Phân tích bài thơ Cảnh ngày xuân - Tác giả tác phẩm | Ngữ văn lớp 9

Sử dụng hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm, Nguyễn Du không những kể, tả mà còn biểu đạt xuất sắc tâm tư, tình cảm và cảm xúc của nhân vật chính cũng như góc nhìn của ông về thiên nhiên đất trời mùa xuân. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 9 444 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 9 0.9 K tài liệu

Thông tin:
8 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích bài thơ Cảnh ngày xuân - Tác giả tác phẩm | Ngữ văn lớp 9

Sử dụng hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm, Nguyễn Du không những kể, tả mà còn biểu đạt xuất sắc tâm tư, tình cảm và cảm xúc của nhân vật chính cũng như góc nhìn của ông về thiên nhiên đất trời mùa xuân. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

41 21 lượt tải Tải xuống
Phân tích bài thơ Cảnh ngày xuân - Tác giả tác phẩm | Ngữ
văn lớp 9
1. Thông tin đoạn trích Cảnh ngày xuân
1.1 Ví trí, thể loại của đoạn trích Cảnh ngày xuân
Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” nằm trong phần I của tác phẩm “Truyện Kiều”, sau đoạn
trích chị em Thúy Kiều, thuộc phần “Gặp gỡ đính ước”. Để nắm bố cục của toàn bộ
Truyện Kiều, các em học sinh có thể tham khảo tại đây.
Nội dung đoạn trích: gợi tả bức tranh thiên nhiên ngày xuân tuyệt đẹp và không khí lễ
hội nhộn nhịp, náo nhiệt trong tiết thanh minh. Đồng thời, đoạn trích cũng là tiền đề diễn
ra bối cảnh gặp gỡ giữa Thúy Kiều Kim Trọng, lời khóc thương của tác giả trước
số phận của Đạm Tiên. Qua hình ảnh thiên nhiên dưới góc nhìn của hai chị em Thúy
Kiều, đoạn trích đã thể hiện được phần nào tâm tư, tình cảm, cảm xúc của hai nhân vật
trong chuyến du xuân ấy.
1.2 Bố cục đoạn trích
Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” được chia theo 3 phần với nội dung như sau:
Phần 1: 4 câu thơ đầu – Bức tranh mùa xuân trong cảnh ngày xuân
Phần 2: 8 câu thơ tiếp theo – Miêu tả lễ hội diễn ra trong tiết thanh minh
Phần 3: 6 câu thơ cuối Cảnh sắc thiên nhiên trên đường chị em Kiều trở vsau chuyến
du xuân
2. Tóm tắt Cảnh ngày xuân
Đoạn trích thuộc phần đầu của tác phẩm, khi đó, gia đình Kiều vẫn đang sống và hưởng
thụ những ngày tháng êm đềm, hạnh phúc, chưa có biến cố hay bất kỳ tai ương nào xảy
ra với gia đình họ. Nhân ngày xuân và tiết Thanh minh đang diễn ra, hai chị em Kiều đã
đi trẩy hội để cùng nhau trải nghiệm không khí lễ hội cảnh sắc của mùa xuân tươi đẹp.
Cùng giống như bao nàng tiểu thư khác, hai chị em Kiều đã sửa soạn và diện cho mình
những bộ trang phục thật đẹp để tham gia vào lễ tảo mộ. Hòa cùng dòng người xe
ngựa nhộn nhịp, nô nức là khung cảnh thiên nhiên ngày xuân hiện lên với đầy sức sống,
sự tươi tắn và yên bình, đẹp đẽ. Trong không khí đông vui nhộn nhịp, qua đôi mắt “xanh
non biếc rờn” của những nam thanh, ntú, tài tử, giai nhân, cảnh sắc của mùa xuân
dường như được gợi lên một cách hết sức sinh động. Đó là những hình ảnh của những
cánh én bay lượn rập rờn như thoi đưa, là những cành lê trắng “điểm vài bông hoa”. Sự
mạnh mẽ, khỏe khoắn của nhịp cánh én bay lẽ đang thể hiện rằng, mùa xuân của
thiên nhiên đã đến độ viên mãn tròn đầy nhất. Có vẻ như mùa xuân trong tiết thanh minh
chính là thời điểm đẹp nhất để bắt đầu cho một mối quan hệ tình yêu, là thời điểm vàng
cho những tình cảm mới chớm nở được phép căng trào và đơm hoa, kết trái.
Khi bóng chiều đã ngả về tây thì cũng là lúc hai chị em kết thúc chuyến du xuân và cùng
nhau ra về. Hai chị em thong dong đi dọc theo con suối nhỏ với dòng nước lững lờ trôi,
bắc qua suối một cây cầu. Buổi sáng mùa xuân nhộn nhịp bao nhiêu thì phong cảnh
buổi chiều mùa xuân lại thanh tĩnh và mang dáng vẻ điềm đạm bấy nhiêu. Vẻ yên bình,
trầm tĩnh y của thiên nhiên cũng chính là cảm xúc thoáng chút ưu tư, suy nghĩ của nhân
vật chính.
Thông qua trải nghiệm du xuân của chị em Kiều, Nguyễn Du khéo léo gợi tả, tôn vinh
một nét truyền thống văn hóa xa xưa của người Việt Nam mỗi dịp xuân về. Qua đoạn
trích “Cảnh ngày xuân”, tác giả không chỉ vẽ lên bức tranh ngày xuân vui tươi, rộn ràng,
náo nức còn thể hiện được đâu đó chút tâm trạng buồn phiền, phản chiếu nội tâm
nhân vật. thể thấy, Nguyễn Du bằng sự cảm nhận tinh tế tài hoa trong cách sử
dụng hệ thống ngôn ngữ thơ, ông đã thành công trong việc xây dựng bối cảnh cho câu
chuyện, đồng thời bộc lộ những tâm tư sâu sắc của nhân vật chính.
3. Phân tích Cảnh ngày xuân
3.1 Phân tích 4 câu thơ đầu: Bức tranh mùa xuân trong cảnh ngày xuân
Ngay từ 2 câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du đã gợi ra không gian thời gian trôi qua của
mùa xuân:
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.”
Sử dụng hình ảnh ẩn dụ “con én đưa thoi” quen thuộc vào những ngày xuân, câu thơ
vừa thể hiện vẻ đẹp của không gian, vừa gợi lên sự chảy trôi rất nhanh của thời gian:
Đó là hình ảnh tả thực những chú chim én bay lượn trên bầu trời ngày xuân. Trên nền
trời xanh thoáng đãng ấy, những cánh én từ phương Nam về chao liệng như thoi đưa,
cùng nhau múa vũ điệu chào đón mùa xuân của thiên nhiên.
Hình ảnh những cánh én gợi cho người đọc hình dung về một bức tranh thiên nhiên
với bầu trời cao rộng và một không khí ấm áp của sự đoàn viên, sum vầy
Cánh én bay nhanh và nhiều nthoi đưa là hình ảnh ẩn dụ phản chiếu sự nhanh, gấp
của thời gian. Cũng giống như cánh chim vụt bay, thời gian những bước đi nhanh,
vội, chả mấy chốc mà mùa xuân tươi đẹp này sẽ qua đi
Sự nhanh chóng của thời gian tiếp tục được thể hiện qua những vần thơ:
“Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.
Sử dụng từ “thiều quang” tác dụng tả thực thời tiết ấm áp của mùa xuân khi được
những tia nắng lấp lánh chiếu rọi
Câu thơ gợi lên một không gian ngày xuân tươi đẹp, trong lành tràn đầy sức sống
tựa như đang dang tay đón những tia nắng xuân vàng dịu được mẹ thiên nhiên ban phát
xuống vạn vật.
Nhắc đến thời điểm mùa xuân vào tháng ba, khoảng thời gian mà v đẹp sắc xuân đạt
đến độ viên mãn nhất, rực rỡ nhất.
=> Thông qua hệ thống hình ảnh thơ trong 2 câu thơ đầu của đoạn trích không những
gợi lên sự chuyển động nhanh, vội của thời gian còn thể hiện phần nào tâm trạng,
cảm xúc của hai chị em Thúy Kiều, có chút tiếc nuối và lưu luyến. Qua đó, người đọc đã
hình dung được một bức tranh thiên nhiên của một ngày xuân tươi đẹp, ấm áp, đồng thời
cảm nhận được bao tâm trạng, nỗi niềm của nhân vật trữ tình.
Trong hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã tái hiện một bức tranh mùa xuân sinh động,
mở rộng ra cả không gian trời và đất với hai gam màu chủ đạo là xanh, trắng:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành trắng điểm một vài bông hoa.”
Sử dụng hình ảnh “cỏ non” quen thuộc gần gũi, song hình ảnh đã đem lại nhiều nét
đặc sắc cho bức tranh xuân:
Hình ảnh giúp gợi ra trước mặt người đọc một không gian mênh mông. Trong đó, m
nền cho bức tranh chính là thảm cỏ non tươi xanh mơn mởn, trải dài đến tận chân trời,
tạo ra hai mảng màu xanh: một là của trời, một của đất
Cỏ non màu xanh của cỏ non tác dụng trong việc gợi liên tưởng đến sức sống
tràn trề của mùa xuân, mùa của vạn vật sinh sôi, bắt đầu một hành trình sống mới
Sử dụng từ “tận”, Nguyễn Du đã biến không gian xuân trong những câu thơ được m
rộng ra bao la, bát ngát
Sử dụng hình ảnh thơ “cành trắng điểm”, tác giả đã thhiện khả năng tài tình của mình
trong việc vận dụng nghệ thuật bút pháp chấm phá:
Trên nền màu xanh non của cỏ y, xanh trong của trời đất những bông hoa trắng,
tạo ra sự tinh khôi, nổi bật vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt của vạn vật trong mùa xuân.
Đồng thời khiến cho không gian như thoáng đạt, nhẹ nhàng và thuần khiết hơn.
c giả sử dụng từ “điểm” thay vì các động từ khác. Điều này giúp gợi sự thanh thoát
của những cành lê. Những cành tựa như đôi tay của người họa sĩ, chủ động tạo nét
chấm phá, điểm thêm nét vào bức tranh cảnh vật nhằm thêm phần sống động, hồn
hơn
Sử dụng biện pháp đảo ngữ từ “trắng” lên trước động từ “điểm”, c giả muốn nhấn
mạnh và màu sắc của cành hoa lê, làm nổi bật màu trắng tinh khôi của hoa lê, màu của
sự kết tinh từ tinh hoa của trời đất.
Trong bức tranh xuân sinh động ấy, tác giả chỉ sử dụng 2 gam màu nhưng đã tạo ra
sự hòa phối rất đỗi hài hòa giữa màu xanh của cỏ và sắc trắng của hoa lê.
=> Bằng t pháp chấm phá tài tình, qua 4 câu thơ đầu của đoạn trích, ta thấy vẻ đẹp
mùa xuân hiện lên không hmang tính ước lệ mang vẻ đẹp rất thực, rất đẹp đẽ.
Thành công của Nguyễn Du là đã phác họa được một bức tranh ngày xuân khoáng đạt,
tinh khôi, trong trẻo. Từ đó, giúp người đọc thể cảm nhận một bức họa thiên nhiên
hoàn hảo, đầy sức sống đang ngay trước mắt. Đồng thời, cảm nhận được cảm giác
tươi vui, phấn chấn xen lẫn chút bâng khuâng, tiếc nuối trong lòng nhân vật trữ tình.
3.2 Phân tích 8 câu thơ tiếp theo: Miêu tả lễ hội diễn ra trong tiết thanh minh
a. Hai câu thơ đầu: Những hoạt động diễn ra trong tiết thanh minh
Hai câu thơ miêu tả những hoạt động diễn ra trong tiết thanh minh đã thể hiện khả năng
sử dụng ngôn từ điêu luyện của Nguyễn Du:
“Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ tảo mộ hội đạp thanh.”
Sử dụng nghệ thuật tiểu đối, tác giả tách hai từ “lễ hội” ra thành “lễ” và “hội” để giải thích
về hai hoạt động diễn ra trong tiết thanh minh:
“Lễ tảo mộ” hay “ltảo mộ” hoạt động con cháu đi viếng sửa sang phần
mộ của người thân, gia đình, tổ tiên. Lễ tảo mộ là một nét văn hóa truyn thống, thể hiện
sự tri ân của những nam thanh, nữ tú với tổ tiên trong những ngày du xuân.
“Hội đạp thanh” hay “hội đạp thanh” ý muốn miêu tả việc đi chơi xuân chốn đồng
quê thường phải giẫm lên cỏ xanh. Đây là ngày hội vui nhất của mùa xuân đối vi những
nam thanh nữ tú để tìm kiếm đối nhân, tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau.
=> Có thể hiểu trong câu thơ trên, “lễ” và “hội” diễn ra trong tiết thanh minh: một là đi tảo
mộ (lễ) hai đi chơi xuân ở chốn đồng quê (hội). Tuy là hai hoạt động văn hóa khác biệt
nhưng chúng lại có một sự giao hòa độc đáo trong thơ của Nguyễn Du.
b. Sáu câu thơ tiếp theo: Không khí của lễ hội ngày xuân
Bốn câu thơ tiếp theo không khí tưng bừng, tấp nập của lễ hội mùa xuân, được gợi lên
qua những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm:
“Gần xa nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”
Sử dụng hệ thống danh từ: “yến anh”, “chị em”, “tài tử”, “giai nhân”, tác giả đã thể hiện
sự đông vui, nức, tấp nập trong ngày hội xuân – nơi tất cả mọi người đều háo hức
tham gia
Sử dụng các động từ: “sắm sửa”, “dập dìu, tác giả đã gợi tả không khí rộn ràng, náo
nhiệt của ngày hội. Từ già trẻ, gái trai đều chọn cho mình những bộ trang phục đẹp nhất
để cùng nhau tham gia và lễ hội mùa xuân. Trước mắt người đọc như hiện lên một bức
tranh đầy náo nhiệt với âm thanh của người người, dập dìu, sánh vai cùng nhau đi chơi
xuân.
Sử dụng tính từ: “gần xa” và từ láy “nô nức” đã góp phần bộc lộ tâm trạng hồ hởi, phấn
khởi của người đi hội xuân.
Sử dụng khéo léo hình ảnh ẩn dụ “nô nức yến anh” đã góp phần làm nổi bật, đậm
không khí nhộn nhịp của khung cảnh lễ hội xuân:
Hình ảnh giúp gợi n cảnh tượng về những đoàn người nối đuôi nhau, vừa đi vừa trò
chuyện, đông đúc và dập dìu như từng bầy chim yến, chim oanh ríu rít.
Phép ẩn dcòn thể hiện âm thanh của những cuộc trò chuyện, giao lưu tình tứ của
những đôi uyên ương trong lễ hội ngày xuân.
Sử dụng hình ảnh so sánh trong câu thơ “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”, tác
giả đã vẽ lên khung cảnh đông đúc, không khí tưng bừng, náo nhiệt của buổi du xuân
diễn ra trong tiết thanh minh
Bên cạnh không khí tưng bừng, huyên náo ấy, tác giả đã khéo léo xen vào một khoảng
lặng, một nốt trầm trong giọng điệu thơ, khiến người đọc cảm nhận được tâm trạng con
người như chùng xuống cùng lời thơ:
“Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng rắc tro tiền giấy bay.”
Chỉ bằng hai câu thơ, tác giả dường như đã làm sống lại những nét văn hoá xưa của
người Việt Nam, đó tục lệ đốt vàng được thể hiện qua hình ảnh “ngổn ngang
đống” “tro tiền giấy bay”. Trong đó, trọng tâm của khung cảnh sự xuất hiện của
những nam thanh, nữ đang cùng nhau sửa sang, rắc vàng vó, hóa tiền giấy cho những
người đã khuất, thực hiện nghi lễ của lễ tảo mộ. Tuy chỉ nghi thức nhưng những chi
tiết như “thoi vàng” và “tiền giấy” đã góp phần tạo ra một bầu không khí ngày xuân thêm
phần trang trọng và tôn nghiêm.
Mặt khác, việc tác giả đề cập tới nghi thức truyền thống đã thể hiện một niềm tự hào,
tôn vinh truyền thống văn hóa, đạo lí “uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp của dân tộc Việt ta.
Đó là một lối sống ân nghĩa thủy chung cần được duy trì ngàn đời sau
=> Qua buổi du xuân của hai chị em Thúy Kiều, tài năng của Nguyễn Du đã được chứng
minh. Ông không chỉ một người có con mắt quan sát tinh tế còn sự am hiểu, tôn
trọng sâu sắc đối với những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
3.3 Phân tích 6 câu thơ cuối: Cảnh sắc thiên nhiên trên đường chị em Kiều trở về sau
chuyến du xuân
nức náo nhiệt thể nhưng không ai thể ngừng được bước đi của thời gian,
cuộc vui nào rồi cũng đến hồi kết. Trên một nền không gian chiều xuân n bình, thanh
khiết, hai chị em Kiều dắt tay nhau trở về:
“Tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn đan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
Đối lập với sự nhộn nhịp trong lễ hội mùa xuân, trên đường trở về của hai chị em, mọi
chuyển động đều diễn ra nhẹ nhàng.
Trái với bước đi vội vàng cùng sự trôi chảy nhanh của thời gian ở phần mở đầu đoạn
trích, lúc này sự chuyển động của thời gian đã trở nên chậm rãi và nhẹ nhàng. Điều này
được cảm nhận nhất qua câu thơ “Tà bóng ngả về y”. Sau khi ban phát “thiều
quang” cho ngày xuân ấm áp, mặt trời đã từ từ khuất bóng sau những đám mây, nhường
chỗ cho màn đêm buông xuống.
Nét đặc sắc trong hình ảnh thơ “tà tà bóng ngả về tây”:
Sử dụng từ láy “tà tà” đã thành công trong việc gợi tả rõ nét hình ảnh mặt trời đang từ
từ lặn trong nền trời xế chiều. Cho thấy cảnh những ánh nắng cuối ngày đang tắt dần,
không gian từ sáng chuyển dần sang tờ mờ tối.
Hình ảnh thơ có tác dụng gợi lên khung cảnh chiều tà tĩnh lặng và có chút buồn
Sự tĩnh lặng thanh tĩnh của cảnh vật cũng hình ảnh phản chiếu cho tâm trạng
bâng khuâng tiếc nuối trong lòng nhân vật trữ tình, cụ thlà hai chị em Kiều. Dường như
hai chị em đang tiếc nuối về những phút giây nhộn nhịp, nức của buổi du xuân vừa
diễn ra.
Đến những câu thơ cuối bức tranh thiên nhiên, thay hiện lên với vẻ cao rộng
khoáng đạt tràn, cảnh sắc đã được miêu tả qua những hình ảnh bé nhỏ, thân thuộc hơn
như hình ảnh “tiểu khê” và chiếc “cầu nho nhỏ” để bộc lộ dòng tâm trạng của con người.
Tác dụng từ láy trong cảnh ngày xuân: Sử dụng hệ thống từ láy được trải đều trong các
câu thơ cuối như “tà tà”, “thơ thẩn”, “nho nhỏ”, “thanh thanh”, “nao nao” đã giúp tác giả
biểu đạt sắc nét cảm xúc trong từng câu thơ:
Từ láy “thơ thẩn” có tác dụng trong việc gợi lên tâm trạng tiếc nuối, lưu luyến, pha chút
bâng khuâng buồn của hai chị em Kiều qua những bước chân có chút tâm tình
Từ láy “nao nao” giúp gợi lên nét buồn rất khác thường của con người cảnh vật.
Hình ảnh dòng chảy “nao nao”, lững lờ trôi chậm bên chân cầu “nho nhỏsự thống
nhất cảm xúc hoàn toàn với bước chân “thơ thẩn” của nhân vật trữ tình. Mặt khác, từ láy
“nao nao” cũng mang tính tính chất dự báo, linh cảm không vui cho cuộc gặp gỡ sắp tới
của Thúy Kiều.
Sáu câu thơ cuối thể hiện mối quan hệ hai chiều qua lại giữa cảnh và tình. Khi hội tan,
con người rơi vào trạng thái bâng khuâng, xao xuyến nhìn cảnh vật bằng trong màu
sắc u buồn và ảm đạm.
=> Trong 6 câu thơ cuối của đoạn trích Cảnh ngày xuân, tác giả đã vận dụng khéo léo,
xen kẽ bút pháp nghệ thuật độc đáo trong thơ ca trung đại. Nổi bật nhất là nghệ thuật tả
cảnh ngụ tình, giúp tạo nên mối tương giao, thống nhất giữa cảnh và tình. Với phép nghệ
thuật này, ta thấy cảnh vật vừa như linh hồn của con người, vừa phảng phất nét u
buồn và một vẻ đẹp rất đỗi tao nhã và thanh khiết.
4. Tổng kết chung
4.1 Nội dung đoạn trích
Nội dung đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã tái hiện một bức tranh thiên nhiên sống động,
tuyệt đẹp vi khung cảnh lễ hội truyền thống đông vui, náo nhiệt. Qua bức tranh y, người
đọc còn cảm nhận được thế giới nội tâm phong phú và nhạy cảm của nhân vật trữ tình.
4.2 Nghệ thuật sử dụng trong đoạn trích Cảnh ngày xuân
Sử dụng hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm, Nguyễn Du không những kể, tả mà còn
biểu đạt xuất sắc tâm tư, tình cảm cảm xúc của nhân vật chính cũng như góc nhìn
của ông về thiên nhiên đất trời mùa xuân
Sdụng nhuần nhuyễn bút pháp tả cảnh ngụ tình giúp tác giả lồng ghép được nhiều
lớp ý nghĩa trong từng câu thơ
Sử dụng biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ,… góp phần tạo ra sự sinh động cho
bức tranh cảnh vật và sự đồng cảm của người đọc với nhân vật
| 1/8

Preview text:

Phân tích bài thơ Cảnh ngày xuân - Tác giả tác phẩm | Ngữ văn lớp 9
1. Thông tin đoạn trích Cảnh ngày xuân
1.1 Ví trí, thể loại của đoạn trích Cảnh ngày xuân
– Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” nằm trong phần I của tác phẩm “Truyện Kiều”, sau đoạn
trích chị em Thúy Kiều, thuộc phần “Gặp gỡ và đính ước”. Để nắm rõ bố cục của toàn bộ
Truyện Kiều, các em học sinh có thể tham khảo tại đây.
– Nội dung đoạn trích: gợi tả bức tranh thiên nhiên ngày xuân tuyệt đẹp và không khí lễ
hội nhộn nhịp, náo nhiệt trong tiết thanh minh. Đồng thời, đoạn trích cũng là tiền đề diễn
ra bối cảnh gặp gỡ giữa Thúy Kiều và Kim Trọng, là lời khóc thương của tác giả trước
số phận của Đạm Tiên. Qua hình ảnh thiên nhiên dưới góc nhìn của hai chị em Thúy
Kiều, đoạn trích đã thể hiện được phần nào tâm tư, tình cảm, cảm xúc của hai nhân vật trong chuyến du xuân ấy.
1.2 Bố cục đoạn trích
Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” được chia theo 3 phần với nội dung như sau:
Phần 1: 4 câu thơ đầu – Bức tranh mùa xuân trong cảnh ngày xuân
Phần 2: 8 câu thơ tiếp theo – Miêu tả lễ hội diễn ra trong tiết thanh minh
Phần 3: 6 câu thơ cuối – Cảnh sắc thiên nhiên trên đường chị em Kiều trở về sau chuyến du xuân
2. Tóm tắt Cảnh ngày xuân
Đoạn trích thuộc phần đầu của tác phẩm, khi đó, gia đình Kiều vẫn đang sống và hưởng
thụ những ngày tháng êm đềm, hạnh phúc, chưa có biến cố hay bất kỳ tai ương nào xảy
ra với gia đình họ. Nhân ngày xuân và tiết Thanh minh đang diễn ra, hai chị em Kiều đã
đi trẩy hội để cùng nhau trải nghiệm không khí lễ hội và cảnh sắc của mùa xuân tươi đẹp.
Cùng giống như bao nàng tiểu thư khác, hai chị em Kiều đã sửa soạn và diện cho mình
những bộ trang phục thật đẹp để tham gia vào lễ tảo mộ. Hòa cùng dòng người và xe
ngựa nhộn nhịp, nô nức là khung cảnh thiên nhiên ngày xuân hiện lên với đầy sức sống,
sự tươi tắn và yên bình, đẹp đẽ. Trong không khí đông vui nhộn nhịp, qua đôi mắt “xanh
non biếc rờn” của những nam thanh, nữ tú, tài tử, giai nhân, cảnh sắc của mùa xuân
dường như được gợi lên một cách hết sức sinh động. Đó là những hình ảnh của những
cánh én bay lượn rập rờn như thoi đưa, là những cành lê trắng “điểm vài bông hoa”. Sự
mạnh mẽ, khỏe khoắn của nhịp cánh én bay có lẽ đang thể hiện rằng, mùa xuân của
thiên nhiên đã đến độ viên mãn tròn đầy nhất. Có vẻ như mùa xuân trong tiết thanh minh
chính là thời điểm đẹp nhất để bắt đầu cho một mối quan hệ tình yêu, là thời điểm vàng
cho những tình cảm mới chớm nở được phép căng trào và đơm hoa, kết trái.
Khi bóng chiều đã ngả về tây thì cũng là lúc hai chị em kết thúc chuyến du xuân và cùng
nhau ra về. Hai chị em thong dong đi dọc theo con suối nhỏ với dòng nước lững lờ trôi,
bắc qua suối là một cây cầu. Buổi sáng mùa xuân nhộn nhịp bao nhiêu thì phong cảnh
buổi chiều mùa xuân lại thanh tĩnh và mang dáng vẻ điềm đạm bấy nhiêu. Vẻ yên bình,
trầm tĩnh ấy của thiên nhiên cũng chính là cảm xúc thoáng chút ưu tư, suy nghĩ của nhân vật chính.
Thông qua trải nghiệm du xuân của chị em Kiều, Nguyễn Du khéo léo gợi tả, tôn vinh
một nét truyền thống văn hóa xa xưa của người Việt Nam mỗi dịp xuân về. Qua đoạn
trích “Cảnh ngày xuân”, tác giả không chỉ vẽ lên bức tranh ngày xuân vui tươi, rộn ràng,
náo nức mà còn thể hiện được đâu đó chút tâm trạng buồn phiền, phản chiếu nội tâm
nhân vật. Có thể thấy, Nguyễn Du bằng sự cảm nhận tinh tế và tài hoa trong cách sử
dụng hệ thống ngôn ngữ thơ, ông đã thành công trong việc xây dựng bối cảnh cho câu
chuyện, đồng thời bộc lộ những tâm tư sâu sắc của nhân vật chính.
3. Phân tích Cảnh ngày xuân
3.1 Phân tích 4 câu thơ đầu: Bức tranh mùa xuân trong cảnh ngày xuân
Ngay từ 2 câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du đã gợi ra không gian và thời gian trôi qua của mùa xuân:
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.”
Sử dụng hình ảnh ẩn dụ “con én đưa thoi” quen thuộc vào những ngày xuân, câu thơ
vừa thể hiện vẻ đẹp của không gian, vừa gợi lên sự chảy trôi rất nhanh của thời gian:
– Đó là hình ảnh tả thực những chú chim én bay lượn trên bầu trời ngày xuân. Trên nền
trời xanh thoáng đãng ấy, những cánh én từ phương Nam về chao liệng như thoi đưa,
cùng nhau múa vũ điệu chào đón mùa xuân của thiên nhiên.
– Hình ảnh những cánh én gợi cho người đọc hình dung về một bức tranh thiên nhiên
với bầu trời cao rộng và một không khí ấm áp của sự đoàn viên, sum vầy
– Cánh én bay nhanh và nhiều như thoi đưa là hình ảnh ẩn dụ phản chiếu sự nhanh, gấp
của thời gian. Cũng giống như cánh chim vụt bay, thời gian có những bước đi nhanh,
vội, chả mấy chốc mà mùa xuân tươi đẹp này sẽ qua đi
Sự nhanh chóng của thời gian tiếp tục được thể hiện qua những vần thơ:
“Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.
– Sử dụng từ “thiều quang” có tác dụng tả thực thời tiết ấm áp của mùa xuân khi được
những tia nắng lấp lánh chiếu rọi
– Câu thơ gợi lên một không gian ngày xuân tươi đẹp, trong lành và tràn đầy sức sống
tựa như đang dang tay đón những tia nắng xuân vàng dịu được mẹ thiên nhiên ban phát xuống vạn vật.
– Nhắc đến thời điểm mùa xuân vào tháng ba, khoảng thời gian mà vẻ đẹp sắc xuân đạt
đến độ viên mãn nhất, rực rỡ nhất.
=> Thông qua hệ thống hình ảnh thơ trong 2 câu thơ đầu của đoạn trích không những
gợi lên sự chuyển động nhanh, vội của thời gian mà còn thể hiện phần nào tâm trạng,
cảm xúc của hai chị em Thúy Kiều, có chút tiếc nuối và lưu luyến. Qua đó, người đọc đã
hình dung được một bức tranh thiên nhiên của một ngày xuân tươi đẹp, ấm áp, đồng thời
cảm nhận được bao tâm trạng, nỗi niềm của nhân vật trữ tình.
Trong hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã tái hiện một bức tranh mùa xuân sinh động,
mở rộng ra cả không gian trời và đất với hai gam màu chủ đạo là xanh, trắng:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Sử dụng hình ảnh “cỏ non” quen thuộc và gần gũi, song hình ảnh đã đem lại nhiều nét
đặc sắc cho bức tranh xuân:
– Hình ảnh giúp gợi ra trước mặt người đọc một không gian mênh mông. Trong đó, làm
nền cho bức tranh chính là thảm cỏ non tươi xanh mơn mởn, trải dài đến tận chân trời,
tạo ra hai mảng màu xanh: một là của trời, một của đất
– Cỏ non và màu xanh của cỏ non có tác dụng trong việc gợi liên tưởng đến sức sống
tràn trề của mùa xuân, mùa của vạn vật sinh sôi, bắt đầu một hành trình sống mới
– Sử dụng từ “tận”, Nguyễn Du đã biến không gian xuân trong những câu thơ được mở rộng ra bao la, bát ngát
Sử dụng hình ảnh thơ “cành lê trắng điểm”, tác giả đã thể hiện khả năng tài tình của mình
trong việc vận dụng nghệ thuật bút pháp chấm phá:
– Trên nền màu xanh non của cỏ cây, xanh trong của trời đất là những bông hoa lê trắng,
tạo ra sự tinh khôi, nổi bật vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt của vạn vật trong mùa xuân.
Đồng thời khiến cho không gian như thoáng đạt, nhẹ nhàng và thuần khiết hơn.
– Tác giả sử dụng từ “điểm” thay vì các động từ khác. Điều này giúp gợi sự thanh thoát
của những cành lê. Những cành lê tựa như đôi tay của người họa sĩ, chủ động tạo nét
chấm phá, điểm thêm nét vào bức tranh cảnh vật nhằm thêm phần sống động, có hồn hơn
– Sử dụng biện pháp đảo ngữ từ “trắng” lên trước động từ “điểm”, tác giả muốn nhấn
mạnh và màu sắc của cành hoa lê, làm nổi bật màu trắng tinh khôi của hoa lê, màu của
sự kết tinh từ tinh hoa của trời đất.
– Trong bức tranh xuân sinh động ấy, tác giả chỉ sử dụng 2 gam màu nhưng đã tạo ra
sự hòa phối rất đỗi hài hòa giữa màu xanh của cỏ và sắc trắng của hoa lê.
=> Bằng bút pháp chấm phá tài tình, qua 4 câu thơ đầu của đoạn trích, ta thấy vẻ đẹp
mùa xuân hiện lên không hề mang tính ước lệ mà mang vẻ đẹp rất thực, rất đẹp đẽ.
Thành công của Nguyễn Du là đã phác họa được một bức tranh ngày xuân khoáng đạt,
tinh khôi, trong trẻo. Từ đó, giúp người đọc có thể cảm nhận một bức họa thiên nhiên
hoàn hảo, đầy sức sống đang ở ngay trước mắt. Đồng thời, cảm nhận được cảm giác
tươi vui, phấn chấn xen lẫn chút bâng khuâng, tiếc nuối trong lòng nhân vật trữ tình.
3.2 Phân tích 8 câu thơ tiếp theo: Miêu tả lễ hội diễn ra trong tiết thanh minh
a. Hai câu thơ đầu: Những hoạt động diễn ra trong tiết thanh minh
Hai câu thơ miêu tả những hoạt động diễn ra trong tiết thanh minh đã thể hiện khả năng
sử dụng ngôn từ điêu luyện của Nguyễn Du:
“Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.”
Sử dụng nghệ thuật tiểu đối, tác giả tách hai từ “lễ hội” ra thành “lễ” và “hội” để giải thích
về hai hoạt động diễn ra trong tiết thanh minh:
– “Lễ là tảo mộ” hay “lễ tảo mộ” mà hoạt động mà con cháu đi viếng và sửa sang phần
mộ của người thân, gia đình, tổ tiên. Lễ tảo mộ là một nét văn hóa truyền thống, thể hiện
sự tri ân của những nam thanh, nữ tú với tổ tiên trong những ngày du xuân.
– “Hội là đạp thanh” hay “hội đạp thanh” ý muốn miêu tả việc đi chơi xuân ở chốn đồng
quê thường phải giẫm lên cỏ xanh. Đây là ngày hội vui nhất của mùa xuân đối với những
nam thanh nữ tú để tìm kiếm đối nhân, tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau.
=> Có thể hiểu trong câu thơ trên, “lễ” và “hội” diễn ra trong tiết thanh minh: một là đi tảo
mộ (lễ) và hai đi chơi xuân ở chốn đồng quê (hội). Tuy là hai hoạt động văn hóa khác biệt
nhưng chúng lại có một sự giao hòa độc đáo trong thơ của Nguyễn Du.
b. Sáu câu thơ tiếp theo: Không khí của lễ hội ngày xuân
Bốn câu thơ tiếp theo là không khí tưng bừng, tấp nập của lễ hội mùa xuân, được gợi lên
qua những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm:
“Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”
– Sử dụng hệ thống danh từ: “yến anh”, “chị em”, “tài tử”, “giai nhân”, tác giả đã thể hiện
sự đông vui, nô nức, tấp nập trong ngày hội xuân – nơi mà tất cả mọi người đều háo hức tham gia
– Sử dụng các động từ: “sắm sửa”, “dập dìu, tác giả đã gợi tả không khí rộn ràng, náo
nhiệt của ngày hội. Từ già trẻ, gái trai đều chọn cho mình những bộ trang phục đẹp nhất
để cùng nhau tham gia và lễ hội mùa xuân. Trước mắt người đọc như hiện lên một bức
tranh đầy náo nhiệt với âm thanh của người người, dập dìu, sánh vai cùng nhau đi chơi xuân.
– Sử dụng tính từ: “gần xa” và từ láy “nô nức” đã góp phần bộc lộ tâm trạng hồ hởi, phấn
khởi của người đi hội xuân.
Sử dụng khéo léo hình ảnh ẩn dụ “nô nức yến anh” đã góp phần làm nổi bật, tô đậm
không khí nhộn nhịp của khung cảnh lễ hội xuân:
– Hình ảnh giúp gợi lên cảnh tượng về những đoàn người nối đuôi nhau, vừa đi vừa trò
chuyện, đông đúc và dập dìu như từng bầy chim yến, chim oanh ríu rít.
– Phép ẩn dụ còn thể hiện âm thanh của những cuộc trò chuyện, giao lưu tình tứ của
những đôi uyên ương trong lễ hội ngày xuân.
– Sử dụng hình ảnh so sánh trong câu thơ “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”, tác
giả đã vẽ lên khung cảnh đông đúc, không khí tưng bừng, náo nhiệt của buổi du xuân
diễn ra trong tiết thanh minh
Bên cạnh không khí tưng bừng, huyên náo ấy, tác giả đã khéo léo xen vào một khoảng
lặng, một nốt trầm trong giọng điệu thơ, khiến người đọc cảm nhận được tâm trạng con
người như chùng xuống cùng lời thơ:
“Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.”
– Chỉ bằng hai câu thơ, tác giả dường như đã làm sống lại những nét văn hoá xưa của
người Việt Nam, đó là tục lệ đốt vàng mã được thể hiện qua hình ảnh “ngổn ngang gò
đống” và “tro tiền giấy bay”. Trong đó, trọng tâm của khung cảnh là sự xuất hiện của
những nam thanh, nữ tú đang cùng nhau sửa sang, rắc vàng vó, hóa tiền giấy cho những
người đã khuất, thực hiện nghi lễ của lễ tảo mộ. Tuy chỉ là nghi thức nhưng những chi
tiết như “thoi vàng” và “tiền giấy” đã góp phần tạo ra một bầu không khí ngày xuân thêm
phần trang trọng và tôn nghiêm.
– Mặt khác, việc tác giả đề cập tới nghi thức truyền thống đã thể hiện một niềm tự hào,
tôn vinh truyền thống văn hóa, đạo lí “uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp của dân tộc Việt ta.
Đó là một lối sống ân nghĩa thủy chung cần được duy trì ngàn đời sau
=> Qua buổi du xuân của hai chị em Thúy Kiều, tài năng của Nguyễn Du đã được chứng
minh. Ông không chỉ là một người có con mắt quan sát tinh tế mà còn có sự am hiểu, tôn
trọng sâu sắc đối với những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
3.3 Phân tích 6 câu thơ cuối: Cảnh sắc thiên nhiên trên đường chị em Kiều trở về sau chuyến du xuân
Nô nức và náo nhiệt là thể nhưng không ai có thể ngừng được bước đi của thời gian,
cuộc vui nào rồi cũng đến hồi kết. Trên một nền không gian chiều xuân yên bình, thanh
khiết, hai chị em Kiều dắt tay nhau trở về:
“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn đan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
– Đối lập với sự nhộn nhịp trong lễ hội mùa xuân, trên đường trở về của hai chị em, mọi
chuyển động đều diễn ra nhẹ nhàng.
– Trái với bước đi vội vàng cùng sự trôi chảy nhanh của thời gian ở phần mở đầu đoạn
trích, lúc này sự chuyển động của thời gian đã trở nên chậm rãi và nhẹ nhàng. Điều này
được cảm nhận rõ nhất qua câu thơ “Tà tà bóng ngả về tây”. Sau khi ban phát “thiều
quang” cho ngày xuân ấm áp, mặt trời đã từ từ khuất bóng sau những đám mây, nhường
chỗ cho màn đêm buông xuống.
Nét đặc sắc trong hình ảnh thơ “tà tà bóng ngả về tây”:
– Sử dụng từ láy “tà tà” đã thành công trong việc gợi tả rõ nét hình ảnh mặt trời đang từ
từ lặn trong nền trời xế chiều. Cho thấy cảnh những ánh nắng cuối ngày đang tắt dần,
không gian từ sáng chuyển dần sang tờ mờ tối.
– Hình ảnh thơ có tác dụng gợi lên khung cảnh chiều tà tĩnh lặng và có chút buồn
– Sự tĩnh lặng và thanh tĩnh của cảnh vật cũng là hình ảnh phản chiếu cho tâm trạng
bâng khuâng tiếc nuối trong lòng nhân vật trữ tình, cụ thể là hai chị em Kiều. Dường như
hai chị em đang tiếc nuối về những phút giây nhộn nhịp, nô nức của buổi du xuân vừa diễn ra.
– Đến những câu thơ cuối bức tranh thiên nhiên, thay vì hiện lên với vẻ cao rộng và
khoáng đạt tràn, cảnh sắc đã được miêu tả qua những hình ảnh bé nhỏ, thân thuộc hơn
như hình ảnh “tiểu khê” và chiếc “cầu nho nhỏ” để bộc lộ dòng tâm trạng của con người.
Tác dụng từ láy trong cảnh ngày xuân: Sử dụng hệ thống từ láy được trải đều trong các
câu thơ cuối như “tà tà”, “thơ thẩn”, “nho nhỏ”, “thanh thanh”, “nao nao” đã giúp tác giả
biểu đạt sắc nét cảm xúc trong từng câu thơ:
– Từ láy “thơ thẩn” có tác dụng trong việc gợi lên tâm trạng tiếc nuối, lưu luyến, pha chút
bâng khuâng buồn của hai chị em Kiều qua những bước chân có chút tâm tình
– Từ láy “nao nao” giúp gợi lên nét buồn rất khác thường của con người và cảnh vật.
Hình ảnh dòng chảy “nao nao”, lững lờ trôi chậm bên chân cầu “nho nhỏ” có sự thống
nhất cảm xúc hoàn toàn với bước chân “thơ thẩn” của nhân vật trữ tình. Mặt khác, từ láy
“nao nao” cũng mang tính tính chất dự báo, linh cảm không vui cho cuộc gặp gỡ sắp tới của Thúy Kiều.
– Sáu câu thơ cuối thể hiện mối quan hệ hai chiều qua lại giữa cảnh và tình. Khi hội tan,
con người rơi vào trạng thái bâng khuâng, xao xuyến và nhìn cảnh vật bằng trong màu
sắc u buồn và ảm đạm.
=> Trong 6 câu thơ cuối của đoạn trích Cảnh ngày xuân, tác giả đã vận dụng khéo léo,
xen kẽ bút pháp nghệ thuật độc đáo trong thơ ca trung đại. Nổi bật nhất là nghệ thuật tả
cảnh ngụ tình, giúp tạo nên mối tương giao, thống nhất giữa cảnh và tình. Với phép nghệ
thuật này, ta thấy cảnh vật vừa như có linh hồn của con người, vừa phảng phất nét u
buồn và một vẻ đẹp rất đỗi tao nhã và thanh khiết. 4. Tổng kết chung
4.1 Nội dung đoạn trích
Nội dung đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã tái hiện một bức tranh thiên nhiên sống động,
tuyệt đẹp với khung cảnh lễ hội truyền thống đông vui, náo nhiệt. Qua bức tranh ấy, người
đọc còn cảm nhận được thế giới nội tâm phong phú và nhạy cảm của nhân vật trữ tình.
4.2 Nghệ thuật sử dụng trong đoạn trích Cảnh ngày xuân
– Sử dụng hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm, Nguyễn Du không những kể, tả mà còn
biểu đạt xuất sắc tâm tư, tình cảm và cảm xúc của nhân vật chính cũng như góc nhìn
của ông về thiên nhiên đất trời mùa xuân
– Sử dụng nhuần nhuyễn bút pháp tả cảnh ngụ tình giúp tác giả lồng ghép được nhiều
lớp ý nghĩa trong từng câu thơ
– Sử dụng biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ,… góp phần tạo ra sự sinh động cho
bức tranh cảnh vật và sự đồng cảm của người đọc với nhân vật