Phân tích bài thơ "Chiều xuân" - Anh Thơ | Văn mẫu 11 Chân trời sáng tạo

Nhận xét về nữ sĩ Anh Thơ, nhà thơ Vũ Quần Phương đã viết: “Khi chị đến thì phong trào Thơ mới đã ổn định với các tên tuổi tiêu biểu của nó, nhưng chị vẫn có đóng góp riêng: những bức tranh thôn quê xứ Bắc. 

Nhận xét về nữ sĩ Anh Thơ, nhà thơ Vũ Quần Phương đã viết: “Khi chị
đến thì phong trào Thơ mới đã ổn định với các tên tuổi tiêu biểu của nó,
nhưng chị vẫn có đóng góp riêng: những bức tranh thôn quê xứ Bắc.
Cùng với Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… Anh Thơ làm
giàu thêm lòng yêu quê hương làng nước của người Việt Nam mình”.
Điều này được thể hiện rất rõ qua bài thơ “Chiều xuân”.
Thi phẩm “Chiều xuân” nằm trong tập thơ “Bức tranh quê”, được xuất
bản năm 1941. Tập thơ nói chung và tác phẩm nói riêng đã đưa tên tuổi
của nàng thiếu nữ mới 17 tuổi xứ Kinh Bắc tỏa sáng, giúp Anh Thơ dành
được giải thưởng trong cuộc thi thơ của Tự lực văn đoàn. Không quá cầu
kì, ngay từ nhan đề, nhà thơ đã thể hiện nội dung chính của tác phẩm.
Cái tên “Chiều xuân” nhấn mạnh vào không gian, thời gian mà nhân vật
trữ tình đang đắm chìm: buổi chiều mùa xuân thơ mộng. Buổi chiều vốn
dĩ xuất hiện rất nhiều trong văn học Việt Nam, đặc biệt là những câu ca
dao nói về nỗi nhớ, nỗi buồn:
Chiều chiều bóng bổ qua cầu
Con ong say mật, con bướm sầu hoa.
Tác giả tả mùa xuân - mùa đẹp nhất trong năm, biểu tượng của sức sống,
sự hồi sinh nhưng lại chọn thời gian buổi chiều. Điều này dường như
báo hiệu bài thơ sẽ khắc họa một bức tranh thiên nhiên rất mực giản dị,
đằm thắm nhưng phảng phất nỗi buồn. Từ hình ảnh chiều xuân Bắc Bộ
trên bến vắng, đường đê đến cánh đồng, Anh Thơ đã thực sự lay động
tâm hồn người đọc.
Mở đầu bài thơ, tác giả đưa người đọc đến với không gian bến sông quê
quen thuộc có cơn mưa xuân:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng ời nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Mưa phùn vốn là một đặc trưng của mùa xuân đất Bắc. Mưa an ủi lòng
người, làm dịu đi cái rét ngọt khô khốc của mùa đông nhưng cũng chẳng
ồn ào giống mưa rào mùa hạ. Nhà thơ “Chân quê” Nguyễn Bính cũng
từng ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của những cơn mưa phùn lất phất ấy mà viết
nên những vần thơ:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.
Mưa của Nguyễn Bính “bay”, mưa của Anh Thơ “đổ”. Mưa của Nguyễn
Bính “phơi phới” vui tươi, thắm đượm ý tình như trái tim người thiếu nữ
xao xuyến những nhịp đập yêu đương còn mưa trong thơ Anh Thơ lại
“êm êm” yên bình, thoáng chút cô liêu. Đóa hoa xoan tím biếc rụng dưới
chân Nguyễn Bính “lớp lớp”, “vơi đầy” nhưng sang đến trong cảm nhận
của Anh Thơ lại là ấn tượng về sự tan tác, “rụng tơi bời”. Quả thực, “Cái
quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng
riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì
một người nào khác”. Cùng viết về một đề tài nhưng mỗi nhà văn lại có
những cách khai thác riêng. Chi tiết “bến vắng” mở ra một không gian
rộng lớn mênh mông nhưng đìu hiu, quạnh quẽ. Động từ “đổ” diễn tả
cơn mưa không nặng hạt nhưng có mật độ dày đặc, tựa như lớp bụi mờ
liên tục trút xuống bến sông. “đổ” thế mà lại “êm” đến lạ kì! Cảnh vật cơ
hồ không một tiếng động. Biện pháp nhân hóa “biếng lười nằm mặc
nước sông trôi” khiến hình ảnh con đò trở nên sinh động. Con đò tựa
như một người đương thời ngơi nghỉ, sau khi đã vất vả chộn rộn suốt
một năm. Câu thơ tiếp theo xuất hiện hình ảnh “Quán tranh”. Đó là một
sản phẩm của con người nhưng ở đây mái tranh bên sông lại “đứng im
lìm trong vắng lặng”. “im” và “vắng” xuất hiện trong tùng một câu thơ
càng như cực tả cái cô đơn, hoang vu của cảnh vật. Có mưa, có hoa, có
quán nước, con đò, khổ thơ hội tụ tất cả những hình ảnh thân thuộc của
làng quê Việt Nam. Bức tranh chiều xuân nơi bến đò nên thơ mà đượm
buồn man mác qua cảm nhận tinh tế của “nàng thơ áo trắng sông
Thương”.
Khổ thơ thứ hai, tác giả đã chuyển hướng nhìn sang con đê và có những
phát hiện thú vị:
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ
Đàn sáo đen xuống mổ vu
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió
Những trâu thong thả cúi ăn mưa
Đoạn thơ đã xuất hiện những gam màu tươi sáng của cỏ non, đàn sáo,
cánh bướm rực rỡ và đàn trâu, đàn bò. Điệp từ “cỏ” lặp lại hai lần trong
một câu thơ kết hợp với cách viết “tràn biếc” gợi lên hình ảnh thảm cỏ
xanh non kéo dài tít tắp tận chân trời. Màu xanh bao trùm lấy con đê,
miên man vô tận. Những đàn sáo xuất hiện làm khung cảnh thêm phần
sinh động. Từ láy “vu vơ” diễn tả tâm thế ung dung, thong thả như đang
dạo chơi xuân của đàn sáo. Nhà văn Nhất Linh đã nhận xét rằng Anh
Thơ “không chỉ thơ đẹp mà mắt cũng đẹp”. Con mắt là cửa sổ của tâm
hồn, chứa đựng những rung động tình cảm sâu lắng nhất. Với con mắt
tinh tế của mình, Anh Thơ đã viết nên những vần thơ tuyệt đẹp. Bà dùng
từ “trôi” miêu tả chuyển động của những cánh bướm, đem đến cm giác
bướm bay nhẹ đến mức tưởng như đôi cánh của chúng được làn gió
nâng đi. Hình ảnh “Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa” đã cho thấy
nhịp sống yên bình, thanh tĩnh ở làng quê. Những câu thơ chứa chan
niềm hạnh phúc dịu ngọt, man mát dễ chịu, khẽ khàng len lỏi vào tâm
hồn người đọc. Tác phẩm đúng là “giọng thơ trong sáng như tiếng thở
dài của người thiếu nữ ngồi sau khung cửa nhỏ nhìn thấy chiều quê yên
tĩnh đương tràn ngập ánh dương quang”
Đến khổ thơ cuối cùng, tác giả hoàn thiện những nét gam màu cuối cùng
của bức tranh xuân:
Trong đồng lúa xanh rờn ướt lặng
con chốc chốc vụt bay ra
Làm giật mình một nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Vẫn là màu xanh nhưng cái xanh non, xanh biếc của cỏ sẽ khác với xanh
rờn của lúa. “xanh rờn” đi với “ướt lặng” đem đến ấn tượng về một đồng
lúa rộng mênh mông và yên tĩnh. Mưa xuân làm ướt ruộng đồng, khiến
ta có cảm giác màu xanh như càng được tô đậm thêm, chảy tràn khắp đất
trời. Thế rồi, những cánh cò trắng xuất hiện xé tan màu xanh u tịch ấy.
Từ “bỗng” thể hiện cảm xúc ngỡ ngàng, bất ngờ tột độ của nhà thơ. Hai
câu thơ đầu đoạn làm hiện ra trong tâm trí người đọc hình ảnh những
cánh đồng lúa thân thương trong ca dao:
Cánh bay lả bay la
Bay từ cửa phủ, bay ra cánh đồng.
Sắc màu tươi đẹp nhất trong bức tranh đã xuất hiện, chính là màu đỏ
thắm từ chiếc yếm của người con gái. Sự “giật mình” của cô gái dẫu nhỏ
bé mà cũng đủ làm sống dậy quang cảnh xung quanh, đem đến sức sống
cho buổi chiều xuân. Cách dùng từ “Cúi cuốc cào cỏ” rất độc đáo với
việc sử dụng phụ âm đầu “C” liên tiếp, thể hiện những tâm thế lao động
cần mẫn, động tác thuần thục của người thiếu nữ. Cô đang gieo trồng sự
sống trên những thửa ruộng sắp ra hoa.
Như vậy, bằng thể thơ tự do, cách ngắt nhịp linh hoạt, ngôn ngữ thơ
trong sáng, hình ảnh thơ giản dị, nhịp điệu thơ chậm rãi và hơn hết là bút
pháp tả cảnh với những nét chấm phá điêu luyện, Anh Thơ đã vẽ nên
bức tranh chiều xuân ở nông thôn Bắc Bộ rất đỗi hữu tình, nên thơ. Qua
trái tim nhạy cảm, yêu cái đẹp của một người thiếu nữ, từng nét mưa, nét
hoa cũng trở nên thoáng gợi buồn. Từ đó, ta thấy được tình yêu thiên
nhiên, yêu đất nước của nhà thơ.
--------------------------------------------------------
| 1/5

Preview text:

Nhận xét về nữ sĩ Anh Thơ, nhà thơ Vũ Quần Phương đã viết: “Khi chị
đến thì phong trào Thơ mới đã ổn định với các tên tuổi tiêu biểu của nó,
nhưng chị vẫn có đóng góp riêng: những bức tranh thôn quê xứ Bắc.
Cùng với Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… Anh Thơ làm
giàu thêm lòng yêu quê hương làng nước của người Việt Nam mình”.
Điều này được thể hiện rất rõ qua bài thơ “Chiều xuân”.
Thi phẩm “Chiều xuân” nằm trong tập thơ “Bức tranh quê”, được xuất
bản năm 1941. Tập thơ nói chung và tác phẩm nói riêng đã đưa tên tuổi
của nàng thiếu nữ mới 17 tuổi xứ Kinh Bắc tỏa sáng, giúp Anh Thơ dành
được giải thưởng trong cuộc thi thơ của Tự lực văn đoàn. Không quá cầu
kì, ngay từ nhan đề, nhà thơ đã thể hiện nội dung chính của tác phẩm.
Cái tên “Chiều xuân” nhấn mạnh vào không gian, thời gian mà nhân vật
trữ tình đang đắm chìm: buổi chiều mùa xuân thơ mộng. Buổi chiều vốn
dĩ xuất hiện rất nhiều trong văn học Việt Nam, đặc biệt là những câu ca
dao nói về nỗi nhớ, nỗi buồn:
Chiều chiều bóng bổ qua cầu
Con ong say vì mật, con bướm sầu vì hoa.
Tác giả tả mùa xuân - mùa đẹp nhất trong năm, biểu tượng của sức sống,
sự hồi sinh nhưng lại chọn thời gian buổi chiều. Điều này dường như
báo hiệu bài thơ sẽ khắc họa một bức tranh thiên nhiên rất mực giản dị,
đằm thắm nhưng phảng phất nỗi buồn. Từ hình ảnh chiều xuân Bắc Bộ
trên bến vắng, đường đê đến cánh đồng, Anh Thơ đã thực sự lay động tâm hồn người đọc.
Mở đầu bài thơ, tác giả đưa người đọc đến với không gian bến sông quê
quen thuộc có cơn mưa xuân:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Mưa phùn vốn là một đặc trưng của mùa xuân đất Bắc. Mưa an ủi lòng
người, làm dịu đi cái rét ngọt khô khốc của mùa đông nhưng cũng chẳng
ồn ào giống mưa rào mùa hạ. Nhà thơ “Chân quê” Nguyễn Bính cũng
từng ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của những cơn mưa phùn lất phất ấy mà viết nên những vần thơ:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.
Mưa của Nguyễn Bính “bay”, mưa của Anh Thơ “đổ”. Mưa của Nguyễn
Bính “phơi phới” vui tươi, thắm đượm ý tình như trái tim người thiếu nữ
xao xuyến những nhịp đập yêu đương còn mưa trong thơ Anh Thơ lại
“êm êm” yên bình, thoáng chút cô liêu. Đóa hoa xoan tím biếc rụng dưới
chân Nguyễn Bính “lớp lớp”, “vơi đầy” nhưng sang đến trong cảm nhận
của Anh Thơ lại là ấn tượng về sự tan tác, “rụng tơi bời”. Quả thực, “Cái
quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng
riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì
một người nào khác”. Cùng viết về một đề tài nhưng mỗi nhà văn lại có
những cách khai thác riêng. Chi tiết “bến vắng” mở ra một không gian
rộng lớn mênh mông nhưng đìu hiu, quạnh quẽ. Động từ “đổ” diễn tả
cơn mưa không nặng hạt nhưng có mật độ dày đặc, tựa như lớp bụi mờ
liên tục trút xuống bến sông. “đổ” thế mà lại “êm” đến lạ kì! Cảnh vật cơ
hồ không một tiếng động. Biện pháp nhân hóa “biếng lười nằm mặc
nước sông trôi” khiến hình ảnh con đò trở nên sinh động. Con đò tựa
như một người đương thời ngơi nghỉ, sau khi đã vất vả chộn rộn suốt
một năm. Câu thơ tiếp theo xuất hiện hình ảnh “Quán tranh”. Đó là một
sản phẩm của con người nhưng ở đây mái tranh bên sông lại “đứng im
lìm trong vắng lặng”. “im” và “vắng” xuất hiện trong tùng một câu thơ
càng như cực tả cái cô đơn, hoang vu của cảnh vật. Có mưa, có hoa, có
quán nước, con đò, khổ thơ hội tụ tất cả những hình ảnh thân thuộc của
làng quê Việt Nam. Bức tranh chiều xuân nơi bến đò nên thơ mà đượm
buồn man mác qua cảm nhận tinh tế của “nàng thơ áo trắng sông Thương”.
Khổ thơ thứ hai, tác giả đã chuyển hướng nhìn sang con đê và có những phát hiện thú vị:
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa
Đoạn thơ đã xuất hiện những gam màu tươi sáng của cỏ non, đàn sáo,
cánh bướm rực rỡ và đàn trâu, đàn bò. Điệp từ “cỏ” lặp lại hai lần trong
một câu thơ kết hợp với cách viết “tràn biếc” gợi lên hình ảnh thảm cỏ
xanh non kéo dài tít tắp tận chân trời. Màu xanh bao trùm lấy con đê,
miên man vô tận. Những đàn sáo xuất hiện làm khung cảnh thêm phần
sinh động. Từ láy “vu vơ” diễn tả tâm thế ung dung, thong thả như đang
dạo chơi xuân của đàn sáo. Nhà văn Nhất Linh đã nhận xét rằng Anh
Thơ “không chỉ thơ đẹp mà mắt cũng đẹp”. Con mắt là cửa sổ của tâm
hồn, chứa đựng những rung động tình cảm sâu lắng nhất. Với con mắt
tinh tế của mình, Anh Thơ đã viết nên những vần thơ tuyệt đẹp. Bà dùng
từ “trôi” miêu tả chuyển động của những cánh bướm, đem đến cảm giác
bướm bay nhẹ đến mức tưởng như đôi cánh của chúng được làn gió
nâng đi. Hình ảnh “Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa” đã cho thấy
nhịp sống yên bình, thanh tĩnh ở làng quê. Những câu thơ chứa chan
niềm hạnh phúc dịu ngọt, man mát dễ chịu, khẽ khàng len lỏi vào tâm
hồn người đọc. Tác phẩm đúng là “giọng thơ trong sáng như tiếng thở
dài của người thiếu nữ ngồi sau khung cửa nhỏ nhìn thấy chiều quê yên
tĩnh đương tràn ngập ánh dương quang”
Đến khổ thơ cuối cùng, tác giả hoàn thiện những nét gam màu cuối cùng của bức tranh xuân:
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Vẫn là màu xanh nhưng cái xanh non, xanh biếc của cỏ sẽ khác với xanh
rờn của lúa. “xanh rờn” đi với “ướt lặng” đem đến ấn tượng về một đồng
lúa rộng mênh mông và yên tĩnh. Mưa xuân làm ướt ruộng đồng, khiến
ta có cảm giác màu xanh như càng được tô đậm thêm, chảy tràn khắp đất
trời. Thế rồi, những cánh cò trắng xuất hiện xé tan màu xanh u tịch ấy.
Từ “bỗng” thể hiện cảm xúc ngỡ ngàng, bất ngờ tột độ của nhà thơ. Hai
câu thơ đầu đoạn làm hiện ra trong tâm trí người đọc hình ảnh những
cánh đồng lúa thân thương trong ca dao:
Cánh cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ, bay ra cánh đồng.
Sắc màu tươi đẹp nhất trong bức tranh đã xuất hiện, chính là màu đỏ
thắm từ chiếc yếm của người con gái. Sự “giật mình” của cô gái dẫu nhỏ
bé mà cũng đủ làm sống dậy quang cảnh xung quanh, đem đến sức sống
cho buổi chiều xuân. Cách dùng từ “Cúi cuốc cào cỏ” rất độc đáo với
việc sử dụng phụ âm đầu “C” liên tiếp, thể hiện những tâm thế lao động
cần mẫn, động tác thuần thục của người thiếu nữ. Cô đang gieo trồng sự
sống trên những thửa ruộng sắp ra hoa.
Như vậy, bằng thể thơ tự do, cách ngắt nhịp linh hoạt, ngôn ngữ thơ
trong sáng, hình ảnh thơ giản dị, nhịp điệu thơ chậm rãi và hơn hết là bút
pháp tả cảnh với những nét chấm phá điêu luyện, Anh Thơ đã vẽ nên
bức tranh chiều xuân ở nông thôn Bắc Bộ rất đỗi hữu tình, nên thơ. Qua
trái tim nhạy cảm, yêu cái đẹp của một người thiếu nữ, từng nét mưa, nét
hoa cũng trở nên thoáng gợi buồn. Từ đó, ta thấy được tình yêu thiên
nhiên, yêu đất nước của nhà thơ.
--------------------------------------------------------