúc bất tận của các nhà
văn, nhà thơ. Ánh trăng qua mỗi dòng văn, dòng thơ của các tác giả khác nhau sẽ hiện lên
với những hình ảnh riêng biệt. Nếu như ánh trăng trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu là
"đầu súng trăng treo" đầy thơ mộng, thì ánh trăng của Nguyễn Duy lại đem đến hình ảnh
ánh trăng như một người bạn tri kỉ trong những năm tháng gian lao chống giặc.
Tác phẩm “Ánh trăng” được nhà thơ Nguyễn Duy sáng tác vào năm 1978 khi đất nước đã
giải phóng được khoảng ba năm. Bước ra khỏi cuộc sống chiến đấu gian khổ đề sống những
ngày tháng hòa bình, độc lập, con người ta thường dễ dàng lãng quên đi những quá khứ gian
lao mà tình nghĩa của một thời. Bởi vậy, để nhắc nhở chính mình cũng như mọi người,
Nguyễn Duy đã sáng tác nên bài thơ này, trong đó hình ảnh ánh trăng chính là sự ẩn dụ cho
một người chứng kiến những khó khăn, gian khổ ấy.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã có thấy sự gắn bó giữa bản thân và vầng trăng:
''Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ''
Trăng ở bốn câu thơ đầu được nhắc đến những cùng với hình ảnh đồng, sông, bể gợi lên
không gian bao la nhưng đầy thân quen của những năm tháng ấu thơ, kết hợp với giọng kể
thủ thỉ, tâm tình ' hồi nhỏ', ''hồi chiến tranh'' đã đưa người đọc trở về quá khứ đã rất xa, một
quá khứ đầy ắp kỷ niệm của tác giả. Điệp từ ''với' như gắn kết ý thơ nhưng cũng là gắn kết
con người với thiên nhiên, với vũ trụ, với vầng trăng tri kỷ. Đến khi ra chiến trường, trăng
thành người bạn tri kỉ, gắn bó. Ánh trăng khi ấy là ánh sáng trong đêm tối chiến tranh, là
niềm vui bầu bạn của người lính trong gian lao của cuộc kháng chiến.
''Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.''
Với phép liên tưởng đầy nghệ thuật ''trần trụi với thiên nhiên'' cùng lối so sánh độc đáo ' hồn
nhiên như cây cỏ' đã cho người đọc chúng ta sự ấn tượng về ánh trăng chân thành, không
chút giả tạo và đầy tình nghĩa trong quá khứ. Ánh trăng ở trên trời, luôn hướng ánh sáng
xuống thế gian làm bạn với các đồng chí, cũng chính vì vậy mà nhà thơ đã đinh ninh rằng
bản thân sẽ chẳng bao giờ quên được ánh trăng nơi núi rừng ấy. Thế nhưng từ ' ngỡ' lại như
báo trước cho sự chuyển biến trong suy nghĩ, tâm trạng và thái độ của nhà thơ.
Chiến tranh qua đi, đất nước ngày càng phát triển, đời sống ngày càng được cải thiện. Và
như một lẽ thường tình, hoàn cảnh sống thay đổi, lòng người cũng dễ dàng đổi thay:
''Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường''
Nếu như trước đây ở trong rừng tối, những người chiến sĩ chỉ có ánh trăng làm bạn, ánh
trăng soi rọi cho chiến sĩ sinh hoạt, thì bây giờ khi đã về thành phố, ánh trăng được thay thế
bằng ánh đèn điện. Ánh đèn điện như làm lu mờ đi những tia sáng dịu nhẹ, chân thật phát ra
từ vầng trăng trên đỉnh đầu. Ánh trăng vẫn vậy, vẫn tỏa sáng và ngày ngày hiện hữu trong đời
sống con người, chỉ duy nhất có lòng người là đổi thay. Cái bạc bẽo, vô tình đến với người ta
một cách từ từ, kín đáo, khó nhận ra: Từ' vầng trăng tri kỉ', ''vầng trăng tình nghĩa ''bỗng
chốc trở thành ' người dưng qua đường' lúc nào không hay. Chỉ với hình ảnh so sánh "vầng
trăng' với ''người dưng qua đường' cũng đủ để thấy được thái độ thờ ơ, vô tâm của con
người với người bạn của mình năm xưa. Nghe mới thật xót xa làm sao, khi mà chỉ với vài ánh
đèn điện ở nơi phố thị xa hoa đã làm cho con người quên đi vầng trăng tình nghĩa sát cánh
bên mình những năm tháng khó khăn gian khổ. Có lẽ vầng trăng sẽ mãi đi vào lãng quên
nếu không có sự kiện thành phố bị mất điện:
''Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn''
Khoảnh khắc ấy như mở ra cảm xúc vỡ òa trong lòng tác giả. Các từ "thình lình", "vội", "đột
ngột" như diễn tả tâm trạng gấp gáp của tác giả. Chỉ khi không còn đèn điện, người ta mới
“vội” bật tung cửa sổ để rồi “đột ngột” phát hiện ra vầng trăng tròn tỏa sáng lung linh vẫng
đang hiện hữu. Chỉ khi không còn thứ ánh sáng nhân tạo kia, người ta mới nhận ra người
bạn lâu năm vẫn đứng ở đó, vẹn nguyên, thủy chung và tròn đầy. Cuộc hội ngộ ấy đã thức
tỉnh lương tâm con người, để từ đó tác giả thấy day dứt, suy tư, bao kỉ niệm xưa bỗng chốc ùa về:
"Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng, là bể như là sông là rừng'
Nhà thơ lặng lẽ đối diện với vầng trăng trong tư thế im lặng, có phần thành kính: ''ngửa mặt
lên nhìn mặt'. Nếu sự đối diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự say đắm trước vẻ đẹp của
đêm trăng, là một khát khao mãnh liệt được chạm tới trăng, được hoà mình vào trăng,vào
thiên nhiên: ''Người ngắm trăng soi ngoài cửa / Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ', thì ở
Nguyễn Duy, sự đối diện ấy là đối diện với quá khứ, với sự ăn năn, day dứt với người bạn tri kỉ
của mình năm xưa. Nhìn trăng, nhân vật trữ tình cũng như nhìn thấy chính mình trong quá
khứ để rồi nhận ra giá trị cũng như vẻ đẹp vầng trăng - người bạn năm nào của mình:
' Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình''
Ở đây, tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa để diễn tả vầng trăng như đang giận hờn, trách
móc: "kể chi người vô tình". Nhưng liệu có phải vầng trăng đang giận hờn hay không, hay đó
chính là sự trách móc của chính tác giả đối với bản thân mình? Đằng sau cánh cửa, vầng
trăng xuất hiện ' tròn vành vạnh'' không chút thay đổi. Trăng lặng lẽ nhưng rất nhân hậu, bao
dung, không oán hờn, không trách móc người bạn đã từng quay lưng với mình. Thế nhưng,
cũng chính sự im lặng ấy lại khiến cho bản thân con người phải giật mình thức tỉnh. ''Giật
mình'' để không chìm vào lãng quên, để không đánh mất quá khứ, đánh mất người bạn tốt của mình.
Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, "Ánh trăng" của Nguyễn Duy
như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn
bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Điều đặc biệt, cả bài thơ ''Ánh trăng' chỉ có
duy nhất một dấu chấm khiến ta liên tưởng dòng hồi tưởng của Nguyễn Duy như một dòng
chảy xiết, nó cứ triền miên mãi không nguôi mà lại đầy sâu lắng. Qua đó, Nguyễn Duy cũng
muốn gửi gắm tới mọi người lời nhắc nhở về thái độ sống "ân tình, thuỷ chung', ''uống nước
nhớ nguồn'' của không chỉ riêng những người lính thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước
mà còn của tất cả mọi người, mọi thời - trong đó có chúng ta.
Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy mẫu 4
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chông Mĩ
cứu nước đau thương và oanh liệt của dân tộc. Bài thơ Ánh trăng được viết tại thành phố Hồ
Chí Minh năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong cuộc sống hòa bình, một số người đã từng trải qua thử thách, gian khổ, từng chứng
kiến sự hi sinh lớn lao của đồng đội và nhân dân, từng gắn bó sâu nặng với thiên nhiên
nhưng đã vội quên những gian nan, cơ cực và những kỉ niệm thắm thiết nghĩa tình của một thời chưa xa.
Bài thơ là một lần “giật mình” nhìn lại của Nguyễn Duy. Nó có tác dụng thức tỉnh bao người
trước cái điều vô tình ấy.
Ánh trăng trước hết là tiếng lòng, là sự tự vấn lương tâm của riêng Nguyễn Duy. Nhà thơ
đứng giữa hôm nay mà suy ngẫm về thời đã qua và từ tâm trạng riêng, tiếng thơ ông cất lên
như một lời nhắc nhở. Vầng trăng ở đây không chỉ là một hình ảnh cụ thể của đất trời mà
còn là biểu tượng cho một quá khứ đẹp đẽ, là mối liên hệ giữa tâm tình riêng và ý nghĩa phổ
biến rộng lớn, giữa nội dung cụ thể và tính khái quát của bài thơ.
Bài thơ không chỉ đề cập đến thái độ thờ ơ, quay lưng đối với những hi sinh, mất mát của
thời chiến tranh mà còn là chuyện nghĩa tình, nhớ về cội nguồn, nhớ về những người đã
khuất. Cao hơn nữa, Ánh trăng còn là lời nhắc nhở mỗi con người về lẽ sống chung thủy với chính mình.
Sự kết hợp khéo léo giữa tự sự với trữ tình đã tạo cho bài thơ dáng dấp của một câu chuyện
nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Giọng điệu tâm tình được thể hiện bằng thể thơ năm
chữ. Hai khổ thơ đầu là cảm xúc của nhà thơ về ánh trăng khi chiến đấu trong rừng. Khổ thứ
ba là cảm xúc trước vầng trăng trong thành phố hoà bình. Nhịp thơ ở phần này tự nhiên,
nhịp nhàng. Đến khổ thứ tư, giọng thơ thay đổi, thể hiện thái độ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng
của tác giả trước sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng trong đêm mất điện. Giọng thơ trầm
lắng, thiết tha ở hai khổ cuối rất hợp với sự hồi tưởng và suy tư lặng lẽ.
Dòng cảm xúc trữ tình của nhà thơ cũng tuôn chảy theo những lời tự sự. Nhà thơ kể rằng:
Hồi nhỏ sống với đồng,
Với sông rồi với bể;
Hồi chiến tranh ở rừng,
Vầng trăng thành tri kỉ.
Nhà thơ tưởng không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa ấy. Thế mà từ hồi về thành phố
ăn sung mặc sướng, quen sống giữa những tiện nghi hiện đại, mới chỉ có mấy năm mà đã
nhìn vầng trăng tình nghĩa như người dưng qua đường.
Sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư chính là tác nhân gợi nhớ để từ đó tác giả bộc lộ cảm xúc của mình:
Thình lình đèn điện tắt,
Phòng buyn-đinh tối om,
Vội bật tung cửa sổ,
Đột ngột vầng trăng tròn.
Ánh trăng toả sáng căn phòng. Chính vầng trăng xuất hiện bất ngờ trong bối cảnh ấy đã gây
ấn tượng mạnh, thổi bùng nỗi nhớ về một thời máu lửa chưa xa.
Vầng trăng là hình ảnh của thiên nhiên tươi mát, là người bạn tri kí của nhà thơ suốt thời
tuổi nhỏ và thời chiến tranh. Trong phút chốc, sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng giữa
thành phố làm sống dậy tâm trí nhà thơ bao kỉ niệm ấm áp nghĩa tình của những năm tháng
gian nan mà hào hùng. Hiển hiện rõ ràng trong tâm tưởng của một con người đang sống
giữa phố phường hiện đại là những khung cảnh thân thương gắn liền với hình ảnh vầng trăng
trong quá khứ. Tuy nhà thơ không khóc nhưng nỗi nhớ cứ rưng rức ở trong lòng.
Ngửa mặt nhìn lên mặt,
Có cái gì rưng rưng,
Như là đồng là bể,
Như là sông là rừng.
Vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của thiên nhiên mà cao hơn thế, nó là
biểu tượng của tinh thần lạc quan trong cuộc sống chiến đấu gian khổ, hiểm nguy mà nồng
đượm nghĩa tình và sáng ngời chân lí.
Khổ thư cuối bài thế hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng và cũng
là chiều sâu tư tương mang tính triết lí của tác phẩm:
Trăng cứ tròn vành vạnh như quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ. Ta có thể hiểu
khác đi là những người cầm súng bảo vệ Tổ quốc đã ngã xuống trên mảnh đất này không
bao giờ tính toán thiệt hơn. Đất nước, dân tộc mãi mãi ghi nhớ công lao của họ. Ánh trăng
im phăng phắc không nói mà nói bao điều, nhắc nhở nhà thơ (và cả mỗi chúng ta) rằng: con
người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên và nghĩa tình trong quá khứ thì
luôn tròn đầy, bất diệt.
Bài thơ Ánh trăng là lời tự nhắc nhở của Nguyễn Duy về thái độ, tình cảm của mình đối với
quá khứ gian khổ hào hùng của đất nước.
Tuy nhiên, bài thơ không phải là lời nhắc nhở riêng ai, mà nhắc nhở cả một thế hệ đã từng
trải qua những năm tháng gian khổ của chiến tranh, từng gắn bó với thiên nhiên, được nhân
dân đùm bọc, che chở, nay được may mắn sống trong hoà bình thì đừng bao giờ quên quá
khứ. Hơn thế, bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề thái độ
trân trọng và biết ơn đối với quá khứ, những người đã khuất và đối với cả chính mình. Bài thơ
nằm trong mạch cảm xúc uống nước nhớ nguồn. Đây là truyền thông tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam ta tự bao đời.
Phân tích Ánh trăng của Nguyễn Duy mẫu 5
Nguyễn Duy thuộc thế hệ làm thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước. Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài “Tre Việt Nam”. Bài “Hơi ấm ổ
rơm” của ông đã từng đoạt giải hưởng báo Văn nghệ. “Ánh trăng” cũng là một trong những
bài thơ được nhiều độc giả yêu thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ.
Qua bài thơ, tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về một lẽ sống cao quý
trong cuộc đời của mỗi con người.
Khổ thơ mở đầu như những lời tự sự ghi lại những dòng hồi ức của tác giả về quá khứ:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông, biển cả.
Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng ở bên cạnh. Nhưng phải đến khi ở rừng, nghĩa là lúc tác giả
sống trên tuyến đường Trường Sơn, xa gia đình, quê hương, vầng trăng mới thành “tri kỷ”.
Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau, hiểu biết, thông cảm lẫn nhau. Điệp từ
“hồi”, “với” diễn tả cuộc sống nhiều biến động của một con người. Điều ấy chứng tỏ nhà thơ
đã đi nhiều, trải nhiều… Qua những hình ảnh không gian “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng”, tác
giả đã diễn tả tinh tế sự vận động của thời gian gắn bó với sự trưởng thành của nhà thơ lớn lên từ đồng nội…
Tác giả như khắc đậm thêm tình cảm của mình đối với trăng:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Trăng có vẻ đẹp bình dị vô cùng, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn
nhiên. Trăng tượng trưng vẻ đẹp thiên nhiên nên trăng hòa vào thiên nhiên, hòa vào cây cỏ.
Hay nhà thơ còn muốn diễn tả sự gần gũi giữa mình với thiên nhiên, gần gũi với trăng: “Trần
trụi với thiên nhiên”. Tâm hồn người chiến sĩ lúc ấy cũng “hồn nhiên” vô tư đến độ “như cây
cỏ”… Vầng trăng “tri kỷ” đã đẹp rồi mà “vầng trăng tình nghĩa” còn cao quý biết nhường nào:
“ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Trăng mỗi tháng một lần theo chu kỳ tuần hoàn của thiên nhiên, lại đến với con người. Trăng
mang ánh sáng đến cho con người giữa ban đêm. Trăng tỏa ánh sáng xuống vòm cây, soi tỏ
những lối đi, tỏa vẻ đẹp dịu mát xuống sân nhà. Trăng làm vui vẻ trẻ con, làm ấm lòng người
già, trăng tạo mộng mơ cho đôi lứa, trăng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ với những
người lính ở rừng núi. Cái “tình nghĩa” vẹn toàn ấy của trăng làm sao con người có thể quên
được. Cách nhân hóa “vầng trăng thành tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” thể hiện tình cảm
nặng lòng của tác giả đối với trăng biết nhường nào!
Từ “ngỡ” ở đầu câu thơ thứ ba như báo trước một điều gì sẽ xảy ra trái với dự đoán và suy nghĩ ban đầu…
Điều ấy đã trở thành hiện thực, điều “ngỡ không bao giờ quên” ấy bây giờ đã quên:
“Từ hồi về thành phố
…như người dưng qua đường”
Trước đây tác giả sống với sông, với bể, với rừng, bây giờ môi trường sống đã thay đổi. Tác
giả về sống với thành phố. Đời sống cũng thay đổi theo, quen “ánh điện, cửa gương”. “Ánh
điện” và “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng… dần dần “cái
vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị tác giả lãng quên. Phải chăng “vầng trăng” ở đây tượng
trưng cho những năm tháng gian khổ ấy. Đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ
những tháng năm gian khổ ấy. “Trăng” bây giờ thành “người dưng”… Hình ảnh nhân hóa ở
đây thật sinh động “đi qua ngõ”. Trăng đâu có cao xa vời vợi, trăng vẫn gần gũi thân thương
vậy mà con người thật lạnh lùng dửng dưng… Rõ ràng hoàn cảnh tác động đến con người
thật mạnh mẽ. Bởi thế người đời vẫn thường nhắc nhau: “Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay – Ra
sông nhớ suối có ngày nhớ đêm”.
Khổ thơ này có kết cấu đối lập, một bên là “ánh điện, cửa gương” sáng lòa, lộng lẫy, rực rỡ
và một bên là “ánh trăng” dịu ngọt, thanh nhẹ. Đặt những hình ảnh có vẻ đối lập bên nhau,
Nguyễn Duy muốn bộc lộ kín đáo một lời tự thú chân thành, nghiêm khắc.
Bài thơ được phát triển đến một tứ thơ có chút kịch tính:
“Thình lình đèn điện tắt
…đột ngột vầng trăng tròn”
Cử chỉ “vội bật tung cửa sổ” lúc bấy giờ chỉ là phản xạ hết sức tự nhiên của một người quen
với ánh sáng điện nay lại bị giam trong bóng tối, mong có được một chút ánh sáng bên ngoài
cho căn phòng đỡ tối tăm hơn mà thôi. Nhưng may mắn thay cũng là trớ trêu thay, lúc ấy lại
có trăng. Trăng trở nên quý giá biết bao vào những khi mất điện. Và riêng tác giả, cái vầng
trăng đột ngột hiện trên khoảng trời kia đâu phải chỉ để thay thế trong khoảnh khắc cho sự
cố vừa rồi, mà nó còn làm xáo trộn tâm hồn thi sĩ:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
…như là sông, là rừng”
Trong câu thơ “Ngửa mặt lên nhìn mặt”, tác giả dùng đối xứng hai từ “mặt” rất hay. Đó là
nhìn mặt tri kỷ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu nay mình dửng dưng. Nguyễn Duy gặp lại ánh
trăng như gặp lại người bạn tuổi thơ, như gặp lại người bạn từng sát cánh bên nhau trong
những tháng năm gian khổ. Từ gợi tả “rưng rưng” diễn tả nỗi xúc động của thi sĩ… Những kỉ
niệm ngày nào bấy lâu tưởng bị chôn vùi nay lại ùa về đánh thức tâm hồn người trong cuộc:
“như là đồng là bể
như là sông, là rừng”
Điệp từ “như là” cùng với nhịp thơ gấp bộc lộ rất rõ cảm xúc đang trào dâng mạnh mẽ…
Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy đưa người đọc cùng đắm chìm trong suy tư, trong chiêm
nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.”
Hình ảnh “vầng trăng” còn được nhà thơ nhìn lại “tròn vành vạnh” thật là đẹp, một cái đẹp
viên mãn không hề bị khiếm khuyết. Cái ánh sáng tròn đầy hay cũng là cái đẹp của tình
nghĩa thủy chung, nhân hậu mặc cho ai kia thay đổi, vô tình. Và cao quý biết bao bởi vì
“vầng trăng” ngày nào còn tỏ ra bao dung độ lượng: “kể chi người vô tình”. Nhưng chính ánh
trăng vô ngôn, không một lời trách cứ ấy đã khiến cho “người vô tình” thấy rõ cái khiếm
khuyết của bản thân mà không khỏi “giật mình” tỉnh ngộ:
“ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Ánh trăng hay là ánh nhìn? Vừa nghiêm khắc, lạnh lùng, vừa bao dung độ lượng, “sự im lặng
đáng sợ” ấy khiến kẻ trong cuộc phải “giật mình” vì đến lúc này mới nhận rõ mình hơn. Cái
“giật mình” chân thành thay cho một lời sám hối. Đó chính là cái hay và độc đáo của bài thơ
có sức cảm hóa lòng người.
Bài thơ gây được xúc động bởi cách diễn tả như một lời tâm sự chân thành, lời tự nhắc nhở
có giọng trầm tĩnh mà lắng sâu. Khổ thơ cuối của bài thơ mang chiều sâu tư tưởng triết lý:
vầng trăng cứ tròn đầy lặng lẽ, “kể chi người vô tình”, là biểu tượng của sự bao dung độ
lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi sự đền đáp. Đó
cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ
cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc.
Với một giọng điệu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng kết hợp với thể thơ ngũ ngôn và việc không viết
hoa chữ cái đầu dòng thơ – thể thơ phù hợp với việc tự sự, bộc lộ cảm xúc, bài thơ “Ánh
trăng” đã thực sự gây nhiều xúc động đối với bao độc giả. Có lẽ ai đã từng đọc “Ánh trăng”
cũng đều nghiêm khắc với chính mình như thế vì một thời quá khứ chưa được đánh giá
đúng mức. Vâng, muộn còn hơn không, mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm với những gì
thuộc về quá khứ. Hẳn “Ánh trăng” không chỉ làm “giật mình” một Nguyễn Duy mà thôi!
Phân tích bài thơ Ánh trăng mẫu 6
Vầng trăng dịu mát, sáng trong, vầng trăng huyền diệu tròn đầy tự bao giờ đã trở nên thân
thương gắn bó với con người. Nếu vị thi tiên Lí Bạch khi xa quê đã không thể quên ánh trăng trên đỉnh núi Nga Mi:
“Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Nếu Bác kính yêu coi trăng như bè bạn tri âm “Trăng vào cửa sổ đòi thơ”thì Nguyễn Duy -
nhà thơ trưởng thành thời kháng chiến chống Mỹ lại coi trăng là nguồn sáng lung linh để
thanh lọc tâm hồn, để ăn năn hối lỗi. Bài thơ “Ánh trăng” (1978) của ông được khơi nguồn từ
những cảm xúc chân thành và cao đẹp như thế.
Bài thơ mang dáng dấp như một câu chuyện với lời kể mở đầu tự nhiên,trôi chảy về mối
quan hệ gán bó giữa trăng và nhà thơ:
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Chỉ bằng 4 câu thơ ngắn Nguyễn Du đã dựng lại được cả thời niên thiếu cho đến lúc trưởng
thành, 1 không gian thân thương: đồng, sông, bể. Từ không gian đầy ắp kỉ niệm ấy ta nhận ra
niềm say mê, sảng khoái của con người trong cái mát lành dịu ngọt ân tình của quê hương
qua ánh trăng lai láng trên cánh đồng, dòng sông, bãi biển. Không gian cứ mở rộng mãi ra,
bao la bát ngát theo nhịp trưởng thành của con người. Thời gian không ngừng vận động và
cậu bé lớn lên từ quê hương ấy đã trở thành chiến sĩ. Khi xa quê, đi vào cuộc chiến, nỗi nhớ
thương chợt hiện về quay quắt tâm hồn, lúc này người và trăng lại càng gắn bó - ánh trăng là
bạn tri kỉ chia sẻ mọi gian nan thiếu thốn, mọi buồn vui sướng khổ trong những năm tháng
chiến tranh của tác giả. Như vậy là tuổi thơ chớp mắt đã trôi qua. Cái còn lại lúc này là vầng
trăng thật đơn sơ, chung thuỷ.
Hai chữ hồi ở câu thơ thứ nhất và thứ 3 làm cho khổ thơ như có một chỗ dừng chân. Cái
dừng chân giữa ranh giới của ấu thơ và trưởng thành. Ánh trăng soi rọi về quá khứ khiến
tiếng nói tâm tình trở nên sâu lắng thiết tha
Trần trụi giữa thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa
Trăng hồn nhiên như trẻ thơ, trăng chân thành như bè bạn, trăng gắn bó sâu nặng với con
người mà không trở lực nào có thể ngăn cách. Những năm tháng con người sống thật nhất
với mình, trần trụi, hồn nhiên là khi con người ta trân trọng, đinh ninh một lời thề son sắt
“ngỡ không bao giờ quên, cái vầng trăng tình nghĩa” Từ ngỡ là chiếc cầu nối ngôn từ vừa
khép lại thời qua khứ vừa mở ra thời hiện tại tạo nên sự chuyển tiếp cho khổ thơ thứ 3:
Từ hồi về thành phố
Quen đèn điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện cửa gương, với những vật dụng ngày
càng hiện đại dường như đã làm lu mờ ánh sáng của vầng trăng. Tác giả đã tạo ra sự đối lập
giữa vầng trăng nghĩa tình trong quá khứ với vầng trăng xa lạ như người dưng qua đường bây
giờ. Là ánh trăng đã khác ánh trăng của ngày xưa? Không! Ánh trăng vẫn thế vẫn gần gũi
thân thương dịu dàng, chỉ có hoàn cảnh sống của con người đã thay đổi khiến họ không
nhận ra vẻ đẹp của vầng trăng tri kỉ ngày xưa hay chính họ đã thờ ơ, họ quên đi. Thật xót xa
cho vầng trăng tuổi thơ vầng trăng đi bên nhau một thời chinh chiến như tri kỉ, vậy mà khi
người ta sống giữa phồn hoa đô thị thì nó lại bị lãng quên. Mấy chục năm về trước Tố Hữu
cũng đã từng băn khoăn, trăn trở về sự thay đổi của lòng người như thế trong bài thơ Việt Bắc:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng
Phố cao còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ ánh trăng giữa rừng
Ánh trăng đã được tác giả nhân hoá để gửi gắm suy tư về nhân tình thế thái. Lời thơ so sánh
của Nguyễn Duy “vầng trăng đi qua ngõ, như người dưng qua đường” như xoáy vào lòng
người một nỗi niềm xót xa nhức nhối, bới sự phản bội ở đây không chỉ với lịch sử, với thiên
nhiên mà còn với chính bản thân mình nữa.
Cuộc đời như một dòng sông khi dịu êm lặng lẽ, lúc cuộn sóng trào dâng, bởi thế cuộc sống
thời hiện đại sao có thể êm đềm mãi cho được:
Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn-đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn
Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ của toàn bài, là sự chuyển biến có ý nghĩa bước
ngoặt của mạch cảm xúc, bộc lộ rõ chủ đề tư tưởng của bài thơ. Ở đây không chỉ là sự thay
thế ánh trăng cho ánh điện mà còn là sự thức tỉnh trong tiềm thức của con người. Các từ
“bật tung”, “đột ngột” diễn tả cảm xúc mạnh mẽ bất ngờ có cái gì như là thoảng thốt âu lo
trong hình ảnh”Vội bật tung cửa sổ” Vầng trăng ấy đâu phải chỉ khi đèn điện tắt mới xuất
hiện mà nó vẫn nguyên vẹn như thế, tròn đầy như thế, dịu lành như thế, vẫn lặng lẽ đi bên
cạnh cuộc đời con người, nó làm sáng lên cái góc tối đánh thức sự quên lãng trong cái đời
sống đủ đầy đến thừa thãi của con người
Trong khoảng khắc thình lình đối diện với vầng trăng, một thời kỉ niệm ân tình ngày xưa ùa về
“rưng rưng” sống dậy thổn thức, lay động da diết lòng người:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng
Hai chữ “mặt” trong một câu thơ là hai tấm lòng đang đối diện: mặt trăng và mặt người. Hay
chính là con người đang đối diện với chính lòng mình, với cái phần ân tình quá khứ mà mình
đã vô tình lãng quên. Có cái gì đó trào dâng lên trong lòng người, rưng rưng, cay xè và giọt lệ
như sắp tuôn trào bên hàng mi. Nhà văn Nam Cao đã từng nói rất đúng rằng: “Nước mắt là
tấm kính biến hình của vũ trụ” Nước mắt có thể thanh lọc tâm hồn con người, khi nào người
ta còn biết khóc là khi họ còn có một trái tim, một tấm lòng để rung động và để yêu thương.
Cái tốt lành trong sáng đã hé nở trong hai chữa “rưng rưng” nao lòng người ấy. Nguyễn Duy
gặp lại ánh trăng như gặp lại một không gian tình nghĩa: đồng bể, sông, rừng. Ánh trăng soi
rọi tâm hồn, khiến nhà thơ bừng tỉnh”
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Vầng trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình
Khổ thơ kết bài của bài thơ là hai vế đối lập mà song song. Đối lập giữa cái tròn đầy vạnh
vạnh của vầng trăng là hao khuyết thiếu hụt của kẻ đã vô tâm quên đi quá khứ - cái qua khứ
ân tình thuỷ chung mà họ “ngỡ không bao giờ quên”. Đối lập giữa cái im lặng độ lượng của
trăng là sự thức tỉnh trong lương tri con người. Đối lập giữa hiện tại và quá khứ. Suy nghĩ của
tác giả ở khổ thơ này đã được nâng lên tầm cao triết lí. Nếu ai đó có lúc quên đi những điều
thiêng liêng tốt đẹp của quá khứ thì phải có những lúc giật mình tỉnh thức trong hiện tại mới
mong đạt được những ân nghĩa tốt lành ở tương lai. Bởi đó là chân lí đã trở thành đạo lí của
người Việt ta: “Uống nước nhớ nguồn”
“Ánh trăng” nhẹ nhàng, trong sáng về câu chữ, tự nhiên, thuần thục về kết cấu, bình dị, dễ
hiểu về ý thơ, tha thiết trong giọng điệu. Bài thơ đã đem đến cho người đọc một bài học sâu
sắc: con người cần sống có trước có sau, có tình có nghĩa để không bao giờ phải giật mình
day dứt về những năm tháng vô tình hờ hững đã qua. Dù xã hội ngày càng văn minh, hiện
đại nhưng ánh trăng trên trời cao và cả ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn thật sự cần thiết với
mỗi con người bởi nó là tấm gương sáng nhất giúp chúng ta soi vào để nhận ra những gì
trong lành tinh khôi nhất của cuộc đời. Vầng trăng soi sáng những tâm hồn vô tình lãng quên.