Phân tích bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ (2 Dàn ý + 10 mẫu) | Văn mẫu 11 Chân trời sáng tạo

Văn mẫu lớp 11: Phân tích Chiều xuân tuyển chọn 10 bài văn mẫu siêu hay đạt điểm cao kèm theo 2 gợi ý cách viết chi tiết. Qua phân tích bài thơ Chiều xuân các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.

Dàn ý Phân tích bài thơ Chiều xuân
Dàn ý số 1
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm:
+ Anh Thơ (1921 - 2005) một nữ thi tiêu biểu của phong trào thơ Việt Nam hiện
đại với những tác phẩm thơ thiên về tả cảnh bình dị quen thuộc.
+ Chiều xuân trích từ tập thơ đầu tay “Bức tranh quê” in năm 1941.
2. Thân bài
a) Luận điểm 1: Bức tranh chiều xuân
* Bến vắng chiều xuân (Khổ 1)
"Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời"
- "mưa bụi, con đò, nước sông trôi, quán tranh vắng, hoa xoan tím,…"
-> Những hình ảnh quen thuộc đặc trưng cho miền quê Việt Nam: bến đò vắng khách,
con đò nằm yên một chỗ, quán nhỏ, cây xoan đầy hoa tím...
=> Cảnh đẹp, êm ả, yên bình nhưng gợn buồn.
- "Êm êm": từ láy gợi tả hình ảnh những giọt mưa rơi nhẹ điểm xuyết cho khung cảnh,
không ồn ào, vội hay nặng hạt chút đó như chầm chậm theo từng khoảnh
khắc thời gian.
- "êm êm, biếng lười, im lìm, tơi bời"… : gợi tả sự vắng lặng của chiều quê.
=> Cuộc sống yên nh phần ngưng đọng: chiều mưa lạnh, bến sông ven làng tiêu
điều, vắng vẻ; một bức tranh dường như thiếu sắc màu và ánh sáng.
* Đường đê chiều xuân (Khổ 2)
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa
- "cỏ non tràn biếc cỏ, đàn sáo, cánh bướm, trâu bò,..." -> những hình ảnh đặc trưng
của mùa xuân đồng bằng Bắc Bộ
- "sà xuống mổ vu vơ, rập rờn, thong thả..." -> Từ ngữ diễn tả hoạt động
-> Bức tranh sự chuyển đổi từ gam màu buồn sang sự sống, gam màu xanh "biếc"
của cỏ, từ tĩnh sang động
=> Cảnh vật thân thương và bình yên quá đỗi, độc đáo và nên thơ, cảnh quen thuộc trở
nên mới mẻ, sinh động, làm vơi đi nỗi cô đơn của bến vắng.
b) Luận điểm 2: Không khí và nhịp sống thôn quê (Khổ 3)
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
- “Xanh rờn”: màu xanh nhẹ nhàng đầy sức sống của mùa xuân
- "cô nàng, yếm thắm": Cảnh sắc bớt vắng vẻ và trở nên ấm áp hơn.
- "cúi, cuốc, cào, chốc chốc vụt qua" -> Câu thơ tả động để nói đến cái tình, nhấn
mạnh nhịp sống bình yên của làng quê.
=> Nhịp sống khoan thai nơi đồng quê.
- “sắp ra hoa” -> Niềm tin của con người vào một tương lai tươi sáng.
* Không khí thơ mộng, êm đềm, tĩnh lặng thể hiện qua:
- Hình ảnh dân dã, hài hòa, êm dịu trong tổng thể bức tranh làng quê thanh bình.
- Từ ngữ gợi hình, gợi cảm: sử dụng hiệu quả biện pháp nhân hóa (đò biếng lười, quán
tranh đứng im lìm…), cách diễn đạt độc đáo (cúi ăn mưa, cỏ non tràn biếc cỏ)…
- Bút pháp lấy động tả tĩnh: cái giật mình của cô gái khác đàn cò vút bay ra.
* Nhịp sống nhẹ nhàng, chậm rãi, khoan thai thể hiện qua:
- Hệ thống từ láy gợi cảm diễn tả trạng thái nhẹ nhàng, êm đềm của đối tượng.
- Thiên nhiên và con người được miêu tả trong nhịp điệu chậm rãi, khoan thai.
3. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị của bài thơ:
+ Nội dung: Vẻ đẹp chiều xuân bình dị, đơn mộc mạc của làng quê Bắc Bộ, tình
yêu làng quê, đất nước sâu sắc và thiết tha.
+ Nghệ thuật: Từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm, sử dụng nhiều từ láy; thủ pháp lấy cái
động để nói cái tĩnh.
- Cảm nhận đánh giá của em về bài thơ.
Dàn ý số 2
1. Mở bài
Bài thơ “Chiều xuân” trích trong tập thơ “Bức tranh quê” một thi phẩm đầy yên
bình và dịu ngọt vị xuân quê nhà.
2. Thân bài
Làn mưa bụi bay bay “êm êm” trong cơn gió nhẹ.
Con đò dường như cũng mệt mỏi, đành cho phép bản thân “biếng lười” đôi
chút, thả mình dưới dòng nước mênh mang, mặc kệ sông kia có bồng bềnh
sóng nhỏ.
Quán tranh những ngày sớm mai vốn đông vui thì khi ngày gần tàn lại đầy im
ắng, lặng lẽ, cô đơn.
Cánh hoa xoan tím rụng “tơi bời” theo làn gió xuân nhẹ nhàng, sắc tím nhạt
màu của cánh hoa càng làm tăng thêm vẻ hoang hoải nơi cảnh vật.
Triền đê xanh biếc cỏ non cùng đàn sáo mổ vu vơ gợi khung cảnh đầy thanh
bình, êm ái
Những cánh cò trắng trốn mình nơi những vạt lúa xanh, “chốc chốc” bay ra tận
hưởng khí trời xuân tuyệt diệu.
Hình ảnh cô nàng yếm thắm cần mẫn với công việc đầy đẹp đẽ, nên thơ.
3. Kết bài
Chiều xuân của Anh Thơ một bản nhạc đầy thương yêu tự hào dành cho quê
hương mà thi sĩ gửi đến cho chúng ta, bồi đắp và nuôi dưỡng trong tâm hồn mỗi người
những tình cảm đẹp đẽ cho cảnh vật bình dị của làng quê Việt.
Phân tích Chiều Xuân - Mẫu 1
Anh Thơ ( 1921-2005) quê ở Bắc Giang, từ nhỏ đã tìm đến văn thơ để giải thoát
tự khẳng định mình. Tháng 8 năm 1945 Anh Thơ hăng hái tham gia cách mạng, nhiệt
tình phục vụ kháng chiến xây dựng đất nước bằng sáng tác thơ ca từng y
viên ban chấp hành hội nhà n Việt Nam, đã để lại nhiều tập thơ ý nghĩa tinh
thần và nghệ thuật sâu sắc. Trong đó có bài “chiều xuân” Anh Thơ đã miêu tả một bức
tranh quê chiều xuân thanh bình, đồng thời thể hiện lòng yêu quê hương, đất nước
thiết tha của mình.
Quê ơng đất nước mảng đề tài quen thuộc của giới văn nghệ sĩ, đã nhiều tác
phẩm tuyệt vời ra đời, Anh Thơ là một trong số những nhà văn đó đã thể hiện tình yêu
quê hương đất nước thiết tha qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhưng sâu lắng.
Cảnh quê hương thanh bình yên của một quê hương giàu đẹp được thi nhân đón
nhận bằng cả tâm hồn. Trải rộng bài thơ trích trong tập thơ bức tranh quê” xuất bản
năm 1941.
Anh thơ đã chọn thể thơ 8 chữ, gieo vần giãn cách, mỗi khổ có 4 câu một bức tranh
quê êm đềm, thư thái như tâm hồn người phụ nữ :
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
Nhịp thơ 3/5 chậm rãi, khoan thai với những hình ảnh quen thuộc trong ca dao thơ
ca cổ điển Việt Nam vẫn là bến nước, con sông, con đò, quán nước nhưng có lẽ không
phải bên sông đông người lên xuống một bến vắng, con đò cũng không phải
con đò nối giữa cầu hai cảng con đò biếng ời, hờ hững để mặt dòng sông
trôi xuôi quán tranh im m, vắng lặng trong một chiều mưa xuân . Tất cả cảnh vật
như rơi vào tình trạng im ắng tuyệt đối, tất cả như đang mong mỏi một cái đó đến
từ nơi xa thẳm. Nếu như không sự chuyển động của nước sông trôi “chòm xoan
hoa tím rụng tơi bời” thì người đọc tưởng như mình đang đối diện với bức tranh xuân
tĩnh vật, bức tranh xuân tuyệt đẹp, thật êm nhưng ng thật buồn , chất chứa tâm
trạng buồn não nề của chủ thế tôi đang đơn, khao khát đợi chờ, hỏi thăm. Khổ thơ
như chứa đựng được nỗi niềm của thi nhân.
Ở khổ thứ 2, từ cái nhìn bao quát tác giả đi gần vào với con người và thiên nhiên
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa .”
Cảnh chiều xuân được mở rộng hơn sau những ngày băng giá, xuân về cỏ non trở nên
tốt tươi hơn “cỏ non tràn biếc cỏ”, điệp từ “cỏ” được lặp lại 2 lần đã khắc họa được
cảnh vật thân quen nông thôn, cỏ non xanh mơn mởn, sức sống bừng lên mạnh mẽ
qua cụm từ “tràn biếc cỏ” trên nền hình ảnh cỏ xuân ấy, chiều xuân hiện ra thật sinh
động:“Đàn sáo đen xuống mổ vu vơ” cùng với đàn đang gặm cỏ để ăn cao
hơn một chút là: “Mấy cánh ớm rập rờn trôi trước gió”, cảnh vật động nhưng
thật nhẹ nhàng đàn sáo đen xuống nhưng chỉ mổ một cách vu vơ, vài ba cánh
bướm thì lại không bay mà để mặc trôi trước gió, mấy chú trâu bò kia lại cúi thong thả
ăn mưa, cách miêu tả của Anh Thơ đã làm cho vật đã tỉnh nay càng thêm tỉnh hơn,
càng trở nên mơ hồ, huyền hoặc hơn.
Tác giả lại đi vào chỉ tiết hơn cánh trong đồng, được Anh Thơ thể hiện trong khổ 3
của bài thơ:
“Trong đồng hoa lúa xanh dờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa .”
Thi nhân tiếp tục khắc họa thêm hình ảnh chiều xuân với “đồng hoa lúa xanh rờn
ướt lặng” , những chú con thỉnh thoảng lại tung vụt bay lên giữa mảnh ruộng
sắp ra hoa, trên khung cảnh chiều xuân y lại sự xuất hiện thêm bóng dáng của
thiếu nữ đang cúi cuốc cào, tưởng chừng như gái đang chăm chỉ với công việc,
nhưng không tập trung vào công việc của mình nhiều lắm, chỉ cần tiếng cất cánh của
đàn chim con” thôi mà cô gái cũng phải giật mình, cái “giật mình” thật đáng suy nghĩ,
nàng yêu thắm kia thả hồn về nơi đâu trong tuổi dậy thì mộng với nỗi buồn vu vơ,
nàng ngẩn ngơ trước cảnh vật đang rạo rực vào xuân.
Cả bài thơ chỉ vỏn vẹn 3 khổ thơ, mỗi khổ một bức tranh xuân hợp lại, tạo nên
cảnh xuân buổi chiều êm ả, bình yên tĩnh lặng. Qua thủ pháp lấy động tả tĩnh cảnh
sắc ơi tắn, con người mộng mơ, với sự quan sát tinh tế của người con gái phải yêu
quê hương tha thiết thì ngòi bút của nhà văn Anh Thơ mới dựng lên được một cảnh
chiều mưa xuân đẹp đến như thế.
Phân tích bài thơ Chiu xuân - Mu 2
Bài thơ “Chiều xuân” trích trong tập thơ “Bức tranh quê” một thi phẩm đầy yên
bình du ngt v xuân quê nhà. Trong đó bài “chiều xuânAnh Thơ đã miêu tả
mt bc tranh quê chiu xuân thanh bình, đng thi th hin ng yêu quê ơng, đt
nước thiết tha ca mình.
Cảnh quê hương thanh bình yên ca một quê hương giàu đẹp được thi nhân đón
nhn bng c tâm hn. Tri rộng bài thơ trích trong tập thơ “bức tranh quê” xuất bn
năm 1941.
Kh thơ thứ nhất tương ng vi bc tranh th nht, t cnh mt chiều mưa bụi vi
nhng hình nh thân thuộc, “bến sông vắng khách”, “quán tranh” “chòm xoan đy
hoa tím”:
“Mưa đổ bi êm êm trên bến vng
Đò biếng lười nm mc nưc sông trôi
Quán tranh đng im lìm trong vng lng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”.
Trong chiều mưa lnh, quang cnh bến sông ven làng càng tiêu điu, vng v. Mt
bức tranh dường như thiếu sc màu ánh sáng. Trong s tĩnh lặng gần như tuyệt đối
ca không gian vn có s hoạt động ca cnh vt, nh đến mức như như
không: Mưa đổ bi êm êm trên bến vắng. Con đò thưng ngày tt bt ch khách sang
sông, gi đây dường như mệt mi, biếng lười nm mặc nước ng trôi. Còn quán
tranh cũng như thu mình lại, đứng im lìm trong vng lng bi không còn khách vào ra
vi tiếng cười, tiếng nói rn ng. Chòm xoan hoa tím rụng tơi bời trước ngn gió
xuân còn ơng hơi lạnh ca buổi tàn đông. Tất c đều nhưn cha mt ni bun sâu
kín khó nói thành li.
kh th 2, t cái nhìn bao quát tác gi đi gần vào với con ngưi và thiên nhiên
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc c,
Đàn sáo đen sà xung m vu vơ
My cánh bưm rp rn trôi trước gió.
Nhng trâu bò thong th cúi ăn mưa .”
Cnh chiều xuân được m rộng hơn sau những ngày băng giá, xuân v c non tr nên
tốt tươi hơn “c non tràn biếc cỏ”, điệp t “cỏ” được lp li 2 lần đã khắc họa được
cnh vt thân quen nông thôn, c non xanh mơn mởn, sc sng bng lên mnh m
qua cm t “tràn biếc cỏ” trên nền hình nh c xuân y, chiu xuân hin ra tht sinh
động:“Đàn sáo đen xuống m vu vơ” cùng với đàn đang gặm c để ăn cao
hơn một chút là: “Mấy cánh bướm rp rờn trôi trước gió”, cnh vật động nhưng
tht nh nhàng đàn sáo đen xuống nhưng chỉ m một cách vu vơ, vài ba cánh
bướm thì lại không bay mà để mặc trôi trước gió, my chú trâu bò kia li cúi thong th
ăn mưa, cách miêu t của Anh Tđã m cho vật đã tĩnh nay càng thêm tĩnh, càng
tr nên mơ hồ, huyn hoặc hơn.
kh th ba, con người xut hin làm cho bc tranh thiên nhiên tr thành bc tranh
sinh hot:
“Trong đng lúa xanh rờn và ướt lng,
Lũ cò con chốc chc vt bay ra.
Làm git mình mt cô nàng yếm thm,
Cúi cuc cào c rung sắp ra hoa.”
Đồng lúa quê hương xanh rờn được đắm mình trong những n mưa xuân, lúa lng l
tận ng v mát du ca nhng hạt mưa trong nh ông tri ban tặng, ướt đẫm
trên lá. Nhng cánh cò trng trốn mình nơi những vt lúa xanh, "chc chc" bay ra tn
hưởng khí tri xuân tuyt diu.
Đẹp nht hình nh những người lao động thôn quê, cn mn cúi cuc cào, chc
l "cô nàng yếm thm" y đang tập trung vi công vic ca mình cht bay
ngang qua khiến nàng không khi git mình. Tha "rung sp ra hoa" phải chăng
chính là nhng thành qu lao động mà còn ngưi s nhận được sau nhng ngày vt v
cuốc cày chăm bón.
Tóm li, tác gi đã khc ha bc tranh nhng cnh vt khác nhau vi nhng dáng v
khác nhau nhưng đó đu nhng hình nh rt thân thuc, gần gũi với làng quê nông
thôn, mang đậm du n phong cách ngh thuật. Bài thơ mang cho ta cảm nhn v bc
tranh thiên nhiên ca mt bui chiều xuân êm đẹp, qua đó gợi lên tình yêu quê hương
đất nưc sâu sc trong trái tim mi con ngưi chúng ta.
Phân tích Chiều xuân ngắn gọn - Mẫu 3
Anh Thơ là nữ thi sĩ tiêu biểu của thơ Việt Nam hiện đại. Bà có sở trường viết về cảnh
sắc nông thôn, gợi được không khí nhịp điệu sống miền Bắc. Ham văn chương,
chịu khó đọc sách, Anh Thơ tìm đến văn chương như một cách tự giải thoát khẳng
định mình.
Năm 1937 (mười sáu tuổi) đã thơ đăng báo. Nguyễn nh viết về nét “chân
quê”, thì Anh Thơ lại thiên về “cảnh quê” thân thuộc pha chút m sự bâng khuâng, u
buồn của cái tôi thơ mới. Bài thơ Chiều xuân là một bài thơ tả cảnh, giọng điệu thơ rất
dịu dàng, ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng.
Bài thơ Chiều xuân được rút từ Bức tranh quê, tập thơ đầu tay của Anh Thơ gồm 41
bài viết về cảnh nông thôn bình dị, quen thuộc. Một số bài trong tập thơ làm xúc động
lòng người đọc bởi những nét vẽ chân thực, tinh tế, thấm đượm tình quê đằm thắm
có chút tâm sự bâng khuâng, u buồn của “cái tôi” thơ mới.
Bài thơ với ba khổ thơ như vẽ nên ba bức tranh về chiều xuân yên ả, thanh bình.
Những bức tranh nhghép lại thành một bức họa lớn về bức tranh thiên nhiên nơi
đồng quê miền Bắc nước ta. Khổ thơ thứ nhất tương ứng với bức tranh thứ nhất, tả
cảnh một chiều mưa bụi với những hình nh thân thuộc, “bến sông vắng khách”,
“quán tranh” và “chòm xoan đầy hoa tím”:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
Nhà thơ đã dùng cả tâm hồn nhạy cảm của mình để cảm nhận cảnh vật, trong một buổi
chiều mưa lạnh nên cảnh vật trở nên tiêu điều, vắng vẻ phần xác. Bao trùm
cả bức tranh một vẻ tĩnh lặng gần như hoàn toàn, nhưng vẫn sự hoạt động của
cảnh vật chỉ sự hoạt động rất nhẹ: mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng”, các cảnh
vật còn lại dường như chỉ lặng im, con đò t“nằm mặc nước sông trôi”, còn quán
tranh thì “đứng im lìm”.
Con đò hàng ngày tất bật chở khách thì m nay trở nên biếng lười”, như tỏ vẻ mệt
mỏi. Quán tranh trong buổi chiều mưa bụi ng trở nên vắng lạnh vì thiếu đi sự nhộn
nhịp tấp nập tiếng cười, tiếng trò chuyện của khách. Những n mưa nhỏ, nhẹ
nhưng khi kèm theo những cơn gió gió còn vướng hơi lạnh của những ngày cuối mùa
đông cũng đủ sức làm cho những chòm hoa xoan tím rụng “tơi bời”.
Nhưng có lẽ chính sự tĩnh lặng này đã làm cho bức tranh buổi chiều xuân có chiều sâu
của nó, tất cả cảnh vật đều như ẩn chứa một nỗi buồn sâu kín. Tiếp đến là khổ thơ thứ
hai với bức tranh thứ hai, nếu như bức tranh thứ nhất bức tranh về cảnh vật tĩnh
lặng thì ở bức tranh thứ hai dường như đã có sự sống, hoạt động của các loài động vật:
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”
Con đê ven làng là hình ảnh thân thuộc mà có lẽ ở vùng quê nào cũng có, mùa xuân là
mùa của hoa lá, cỏ y bắt đầu sinh sôi nảy nở, chính vậy con đường ven đê cỏ
non tràn biếc cỏ, câu thơ thể hiện sự ơi mát, xanh non của cảnh vật tràn ngập sức
sống của mùa xuân, hai từ cỏ như mở ra trước mắt ta một không gian ngập tràn màu
xanh làm tâm hồn ta mênh mang, rộng mở.
Trên cái nền xanh ơi y hình ảnh “đàn sáo đen”, “mấy cánh bướm” “những
trâu bò”, tất cả như một sự điểm xuyết làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên sinh
động hơn.
Trong bức tranh này các hoạt động cũng trở nên rộn ràng, tấp nập hơn chứ không nhỏ,
nhẹ như bức tranh thứ nhất, đàn sáo đen xuống mặt đất mổ nhưng chỉ mổ vu vơ,
trước cơn gió xuân ta cảm giác như những cánh bướm không bay đang “trôi’
theo làn gió, đặc biệt hình ảnh trâu “cúi ăn mưa”, tại sao không phải ăn cỏ
lại là “ăn mưa”.
“Trong đồng hoa lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
i cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”
So với cảnh đầu bài thơ, đây không gian đã hoạt động hơn, đã con người làm
lụng cảm xúc, ruộng lúa sắp ra hoa thay hoa xoan rụng, cảnh sắc bớt vắng vẻ,
bài thơ có được cái ấm áp của đời thường.
Màu đỏ của chiếc yếm thắm được đặt trong một khuôn tranh màu xanh của lúa,
màu trắng của trở nên đối chọi vẫn hết sức hòa hợp. Bức tranh chiều xuân trên
cánh đồng lúa vì vậy mà trở nên tươi sáng hơn, giàu sức sống hơn, ấm áp hơn. Xua tan
đi tất cả những giá lạnh, buồn bã, quạnh hiu của buổi chiều xuân những khổ thơ
trên.
Chiều xuân của Anh Thơ một bản nhạc đầy thương yêu tự hào dành cho quê
hương mà thi sĩ gửi đến cho chúng ta, bồi đắp và nuôi dưỡng trong tâm hồn mỗi người
những tình cảm đẹp đẽ cho cảnh vật bình dị của làng quê Việt.
Phân tích Chiều Xuân - Mẫu 4
Anh Thơ một nữ thi nổi tiếng của văn học Việt Nam, để lại cho đời nhiều tác
phẩm hay giá trị, thể kể tới Theo cánh chim câu, Đảo ngọc hay ơng
Xuân,.... Thơ mang thương nhớ cho người thưởng thức bởi sự nhẹ nhàng, sâu lắng
và đậm dư vị của tình quê.
Đến với thơ Anh Thơ, ta bất chợt lắng lòng mình lại để cảm nhận vẻ đẹp của vạn vật,
của quê hương từ những điều dung dị, đời thường. Bài thơ "Chiều xuân" trích trong
tập thơ "Bức tranh quê" là một thi phẩm đầy yên bình và dịu ngọt vị quê nhà như thế:
"Mưa bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi"
Một chiều mùa xuân có chút gì đó đượm buồn, vẫn bình lặng yên ả thế thôi nhưng bầu
không khí phần thiếu tươi vui như bao mùa xuân trong thơ Xuân Diệu hay Nguyễn
Bính. Làn mưa bụi bay bay "êm êm" trong cơn gió nhẹ, mưa cũng thân thương mà đầy
dịu dàng, không quá nặng hạt cũng chẳng phải mang giông tố, mưa màng êm đi
qua bến vắng của dòng sông.
lẽ mưa cũng đang dừng chân nơi bến đỗ để ngắm dòng sông thơ, nơi có con đò
nằm "im lìm" lặng lẽ, sau một ngày dài làm việc, con đò dường như cũng mệt mỏi,
đành cho phép bản thân "biếng ời" đôi chút, thả mình dưới dòng nước mênh mang,
mặc kệ sông kia bồng bềnh sóng nhỏ. Không gian trời, sông, cao rộng
phảng phất buồn bởi chút trống trải, yên tĩnh lạ thường.
"Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời"
Cảnh vật xa xa dần lại gần hơn, quán tranh những ngày sớm mai vốn đông vui thì khi
ngày gần tàn lại đầy im ắng, tịch liêu, quán tranh đang "im lìm trong vắng lặng" gợi sự
đơn, lặng lẽ, hiu hắt buồn. Đó phải chăng còn hình ảnh người thi đang một
mình thưởng thức cảnh quê hương giữa khung cảnh mênh mang.
Cánh hoa xoan m rụng "tơi bời" theo làn gió xuân nhẹ nhàng, sắc m nhạt màu của
cánh hoa càng làm tăng thêm vẻ hoang hoải nơi cảnh vật. Chiều cuối ngày, thiên
nhiên phải chăng đã mệt mỏi, muốn ngơi nghỉ, không còn rộn ràng, háo hức, sức
sống tươi vui như những buổi sớm bình minh hay khi ngày trưa sống động.
Bức tranh xuân qua bốn câu thơ đầubuồn nhưng không phải là cái buồn của bi lụy,
hoang tàn nét buồn lãng mạn, nên thơ, nét buồn thấm vào a, vào con đò, vào
mái tranh hay cánh hoa đều mang cả sự mơ màng, thương mến.
"Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa"
Làng quê Việt Nam tự bao đời gắn với cánh đồng mênh mông rộng lớn, những triền
đê xanh mát mỗi chiều về. Triền đê bước vào thơ Anh Thơ cũng đẹp đẽ đến nao lòng,
những áng cỏ non " biếc" như đang thi nhau vươn mình đón nắng, mọc tràn cả bờ đê
xanh mát, tươi non mơn mởn.
Đàn sáo đen cũng bị hấp dẫn bởi vẻ tươi non hạ cánh mình xuống mổ vu vơ. Sáo
đen đang đi m mồi, đang kiếm ăn, đang lao động đấy thôi sao nghe nhẹ nhàng
đến thế, chúng tựa như những đứa đang nghịch ngợm những ngọn cỏ non xanh
dưới chân mình, vui vẻ kiếm tìm những con mồi nhỏ bé. Cảnh tượng thật bình yên
khoáng đạt biết bao!
Những chú bướm dang đôi cánh của mình bay "rập rờn" giữa khoảng trời yên bình,
trong từng cơn gió thổi. Những đôi cánh mỏng manh y lượn lờ chào nghiêng thật
mềm mại và duyên dáng.
Nơi triền đê những chú trâu, chú bò "thong thả cúi ăn mưa", cuối chiều, khi những
hạt mưa êm êm buông mình xuống mặt cỏ, trên những cây cỏ còn đọng lại những giọt
mưa, trâu ăn cỏ tựa như đang thưởng thức những hạt mưa tinh túy của đất trời.
Sự lắng đọng của cảnh trước được thay thế dần bằng những hoạt động của vật, bởi thế
mà cảnh cũng tình hơn.
"Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa."
Đồng lúa quê hương xanh rờn được đắm mình trong những cơn mưa xuân, lúa lặng lẽ
tận ởng vị mát dịu của những hạt mưa trong lành ông trời ban tặng, ướt đẫm
trên lá. Những cánh cò trắng trốn mình nơi những vạt lúa xanh, "chốc chốc" bay ra tận
hưởng khí trời xuân tuyệt diệu.
Đẹp nhất hình ảnh những người lao động thôn quê, cần mẫn cúi cuốc cào, chắc
l"cô nàng yếm thắm" y đang tập trung với công việc của mình chợt bay
ngang qua khiến nàng không khỏi giật mình. Thửa "ruộng sắp ra hoa" phải chăng
chính là những thành quả lao động còn người sẽ nhận được sau những ngày vất vả
cuốc cày chăm bón.
Còn điều đẹp hơn khi một bức tranh cảnh, người. Một bức tranh nghệ thuật
chiều xuân đầy hài hxinh đẹp của quê hương đất Việt, biểu tượng của hồn quê
hương, hồn dân tộc. "Chiều xuân" của Anh Thơ là một bản nhạc đầy thương yêu và tự
hào dành cho quê ơng thi gửi đến cho chúng ta, bồi đắp nuôi dưỡng trong
tâm hồn mỗi người những tình cảm đẹp đẽ cho cảnh vật bình dị của làng quê Việt.
Phân tích Chiều Xuân - Mẫu 5
Nữ sĩ Anh Thơ (1921 - 2005) tên thật là Vương Kiều Ân, xuất thân trong một gia đình
truyền thống Nho học. Quê gốc của nữ thị Bắc Giang nhưng lại sinh ra
lớn lên tại Ninh Giang, Hải Dương. Tuy chưa học hết tiểu học nhưng vốn khiếu
văn chương nên rất thích đọc sách làm thơ. Bút danh Anh Thơ xuất hiện trong
phong trào Thơ mới với những bài thơ viết về đề tài nông thôn tràn ngập những hình
ảnh gần gũi, quen thuộc, gợi nhnhững ki niệm êm đềm về làng mạc, quê hương
trong tâm thức của mỗi con người. Thơ của mỗi bài một bức tranh thiên nhiên
tươi mát, hài hòa, gợi nên không khí nhịp sống êm đềm miền quê Bắc Bộ. Nữ
Anh Thơ được Nhà nước tặng Giải thưởng HChí Minh về văn học nghệ thuật năm
2007.
Tác phẩm đã xuất bản: Bức tranh quê (thơ, 1941); Xưa (thơ, in chung, 1942); Răng
đen (1944); Hương xuân (thơ, in chung, 1944); Kể chuyện Lăng (truyện thơ,
1957); Theo cánh chim câu (thơ, 1960); Đảo ngọc (thơ, 1964); Hoa dưới trăng (thơ,
1967); Mùa xuân xanh (thơ, 1974); Quê chồng (thơ, 1979); Lệ sương (thơ 1995).
Chiều xuân in trong tập Bức tranh quê (xuất bản m 1941) bài thơ tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật của Anh Thơ. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi mát, thơ
mộng khung cảnh làng quê tĩnh lặng, thanh bình khiến cho con người thêm gắn
với quê hương.
Buổi chiều thường khoảnh khắc dễ m nảy sinh cảm xúc thi hứng của thi nhân.
Nhà thơ đã quan sát lựa chọn những hình ảnh, chi tiết đặc trưng của cảnh vật để
phác họa nên ba bức tranh chiều xuân êm ả, thanh bình.
Bức tranh thứ nhất tả cảnh một chiều mưa bụi với hình nh bến sông vắng khách, con
đò nằm gần như bất động, quán tranh xơ xác bên chòm xoan rụng đầy hoa tím:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Nữ quan sát, thưởng thức bằng cái nhìn m ởng nên đã cảm nhận được cái hồn
của cảnh vật thân quen. Trong chiều mưa lạnh, quang cảnh bến sông ven làng càng
tiêu điều, vắng vẻ. Một bức tranh dường như thiếu sắc màu và ánh sáng. Trong sự tĩnh
lặng gần như tuyệt đối của không gian vẫn sự hoạt động của cảnh vật, dù nh
đến mức như như không: Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng. Con đò thường ngày
tất bật chở khách sang sông, giờ đây dường như mệt mỏi, biếng lười nằm mặc nước
sông trôi. Còn quán tranh cũng như thu mình lại, đứng im lìm trong vắng lặng bởi
không còn khách vào ra với tiếng cười, tiếng nói rộn ràng. Chòm xoan hoa tím rụng
tơi bời trước ngọn gió xuân còn vương hơi lạnh của buổi tàn đông. Tất cả đều như ẩn
chứa một nỗi buồn sâu kín khó nói thành lời.
Bức tranh thứ hai:
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Hình ảnh đường đê trong buổi chiều xuân qua cảm nhận của nữ thật thân thương
bình yên. So với cảnh bến vắng đìu hiu trên thì cảnh đường đê vui hơn nhiều sức
sống hơn. Màu xanh biếc của cỏ non mơn mởn trải dài hút tầm mắt khiến nhà thơ
một liên tưởng bất ngờ thú vị: Đàn trâu đang ung dung gặm cỏ như đang
thong thả cúi ăn mưa. Đó một ảo giác nghệ thuật nảy sinh từ thực tế, qua lăng kính
lãng mạn của nhà thơ. Trên cái phông nền xanh mát mắt và mát cả hồn người ấy điểm
xuyết vài nét chấm phá của Đàn sáo đen Mấy cánh bướm rập rờn. Đoạn thơ
nhiều nét ơi mát thơ mộng, chứng tỏ tác giả tài quan sát sự rung động
tinh tế nên nhận thấy cảnh vừa thực lại vừa ảo, vừa quen, vừa lạ.
Thế nhưng bức tranh quê đẹp đẽ, thanh bình đến đâu chăng nữa cũng sẽ trống trải
nếu thiếu hình ảnh con người. Con người xuất hiện làm cho bức tranh thiên nhiên trở
thành bức tranh sinh hoạt:
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Khung cảnh thực giống như trong một giấc mơ. Giữa cánh đồng lúa xanh rờn nổi
bật lên hình ảnh một nàng yếm thắm tràn đầy sức sống của tuổi xuân. Hình ảnh
đáng yêu y thể hiện chất trữ tình lãng mạn đậm đà trong tâm hồn nữ thi nổi tiếng
của phong trào T mới. Tiếng động bất ngcủa con chốc chốc vụt bay ra
khiến gái giật mình ngơ ngác một điểm nhấn nghệ thuật. Hình ảnh thôn nữ
với cái dáng cắm cúi, chuyên cần làm việc giữa khung cảnh chiều xuân êm đềm như
thế quả đã làm xúc động lòng người, vẻ đẹp của thôn nữ bên cạnh vẻ đẹp của thiên
nhiên khiến cho cảnh sắc bình thường, thân quen bỗng trnên đẹp đẽ lạ thường. Thủ
pháp lấy động tả tĩnh đã m nổi bật vẻ thanh bình, vắng lặng của chiều xuân chốn
đồng quê.
Ba bức tranh vẽ ba khung cảnh khác nhau nhưng trong cùng một thời điểm. Nữ sĩ Anh
Thơ tìm cảm hứng từ những khung cảnh bình dị, quen thuộc xung quanh tỏ ra
thế mạnh lối miêu tả tỉ mỉ, chi tiết, thâu m được cái hồn của cảnh vật thiên nhiên.
Mặc khác, Anh Thơ n đóng góp cho Thơ mới cách dùng từ độc đáo, mới lạ chưa
từng trong thi ca. Đó những cụm từ mưa đổ bụi, đò biếng ời; rụng tơi bời, mổ
vu vơ; Những trâu thong thả cúi ăn mưa... Những nét độc đáo, mới lạ y được thể
hiện qua sự duyên dáng, mềm mại của các câu thơ càng m nổi bật phong cách lãng
mạn của tác giả. Bức tranh tổng thể về buổi chiều xuân yên ả, thanh bình vừa hòa hợp
với tâm hồn nữ vừa gợi nên tình cảm làng mạc, quê hương sâu sắc trong lòng mỗi
con người.
Phân tích Chiều Xuân - Mẫu 6
Mùa xuân mùa của cây cối sinh sôi nảy nở, mùa xuân cũng mùa của biết bao
nhiêu thế hệ thi đắm chìm vào những bài thơ miêu tả xuân. Nếu như đa số những
nhà thơ nói đến cái màu sắc yêu kiều tinh khôi của xuân vào buổi sáng bình minh y
xanh nắng dội thì Anh Thơ lại chọn riêng cho mình tả mùa xuân vào buổi chiều.
bài thơ Chiều Xuân ra đời như thế, qua đây ta thấy được thêm những nét đẹp của mùa
xuân vào buổi chiều - vẻ đẹp êm đềm trên những cánh đồng quê hương dịu ngọt.
Nhà thơ vẽ lên một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều , bức tranh ấy cũng bắt đầu
bằng hình ảnh của mưa xuân êm đềm:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
Không gian mở ra trên bến đò xưa bức tranh mùa xuân hiên lên sự cả âm
thanh, màu sắc, hình ảnh. Tứ thơ mùa xuân lan tỏa trong từng hình ảnh từng chi tiết,
từng lời thơ. Đó những hình ảnh đặc trưng của mùa xuân xứ Bắc: mưa bụi êm đềm,
chùm hoa xoan m rụng trên quán nhỏ hình ảnh cơn mưa bụi gợi lên sự êm đềm
phảng phất của những hạt mưa xuân nhỏ nhẹ êm êm. Chiều xuân cũng vắng như
những buổi chiều, con đò được nhân hóa như biết lười biếng để mặc cho ớc trôi
lững lờ cong mình thì nằm im m trên bến vắng đó. Trước mắt ta một cảnh tượng
hữu tình sông nước bến vắng với con đò. Anh Thơ không phải m đâu xa những
hình ảnh bình thường nhưng lại nên thơy đã như phô trước mắt chỉ cần một tâm hồn
biết cảm nhận toát lên những lời ttuyệt vời. Quán nước cũng im m trong sự
vắng lặng ấy, chòm xoan hoa tím rụng tơi bời. Mùa chiều vốn tàn tạ nhưng mùa xuân
thì nảy nở sinh sôi. Vậy Anh Thơ đã cho ta biết thêm một vẻ đẹp nhẹ nhàng lững lờ
của mùa xuân nữa. Mọi thứ đều hoạt động một cách nhẹ nhàng phảng phất buồn trong
sự vắng lặng của con người.
Sang khổ thơ thứ hai lại một phiên cảnh khác, không phải cảnh bến vắng con đò
lười nữa mà là cảnh mùa xuân trên những triền đê:
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”
Màu sắc của cỏ cũng trở nên thật dịu nhẹ làm sao, sắc cỏ dịu dàng biếc cỏ. Sắc màu ấy
không rực rỡ không chói chang không nổi ng như bài xuân chín của Hàn Mạc Tử,
cũng không bàn bạc thời gian như trong thơ Quách Tấn, sắc màu ấy gam màu
của cuộc sống được khúc xạ qua một tâm trạng ngẩn ngơ một chút buồn vu của thi
sĩ. Những con sáo đen xuống mổ vu vơ, my cánh ớm thì chập chờn trong gió,
những đàn trâu thong thả ăn những búi cỏ ướt đẫm mưa xuân. Ở đây ta cảm thấy được
nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ quả thật rất hay. Những con số n“đàn”, “mấy”,
“những” thể hiện sự nhiều, sự đầy đnhưng cũng không quá đông của những con vật
làm đẹp cho bức tranh chiều mùa xuân y. đặc biệt hình ảnh cánh bướm thì trôi
trước gió, đàn trâu tăn mưa. Người ta chỉ hay nói rằng trôi theo nước, ăn cỏ hay
uống mưa chứ không ai nói như thi cả. Những cái y lại trở thành cái
thành những hình ảnh nghệ thuật cùng đẹp. nhằm thể hiện lên sự dập dìu của
thiên nhiên cảnh vật, cánh bướm mỏng manh bay trong gió tựa nđang trôi theo
những làn gió nhẹ nhàng ấy. Đàn trâu gặm những búi cỏ ướt đẫm những hạt mưa xuân
như đang ăn mưa vậy.
Chia tay cảnh chiều xuân trên triền đê bãi cchúng ta đến với cảnh xuân trên trong
ruộng lúa nước thân quen:
“Trong đồng hoa lúa xanh dờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”
Cơn mưa xuân êm êm kia cũng làm cho những y lúa trên đồng ướt lặng. Cái chữ
lặng kia làm cho chúng ta thấy được sự lặng lẽ êm đềm của cảnh vật xuân nơi làng
quê. Cánh đồng không thiếu đi hình ảnh những con chân đứng chân co rồi lại chốc
chốc bay vút n bầu trời kia. Cánh cứ bay lả rập rờn như thế. Cái hành động chốc
chốc bay ra y khiến cho những gái yếm thắm giật mình. Cái giật mình y thật
đáng yêu m sao. Hình ảnh những người con gái xưa duyên dáng với chiếc yếm trên
thân mình gợi cho ta bao niềm liên ởng về những con người ngày xưa. Đặc biệt câu
thơ cuối với bốn từ liền nhau đều mang âm đầu “c” “cúi cuốc o cỏ” thể hiện sự
nhịp nhàng trùng điệp. Những gái yếm thắm y không chỉ duyên dáng trong trang
phục của người xưa mà còn đẹp với cái nết na chăm chỉ vun vén cho những cây lúa tốt
tươi, cuốc những cây cỏ đang ra hoa kia đi.
Như vậy có thể nói ba cảnh ấy hợp lại thành một bức tranh chiều xuân với nét đẹp vẫn
sinh sôi nảy nở nhưng lại êm đềm vắng vẻ và thoáng chút buồn vu vơ của người thi sĩ.
thể nói ta cảm nhận được sau bức tranh y một tâm hồn thuần phát trong sáng
của nhà thơ.
Phân tích Chiều Xuân - Mẫu 7
Nhắc đến nthơ Anh Thơ người độc giả lại nhớ về hình ảnh một nữ thi tiêu biểu
của phong trào thơ Việt Nam hiện đại. Tuổi thơ êm đềm đã từng gắn liền với đồng
ruộng cánh qhương sớm chiều mưa hay nắng, chính điều y nền tảng khơi
nguồn cho dòng suối cảm xúc thơ trong bà với phong cách thơ bình dị sâu sắc qua
từng câu chữ, qua bao hình ảnh của cảnh sắc nông thôn quê hương nhẹ nhàng được
gợi tả một cách khéo léo. Càng ấn tượng hơn khi đến với thơ ca như con đường
giải thoát khỏi cuộc đời túng, buồn tẻ tự khẳng định giá trị người phụ nữ trong
hội đương thời. Tập thơ "bức tranh quê" đầu tiên ra đời chan chứa những mộc
mạc dung dị, đặc biệt qua bài thơ "chiều xuân", một bức tranh về cảnh y trời tắt
nắng trong sắc xuân tươi đẹp.
Những cơn mưa xuân đặc trưng nơi miền Bắc những cơn mưa bụi li ti rơi nhẹ tắm
mát cho chồi non ngọn cỏ thêm xanh tươi, mưa xuất hiện trong dòng thơ đầu tiên rất
đỗi lặng lẽ trên bến đò vắng, cảnh vật thoáng buồn và chút tĩnh lặng, thêm cái lạnh của
tâm hồn bằng sự trống trải:
"Mưa bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi"
Từng giọt mưa mãi rơi hững hờ và "êm êm" trước mắt nhà thơ. Từ y gợi tả hình ảnh
những giọt mưa rơi nhẹ điểm xuyết cho khung cảnh, không ồn ào vồn vã hay nặng hạt
chút như chầm chậm theo từng khoảnh khắc thời gian. Bến sông thì thưa
khách đi đò chiều, vắng mênh mông, không gian rộng hơn sự trống trải lan tỏa vào
tâm hồn. Con đò nhỏ sau một ngày làm việc chở khách ngược xuôi trên dòng sông q
hương bây giờ nằm đây lắng vào phút giây nghỉ ngơi, mạn đò lung lay theo sóng
nhỏ, tình trôi bềnh bồng theo ớc sông. Như thế đấy ta cảm giác nhịp a rơi
nhịp sóng vỗ nhẹ nhịp đò trôi hòa theo nhau tạo nên bức tranh giản dị nhưng sâu lắng
bao cảm xúc. Ánh mắt nhà thơ chuyển hướng cũng bắt gặp sự yên tĩnh đang bao
trùm:
"Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời"
Quán tranh được nhà thơ nhân hóa qua động từ "đứng". Không chỉ "đứng" mà
"đứng im m" "trong vắng lặng", từ láy nối tiếp động từ như nhân thêm sự trống
vắng không chỉ riêng bến sông y hiệu ứng mạnh trong khổ thơ.Nơi quán tranh y
trung m của hoang vắng xác khi ngày sắp kết thúc. Hoa tím rụng "tơi bời"
vào những phút cuối của ngày dài. Dường như không chỉ con người mệt mỏi vạn
vật cũng rời, trút bỏ tàn cuối cùng.Thời gian thì cứ mỗi phút trôi qua mang theo
sự rộn ràng hối hả của ban ngày thay thế chiếc áo khá buồn tẻ vì cô đơn vắng
lặng khắp nơi.Khổ thơ thứ hai hiện lên bằng những hình ảnh được thu gọn vào tầm
mắt nhà thơ:
"Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ"
Đường đê rộng đôi bờ chạy dài mơn mởn bao ngọn cỏ xanh tươi, màu sắc của câu
thơ chính là màu "biếc" của cỏ. Ngòi bút nhà thơ tạo những nét chấm phá màu sắc khá
đẹp, cảnh thoáng buồn của khổ một y giờ như được dung hòa lại bằng chính màu
sắc của sự sống chỉ ngọn cỏ. Đến đây không gian bớt đi màu tàn phai nhường
chỗ cho màu biếc rạng rỡ, cái tĩnh lặng cũng tan dần theo tiếng vỗ cánh của đàn chim
sáo đen đang xuống.Chúng như những đứa trẻ nghịch trên đồng qua cách
miêu tả tinh tế "mổ vu vơ". Không phải "mổ vu vơ" mà thực ra chúng đang mổ những
con mồi nhỏ nhưng trong mắt nhà thơ hình ảnh đó khá dễ thương mang cảm
giác thanh bình hạnh phúc cuộc sống tự do khoáng đạt. Không dừng lại bấy
nhiêu đó, hình ảnh tiếp theo mang lại cho độc giả cái nhìn hơi ngỡ ngàng những
điều bình dị mà không bao nhiêu người cảm nhận được:
"Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa"
Gió lướt qua thổi mát khung cảnh không ít lần m nghiêng nghiêng cánh bướm,
khả năng dùng từ y khá phong phú "rập rờn", nhà tmiêu tả cái cách chú ớm
nhỏ muốn bay nhưng không sao vượt qua sức ép của cơn gió nên đôi cánh kia cứ mãi
chao đi chao lại theo làn gió thổi. Động từ "trôi" càng đậm thêm hình ảnh cánh
bướm nhỏ bị cơn gió kia hững hờ mang đi. Từng đợt gió đến rồi đi và tiếp tục thổi cho
cánh bướm mãi "rập rờn" chao nghiêng. Thấp hơn cánh bướm những chú trâu
đang từ tốn nhai cỏ non một cách "thong thả", chậm rãi như tận ởng hạnh phúc.
Mưa vẫn còn rơi vương hạt mưa lên ngọn cỏ cho ta cảm giác trâu đang thưởng
thức chính "mưa". Nhịp thơ không nhanh theo nhịp hoạt động của muôn vật. Đây
khoảng thời gian mọi thứ trở nên lắng đọng chầm chậm trôi xua đi mỏi mệt dần
tan biến. Đến khổ thơ cuối cùng của bài thơ, không gian mở rộng khắp phía làm
hoàn chỉnh bức tranh "chiều xuân" thơ mộng của thi sĩ Anh thơ:
"Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa."
Quê hương tươi đẹp bởi những cánh đồng xanh rì ngọn lúa rung rinh xào xạc theo đợt
gió thổi về, còn thấm đẫm những giọt mưa bụi lất phất. con lông trắng hình
ảnh gắn liền với ruộng đồng, với bầu trời thôn quê, với cơn gió mát chiều về, nghịch
ngợm bay ra vội vàng hối hả làm xao động cgóc trời, chúng tung cánh tự do phiêu
lãng tình làm giật mình một gái nông thôn đang cần mẫn làm việc bởi âm
thanh bay lên của những đôi cánh. gái trong câu thơ vẫn chăm chỉ làm nốt những
công việc cuối cùng của ngày sắp tàn cũng những hiện lên trước mắt nhà thơ
sau chót. Khung cảnh thanh bình tràn đầy sức sống, hoạt động của muôn vật đã y
dựng nên nhịp sống vui tươi nơi đây dù thời gian trôi gần hết ngày.
Nghệ thuật sử dụng từ ngữ, khéo léo dùng ngòi bút của mình vẽ nên những hình ảnh
bình dị nhưng thật ấm áp chan chứa vẻ đẹp cuộc sống, bên cạnh đó theo dòng thơ
mạch cảm xúc của người đọc được dâng lên nhờ đó ta cảm nhận sâu nhất tình cảm
cảm xúc của nhà thơ, đây chính là thành công khẳng định giá trị của bài thơ.
Đôi lúc nhịp thơ chầm chậm nhẹ nhàng sâu lắng đôi lúc lại mang đến cảm giác rộn
ràng vui vẻ, cả bài tnhư bài nhạc muôn giai điệu phong phú m rung động trái
tim suy nghĩ của người đọc bài thơ. Tấm lòng yêu thơ ca yêu những thân thuộc
giản dị của quê hương cùng tài năng là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên thành công
của bài thơ "Chiều xuân".
Phân tích Chiều xuân - Mẫu 8
Anh Thơ (1921-2005) một nhà thơ xuất thân trong một gia đình công chức nhỏ, quê
gốc tỉnh Bắc Giang, tên tuổi của xuất hiện trong phong trào Thơ mới với những
bài thơ viết về cảnh sắc nông thôn tràn ngập những hình ảnh gần gũi, thân thuộc, gợi
được không khí và nhịp sống sôi động nơi đồng quê miền Bắc nước ta.
Anh Thơ được được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật m 2007. Các
tác phẩm tiêu biểu của là: Bức tranh quê (thơ -1941), Kể chuyện Lăng (truyện
thơ – 1957), Từ bến sông Thương (hồi kí 1986)…
Bài thơ Chiều xuân bài thơ được rút từ “Bức tranh quê” tập thơ đầu tay của
Anh Thơ. Đây là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Anh Thơ, bài thơ
bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi mát, thơ mộng khung cảnh làng quê tĩnh lặng,
thanh bình làm cho con người thêm gắn bó với quê hương.
Bài thơ với ba khổ thơ như vẽ nên ba bức tranh về chiều xuân yên ả, thanh nh.
Những bức tranh nhghép lại thành một bức họa lớn về bức tranh thiên nhiên nơi
đồng quê miền Bắc nước ta. Khổ thơ thứ nhất tương ứng với bức tranh thứ nhất, tả
cảnh một chiều mưa bụi với những hình ảnh thân thuộc, “bến sông vắng khách”,
“quán tranh” và “chòm xoan đầy hoa tím”:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”.
Nhà thơ đã dùng cả tâm hồn nhạy cảm của mình để cảm nhận cảnh vật, trong một buổi
chiều mưa lạnh nên cảnh vật trở nên tiêu điều, vắng vẻ phần xác. Bao trùm
cả bức tranh một vẻ tĩnh lặng gần như hoàn toàn, nhưng vẫn sự hoạt động của
cảnh vật chỉ sự hoạt động rất nhẹ: “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng”, các cảnh
vật n lại dường như chỉ lặng im, con đò t“nằm mặc nước sông trôi”, còn quán
tranh thì “đứng im lìm”.
Con đò hàng ngày tất bật chở khách thì m nay trở nên biếng lười”, như tỏ vẻ mệt
mỏi. Quán tranh trong buổi chiều mưa bụi ng trở nên vắng lạnh vì thiếu đi sự nhộn
nhịp tấp nập tiếng cười, tiếng trò chuyện của khách. Nhưng n mưa nhỏ, nhẹ
nhưng khi kèm theo những cơn gió gió còn vướng hơi lạnh của những ngày cuối mùa
đông cũng đủ sức làm cho những chòm hoa xoan tím rụng “tơi bời”.
Nhưng có lẽ chính sự tĩnh lặng này đã làm cho bức tranh buổi chiều xuân có chiều sâu
của nó, tất cả cảnh vật đều như ẩn chứa một nỗi buồn sâu kín. Tiếp đến là khổ thơ thứ
hai với bức tranh thứ hai, nếu như bức tranh thứ nhất bức tranh về cảnh vật tĩnh
lặng thì ở bức tranh thứ hai dường như đã có sự sống, hoạt động của các loài động vật:
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”.
Con đê ven làng là hình ảnh thân thuộc mà có lẽ ở vùng quê nào cũng có, mùa xuân là
mùa của hoa lá, cỏ y bắt đầu sinh sôi nảy nở, chính vậy con đường ven đê cỏ
non tràn biếc cỏ, câu thơ thể hiện sự ơi mát, xanh non của cảnh vật tràn ngập sức
sống của mùa xuân, hai từ cỏ như mở ra trước mắt ta một không gian ngập tràn màu
xanh làm tâm hồn ta mênh mang, rộng mở.
Trên cái nền xanh ơi y hình ảnh “đàn sáo đen”, “mấy cánh bướm” “những
trâu bò”, tất cả như một sự điểm xuyết làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên sinh
động hơn. Trong bức tranh này các hoạt động cũng trnên rộn ràng, tấp nập hơn chứ
không nhỏ, nhẹ như bức tranh thứ nhất nữa, đàn sáo đen xuống mặt đất mổ nhưng
chỉ là mổ vu vơ, trước cơn gió xuân ta cảm giác như những cánh bướm không bay mà
đang “trôi’ theo làn gió, đặc biệt hình ảnh trâu “cúi ăn mưa”, tại sao không
phải là ăn cỏ mà lại là “ăn mưa”.
Đây là một hình ảnh thật sự lãng mạn, mưa xuống những ngọn cỏ còn long lanh nước,
ta cảm giác như không phải trâu gặm cỏ dưới làn mưa bụi đang cúi
xuống để gặm những hạt mưa. Bức tranh thứ hai một bức tranh được nhìn bằng sự
lãng mạn của nhà thơ, chính vì vậy nó vừa thực vừa ảo, vừa gợi cảm giác tươi mát vừa
gợi sự thơ mộng.
Bức tranh thứ ba được thể hiện qua khổ thơ cuối cùng với sự xuất hiện của con người,
đây chính là yếu tố quan trọng làm cho từ một bức tranh thiên nhiên trở thành bức
tranh sinh hoạt của con người:
“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”.
Một bức tranh đẹp đến đâu nhưng nếu thiếu vắng đi bóng dáng con người thì bức
tranh cũng thật đơn điệu kém phần sinh động. Từ bức tranh thứ nhất đến bức tranh
thứ ba đã sự biến chuyển đi từ tĩnh lặng gần như tuyệt đối đến đã bắt đầu sự
hoạt động của sự vật và ở bức tranh cuối cùng là hoạt động của con người.
Giữa cánh đồng lúa xanh rờn hành động của con “chốc chốc vụt bay ra” thì
đã xuất hiện hình ảnh của con người đó “một nàng yếm thắm”, cả bức tranh
một sự hòa hợp của nhiều sắc màu, lúa xanh, trắng, yếm thắm làm cho bức tranh
trở nên sinh động và rất tươi tắn.
Ba bức tranh đã khắc họa nên những cảnh vật khác nhau với những dáng vẻ khác nhau
nhưng đó đều những hình ảnh rất thân thuộc, gần gũi với làng quê nông thôn, mang
đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật của Anh Thơ.
Bài thơ mang cho ta cảm nhận về bức tranh thiên nhiên của một buổi chiều xuân êm
đẹp, qua đó gợi lên tình yêu quê ơng đất nước sâu sắc trong trái tim mỗi con người
chúng ta.
Phân tích Chiều xuân - Mẫu 9
Anh Thơ một nhà thơ của quê hương với những hình ảnh về làng mạc, quê quán
thân thương gần gũi. Bài thơ “Chiều xuân” trích trong tập “Bức tranh quê” bài thơ
tiêu biểu cho phong trào thơ mới. Bài thơ mang âm ởng du dương, yên bình của
vùng quê tĩnh lặng.
Hiện lên trước mắt ta là bức tranh thứ nhất với cảnh sắc tĩnh của bến sông vắng khách,
con đò nằm im, quán tranh vắng vẻ bên chòm xoan rụng hoa tím lả lơi:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi ...
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Tác giả không phải chỉ dùng con mắt để quan sát còn dùng tâm tình thi ca của
mình để cảm nhận. Bức tranh hiện lên với một màu sắc m đạm: Mưa đổ xuống bên
bến vắng, con đò qua sông nay lại nằm im bất động, quan tranh không còn tấp nập
người vào ra, tiếng nói, tiếng cười im lìm trong vắng lặng, hoa xoan rụng tả tơi
trước thềm vương hơi sương lạnh của tàn đông. Tất cả nh ảnh hiện lên nmột nỗi
buồn thầm kín, sâu lắng khó nói nên lời.
Xua tan đi mạch cảm xúc đượm buồn, bức tranh thứ hai hiện với với cảnh vật vừa gần
gũi, vừa xa lạ, vừa ảo, vừa thật tràn đầy sức sống:
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Nhà thi cảm nhận hình ảnh đường đê thật thân thương với cỏ non tràn biếc đọng lạ
những giọt mưa đầu mùa. Hòa vào màu xanh tươi mới của cỏ non, Đàn sáo đen
cánh bướm rập rờn đã điểm cho bức tranh xanh biếc ấy nhiều sắc màu rực rỡ. Từ
màu xanh đó, tác giả liên ởng đến một hình ảnh thú vị rằng những chú trâu đang
thong thả cúi xuống ăn mưa, liên tưởng đó thật lãng mạng.
Cảnh vật thiên nhiên có đẹp đẽ đến đâu cũng không thể thiếu vắng đi nét độc đáo của
con người. Bức tranh thứ 3 đã phát hiện ra vẻ đẹp yêu kiều của cô nàng yếm thăm
thông qua cảnh sắc trữ trình của thiên nhiên:
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Khung cảnh hiện lên cứ ngỡ trong lại rất thực. Thi đã tạo nên một cảnh
tượng đầy nghệ thuật với hình ảnh giữa đồng lúa thơm dịu bát ngát, con chốc
chốc vụt bay ra làm lra nàng yến thắm ngơ ngác, rối bời. i đó cúi cuốc cào
cỏ, chăm chỉ lao động đã làm lay động tâm hồn thi sĩ. Hình ảnh gái đã khiến cho
cảnh sắc thiên nhiên đã đẹp đẽ nay còn thơ mộng đến lạ thường.
Ba bức tranh hiện lên trong bài thơ tuy là ba khung cảnh khác nhau nhưng đều nói lên
cái trữ tình trong lòng của thi sĩ. Anh Thơ đã khéo léo sử dụng những từ ngữ độc đáo,
mới lạ m nổi bật lên khung cảnh buổi chiều xuân thanh bình hòa hợp với tình cảm
sâu sắc với quê hương trong lòng tác giả cũng như trong lòng mỗi con người.
Phân tích bài Chiều xuân - Mẫu 10
N Anh Thơ (1921 2005) được biết đến là mt hồn thơ nữ đằm thm, n thi
tên thật Vương Kiu Ân, xut thân trong một gia đình truyền thng Nho hc.
Quê gc ca n thi th Bắc Giang nhưng lại sinh ra ln lên ti Ninh
Giang, Hải Dương. Mặc dù chưa học hết tiu hc nhưng vốn có khiếu văn chương nên
rất thích đọc sách làm thơ. Bút danh Anh Thơ đã được xut hin trong phong
trào Thơ mới vi những bài thơ viết v đ tài nông thôn tràn ngp nhng hình nh gn
gũi, quen thuộc, gi nh nhng k niệm êm đềm v làng mc, quê hương trong tâm
thc ca mỗi con người. Thơ của bà mi bài là mt bức tranh thiên nhiên tươi mát, hài
hoà, gi nên không khí và nhp sống êm đềm min quê Bc Bộ. Anh Thơ đã vinh dự
khi được Nhà nước tng Gii thưng H Chí Minh v văn học ngh thut m 2007.
“Chiều xuân” tác phẩm được in trong tp Bc tranh quê (xut bản năm 1941) bài
thơ tiêu biểu cho phong cách ngh thut của Anh Thơ. Dường như bức tranh thiên
nhiên mùa xuân tươi mát, thơ mộng khung cảnh làng quê tĩnh lặng, thanh nh
khiến cho con người thêm gn bó với quê hương.
A ai cũng biết bui chiều thường là khonh khc d làm ny sinh cm xúc thi hng
của thi nhân. Nhà thơ Anh Thơ tht tinh tế khi đã quan sát và la chn nhng hình nh,
chi tiết đặc trưng của cnh vật để phác ha nên ba bc tranh chiu xuân êm , thanh
bình.
ờng như người đọc d nhn thy bc tranh th nht t cnh mt chiều mưa bụi
vi hình nh bến sông vắng khách, con đò nằm gần như đứng yên bất động, quán
tranh xơ xác tiêu điều bên chòm xoan đã như rụng đầy hoa tím:
Mưa đổ bi êm êm trên bến vng,
Đò biếng lười nm mc nưc sông trôi …
Quán tranh đng im lìm trong vng lng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
N Anh Thơ l phải quan sát, thưng thc bằng cái nhìn m tưởng nên đã cảm
nhận được cái hn ca cnh vật thân quen. Trong cơn chiều mưa lạnh đó, quang cảnh
bến sông ven làng li càng tr nên tiêu điều, vng v. Mt bc tranh hiện lên dường
như thiếu c nhng sc màu ánh sáng. c trong s tĩnh lng một cách đáng sợ
gần như tuyệt đối ca không gian vn s hoạt động ca cnh vt, nh đến
mức như như không. Dường như những cơn mưa cứ đổ bi êm êm trên bến vng.
Con đò thưng ngày tt bt ch khách sang sông, gi đây ờng như mệt mi, biếng
i nm mặc nước sông trôi. Dường như quán tranh lúc này thì cũng như thu mình li,
đứng im lìm trong vng lng bi không còn khách vào ra vi tiếng cười, tiếng nói rn
ràng. Chòm xoan hoa tím thy chung đẹp vy nay rụng tơi bời trưc ngn gió
xuân còn vương hơi lạnh ca buổi tàn đông. Tt c đều như n cha mt ni bun
mang tm vóc tht sâu kín khó nói thành lời được.
Bc tranh th hai:
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc c,
Đàn sáo đen sà xung m vu vơ;
My cánh bưm rp rn trôi trước gió,
Nhng trâu bò thong th cúi ăn mưa.
l hình ảnh đường đê trong buổi chiu xuân qua cm nhn ca n thật thân
thương bình yên. Và nếu như so với cnh bến vắng đìu hiu trên thì cảnh đường
đê vui hơn nhiu sc sống hơn. Dường ncái màu xanh biếc ca c non mơn
mn tri dài hút tm mt khiến nhà thơ một liên tưởng bt ng thú vị: Đàn trâu
bò đang ung dung gm c như đang thong th cúi ăn mưa. Đó một o giác ngh
thut ny sinh t thc tế, qua lăng kính lãng mạn của nhà thơ. Trên cái phông nn
xanh mát mt mát c hồn người y điểm xuyết vài nét chm phá của Đàn sáo đen
và My cánh bướm rp rờn. Đoạn thơ có nhiều nét tươi mát và thơ mng, chng t tác
gi tài quan sát s rung động tinh tế nên nhn thy cnh va thc li va o,
va quen, va l.
Thế nhưng bức tranh qđẹp đẽ, thanh nh đến đâu chăng nữa cũng sẽ trng tri
nếu thiếu hình ảnh con người. Con ngưi xut hin làm cho bc tranh thiên nhiên tr
thành bc tranh sinh hot:
Trong đng lúa xanh rờn và ướt lng,
…Cúi cuc cào c rung sp ra hoa.
Khung cnh thc giống như trong một gic mơ. Giữa cánh đồng lúa xanh rn bát
ngát đó lại ni bt lên hình nh mt nàng yếm thm tràn đầy sc sng ca tui
xuân. Hình ảnh đó thật đáng yêu biết bao khi đã thể hin cht tr tình lãng mạn đậm
đà trong tâm hồn n thi sĩ ni tiếng của phong trào Thơ mới. Tiếng động bt ng ca
con chốc chc vt bay ra khiến gái giật mình ngơ ngác một điểm nhn
ngh thuật. Đc bit nh nh thôn n vi cái dáng cm cúi, chuyên cn làm vic
gia khung cnh chiều xuân êm đềm như thế qu đã làm xúc động lòng người, v đẹp
ca thôn n đứng bên cnh v đẹp ca thiên nhiên khiến cho cnh sắc bình thường
đời thưng, vn thân quen bng tr nên đẹp đẽ l thường. Anh Thơ như th hin thành
công th pháp ly động t tĩnh đã làm nổi bt v thanh bình, vng lng ca chiu xuân
chốn đồng quê.
Ba bc tranh v ba khung cảnh khác nhau nhưng trong cùng một thời điểm. N Anh
Thơ dường như đã tìm cảm hng t nhng khung cnh bình d, quen thuc xung
quanh t ra thế mnh li miêu t t m, chi tiết, thâu tóm được cái hn ca
cnh vật thiên nhiên.Ngoài ra thì thi Anh Thơ còn đóng góp cho Thơ mi cách
dùng t độc đáo, mới l chưa từng trong thi ca. Đó còn những cm t đặc sc
giàu tính tạo hình mưa đổ bụi”, ‘đò biếng lười’; “rụng tơi bời”, mổ vu vơ”; “Những
trâu thong th cúi ăn mưa”… th nói rng những nét độc đáo, mới l ấy được
th hin qua s duyên dáng, mm mi của các câu thơ càng làm ni bt phong cách
lãng mn ca tác giả. Đó còn được coi mt bc tranh tng th v bui chiu xuân
yên ả, thanh bình nơi làng quê. Bức tranh thiên nhiên va hoà hp vi m hn n
va gi nên tình cm làng mạc, quê hương sâu sắc trong lòng mỗi con ngưi.
| 1/30

Preview text:


Dàn ý Phân tích bài thơ Chiều xuân Dàn ý số 1 I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm:
+ Anh Thơ (1921 - 2005) là một nữ thi sĩ tiêu biểu của phong trào thơ Việt Nam hiện
đại với những tác phẩm thơ thiên về tả cảnh bình dị quen thuộc.
+ Chiều xuân trích từ tập thơ đầu tay “Bức tranh quê” in năm 1941. 2. Thân bài
a) Luận điểm 1: Bức tranh chiều xuân
* Bến vắng chiều xuân (Khổ 1)
"Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời"
- "mưa bụi, con đò, nước sông trôi, quán tranh vắng, hoa xoan tím,…"
-> Những hình ảnh quen thuộc đặc trưng cho miền quê Việt Nam: bến đò vắng khách,
con đò nằm yên một chỗ, quán nhỏ, cây xoan đầy hoa tím...
=> Cảnh đẹp, êm ả, yên bình nhưng gợn buồn.
- "Êm êm": từ láy gợi tả hình ảnh những giọt mưa rơi nhẹ điểm xuyết cho khung cảnh,
không ồn ào, vội vã hay nặng hạt mà có chút gì đó như chầm chậm theo từng khoảnh khắc thời gian.
- "êm êm, biếng lười, im lìm, tơi bời"… : gợi tả sự vắng lặng của chiều quê.
=> Cuộc sống yên tĩnh có phần ngưng đọng: chiều mưa lạnh, bến sông ven làng tiêu
điều, vắng vẻ; một bức tranh dường như thiếu sắc màu và ánh sáng.
* Đường đê chiều xuân (Khổ 2)
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa
- "cỏ non tràn biếc cỏ, đàn sáo, cánh bướm, trâu bò,..." -> những hình ảnh đặc trưng
của mùa xuân đồng bằng Bắc Bộ
- "sà xuống mổ vu vơ, rập rờn, thong thả..." -> Từ ngữ diễn tả hoạt động
-> Bức tranh có sự chuyển đổi từ gam màu buồn sang sự sống, gam màu xanh "biếc"
của cỏ, từ tĩnh sang động
=> Cảnh vật thân thương và bình yên quá đỗi, độc đáo và nên thơ, cảnh quen thuộc trở
nên mới mẻ, sinh động, làm vơi đi nỗi cô đơn của bến vắng.
b) Luận điểm 2: Không khí và nhịp sống thôn quê (Khổ 3)
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
- “Xanh rờn”: màu xanh nhẹ nhàng đầy sức sống của mùa xuân
- "cô nàng, yếm thắm": Cảnh sắc bớt vắng vẻ và trở nên ấm áp hơn.
- "cúi, cuốc, cào, chốc chốc vụt qua" -> Câu thơ tả động để nói đến cái tình, và nhấn
mạnh nhịp sống bình yên của làng quê.
=> Nhịp sống khoan thai nơi đồng quê.
- “sắp ra hoa” -> Niềm tin của con người vào một tương lai tươi sáng.
* Không khí thơ mộng, êm đềm, tĩnh lặng thể hiện qua:
- Hình ảnh dân dã, hài hòa, êm dịu trong tổng thể bức tranh làng quê thanh bình.
- Từ ngữ gợi hình, gợi cảm: sử dụng hiệu quả biện pháp nhân hóa (đò biếng lười, quán
tranh đứng im lìm…), cách diễn đạt độc đáo (cúi ăn mưa, cỏ non tràn biếc cỏ)…
- Bút pháp lấy động tả tĩnh: cái giật mình của cô gái khác đàn cò vút bay ra.
* Nhịp sống nhẹ nhàng, chậm rãi, khoan thai thể hiện qua:
- Hệ thống từ láy gợi cảm diễn tả trạng thái nhẹ nhàng, êm đềm của đối tượng.
- Thiên nhiên và con người được miêu tả trong nhịp điệu chậm rãi, khoan thai. 3. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị của bài thơ:
+ Nội dung: Vẻ đẹp chiều xuân bình dị, đơn sơ mộc mạc của làng quê Bắc Bộ, tình
yêu làng quê, đất nước sâu sắc và thiết tha.
+ Nghệ thuật: Từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm, sử dụng nhiều từ láy; thủ pháp lấy cái
động để nói cái tĩnh.
- Cảm nhận đánh giá của em về bài thơ. Dàn ý số 2 1. Mở bài
Bài thơ “Chiều xuân” trích trong tập thơ “Bức tranh quê” là một thi phẩm đầy yên
bình và dịu ngọt vị xuân quê nhà. 2. Thân bài
● Làn mưa bụi bay bay “êm êm” trong cơn gió nhẹ.
● Con đò dường như cũng mệt mỏi, đành cho phép bản thân “biếng lười” đôi
chút, thả mình dưới dòng nước mênh mang, mặc kệ sông kia có bồng bềnh sóng nhỏ.
● Quán tranh những ngày sớm mai vốn đông vui thì khi ngày gần tàn lại đầy im
ắng, lặng lẽ, cô đơn.
● Cánh hoa xoan tím rụng “tơi bời” theo làn gió xuân nhẹ nhàng, sắc tím nhạt
màu của cánh hoa càng làm tăng thêm vẻ hoang hoải nơi cảnh vật.
● Triền đê xanh biếc cỏ non cùng đàn sáo mổ vu vơ gợi khung cảnh đầy thanh bình, êm ái
● Những cánh cò trắng trốn mình nơi những vạt lúa xanh, “chốc chốc” bay ra tận
hưởng khí trời xuân tuyệt diệu.
● Hình ảnh cô nàng yếm thắm cần mẫn với công việc đầy đẹp đẽ, nên thơ. 3. Kết bài
Chiều xuân của Anh Thơ là một bản nhạc đầy thương yêu và tự hào dành cho quê
hương mà thi sĩ gửi đến cho chúng ta, bồi đắp và nuôi dưỡng trong tâm hồn mỗi người
những tình cảm đẹp đẽ cho cảnh vật bình dị của làng quê Việt.
Phân tích Chiều Xuân - Mẫu 1
Anh Thơ ( 1921-2005) quê ở Bắc Giang, từ nhỏ bà đã tìm đến văn thơ để giải thoát và
tự khẳng định mình. Tháng 8 năm 1945 Anh Thơ hăng hái tham gia cách mạng, nhiệt
tình phục vụ kháng chiến và xây dựng đất nước bằng sáng tác thơ ca bà từng là ủy
viên ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam, bà đã để lại nhiều tập thơ có ý nghĩa tinh
thần và nghệ thuật sâu sắc. Trong đó có bài “chiều xuân” Anh Thơ đã miêu tả một bức
tranh quê chiều xuân thanh bình, đồng thời thể hiện lòng yêu quê hương, đất nước thiết tha của mình.
Quê hương đất nước là mảng đề tài quen thuộc của giới văn nghệ sĩ, đã có nhiều tác
phẩm tuyệt vời ra đời, Anh Thơ là một trong số những nhà văn đó đã thể hiện tình yêu
quê hương đất nước thiết tha qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhưng sâu lắng.
Cảnh quê hương thanh bình yên ả của một quê hương giàu đẹp được thi nhân đón
nhận bằng cả tâm hồn. Trải rộng bài thơ trích trong tập thơ “bức tranh quê” xuất bản năm 1941.
Anh thơ đã chọn thể thơ 8 chữ, gieo vần giãn cách, mỗi khổ có 4 câu là một bức tranh
quê êm đềm, thư thái như tâm hồn người phụ nữ :
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
Nhịp thơ 3/5 chậm rãi, khoan thai với những hình ảnh quen thuộc trong ca dao và thơ
ca cổ điển Việt Nam vẫn là bến nước, con sông, con đò, quán nước nhưng có lẽ không
phải bên sông có đông người lên xuống mà là một bến vắng, con đò cũng không phải
là con đò nối giữa cầu hai cảng mà là con đò biếng lười, hờ hững để mặt dòng sông
trôi xuôi và quán tranh im lìm, vắng lặng trong một chiều mưa xuân . Tất cả cảnh vật
như rơi vào tình trạng im ắng tuyệt đối, tất cả như đang mong mỏi một cái gì đó đến
từ nơi xa thẳm. Nếu như không có sự chuyển động của nước sông trôi và “chòm xoan
hoa tím rụng tơi bời” thì người đọc tưởng như mình đang đối diện với bức tranh xuân
tĩnh vật, bức tranh xuân tuyệt đẹp, thật êm ả nhưng cũng thật buồn , chất chứa tâm
trạng buồn não nề của chủ thế tôi đang cô đơn, khao khát đợi chờ, hỏi thăm. Khổ thơ
như chứa đựng được nỗi niềm của thi nhân.
Ở khổ thứ 2, từ cái nhìn bao quát tác giả đi gần vào với con người và thiên nhiên
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa .”
Cảnh chiều xuân được mở rộng hơn sau những ngày băng giá, xuân về cỏ non trở nên
tốt tươi hơn “cỏ non tràn biếc cỏ”, điệp từ “cỏ” được lặp lại 2 lần đã khắc họa được
cảnh vật thân quen ở nông thôn, cỏ non xanh mơn mởn, sức sống bừng lên mạnh mẽ
qua cụm từ “tràn biếc cỏ” trên nền hình ảnh cỏ xuân ấy, chiều xuân hiện ra thật sinh
động:“Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ” cùng với đàn bò đang gặm cỏ để ăn và cao
hơn một chút là: “Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió”, cảnh vật có động nhưng
thật nhẹ nhàng vì đàn sáo đen sà xuống nhưng chỉ mổ một cách vu vơ, vài ba cánh
bướm thì lại không bay mà để mặc trôi trước gió, mấy chú trâu bò kia lại cúi thong thả
ăn mưa, cách miêu tả của Anh Thơ đã làm cho vật đã tỉnh nay càng thêm tỉnh hơn,
càng trở nên mơ hồ, huyền hoặc hơn.
Tác giả lại đi vào chỉ tiết hơn ở cánh trong đồng, được Anh Thơ thể hiện trong khổ 3 của bài thơ:
“Trong đồng hoa lúa xanh dờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa .”
Thi nhân tiếp tục khắc họa thêm hình ảnh chiều xuân với “đồng hoa lúa xanh rờn và
ướt lặng” , có những chú cò con thỉnh thoảng lại tung vụt bay lên giữa mảnh ruộng
sắp ra hoa, trên khung cảnh chiều xuân ấy lại có sự xuất hiện thêm bóng dáng của
thiếu nữ đang cúi cuốc cào, tưởng chừng như cô gái đang chăm chỉ với công việc,
nhưng không tập trung vào công việc của mình nhiều lắm, chỉ cần tiếng cất cánh của
đàn chim con” thôi mà cô gái cũng phải giật mình, cái “giật mình” thật đáng suy nghĩ,
nàng yêu thắm kia thả hồn về nơi đâu trong tuổi dậy thì mơ mộng với nỗi buồn vu vơ,
nàng ngẩn ngơ trước cảnh vật đang rạo rực vào xuân.
Cả bài thơ chỉ vỏn vẹn có 3 khổ thơ, mỗi khổ là một bức tranh xuân hợp lại, tạo nên
cảnh xuân buổi chiều êm ả, bình yên và tĩnh lặng. Qua thủ pháp lấy động tả tĩnh cảnh
sắc tươi tắn, con người mộng mơ, với sự quan sát tinh tế của người con gái phải yêu
quê hương tha thiết thì ngòi bút của nhà văn Anh Thơ mới dựng lên được một cảnh
chiều mưa xuân đẹp đến như thế.
Phân tích bài thơ Chiều xuân - Mẫu 2
Bài thơ “Chiều xuân” trích trong tập thơ “Bức tranh quê” là một thi phẩm đầy yên
bình và dịu ngọt vị xuân quê nhà. Trong đó có bài “chiều xuân” Anh Thơ đã miêu tả
một bức tranh quê chiều xuân thanh bình, đồng thời thể hiện lòng yêu quê hương, đất
nước thiết tha của mình.
Cảnh quê hương thanh bình yên ả của một quê hương giàu đẹp được thi nhân đón
nhận bằng cả tâm hồn. Trải rộng bài thơ trích trong tập thơ “bức tranh quê” xuất bản năm 1941.
Khổ thơ thứ nhất tương ứng với bức tranh thứ nhất, tả cảnh một chiều mưa bụi với
những hình ảnh thân thuộc, “bến sông vắng khách”, “quán tranh” và “chòm xoan đầy hoa tím”:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”.
Trong chiều mưa lạnh, quang cảnh bến sông ven làng càng tiêu điều, vắng vẻ. Một
bức tranh dường như thiếu sắc màu và ánh sáng. Trong sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối
của không gian vẫn có sự hoạt động của cảnh vật, dù là nhẹ đến mức như có như
không: Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng. Con đò thường ngày tất bật chở khách sang
sông, giờ đây dường như mệt mỏi, biếng lười nằm mặc nước sông trôi. Còn quán
tranh cũng như thu mình lại, đứng im lìm trong vắng lặng bởi không còn khách vào ra
với tiếng cười, tiếng nói rộn ràng. Chòm xoan hoa tím rụng tơi bời trước ngọn gió
xuân còn vương hơi lạnh của buổi tàn đông. Tất cả đều như ẩn chứa một nỗi buồn sâu kín khó nói thành lời.
Ở khổ thứ 2, từ cái nhìn bao quát tác giả đi gần vào với con người và thiên nhiên
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa .”
Cảnh chiều xuân được mở rộng hơn sau những ngày băng giá, xuân về cỏ non trở nên
tốt tươi hơn “cỏ non tràn biếc cỏ”, điệp từ “cỏ” được lặp lại 2 lần đã khắc họa được
cảnh vật thân quen ở nông thôn, cỏ non xanh mơn mởn, sức sống bừng lên mạnh mẽ
qua cụm từ “tràn biếc cỏ” trên nền hình ảnh cỏ xuân ấy, chiều xuân hiện ra thật sinh
động:“Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ” cùng với đàn bò đang gặm cỏ để ăn và cao
hơn một chút là: “Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió”, cảnh vật có động nhưng
thật nhẹ nhàng vì đàn sáo đen sà xuống nhưng chỉ mổ một cách vu vơ, vài ba cánh
bướm thì lại không bay mà để mặc trôi trước gió, mấy chú trâu bò kia lại cúi thong thả
ăn mưa, cách miêu tả của Anh Thơ đã làm cho vật đã tĩnh nay càng thêm tĩnh, càng
trở nên mơ hồ, huyền hoặc hơn.
Ở khổ thứ ba, con người xuất hiện làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh sinh hoạt:
“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.”
Đồng lúa quê hương xanh rờn được đắm mình trong những cơn mưa xuân, lúa lặng lẽ
tận hưởng vị mát dịu của những hạt mưa trong lành mà ông trời ban tặng, ướt đẫm
trên lá. Những cánh cò trắng trốn mình nơi những vạt lúa xanh, "chốc chốc" bay ra tận
hưởng khí trời xuân tuyệt diệu.
Đẹp nhất là hình ảnh những người lao động thôn quê, cần mẫn cúi cuốc cào, chắc có
lẽ "cô nàng yếm thắm" ấy đang tập trung với công việc của mình mà chợt cò bay
ngang qua khiến nàng không khỏi giật mình. Thửa "ruộng sắp ra hoa" phải chăng
chính là những thành quả lao động mà còn người sẽ nhận được sau những ngày vất vả cuốc cày chăm bón.
Tóm lại, tác giả đã khắc họa bức tranh những cảnh vật khác nhau với những dáng vẻ
khác nhau nhưng đó đều là những hình ảnh rất thân thuộc, gần gũi với làng quê nông
thôn, mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật. Bài thơ mang cho ta cảm nhận về bức
tranh thiên nhiên của một buổi chiều xuân êm đẹp, qua đó gợi lên tình yêu quê hương
đất nước sâu sắc trong trái tim mỗi con người chúng ta.
Phân tích Chiều xuân ngắn gọn - Mẫu 3
Anh Thơ là nữ thi sĩ tiêu biểu của thơ Việt Nam hiện đại. Bà có sở trường viết về cảnh
sắc nông thôn, gợi được không khí và nhịp điệu sống ở miền Bắc. Ham văn chương,
chịu khó đọc sách, Anh Thơ tìm đến văn chương như một cách tự giải thoát và khẳng định mình.
Năm 1937 (mười sáu tuổi) bà đã có thơ đăng báo. Nguyễn Bính viết về nét “chân
quê”, thì Anh Thơ lại thiên về “cảnh quê” thân thuộc pha chút tâm sự bâng khuâng, u
buồn của cái tôi thơ mới. Bài thơ Chiều xuân là một bài thơ tả cảnh, giọng điệu thơ rất
dịu dàng, ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng.
Bài thơ Chiều xuân được rút từ Bức tranh quê, tập thơ đầu tay của Anh Thơ gồm 41
bài viết về cảnh nông thôn bình dị, quen thuộc. Một số bài trong tập thơ làm xúc động
lòng người đọc bởi những nét vẽ chân thực, tinh tế, thấm đượm tình quê đằm thắm và
có chút tâm sự bâng khuâng, u buồn của “cái tôi” thơ mới.
Bài thơ với ba khổ thơ như vẽ nên ba bức tranh về chiều xuân yên ả, thanh bình.
Những bức tranh nhỏ ghép lại thành một bức họa lớn về bức tranh thiên nhiên nơi
đồng quê miền Bắc nước ta. Khổ thơ thứ nhất tương ứng với bức tranh thứ nhất, tả
cảnh một chiều mưa bụi với những hình ảnh thân thuộc, “bến sông vắng khách”,
“quán tranh” và “chòm xoan đầy hoa tím”:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
Nhà thơ đã dùng cả tâm hồn nhạy cảm của mình để cảm nhận cảnh vật, trong một buổi
chiều mưa lạnh nên cảnh vật trở nên tiêu điều, vắng vẻ và có phần xơ xác. Bao trùm
cả bức tranh là một vẻ tĩnh lặng gần như là hoàn toàn, nhưng vẫn có sự hoạt động của
cảnh vật dù chỉ là sự hoạt động rất nhẹ: “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng”, các cảnh
vật còn lại dường như chỉ lặng im, con đò thì “nằm mặc nước sông trôi”, còn quán
tranh thì “đứng im lìm”.
Con đò hàng ngày tất bật chở khách thì hôm nay trở nên “biếng lười”, như tỏ vẻ mệt
mỏi. Quán tranh trong buổi chiều mưa bụi cũng trở nên vắng lạnh vì thiếu đi sự nhộn
nhịp tấp nập tiếng cười, tiếng trò chuyện của khách. Những cơn mưa dù nhỏ, nhẹ
nhưng khi kèm theo những cơn gió gió còn vướng hơi lạnh của những ngày cuối mùa
đông cũng đủ sức làm cho những chòm hoa xoan tím rụng “tơi bời”.
Nhưng có lẽ chính sự tĩnh lặng này đã làm cho bức tranh buổi chiều xuân có chiều sâu
của nó, tất cả cảnh vật đều như ẩn chứa một nỗi buồn sâu kín. Tiếp đến là khổ thơ thứ
hai với bức tranh thứ hai, nếu như ở bức tranh thứ nhất là bức tranh về cảnh vật tĩnh
lặng thì ở bức tranh thứ hai dường như đã có sự sống, hoạt động của các loài động vật:
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”
Con đê ven làng là hình ảnh thân thuộc mà có lẽ ở vùng quê nào cũng có, mùa xuân là
mùa của hoa lá, cỏ cây bắt đầu sinh sôi nảy nở, chính vì vậy mà con đường ven đê cỏ
non tràn biếc cỏ, câu thơ thể hiện sự tươi mát, xanh non của cảnh vật tràn ngập sức
sống của mùa xuân, hai từ cỏ như mở ra trước mắt ta một không gian ngập tràn màu
xanh làm tâm hồn ta mênh mang, rộng mở.
Trên cái nền xanh tươi ấy là hình ảnh “đàn sáo đen”, là “mấy cánh bướm” và “những
trâu bò”, tất cả như một sự điểm xuyết làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên sinh động hơn.
Trong bức tranh này các hoạt động cũng trở nên rộn ràng, tấp nập hơn chứ không nhỏ,
nhẹ như bức tranh thứ nhất, đàn sáo đen sà xuống mặt đất mổ nhưng chỉ là mổ vu vơ,
trước cơn gió xuân ta cảm giác như những cánh bướm không bay mà là đang “trôi’
theo làn gió, đặc biệt là hình ảnh trâu bò “cúi ăn mưa”, tại sao không phải là ăn cỏ mà lại là “ăn mưa”.
“Trong đồng hoa lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”
So với cảnh đầu bài thơ, ở đây không gian đã hoạt động hơn, đã có con người làm
lụng và cảm xúc, ruộng lúa sắp ra hoa thay vì hoa xoan rụng, cảnh sắc bớt vắng vẻ,
bài thơ có được cái ấm áp của đời thường.
Màu đỏ của chiếc yếm thắm được đặt trong một khuôn tranh có màu xanh của lúa,
màu trắng của cò trở nên đối chọi mà vẫn hết sức hòa hợp. Bức tranh chiều xuân trên
cánh đồng lúa vì vậy mà trở nên tươi sáng hơn, giàu sức sống hơn, ấm áp hơn. Xua tan
đi tất cả những giá lạnh, buồn bã, quạnh hiu của buổi chiều xuân ở những khổ thơ trên.
Chiều xuân của Anh Thơ là một bản nhạc đầy thương yêu và tự hào dành cho quê
hương mà thi sĩ gửi đến cho chúng ta, bồi đắp và nuôi dưỡng trong tâm hồn mỗi người
những tình cảm đẹp đẽ cho cảnh vật bình dị của làng quê Việt.
Phân tích Chiều Xuân - Mẫu 4
Anh Thơ là một nữ thi sĩ nổi tiếng của văn học Việt Nam, bà để lại cho đời nhiều tác
phẩm hay và có giá trị, có thể kể tới Theo cánh chim câu, Đảo ngọc hay Hương
Xuân,.... Thơ bà mang thương nhớ cho người thưởng thức bởi sự nhẹ nhàng, sâu lắng
và đậm dư vị của tình quê.
Đến với thơ Anh Thơ, ta bất chợt lắng lòng mình lại để cảm nhận vẻ đẹp của vạn vật,
của quê hương từ những điều dung dị, đời thường. Bài thơ "Chiều xuân" trích trong
tập thơ "Bức tranh quê" là một thi phẩm đầy yên bình và dịu ngọt vị quê nhà như thế:
"Mưa bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi"
Một chiều mùa xuân có chút gì đó đượm buồn, vẫn bình lặng yên ả thế thôi nhưng bầu
không khí có phần thiếu tươi vui như bao mùa xuân trong thơ Xuân Diệu hay Nguyễn
Bính. Làn mưa bụi bay bay "êm êm" trong cơn gió nhẹ, mưa cũng thân thương mà đầy
dịu dàng, không quá nặng hạt cũng chẳng phải mang giông tố, mưa mơ màng êm ả đi
qua bến vắng của dòng sông.
Và có lẽ mưa cũng đang dừng chân nơi bến đỗ để ngắm dòng sông thơ, nơi có con đò
nằm "im lìm" lặng lẽ, sau một ngày dài làm việc, con đò dường như cũng mệt mỏi,
đành cho phép bản thân "biếng lười" đôi chút, thả mình dưới dòng nước mênh mang,
mặc kệ sông kia có bồng bềnh sóng nhỏ. Không gian có trời, có sông, cao rộng mà
phảng phất buồn bởi chút trống trải, yên tĩnh lạ thường.
"Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời"
Cảnh vật xa xa dần lại gần hơn, quán tranh những ngày sớm mai vốn đông vui thì khi
ngày gần tàn lại đầy im ắng, tịch liêu, quán tranh đang "im lìm trong vắng lặng" gợi sự
cô đơn, lặng lẽ, hiu hắt buồn. Đó phải chăng còn là hình ảnh người thi sĩ đang một
mình thưởng thức cảnh quê hương giữa khung cảnh mênh mang.
Cánh hoa xoan tím rụng "tơi bời" theo làn gió xuân nhẹ nhàng, sắc tím nhạt màu của
cánh hoa càng làm tăng thêm vẻ hoang hoải nơi cảnh vật. Chiều cuối ngày, thiên
nhiên phải chăng đã mệt mỏi, muốn ngơi nghỉ, mà không còn rộn ràng, háo hức, sức
sống tươi vui như những buổi sớm bình minh hay khi ngày trưa sống động.
Bức tranh xuân qua bốn câu thơ đầu có buồn nhưng không phải là cái buồn của bi lụy,
hoang tàn mà là nét buồn lãng mạn, nên thơ, nét buồn thấm vào mưa, vào con đò, vào
mái tranh hay cánh hoa đều mang cả sự mơ màng, thương mến.
"Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa"
Làng quê Việt Nam tự bao đời gắn với cánh đồng mênh mông rộng lớn, những triền
đê xanh mát mỗi chiều về. Triền đê bước vào thơ Anh Thơ cũng đẹp đẽ đến nao lòng,
những áng cỏ non " biếc" như đang thi nhau vươn mình đón nắng, mọc tràn cả bờ đê
xanh mát, tươi non mơn mởn.
Đàn sáo đen cũng bị hấp dẫn bởi vẻ tươi non mà hạ cánh mình xuống mổ vu vơ. Sáo
đen đang đi tìm mồi, đang kiếm ăn, đang lao động đấy thôi mà sao nghe nhẹ nhàng
đến thế, chúng tựa như những đứa bé đang nghịch ngợm những ngọn cỏ non xanh
dưới chân mình, vui vẻ kiếm tìm những con mồi nhỏ bé. Cảnh tượng thật bình yên và khoáng đạt biết bao!
Những chú bướm dang đôi cánh của mình bay "rập rờn" giữa khoảng trời yên bình,
trong từng cơn gió thổi. Những đôi cánh mỏng manh ấy lượn lờ chào nghiêng thật mềm mại và duyên dáng.
Nơi triền đê là những chú trâu, chú bò "thong thả cúi ăn mưa", cuối chiều, khi những
hạt mưa êm êm buông mình xuống mặt cỏ, trên những cây cỏ còn đọng lại những giọt
mưa, trâu bò ăn cỏ mà tựa như đang thưởng thức những hạt mưa tinh túy của đất trời.
Sự lắng đọng của cảnh trước được thay thế dần bằng những hoạt động của vật, bởi thế mà cảnh cũng tình hơn.
"Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa."
Đồng lúa quê hương xanh rờn được đắm mình trong những cơn mưa xuân, lúa lặng lẽ
tận hưởng vị mát dịu của những hạt mưa trong lành mà ông trời ban tặng, ướt đẫm
trên lá. Những cánh cò trắng trốn mình nơi những vạt lúa xanh, "chốc chốc" bay ra tận
hưởng khí trời xuân tuyệt diệu.
Đẹp nhất là hình ảnh những người lao động thôn quê, cần mẫn cúi cuốc cào, chắc có
lẽ "cô nàng yếm thắm" ấy đang tập trung với công việc của mình mà chợt cò bay
ngang qua khiến nàng không khỏi giật mình. Thửa "ruộng sắp ra hoa" phải chăng
chính là những thành quả lao động mà còn người sẽ nhận được sau những ngày vất vả cuốc cày chăm bón.
Còn điều gì đẹp hơn khi một bức tranh có cảnh, có người. Một bức tranh nghệ thuật
chiều xuân đầy hài hoà và xinh đẹp của quê hương đất Việt, biểu tượng của hồn quê
hương, hồn dân tộc. "Chiều xuân" của Anh Thơ là một bản nhạc đầy thương yêu và tự
hào dành cho quê hương mà thi sĩ gửi đến cho chúng ta, bồi đắp và nuôi dưỡng trong
tâm hồn mỗi người những tình cảm đẹp đẽ cho cảnh vật bình dị của làng quê Việt.
Phân tích Chiều Xuân - Mẫu 5
Nữ sĩ Anh Thơ (1921 - 2005) tên thật là Vương Kiều Ân, xuất thân trong một gia đình
có truyền thống Nho học. Quê gốc của nữ sĩ ở thị xã Bắc Giang nhưng bà lại sinh ra
và lớn lên tại Ninh Giang, Hải Dương. Tuy chưa học hết tiểu học nhưng vốn có khiếu
văn chương nên bà rất thích đọc sách và làm thơ. Bút danh Anh Thơ xuất hiện trong
phong trào Thơ mới với những bài thơ viết về đề tài nông thôn tràn ngập những hình
ảnh gần gũi, quen thuộc, gợi nhớ những ki niệm êm đềm về làng mạc, quê hương
trong tâm thức của mỗi con người. Thơ của bà mỗi bài là một bức tranh thiên nhiên
tươi mát, hài hòa, gợi nên không khí và nhịp sống êm đềm ở miền quê Bắc Bộ. Nữ sĩ
Anh Thơ được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2007.
Tác phẩm đã xuất bản: Bức tranh quê (thơ, 1941); Xưa (thơ, in chung, 1942); Răng
đen (1944); Hương xuân (thơ, in chung, 1944); Kể chuyện Vũ Lăng (truyện thơ,
1957); Theo cánh chim câu (thơ, 1960); Đảo ngọc (thơ, 1964); Hoa dưới trăng (thơ,
1967); Mùa xuân xanh (thơ, 1974); Quê chồng (thơ, 1979); Lệ sương (thơ 1995).
Chiều xuân in trong tập Bức tranh quê (xuất bản năm 1941) là bài thơ tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật của Anh Thơ. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi mát, thơ
mộng và khung cảnh làng quê tĩnh lặng, thanh bình khiến cho con người thêm gắn bó với quê hương.
Buổi chiều thường là khoảnh khắc dễ làm nảy sinh cảm xúc và thi hứng của thi nhân.
Nhà thơ đã quan sát và lựa chọn những hình ảnh, chi tiết đặc trưng của cảnh vật để
phác họa nên ba bức tranh chiều xuân êm ả, thanh bình.
Bức tranh thứ nhất tả cảnh một chiều mưa bụi với hình ảnh bến sông vắng khách, con
đò nằm gần như bất động, quán tranh xơ xác bên chòm xoan rụng đầy hoa tím:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Nữ sĩ quan sát, thưởng thức bằng cái nhìn tâm tưởng nên đã cảm nhận được cái hồn
của cảnh vật thân quen. Trong chiều mưa lạnh, quang cảnh bến sông ven làng càng
tiêu điều, vắng vẻ. Một bức tranh dường như thiếu sắc màu và ánh sáng. Trong sự tĩnh
lặng gần như tuyệt đối của không gian vẫn có sự hoạt động của cảnh vật, dù là nhẹ
đến mức như có như không: Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng. Con đò thường ngày
tất bật chở khách sang sông, giờ đây dường như mệt mỏi, biếng lười nằm mặc nước
sông trôi. Còn quán tranh cũng như thu mình lại, đứng im lìm trong vắng lặng bởi
không còn khách vào ra với tiếng cười, tiếng nói rộn ràng. Chòm xoan hoa tím rụng
tơi bời trước ngọn gió xuân còn vương hơi lạnh của buổi tàn đông. Tất cả đều như ẩn
chứa một nỗi buồn sâu kín khó nói thành lời. Bức tranh thứ hai:
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Hình ảnh đường đê trong buổi chiều xuân qua cảm nhận của nữ sĩ thật thân thương và
bình yên. So với cảnh bến vắng đìu hiu ở trên thì cảnh đường đê vui hơn và nhiều sức
sống hơn. Màu xanh biếc của cỏ non mơn mởn trải dài hút tầm mắt khiến nhà thơ có
một liên tưởng bất ngờ và thú vị: Đàn trâu bò đang ung dung gặm cỏ mà như đang
thong thả cúi ăn mưa. Đó là một ảo giác nghệ thuật nảy sinh từ thực tế, qua lăng kính
lãng mạn của nhà thơ. Trên cái phông nền xanh mát mắt và mát cả hồn người ấy điểm
xuyết vài nét chấm phá của Đàn sáo đen và Mấy cánh bướm rập rờn. Đoạn thơ có
nhiều nét tươi mát và thơ mộng, chứng tỏ tác giả có tài quan sát và có sự rung động
tinh tế nên nhận thấy cảnh vừa thực lại vừa ảo, vừa quen, vừa lạ.
Thế nhưng bức tranh quê dù đẹp đẽ, thanh bình đến đâu chăng nữa cũng sẽ trống trải
nếu thiếu hình ảnh con người. Con người xuất hiện làm cho bức tranh thiên nhiên trở
thành bức tranh sinh hoạt:
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Khung cảnh thực mà giống như trong một giấc mơ. Giữa cánh đồng lúa xanh rờn nổi
bật lên hình ảnh một cô nàng yếm thắm tràn đầy sức sống của tuổi xuân. Hình ảnh
đáng yêu ấy thể hiện chất trữ tình lãng mạn đậm đà trong tâm hồn nữ thi sĩ nổi tiếng
của phong trào Thơ mới. Tiếng động bất ngờ của Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra
khiến cô gái giật mình ngơ ngác là một điểm nhấn nghệ thuật. Hình ảnh cô thôn nữ
với cái dáng cắm cúi, chuyên cần làm việc giữa khung cảnh chiều xuân êm đềm như
thế quả đã làm xúc động lòng người, vẻ đẹp của cô thôn nữ bên cạnh vẻ đẹp của thiên
nhiên khiến cho cảnh sắc bình thường, thân quen bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Thủ
pháp lấy động tả tĩnh đã làm nổi bật vẻ thanh bình, vắng lặng của chiều xuân chốn đồng quê.
Ba bức tranh vẽ ba khung cảnh khác nhau nhưng trong cùng một thời điểm. Nữ sĩ Anh
Thơ tìm cảm hứng từ những khung cảnh bình dị, quen thuộc xung quanh và tỏ ra có
thế mạnh ở lối miêu tả tỉ mỉ, chi tiết, thâu tóm được cái hồn của cảnh vật thiên nhiên.
Mặc khác, Anh Thơ còn đóng góp cho Thơ mới ở cách dùng từ độc đáo, mới lạ chưa
từng có trong thi ca. Đó là những cụm từ mưa đổ bụi, đò biếng lười; rụng tơi bời, mổ
vu vơ; Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa... Những nét độc đáo, mới lạ ấy được thể
hiện qua sự duyên dáng, mềm mại của các câu thơ càng làm nổi bật phong cách lãng
mạn của tác giả. Bức tranh tổng thể về buổi chiều xuân yên ả, thanh bình vừa hòa hợp
với tâm hồn nữ sĩ vừa gợi nên tình cảm làng mạc, quê hương sâu sắc trong lòng mỗi con người.
Phân tích Chiều Xuân - Mẫu 6
Mùa xuân là mùa của cây cối sinh sôi nảy nở, mùa xuân cũng là mùa của biết bao
nhiêu thế hệ thi sĩ đắm chìm vào những bài thơ miêu tả xuân. Nếu như đa số những
nhà thơ nói đến cái màu sắc yêu kiều tinh khôi của xuân vào buổi sáng bình minh cây
xanh nắng dội thì Anh Thơ lại chọn riêng cho mình tả mùa xuân vào buổi chiều. Và
bài thơ Chiều Xuân ra đời như thế, qua đây ta thấy được thêm những nét đẹp của mùa
xuân vào buổi chiều - vẻ đẹp êm đềm trên những cánh đồng quê hương dịu ngọt.
Nhà thơ vẽ lên một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều , bức tranh ấy cũng bắt đầu
bằng hình ảnh của mưa xuân êm đềm:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
Không gian mở ra trên bến đò xưa cũ và bức tranh mùa xuân hiên lên có sự có cả âm
thanh, màu sắc, hình ảnh. Tứ thơ mùa xuân lan tỏa trong từng hình ảnh từng chi tiết,
từng lời thơ. Đó là những hình ảnh đặc trưng của mùa xuân xứ Bắc: mưa bụi êm đềm,
chùm hoa xoan tím rụng trên quán nhỏ hình ảnh cơn mưa bụi gợi lên sự êm đềm
phảng phất của những hạt mưa xuân nhỏ nhẹ êm êm. Chiều xuân cũng vắng như
những buổi chiều, con đò được nhân hóa như biết lười biếng để mặc cho nước trôi
lững lờ cong mình thì nằm im lìm trên bến vắng đó. Trước mắt ta là một cảnh tượng
hữu tình sông nước bến vắng với con đò. Anh Thơ không phải tìm đâu xa mà những
hình ảnh bình thường nhưng lại nên thơ ấy đã như phô trước mắt chỉ cần một tâm hồn
biết cảm nhận là toát lên những lời thơ tuyệt vời. Quán nước cũng im lìm trong sự
vắng lặng ấy, chòm xoan hoa tím rụng tơi bời. Mùa chiều vốn tàn tạ nhưng mùa xuân
thì nảy nở sinh sôi. Vậy Anh Thơ đã cho ta biết thêm một vẻ đẹp nhẹ nhàng lững lờ
của mùa xuân nữa. Mọi thứ đều hoạt động một cách nhẹ nhàng phảng phất buồn trong
sự vắng lặng của con người.
Sang khổ thơ thứ hai lại là một phiên cảnh khác, không phải là cảnh bến vắng con đò
lười nữa mà là cảnh mùa xuân trên những triền đê:
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”
Màu sắc của cỏ cũng trở nên thật dịu nhẹ làm sao, sắc cỏ dịu dàng biếc cỏ. Sắc màu ấy
không rực rỡ không chói chang không nổi sóng như bài xuân chín của Hàn Mạc Tử,
cũng không bàn bạc thời gian như trong thơ Quách Tấn, mà sắc màu ấy là gam màu
của cuộc sống được khúc xạ qua một tâm trạng ngẩn ngơ một chút buồn vu vơ của thi
sĩ. Những con sáo đen sà xuống mổ vu vơ, mấy cánh bướm thì chập chờn trong gió,
những đàn trâu thong thả ăn những búi cỏ ướt đẫm mưa xuân. Ở đây ta cảm thấy được
nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ quả thật rất hay. Những con số như “đàn”, “mấy”,
“những” thể hiện sự nhiều, sự đầy đủ nhưng cũng không quá đông của những con vật
làm đẹp cho bức tranh chiều mùa xuân ấy. Và đặc biệt là hình ảnh cánh bướm thì trôi
trước gió, đàn trâu thì ăn mưa. Người ta chỉ hay nói rằng trôi theo nước, ăn cỏ hay
uống mưa chứ không ai nói như thi sĩ cả. Những cái vô lý ấy lại trở thành cái có lý
thành những hình ảnh nghệ thuật vô cùng đẹp. Nó nhằm thể hiện lên sự dập dìu của
thiên nhiên cảnh vật, cánh bướm mỏng manh bay trong gió tựa như đang trôi theo
những làn gió nhẹ nhàng ấy. Đàn trâu gặm những búi cỏ ướt đẫm những hạt mưa xuân như đang ăn mưa vậy.
Chia tay cảnh chiều xuân trên triền đê bãi cỏ chúng ta đến với cảnh xuân trên trong
ruộng lúa nước thân quen:
“Trong đồng hoa lúa xanh dờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”
Cơn mưa xuân êm êm kia cũng làm cho những cây lúa trên đồng ướt lặng. Cái chữ
lặng kia làm cho chúng ta thấy được sự lặng lẽ êm đềm của cảnh vật xuân nơi làng
quê. Cánh đồng không thiếu đi hình ảnh những con cò chân đứng chân co rồi lại chốc
chốc bay vút lên bầu trời kia. Cánh cò cứ bay lả rập rờn như thế. Cái hành động chốc
chốc bay ra ấy khiến cho những cô gái yếm thắm giật mình. Cái giật mình ấy thật
đáng yêu làm sao. Hình ảnh những người con gái xưa duyên dáng với chiếc yếm trên
thân mình gợi cho ta bao niềm liên tưởng về những con người ngày xưa. Đặc biệt câu
thơ cuối với bốn từ liền nhau đều mang âm đầu là “c” “cúi cuốc cào cỏ” thể hiện sự
nhịp nhàng trùng điệp. Những cô gái yếm thắm ấy không chỉ duyên dáng trong trang
phục của người xưa mà còn đẹp với cái nết na chăm chỉ vun vén cho những cây lúa tốt
tươi, cuốc những cây cỏ đang ra hoa kia đi.
Như vậy có thể nói ba cảnh ấy hợp lại thành một bức tranh chiều xuân với nét đẹp vẫn
sinh sôi nảy nở nhưng lại êm đềm vắng vẻ và thoáng chút buồn vu vơ của người thi sĩ.
Có thể nói ta cảm nhận được sau bức tranh ấy là một tâm hồn thuần phát trong sáng của nhà thơ.
Phân tích Chiều Xuân - Mẫu 7
Nhắc đến nhà thơ Anh Thơ người độc giả lại nhớ về hình ảnh một nữ thi sĩ tiêu biểu
của phong trào thơ Việt Nam hiện đại. Tuổi thơ êm đềm đã từng gắn liền với đồng
ruộng cánh cò quê hương sớm chiều mưa hay nắng, chính điều này là nền tảng khơi
nguồn cho dòng suối cảm xúc thơ trong bà với phong cách thơ bình dị mà sâu sắc qua
từng câu chữ, qua bao hình ảnh của cảnh sắc nông thôn quê hương nhẹ nhàng được
gợi tả một cách khéo léo. Càng ấn tượng hơn khi bà đến với thơ ca như con đường
giải thoát khỏi cuộc đời tù túng, buồn tẻ và tự khẳng định giá trị người phụ nữ trong
xã hội đương thời. Tập thơ "bức tranh quê" đầu tiên ra đời chan chứa những gì mộc
mạc và dung dị, đặc biệt qua bài thơ "chiều xuân", một bức tranh về cảnh mây trời tắt
nắng trong sắc xuân tươi đẹp.
Những cơn mưa xuân đặc trưng nơi miền Bắc là những cơn mưa bụi li ti rơi nhẹ tắm
mát cho chồi non ngọn cỏ thêm xanh tươi, mưa xuất hiện trong dòng thơ đầu tiên rất
đỗi lặng lẽ trên bến đò vắng, cảnh vật thoáng buồn và chút tĩnh lặng, thêm cái lạnh của
tâm hồn bằng sự trống trải:
"Mưa bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi"
Từng giọt mưa mãi rơi hững hờ và "êm êm" trước mắt nhà thơ. Từ láy gợi tả hình ảnh
những giọt mưa rơi nhẹ điểm xuyết cho khung cảnh, không ồn ào vồn vã hay nặng hạt
mà có chút gì như chầm chậm theo từng khoảnh khắc thời gian. Bến sông thì thưa
khách đi đò chiều, vắng mênh mông, không gian rộng hơn và sự trống trải lan tỏa vào
tâm hồn. Con đò nhỏ sau một ngày làm việc chở khách ngược xuôi trên dòng sông quê
hương bây giờ nằm đây và lắng vào phút giây nghỉ ngơi, mạn đò lung lay theo sóng
nhỏ, vô tình trôi bềnh bồng theo nước sông. Như thế đấy ta có cảm giác nhịp mưa rơi
nhịp sóng vỗ nhẹ nhịp đò trôi hòa theo nhau tạo nên bức tranh giản dị nhưng sâu lắng
bao cảm xúc. Ánh mắt nhà thơ chuyển hướng và cũng bắt gặp sự yên tĩnh đang bao trùm:
"Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời"
Quán tranh được nhà thơ nhân hóa qua động từ "đứng". Không chỉ là "đứng" mà là
"đứng im lìm" và "trong vắng lặng", từ láy nối tiếp động từ như nhân thêm sự trống
vắng không chỉ riêng bến sông gây hiệu ứng mạnh trong khổ thơ.Nơi quán tranh này
là trung tâm của hoang vắng và xơ xác khi ngày sắp kết thúc. Hoa tím rụng "tơi bời"
vào những phút cuối của ngày dài. Dường như không chỉ con người mệt mỏi mà vạn
vật cũng rã rời, trút bỏ tàn dư cuối cùng.Thời gian thì cứ mỗi phút trôi qua mang theo
sự rộn ràng hối hả của ban ngày và thay thế là chiếc áo khá buồn tẻ vì cô đơn và vắng
lặng khắp nơi.Khổ thơ thứ hai hiện lên bằng những hình ảnh được thu gọn vào tầm mắt nhà thơ:
"Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ"
Đường đê rộng đôi bờ chạy dài và mơn mởn bao ngọn cỏ xanh tươi, màu sắc của câu
thơ chính là màu "biếc" của cỏ. Ngòi bút nhà thơ tạo những nét chấm phá màu sắc khá
đẹp, cảnh thoáng buồn của khổ một bây giờ như được dung hòa lại bằng chính màu
sắc của sự sống dù chỉ là ngọn cỏ. Đến đây không gian bớt đi màu tàn phai nhường
chỗ cho màu biếc rạng rỡ, cái tĩnh lặng cũng tan dần theo tiếng vỗ cánh của đàn chim
sáo đen đang sà xuống.Chúng vô tư như những đứa trẻ nghịch trên đồng qua cách
miêu tả tinh tế "mổ vu vơ". Không phải "mổ vu vơ" mà thực ra chúng đang mổ những
con mồi bé nhỏ nhưng trong mắt nhà thơ hình ảnh đó khá là dễ thương và mang cảm
giác thanh bình hạnh phúc vì cuộc sống tự do và khoáng đạt. Không dừng lại bấy
nhiêu đó, hình ảnh tiếp theo mang lại cho độc giả cái nhìn hơi ngỡ ngàng vì những
điều bình dị mà không bao nhiêu người cảm nhận được:
"Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa"
Gió lướt qua thổi mát khung cảnh và không ít lần làm nghiêng nghiêng cánh bướm,
khả năng dùng từ láy khá là phong phú "rập rờn", nhà thơ miêu tả cái cách chú bướm
nhỏ muốn bay nhưng không sao vượt qua sức ép của cơn gió nên đôi cánh kia cứ mãi
chao đi chao lại theo làn gió thổi. Động từ "trôi" càng tô đậm thêm hình ảnh cánh
bướm nhỏ bị cơn gió kia hững hờ mang đi. Từng đợt gió đến rồi đi và tiếp tục thổi cho
cánh bướm mãi "rập rờn" chao nghiêng. Thấp hơn cánh bướm là những chú trâu bò
đang từ tốn nhai cỏ non một cách "thong thả", chậm rãi như tận hưởng hạnh phúc.
Mưa vẫn còn rơi và vương hạt mưa lên ngọn cỏ cho ta cảm giác trâu bò đang thưởng
thức chính "mưa". Nhịp thơ không nhanh mà theo nhịp hoạt động của muôn vật. Đây
là khoảng thời gian mọi thứ trở nên lắng đọng và chầm chậm trôi xua đi mỏi mệt dần
tan biến. Đến khổ thơ cuối cùng của bài thơ, không gian mở rộng khắp phía và làm
hoàn chỉnh bức tranh "chiều xuân" thơ mộng của thi sĩ Anh thơ:
"Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa."
Quê hương tươi đẹp bởi những cánh đồng xanh rì ngọn lúa rung rinh xào xạc theo đợt
gió thổi về, còn thấm đẫm những giọt mưa bụi lất phất. Lũ cò con lông trắng là hình
ảnh gắn liền với ruộng đồng, với bầu trời thôn quê, với cơn gió mát chiều về, nghịch
ngợm bay ra vội vàng hối hả làm xao động cả góc trời, chúng tung cánh tự do phiêu
lãng và vô tình làm giật mình một cô gái nông thôn đang cần mẫn làm việc bởi âm
thanh bay lên của những đôi cánh. Cô gái trong câu thơ vẫn chăm chỉ làm nốt những
công việc cuối cùng của ngày sắp tàn và cũng là những gì hiện lên trước mắt nhà thơ
sau chót. Khung cảnh thanh bình tràn đầy sức sống, hoạt động của muôn vật đã xây
dựng nên nhịp sống vui tươi nơi đây dù thời gian trôi gần hết ngày.
Nghệ thuật sử dụng từ ngữ, khéo léo dùng ngòi bút của mình vẽ nên những hình ảnh
bình dị nhưng thật ấm áp và chan chứa vẻ đẹp cuộc sống, bên cạnh đó theo dòng thơ
mạch cảm xúc của người đọc được dâng lên và nhờ đó ta cảm nhận sâu nhất tình cảm
cảm xúc của nhà thơ, đây chính là thành công khẳng định giá trị của bài thơ.
Đôi lúc nhịp thơ chầm chậm nhẹ nhàng sâu lắng đôi lúc lại mang đến cảm giác rộn
ràng và vui vẻ, cả bài thơ như bài nhạc muôn giai điệu phong phú làm rung động trái
tim suy nghĩ của người đọc bài thơ. Tấm lòng yêu thơ ca và yêu những gì thân thuộc
giản dị của quê hương cùng tài năng là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên thành công
của bài thơ "Chiều xuân".
Phân tích Chiều xuân - Mẫu 8
Anh Thơ (1921-2005) là một nhà thơ xuất thân trong một gia đình công chức nhỏ, quê
gốc ở tỉnh Bắc Giang, tên tuổi của bà xuất hiện trong phong trào Thơ mới với những
bài thơ viết về cảnh sắc nông thôn tràn ngập những hình ảnh gần gũi, thân thuộc, gợi
được không khí và nhịp sống sôi động nơi đồng quê miền Bắc nước ta.
Anh Thơ được được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2007. Các
tác phẩm tiêu biểu của bà là: Bức tranh quê (thơ -1941), Kể chuyện Vũ Lăng (truyện
thơ – 1957), Từ bến sông Thương (hồi kí – 1986)…
Bài thơ Chiều xuân là bài thơ được rút từ “Bức tranh quê” – là tập thơ đầu tay của
Anh Thơ. Đây là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Anh Thơ, bài thơ là
bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi mát, thơ mộng và khung cảnh làng quê tĩnh lặng,
thanh bình làm cho con người thêm gắn bó với quê hương.
Bài thơ với ba khổ thơ như vẽ nên ba bức tranh về chiều xuân yên ả, thanh bình.
Những bức tranh nhỏ ghép lại thành một bức họa lớn về bức tranh thiên nhiên nơi
đồng quê miền Bắc nước ta. Khổ thơ thứ nhất tương ứng với bức tranh thứ nhất, tả
cảnh một chiều mưa bụi với những hình ảnh thân thuộc, “bến sông vắng khách”,
“quán tranh” và “chòm xoan đầy hoa tím”:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”.
Nhà thơ đã dùng cả tâm hồn nhạy cảm của mình để cảm nhận cảnh vật, trong một buổi
chiều mưa lạnh nên cảnh vật trở nên tiêu điều, vắng vẻ và có phần xơ xác. Bao trùm
cả bức tranh là một vẻ tĩnh lặng gần như là hoàn toàn, nhưng vẫn có sự hoạt động của
cảnh vật dù chỉ là sự hoạt động rất nhẹ: “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng”, các cảnh
vật còn lại dường như chỉ lặng im, con đò thì “nằm mặc nước sông trôi”, còn quán
tranh thì “đứng im lìm”.
Con đò hàng ngày tất bật chở khách thì hôm nay trở nên “biếng lười”, như tỏ vẻ mệt
mỏi. Quán tranh trong buổi chiều mưa bụi cũng trở nên vắng lạnh vì thiếu đi sự nhộn
nhịp tấp nập tiếng cười, tiếng trò chuyện của khách. Nhưng cơn mưa dù nhỏ, nhẹ
nhưng khi kèm theo những cơn gió gió còn vướng hơi lạnh của những ngày cuối mùa
đông cũng đủ sức làm cho những chòm hoa xoan tím rụng “tơi bời”.
Nhưng có lẽ chính sự tĩnh lặng này đã làm cho bức tranh buổi chiều xuân có chiều sâu
của nó, tất cả cảnh vật đều như ẩn chứa một nỗi buồn sâu kín. Tiếp đến là khổ thơ thứ
hai với bức tranh thứ hai, nếu như ở bức tranh thứ nhất là bức tranh về cảnh vật tĩnh
lặng thì ở bức tranh thứ hai dường như đã có sự sống, hoạt động của các loài động vật:
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”.
Con đê ven làng là hình ảnh thân thuộc mà có lẽ ở vùng quê nào cũng có, mùa xuân là
mùa của hoa lá, cỏ cây bắt đầu sinh sôi nảy nở, chính vì vậy mà con đường ven đê cỏ
non tràn biếc cỏ, câu thơ thể hiện sự tươi mát, xanh non của cảnh vật tràn ngập sức
sống của mùa xuân, hai từ cỏ như mở ra trước mắt ta một không gian ngập tràn màu
xanh làm tâm hồn ta mênh mang, rộng mở.
Trên cái nền xanh tươi ấy là hình ảnh “đàn sáo đen”, là “mấy cánh bướm” và “những
trâu bò”, tất cả như một sự điểm xuyết làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên sinh
động hơn. Trong bức tranh này các hoạt động cũng trở nên rộn ràng, tấp nập hơn chứ
không nhỏ, nhẹ như bức tranh thứ nhất nữa, đàn sáo đen sà xuống mặt đất mổ nhưng
chỉ là mổ vu vơ, trước cơn gió xuân ta cảm giác như những cánh bướm không bay mà
là đang “trôi’ theo làn gió, đặc biệt là hình ảnh trâu bò “cúi ăn mưa”, tại sao không
phải là ăn cỏ mà lại là “ăn mưa”.
Đây là một hình ảnh thật sự lãng mạn, mưa xuống những ngọn cỏ còn long lanh nước,
ta có cảm giác như không phải là trâu bò gặm cỏ dưới làn mưa bụi mà là đang cúi
xuống để gặm những hạt mưa. Bức tranh thứ hai là một bức tranh được nhìn bằng sự
lãng mạn của nhà thơ, chính vì vậy nó vừa thực vừa ảo, vừa gợi cảm giác tươi mát vừa gợi sự thơ mộng.
Bức tranh thứ ba được thể hiện qua khổ thơ cuối cùng với sự xuất hiện của con người,
đây chính là yếu tố quan trọng làm cho từ một bức tranh thiên nhiên trở thành bức
tranh sinh hoạt của con người:
“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”.
Một bức tranh dù đẹp đến đâu nhưng nếu thiếu vắng đi bóng dáng con người thì bức
tranh cũng thật đơn điệu và kém phần sinh động. Từ bức tranh thứ nhất đến bức tranh
thứ ba đã có sự biến chuyển đi từ tĩnh lặng gần như là tuyệt đối đến đã bắt đầu có sự
hoạt động của sự vật và ở bức tranh cuối cùng là hoạt động của con người.
Giữa cánh đồng lúa xanh rờn và hành động của lũ cò con “chốc chốc vụt bay ra” thì
đã xuất hiện hình ảnh của con người đó là “một cô nàng yếm thắm”, cả bức tranh là
một sự hòa hợp của nhiều sắc màu, lúa xanh, cò trắng, yếm thắm làm cho bức tranh
trở nên sinh động và rất tươi tắn.
Ba bức tranh đã khắc họa nên những cảnh vật khác nhau với những dáng vẻ khác nhau
nhưng đó đều là những hình ảnh rất thân thuộc, gần gũi với làng quê nông thôn, mang
đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật của Anh Thơ.
Bài thơ mang cho ta cảm nhận về bức tranh thiên nhiên của một buổi chiều xuân êm
đẹp, qua đó gợi lên tình yêu quê hương đất nước sâu sắc trong trái tim mỗi con người chúng ta.
Phân tích Chiều xuân - Mẫu 9
Anh Thơ là một nhà thơ của quê hương với những hình ảnh về làng mạc, quê quán
thân thương gần gũi. Bài thơ “Chiều xuân” trích trong tập “Bức tranh quê” là bài thơ
tiêu biểu cho phong trào thơ mới. Bài thơ mang âm hưởng du dương, yên bình của vùng quê tĩnh lặng.
Hiện lên trước mắt ta là bức tranh thứ nhất với cảnh sắc tĩnh của bến sông vắng khách,
con đò nằm im, quán tranh vắng vẻ bên chòm xoan rụng hoa tím lả lơi:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi ...
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Tác giả không phải chỉ dùng con mắt để quan sát mà còn dùng tâm tình thi ca của
mình để cảm nhận. Bức tranh hiện lên với một màu sắc ẩm đạm: Mưa đổ xuống bên
bến vắng, con đò qua sông nay lại nằm im bất động, quan tranh không còn tấp nập
người vào ra, tiếng nói, tiếng cười mà im lìm trong vắng lặng, hoa xoan rụng tả tơi
trước thềm vương hơi sương lạnh của tàn đông. Tất cả hình ảnh hiện lên như một nỗi
buồn thầm kín, sâu lắng khó nói nên lời.
Xua tan đi mạch cảm xúc đượm buồn, bức tranh thứ hai hiện với với cảnh vật vừa gần
gũi, vừa xa lạ, vừa ảo, vừa thật tràn đầy sức sống:
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Nhà thi sĩ cảm nhận hình ảnh đường đê thật thân thương với cỏ non tràn biếc đọng lạ
những giọt mưa đầu mùa. Hòa vào màu xanh tươi mới của cỏ non, Đàn sáo đen và
cánh bướm rập rờn đã tô điểm cho bức tranh xanh biếc ấy nhiều sắc màu rực rỡ. Từ
màu xanh đó, tác giả liên tưởng đến một hình ảnh thú vị rằng những chú trâu bò đang
thong thả cúi xuống ăn mưa, liên tưởng đó thật lãng mạng.
Cảnh vật thiên nhiên có đẹp đẽ đến đâu cũng không thể thiếu vắng đi nét độc đáo của
con người. Bức tranh thứ 3 đã phát hiện ra vẻ đẹp yêu kiều của cô nàng yếm thăm
thông qua cảnh sắc trữ trình của thiên nhiên:
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Khung cảnh hiện lên cứ ngỡ trong mơ mà lại rất thực. Thi sĩ đã tạo nên một cảnh
tượng đầy nghệ thuật với hình ảnh giữa đồng lúa thơm dịu bát ngát, lũ cò con chốc
chốc vụt bay ra làm lộ ra cô nàng yến thắm ngơ ngác, rối bời. Cô gái đó cúi cuốc cào
cỏ, chăm chỉ lao động đã làm lay động tâm hồn thi sĩ. Hình ảnh cô gái đã khiến cho
cảnh sắc thiên nhiên đã đẹp đẽ nay còn thơ mộng đến lạ thường.
Ba bức tranh hiện lên trong bài thơ tuy là ba khung cảnh khác nhau nhưng đều nói lên
cái trữ tình trong lòng của thi sĩ. Anh Thơ đã khéo léo sử dụng những từ ngữ độc đáo,
mới lạ làm nổi bật lên khung cảnh buổi chiều xuân thanh bình hòa hợp với tình cảm
sâu sắc với quê hương trong lòng tác giả cũng như trong lòng mỗi con người.
Phân tích bài Chiều xuân - Mẫu 10
Nữ sĩ Anh Thơ (1921 – 2005) được biết đến là một hồn thơ nữ đằm thắm, nữ thi sĩ có
tên thật là Vương Kiều Ân, xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học.
Quê gốc của nữ thi sĩ ở thị xã Bắc Giang nhưng bà lại sinh ra và lớn lên tại Ninh
Giang, Hải Dương. Mặc dù chưa học hết tiểu học nhưng vốn có khiếu văn chương nên
bà rất thích đọc sách và làm thơ. Bút danh Anh Thơ đã được xuất hiện trong phong
trào Thơ mới với những bài thơ viết về đề tài nông thôn tràn ngập những hình ảnh gần
gũi, quen thuộc, gợi nhớ những kỉ niệm êm đềm về làng mạc, quê hương trong tâm
thức của mỗi con người. Thơ của bà mỗi bài là một bức tranh thiên nhiên tươi mát, hài
hoà, gợi nên không khí và nhịp sống êm đềm ở miền quê Bắc Bộ. Anh Thơ đã vinh dự
khi được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2007.
“Chiều xuân” là tác phẩm được in trong tập Bức tranh quê (xuất bản năm 1941) là bài
thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Anh Thơ. Dường như bức tranh thiên
nhiên mùa xuân tươi mát, thơ mộng và khung cảnh làng quê tĩnh lặng, thanh bình
khiến cho con người thêm gắn bó với quê hương.
A ai cũng biết buổi chiều thường là khoảnh khắc dễ làm nảy sinh cảm xúc và thi hứng
của thi nhân. Nhà thơ Anh Thơ thật tinh tế khi đã quan sát và lựa chọn những hình ảnh,
chi tiết đặc trưng của cảnh vật để phác họa nên ba bức tranh chiều xuân êm ả, thanh bình.
Dường như người đọc dễ nhận thấy ở bức tranh thứ nhất tả cảnh một chiều mưa bụi
với hình ảnh bến sông vắng khách, con đò nằm gần như là đứng yên bất động, quán
tranh xơ xác tiêu điều bên chòm xoan đã như rụng đầy hoa tím:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi …
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Nữ sĩ Anh Thơ có lẽ phải quan sát, thưởng thức bằng cái nhìn tâm tưởng nên đã cảm
nhận được cái hồn của cảnh vật thân quen. Trong cơn chiều mưa lạnh đó, quang cảnh
bến sông ven làng lại càng trở nên tiêu điều, vắng vẻ. Một bức tranh hiện lên dường
như thiếu cả những sắc màu và ánh sáng. Và cả trong sự tĩnh lặng một cách đáng sợ
gần như tuyệt đối của không gian vẫn có sự hoạt động của cảnh vật, dù là nhẹ đến
mức như có như không. Dường như những cơn mưa cứ đổ bụi êm êm trên bến vắng.
Con đò thường ngày tất bật chở khách sang sông, giờ đây dường như mệt mỏi, biếng
lười nằm mặc nước sông trôi. Dường như quán tranh lúc này thì cũng như thu mình lại,
đứng im lìm trong vắng lặng bởi không còn khách vào ra với tiếng cười, tiếng nói rộn
ràng. Chòm xoan hoa tím thủy chung đẹp là vậy mà nay rụng tơi bời trước ngọn gió
xuân còn vương hơi lạnh của buổi tàn đông. Tất cả đều như ẩn chứa một nỗi buồn
mang tầm vóc thật sâu kín khó nói thành lời được. Bức tranh thứ hai:
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Có lẽ hình ảnh đường đê trong buổi chiều xuân qua cảm nhận của nữ sĩ thật thân
thương và bình yên. Và nếu như so với cảnh bến vắng đìu hiu ở trên thì cảnh đường
đê vui hơn và nhiều sức sống hơn. Dường như cái màu xanh biếc của cỏ non mơn
mởn trải dài hút tầm mắt khiến nhà thơ có một liên tưởng bất ngờ và thú vị: Đàn trâu
bò đang ung dung gặm cỏ mà như đang thong thả cúi ăn mưa. Đó là một ảo giác nghệ
thuật nảy sinh từ thực tế, qua lăng kính lãng mạn của nhà thơ. Trên cái phông nền
xanh mát mắt và mát cả hồn người ấy điểm xuyết vài nét chấm phá của Đàn sáo đen
và Mấy cánh bướm rập rờn. Đoạn thơ có nhiều nét tươi mát và thơ mộng, chứng tỏ tác
giả có tài quan sát và có sự rung động tinh tế nên nhận thấy cảnh vừa thực lại vừa ảo, vừa quen, vừa lạ.
Thế nhưng bức tranh quê dù đẹp đẽ, thanh bình đến đâu chăng nữa cũng sẽ trống trải
nếu thiếu hình ảnh con người. Con người xuất hiện làm cho bức tranh thiên nhiên trở
thành bức tranh sinh hoạt:
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
…Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Khung cảnh thực mà giống như trong một giấc mơ. Giữa cánh đồng lúa xanh rờn bát
ngát đó lại nổi bật lên hình ảnh một cô nàng yếm thắm tràn đầy sức sống của tuổi
xuân. Hình ảnh đó thật đáng yêu biết bao khi đã thể hiện chất trữ tình lãng mạn đậm
đà trong tâm hồn nữ thi sĩ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Tiếng động bất ngờ của
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra khiến cô gái giật mình ngơ ngác là một điểm nhấn
nghệ thuật. Đặc biệt hình ảnh cô thôn nữ với cái dáng cắm cúi, chuyên cần làm việc
giữa khung cảnh chiều xuân êm đềm như thế quả đã làm xúc động lòng người, vẻ đẹp
của cô thôn nữ đứng bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên khiến cho cảnh sắc bình thường
đời thường, vốn thân quen bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Anh Thơ như thể hiện thành
công thủ pháp lấy động tả tĩnh đã làm nổi bật vẻ thanh bình, vắng lặng của chiều xuân chốn đồng quê.
Ba bức tranh vẽ ba khung cảnh khác nhau nhưng trong cùng một thời điểm. Nữ sĩ Anh
Thơ dường như bà đã tìm cảm hứng từ những khung cảnh bình dị, quen thuộc xung
quanh và tỏ ra có thế mạnh ở lối miêu tả tỉ mỉ, chi tiết, thâu tóm được cái hồn của
cảnh vật thiên nhiên.Ngoài ra thì thi sĩ Anh Thơ còn đóng góp cho Thơ mới ở cách
dùng từ độc đáo, mới lạ chưa từng có trong thi ca. Đó còn là những cụm từ đặc sắc
giàu tính tạo hình “mưa đổ bụi”, ‘đò biếng lười’; “rụng tơi bời”, “mổ vu vơ”; “Những
trâu bò thong thả cúi ăn mưa”… Có thể nói rằng những nét độc đáo, mới lạ ấy được
thể hiện qua sự duyên dáng, mềm mại của các câu thơ càng làm nổi bật phong cách
lãng mạn của tác giả. Đó còn được coi là một bức tranh tổng thể về buổi chiều xuân
yên ả, thanh bình nơi làng quê. Bức tranh thiên nhiên vừa hoà hợp với tâm hồn nữ sĩ
vừa gợi nên tình cảm làng mạc, quê hương sâu sắc trong lòng mỗi con người.