lOMoARcPSD| 58702377
PHÂN TÍCH 9 CÂU ĐẦU “ĐẤT NƯỚC"
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
mà lòng phơi phới dậy tương lai.”
Đất nước vốn một đề tài muôn thuở trong thi ca nghệ thuật, điểm hẹn tâm
hồn của biết bao văn nghệ từ xưa đến nay. Những giữa bối cảnh những năm tháng
chống khốc liệt thời bấy giờ, tình yêu ối với ất nước lại càng tỏa sáng rực cháy
trong văn chương với những cây t như Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến
Duật... khi họ viết về hào khí của cả một dân tộc khao khát ược ộc lập tự do. Một trong
số những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn chương Việt Nam thời kì ấy phải kể ến một nhà
thơ ã trưởng thành trong cuộc kháng chiến trường kỳ - Nguyễn Khoa Điềm. với 9
câu ầu trong bài thơ Đất Nước”, nhà thơ sử dụng chất liệu văn hoá, văn học dân gian
ể thể hiện rõ những cảm nhận mới mẻ của bản thân về khái niệm lớn lao này.
Nổi tiếng với phong cách thơ trữ tình chính luận, thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn
người ọc bởi xúc cảm lắng ọng, giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư của người trí thức khi
tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến của nhân dân. Đoạn trích “Đất nước” thuộc
phần ầu chương V của trường ca “Mặt ường khát vọng” ược nhà thơ sáng tác năm 1971
tại chiến khu Trị - Thiên. Đoạn trích viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ô thị vùng tạm
chiến miền Nam về non sông, ất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống ường dấu
tranh hòa nhịp với cuộc chiến ấu chống ế quốc xâm lược. Nhan "Đất Nước" ược
viết hoa như tên riêng ược nhắc ến nhiều lần trong suốt bài thơ với mục ích nhấn
mạnh một ất nước ộc lập, tự do, chủ quyền ràng trên bản thế giới. Không chỉ
vậy, tác giả còn muốn khẳng ịnh ây ất nước của nhân dân do nhân dân làm chủ.
Đây như một lời khẳng ịnh ầy tự hào, trân trọng của tác giả. Qua ó, người ọc cũng hiểu
ược về tình cảm của tác giả dành cho quê hương mình. Với Nguyễn Khoa Điềm, Tổ
quốc là những gì bình dị nhất nhưng lại ẹp vô cùng.
Bằng giọng iệu tâm tình mộc mạc, tác giả ã mở ầu chuyến hành trình ngược dòng
cảm xúc ến với nguồn gốc khai sinh bình dị của mảnh ất hình chữ S: “Khi ta lớn lên
Đất Nước ã có rồi”
Ở mỗi thời ại lịch sử, Đất Nước lại ược ịnh nghĩa theo những quan niệm khác nhau. Đó
thể một Đất Nước nhỏ bé nhưng không hề tầm thường mà mang dáng vóc vĩ trong
thơ của Lý Thường Kiệt:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Hay ó là một Đất Nước lung linh, kỳ ảo dưới ngòi bút của nhà thơ Thanh Hải:
"Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước"
Thế nhưng qua giọng thơ nhẹ nhàng của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước lại hiện lên vô
cùng bình dị và thân quen, gần gũi ến lạ thường. Không chỉ vậy, nhà thơ còn ưa ến một
lOMoARcPSD| 58702377
cảm giác mới mẻ, thấm thía và xúc ộng về Đất Nước trong quan hệ với cuộc sống của
nhân dân dưới góc ộ văn hóa dân gian. Đối với ông, Đất Nước không phải là những gì
trừu tượng, xa lạ, lớn lao mà là những gì rất ỗi gần gũi, quen thuộc, gắn bó với ời sống
tinh thần của con người . Việc sử dụng ại tù "ta” cũng làm góc nhìn của câu thơ
không chỉ bị bó buộc ở nhân vật trữ tình là thi nhân mà còn ể nói ến chúng ta, một
cộng ồng, một dân tộc với bao thế hệ. Cụm từ “ ã có rồi” cũng thể hiện sự khẳng ịnh
chắc nịch của tác giả về sự trường tồn của ất nước từ ngàn ời một cách sừng sững và
hiên ngang. Qua ó, nhà thơ cũng thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về lịch sử anh hùng
hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Cả câu thơ như một lời tâm tình cất
lên từ sâu trong trái tim nhà thơ.
Tiếp nối câu thơ ầu tiên, nhà thơ bắt ầu giải nguồn cội của Đất ớc qua những
khía cạnh quen thuộc của văn hoá:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể” Khác
với Nguyễn Trãi sử dụng các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” làm nổi bật truyền thống
lâu ời của dân tộc ta trong bài “Bình Ngô ại o", Nguyễn Khoa Điềm lại sử dụng chính
những hình ảnh những câu chuyện quen thuộc trong tuổi thơ mỗi người ể ưa vào những
vần thơ của mình. Trong bài thơ “Truyện cổ nước mình”, nhà thơ Lâm Thị Vỹ Dạ từng
viết:
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa”
Thật vậy, chính giọng kể “ngày xửa ngày xưa” ã con người ta quay về với những câu
chuyện cổ n gian mẹ hay thường kể hàng êm với anh Thạch Sanh hiền lành,
dũng mãnh hay Tấm thảo hiền… Những nhân vật cổ tích ấy ởng chừng như giả
tưởng ấy lại chính là hiện thân của vẻ ẹp của con người Việt Nam cần cù, lam lũ, dũng
cảm, kiên cường và giàu tình yêu thương. Những câu chuyện như ng sữa, chăm bẵm,
nuôi dưỡng tâm hồn ta thêm trong sáng, bồi ắp thêm tình yêu quê hương, ất nước.
Với tác giả, Đất Nước không chỉ gợi nhớ ến thế giới cổ tích thần kì mà còn xuất phát
từ hình ảnh “miếng trầu" tuy nhỏ nhưng lại dung chứa cả "cuộc đời" của một Đất
Nước:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Trong n hoá người Việt từ xưa ến nay thình ảnh thân thuộc “miềng trầu” luôn mang
ý nghĩa sâu ậm. Ngoài việc thể hiện nét ẹp văn hoá ăn trầu, nhuộm răng en của người
Việt từ bao ời, hình ảnh miếng trầu còn làm người ọc nhớ ến câu chuyện sự tích trầu
cau vốn ca ngợi tình về ân tình thuỷ chung son sắt của vợ chồng, anh em. Ngoài ra, hình
ảnh ấy còn thể hiện truyền thống hiếu khách, mời trầu của dân ta “miếng trầu ầu
câu chuyện”. Miếng trầu cũng biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho sợ y
hồng kết duyên ối lứa không thể thiếu trong phong tục cưới hỏi. Dù hiểu theo cách nào
thì hình ảnh “miếng trầu" cũng hiện thân của những những văn hóa, phong tục ẹp ẽ
chứa ựng biết bao tình cảm bình dị thân thương, gắn kết giữa Đất Nước con người
Việt suốt nghìn năm.
lOMoARcPSD| 58702377
Nếu như ba câu thơ ầu nhắc ến sự ra ời của Đất Nước thì ở câu thơ thứ tư, nhà thơ lại
miêu tả những ngày tháng Đất Nước bắt u "lớn lên” với những câu chuyện lịch sử ấu
tranh hào hùng của dân tộc:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà ánh giặc” Hình ảnh "lớn
lên" thể hiện sự vươn mình của dân tộc, từ những ngày ói khổ, năm tháng au thương ến
những ngày vươn dậy hào hùng, mang sức mạnh quật khởi, kiên cường; qua những giai
oạn ấu tranh, rồi dựng xây, giữ gìn, phát triển Đất Nước. Cụm từ "dân mình" như một
cách gọi thân thương của tác giả với những con người bao ời ã luôn cống hiến hết mình
ể “hóa thân dáng hình xứ sở”. Hình ảnh “trồng tre mà ánh giặc" như là một cách tinh tế
của tác giả ể nhắc ến truyền thuyết “Thánh Gióng” nhổ tre ánh uổi giặc Ân. Có thể nói
vẻ ẹp của Thánh Gióng như song hành cùng vẻ ẹp của cây tre Việt Nam:
"Nòi tre âu chịu mọc cong Chưa lên ã nhọn như chông lạ thường."
Hình ảnh “cây tre” chính biểu tượng cho những phẩm chất, cốt cách cao ẹp của con
người Việt Nam như thật thà, chắc phác, ôn hậu, thuỷ chung, yêu chung, dũng cảm, kiên
cường. Trong cuộc sống hoà bình, tre tỏ bóng mát trưa hè, trở thành những vật dụng
sinh hoạt hàng ngày như ũa tre, chõng tre… nhưng khi giặc ngoại xâm thì tre trở
thành những loại khí như gậy tre cùng dân ánh uổi giặc ngoại xâm. Qua ó, hình
ảnh thơ như thể hiện sức mạnh quật khởi, kiên cường, bất khuất của dân tộc trong sự
nghiệp chiến ấu hi sinh bào vệ bờ cõi.
Hình ảnh Đất Nước không chỉ ược thể hiện vào những năm tháng chiến ấu còn
ược hiện diện ngay trong cuộc sống của mỗi con người, mỗi gia ình gắn với những tập
tục, thói quen và lối sống tình nghĩa, cần cù chịu khó: Tóc mẹ thì bới sau ầu”
Vẻ ẹp giản dị của người phụ nữ Việt với phong tục “bới sau ầu” vừa tạo nên sự nữ tính,
thuần hậu, ảm ang cũng vừa thể hiện sự gọn gàng, thuận tiện trong công việc lao ộng
hàng ngày. Vẻ ẹp duyên dáng ấy cũng ược nhắc ến rất nhiều trong những câu ca dao
xưa như:
“Chân mày vòng nguyệt có duyên Tóc mây gợn sóng ẹp duyên tơ hồng”
Qua ó, người phụ nữ hiện lên với vẻ ẹp giản dị, dịu dàng, ằm thắm chịu thương,
chịu khó, tần tảo trong lao ộng.
Không chỉ vậy, Đất Nước còn ngời sáng bởi ạo lí nghĩa tình thủy chung của ôi lứa
khi mang vẻ ẹp tâm hồn con người Việt nghĩa tình, thuỷ chung, son sắt: “Cha mẹ
thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Trong câu thơ, Nguyễn Khoa Điềm ã vận dụng tinh tế ngạn ngữ n gian “gừng cay
muối mặn” với những câu ca dao thân thuộc như:
“Tay bưng chén muối ĩa gừng Gừng cay muối mặn xin ừng quên nhau”
Giống nmuôn lần muối vẫn mặn và gừng thì vẫn cay, tình nghĩa luôn i cùng nhau,
vợ chồng không chỉ có tình còn có nghĩa gắn thương nhau trọn ời, họ chung
sống với nhau càng lâu thì lại càng thắm thiết nghĩa tình. Qua ó, câu thơ thể hiện triết
rằng nghĩa vợ chồng không bao giờ ổi thay cho dù khó khăn, gian khổ.
lOMoARcPSD| 58702377
Nhưng ta gắn bó với Đất Nước không chỉ bởi những tình cảm thiêng liêng ấy mà còn
những tập tục, hình ảnh quen thuộc gần gũi với người dân bao ời: “Cái kèo, cái cột
thành tên”
Hình ảnh Đất Nước cũng gắn với những vật dụng thân thuộc ng ngày như “kèo",
“cột”. ây chỉ những hình ảnh ng nhó bé trong sống nhưng khi ặt dưới lăng
kính thơ của Nguyễn Khoa Điềm, những hình ảnh ấy lại gợi ra cả một không gian văn
hoá ậm chất Việt Nam với những ngôi nhà ược xây bằng kèo cột tạo nên kết cấu vững
chắc. Ngoài ra, câu thơ cũng gợi nhắc ến tục ặt tên m na, dân của nhân dân gắn
với những vật dụng thân thuộc với mong ước ứa con lớn lên khoẻ mạnh, kiên cường và
bình dị như chính cái tên con mang. "Cái o, cái cột" chính tiếng nói, hiện thân
của những giá trị văn hoá trường tồn với Đất Nước mà dân ta ã ánh ổi xương máu ể giữ
gìn cho ến tận ngày nay.
Đất Nước cũng “lớn n” với hạt gạo ta ăn hàng ngày, với nghề trồng lúa nước lâu ời:
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Ở ây, tác giả sử dụng thành ngữ “một nắng hai sương” gợi truyền thống lao ộng cần cù,
chịu khó của nhân n ta vì ể làm ra từng “hạt ngọc trời”, bát cơm dẻo thơm người nông
dân phải dãi nắng dầm sương” bán mặt cho ất, bán lưng cho trời”. Việc liệt những
ộng từ mạnh như “xay, giã, giần, sàng” thể hiện sự tỉ mỉ, khó nhọc thấm trong từng
hạt gạo là mồ hôi, công sức, của người trồng lúa. Qua ó, nhà văn cũng nhắn nhủ người
ọc phải luôn biết giữ gìn truyền thống cao ẹp uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta một
cách khéo léo, tinh tế giống như cách mà cha ông ta gửi gắm qua câu ca dao:
“Ai ơi bưng bát cơm ầy Dẻo thơm một hạt ắng cay muôn phần”
Kết thúc phần ầu của bài thơ là lời khẳng ịnh chắc nịch về quá trình khai sinh và phát
triển của Đất Nước một cách hết sức trân trọng của tác giả: “Đất Nước có từ ngày ó…”
Có thể nói chính nhân dân là những người ã truyền lại những vẻ ẹp của ất nước, những
nét ẹp văn hóa của người Việt Nam. không ai chính xác “ngày ó" ngày nào
nhưng chắc chắn “ngày ó” là ngày chúng ta có những huyền thoại, truyền thuyết, có
những phong tục tập quán, những câu chuyện lịch sử về việc dân tộc Việt ta không
tiếc máu xương giữ từng tấc ất thiêng liêng dùng bàn tay lao ộng xây dựng ất
nước.
Bằng cách vận dụng khéo léo các chất liệu văn hóa dân gian với a dạng các thể loại:
từ phong tục, tập quán, ca dao, thần thoại, cổ tích cùng thể thơ tự do phóng khoáng vừa
ộc áo vừa tự nhiên, Nguyễn Khoa Điềm ã cảm nhận vẻ ẹp của Đất Nước trên cả 3
phương diện: chiều rộng của không gian ịa lý, chiều dài của lịch schiều sâu văn
hóa. Với giọng thơ trữ tình - chính luận kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn suy sâu
lắng của người tri thức về ất nước nhân dân, tác giả muốn truyền tải thông iệp ến
những thế hệ mai sau rằng ta không chỉ trách nhiệm bảo vệ vùng ất xương máu của
ông cha ta mà còn phải truyền và bảo vệ những vẻ ẹp mang ậm cốt cách của con người
Việt Nam ược truyền từ ời này sang ời khác, ó chính vẻ ẹp làm nện bản sắc của
Đất Nước, của dân tộc Việt Nam ta.
lOMoARcPSD| 58702377
Nhà thơ Quần Phương từng ưa ra nhận ịnh rằng: “Đất nước trong thơ Nguyễn
Khoa Điềm là sự ồng hiện của những gì gần gũi, thân thương nhất ối với mỗi con người
Việt Nam trong qkhứ, hiện tại tương lai”. Thật vậy, chỉ với những hình ảnh
cùng bình dị, tác giả ã khác hoạ lại toàn vẹn hình ảnh Đất Nước trong trái tim, tâm trí
của mỗi con người Việt Nam. Có lẽ vậy mànhững năm tháng chiến tranh ã qua i từ
lâu những những giá trị văn học mà bài thơ tạo ra vẫn luôn sống mãi với thời gian.
PHÂNTÍCHĐOẠN“NHỮNGNGƯỜIVỢ…NÚISỐNGTA"
Nhà thơ Quần Phương từng ưa ra nhận ịnh rằng: “Đất nước trong thơ Nguyễn
Khoa Điềm là sự ồng hiện của những gì gần gũi, thân thương nhất ối với mỗi con người
Việt Nam trong quá khứ, hiện tại tương lai”. Thật vậy, hình ảnh Đất Nước ược ông
cảm nhận tinh tế qua những ịa danh thắng cảnh gắn với cuộc sống thường
ngày của nhân dân. Và có lẽ thông qua 12 câu thơ từ câu “Những người vợ nhớ chồng
còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu” ến “Những cuộc ời ã hoá núi sông ta…
ã khẳng ịnh tưởng cốt lõi về một “Đất ớc của nhân dân” trên phương diện ịa
bằng những hình ảnh vô cùng giản dị nhưng giàu tính dân tộc.
Nổi tiếng với phong cách thơ trữ tình chính luận, thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn
người ọc bởi xúc cảm lắng ọng, giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư của người trí thức khi
tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến của nhân dân. Đoạn trích “Đất nước” thuộc
phần ầu chương V của trường ca “Mặt ường khát vọng” ược nhà thơ sáng tác năm 1971
tại chiến khu Trị - Thiên. Đoạn trích viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ô thị vùng tạm
chiến miền Nam về non sông, ất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống ường dấu
tranh hòa nhịp với cuộc chiến ấu chống ế quốc xâm lược. Nhan "Đất Nước" ược
viết hoa như tên riêng ược nhắc ến nhiều lần trong suốt bài thơ với mục ích nhấn
mạnh một ất nước ộc lập, tự do, chủ quyền ràng trên bản thế giới. Không chỉ
vậy, tác giả còn muốn khẳng ịnh ây ất nước của nhân dân do nhân dân làm chủ.
Đây như một lời khẳng ịnh ầy tự hào, trân trọng của tác giả. Qua ó, người ọc cũng hiểu
ược về tình cảm của tác giả dành cho quê hương mình. Với Nguyễn Khoa Điềm, Tổ
quốc là những gì bình dị nhất nhưng lại ẹp vô cùng.
Từ những quan niệm về quá trình hình thành lớn lên cũng như khái niệm của Đất
Nước, sang ến phần này, tác phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng rằng Đất nước
của nhân dân thông qua lối sống tình nghĩa thuỷ chung thắm thiết của dân ta:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ
chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”
Nếu những nhà thơ, nhà văn khác ngắm nhìn giang sơn gấm vóc, thiên nhiên như những
kiệt tác của tạo hóa, những sản phẩm tuyệt vời trong kiến tạo của thiên nhiên thì Nguyễn
Khoa Điềm lại gắn liền nó với ời sống của nhân dân, với tâm hồn của dân tộc. Những
hình ảnh danh lam thắng cảnh ược nhắc ến như “núi Vọng Phu” hay “hòn Trống Mái"
không chỉ gợi ra một Đất ớc trù phù mà ó còn là hiện thân của con người. Nếu như
Núi Vọng Phu Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định gắn liền với sự tích nàng Thị
bồng con chờ chồng hóa á, hòn Trống Mái cũng nhắc ến câu chuyện gắn bó nghĩa tình
lOMoARcPSD| 58702377
vợ chồng nghĩa nặng tình sâu. Những vẻ ẹp ấy hòa quyện với nhau như thể hiện sự thủy
chung son sắt trong tâm hồn người Việt Nam nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói
riêng. Hình nh "những người vợ nhớ chồng" còn gợi ta nhớ về nàng Vũ Nương trong
"Chuyện người con gái Nam Xương" hay hình ảnh người chinh phụ trong Chinh phụ
ngâm”. thể nói hình ảnh người phụ nữ sắt son chờ chồng ã in sâu vào nguồn cội
nước non, vào văn học ớc nhà với nh ảnh từ thuở sơ khai cho ến ngày nay. Chính
tình cảm sâu ậm nghĩa tình ấy ã "góp cho Đất Nước" chứ không chỉ hòn Vọng Phu
hay hòn Trống Mái. Những danh lam thắng cảnh ấy không ơn thuần là hai hòn á chụm
vào nhau nữa mà ẩn chứa nhiều câu chuyện ời làm nên hình hài ấy.
Không chỉ dừng lại tình nghĩa thuỷ chung, vẻ ẹp trong tâm hồn người Việt còn
tình yêu nước nồng nàn, tinh thần hướng về cội nguồn thiêng liêng góp phần làm nên
những di tích lịch sử, những chiến thắng oanh liệt:
“Gót ngựa của Thánh Gióng i qua còn trăm ao ầm ể lại Chín mươi chín con voi góp
mình dựng Đất tổ Hùng Vương”
Một lần nữa, nhà thơ lại nhắc ến hình ảnh Thánh Gióng nhưng khác với hình ảnh
“trồng tre ánh giặc” khổ ầu, hình ảnh gót ngựa của Thánh Gióng ã lại cho Đất
Nước trăm ao ầm ng Sóc Sơn ngày nay như hiện thân cho khí phách kiên cường,
bất khuất của người dân Việt Nam ẹp ngời sáng bất tử với thời gian. Hay hình ảnh
chín mươi chín con voi ở Phong Châu ã quần tụ ể "góp mình" dựng ất tổ Hùng Vương
là minh chứng cho lòng dân cùng ồng thuận hướng về lí tưởng cao ẹp của Đất Nước.
Vẻ ẹp của Đất Nước không chỉ ược thể hiện qua những câu chuyện lịch sử còn
ược thể hiện qua vẻ ẹp của một dòng sông chảy qua:
“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”
Thay vì sử dụng tên riêng, tác giả lại lựa chọn hình ảnh ẩn dụ “con rồng" ể làm nổi bật
hình ảnh dòng ng Cửu Long với 9 cửa chảy qua phía Nam nước ta. Nếu phía Bắc
ta có Sông Hồng " ỏ nặng phù sa" hay sông Mã "bờm ngựa phi thác trắng" thì ở ầu bên
kia của Đất Nước lại Cửu Long giang thơ mộng, kiêu sa gắn với một huyền thoại ẫm
màu sắc cổ tích. Những con rồng nằm in từ bao ời nay cho Nam Bộ một "dòng sông
xanh thắm", dòng sông ấy mềm mại chuyển mình qua những bờ i, xóm làng mang
phù sa tỏa khắp muôn nơi.
Sang ến câu thơ tiếp theo, tác giả lại khắc hoạ truyền thống hiếu học của những con
người xuất thân từ những vùng quê nghèo dọc khắp mảnh ất hình chữ S này:
“Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiêng
Tác giả ã thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng ngữ liệu khi ưa hai hình ảnh là “núi Bút"
và “non Nghiêng” vào trong thơ của mình. Đây ều là hai danh lam thắng cảnh nổi tiếng
của vùng Quãng Ngãi thuộc miền Trung của nước ta. Nếu không những người học
trò nghèo thì những ịa danh như núi Bút, non Nghiên khó mà gợi lên hình ảnh Đất Nước
nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học, tôn sư trọng ạo "lưng eo gươm tay mềm
mại bút hoa". Qua ó, tác giả muốn tôn vinh tinh thần hiếu học vượt khó của những
con người tri thức nơi ây ã óng góp cho công cuộc xây dựng bảo vệ Đất Nước. Ngoài
lOMoARcPSD| 58702377
ra, tinh thần hiếu học cũng ược thể hiện rõ trong tư duy người Việt và vẫn luôn ược trú
trọng và tiếp nối cho ến ngày nay.
Hình ảnh Đất Nước tươi ẹp cũng ược tác giả khắc hoạ qua những hình ảnh óng góp
của những con người, cảnh vật vô cùng nhỏ bé, bình dị:
“Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào ã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Đen, Điểm” Hình
ảnh “con cóc”, “con quê hương” lẽ cách nói hoán dụ ng khôn khéo của
nhà thơ ể gợi người c liên tưởng ến nh ảnh Hòn Con Cóc hay Hòn Trống Mái giúp
Vịnh Hạ Long thành thắng cảnh, thành di sản thiên nhiên thế giới, góp phần ưa vẻ ẹp
Đất Nước ến bốn biển năm châu. Rồi những tên ất tên làng cũng ược tạo nên từ tên của
những người bình dị như “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”. Ngay cả tác giả cũng
không thể giải hay cắt nghĩa những cái n ấy nhưng chính sự hoá thân của những con
người bình dị, ời thường này ã tạo nên một Đất Nước trường tồn, phồn vinh suốt hàng
nghìn năm lịch sử.
Khác với những câu thơ trên, những câu thơ sau, nhà thơ lại chọn những khung
cảnh làng quê bình dị thay vì nhắc ến những ịa danh nổi tiếng:
“Và ở âu trên khắp ruộng ồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” Hình ảnh
“ruộng ồng bãi" như lời khẳng ịnh của tác giả rằng chính những con người, những
vùng quê nh dị trên dọc mọi miền Tổ quốc ã tạo nên vẻ ẹp của Đất Nước này. Động
từ “chẳng mang" thể hiện việc âu trên mảnh ất hình chữ S văn hiến cũng ều mang
dáng hình của nhân dân, những người con máu ỏ da vàng.
Kết thúc oạn trích là cảm xúc dâng trào, tha thiết của tác giả trước vẻ ẹp của mảnh ất
văn hiến ấy:
“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm i âu ta cũng thấy Những cuộc ời ã hoá núi sông
ta…”
Thán từ “ôi” ược ặt ở ngay ầu câu như thể hiện những cơn sóng trong lòng tác giả như
cuộn trào, tràn ngập trong từng câu chữ. Chính từ “bốn nghìn năm" ã khẳng ịnh khoảng
thời gian lịch sử dài ằng ẳng chỉ sự bền bỉ bao ời của dân tộc Việt Nam ã làm nên bề
dày lịch sử. Động từ mạnh “hoá" dường như ã làm sang trọng hoá những “cuộc ời" vô
cùng bình dị, như gợi ra những óng góp thầm lặng mà lớn lao của những con người nhỏ
tận tuỵ trên khắp ất nước Việt Nam. Chính nhân dân là những người ã hóa thân
vào từng hình sông, dáng núi làm nên vóc dáng, hình hài, thể của Đất Nước, làm
nên linh hồn của các danh lam thắng cảnh, làm nên trầm tích văn a của mỗi ịa danh.
Từng mảnh ất dòng sông, ngọn núi ều gắn liền với tính cách, tâm hồn con người Việt
Nam.
Bằng việc sử dụng ththơ tự do phóng khoáng vừa ộc áo vừa tự nhiên, giúp mạch
cảm xúc ược thể hiện một cách trôi chảy nhất cùng giọng thơ kết hợp giữa cảm xúc
lOMoARcPSD| 58702377
nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về ất nước và nhân dân, nhà thơ ã khẳng
inh lại yếu tố cao cả và thiêng liêng nhất ể tạo nên dáng vẻ của Đất Nước chính là nhân
dân. Việc liên tiếp lặp lại những cụm từ "góp nên", "góp mình", "góp cho",... với chủ
thể của những óng góp ấy là hình ảnh những con người người bình dị như những người
vợ nhớ chồng, những cặp ôi, người học trò nghèo như thể hiện nhân dân qua bao năm
tháng ã lặng lẽ kiến tạo xây dựng nên Đất Nước, in dấu sâu ậm trên dáng hình của quê
hương xứ sở. Qua ó, người ọc có thể cảm nhận ược tư tưởng Đất Nước vô cùng tiến bộ
của tác giả khi lấy những con người binh dị làm trung tâm cũng như tình cảm, cảm xúc
của chủ thể như thấm sâu vào trong cái nhìn, trong thái trân trọng, yêu quý với mỗi
hình ảnh, chi tiết về Đất Nước gắn liền với nhân dân. thể nói i thơ một dụ
tiêu biểu của phong ch thơ trữ tình - chính luận cùng ặc sắc ộc áo của ông khi
ã làm thức tỉnh tinh thần dân tộc của thế hệ trẻ miền Nam thời bấy giờ nói riêng ng
như toàn bộ những người con ất Việt nói chung.
Trong cuốn “Nhà văn Tác phẩm”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chia sẻ: “Đất
nước với các nhà thơ khác của những huyền thoại, của những anh hùng, nhưng với
tôi là của những con người vô danh, của nhân dân”. Thật vậy, hình ảnh Đất Nước trong
thơ của ông hiện lên cùng thiêng liêng nhưng cũng gần gũi với những dẫn chứng
quen thuộc trong ời sống xưa nay. Có lẽ chính sự gần gũi ấy ã giúp cho bài thơ vẫn giữ
trọn vẹn những giá trị trong lòng người ọc cho ến tận ngày nay.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58702377
PHÂN TÍCH 9 CÂU ĐẦU “ĐẤT NƯỚC"
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
mà lòng phơi phới dậy tương lai.”
Đất nước vốn là một đề tài muôn thuở trong thi ca và nghệ thuật, là điểm hẹn tâm
hồn của biết bao văn nghệ sĩ từ xưa đến nay. Những giữa bối cảnh những năm tháng
chống Mĩ khốc liệt thời bấy giờ, tình yêu ối với ất nước lại càng tỏa sáng và rực cháy
trong văn chương với những cây bút như Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến
Duật... khi họ viết về hào khí của cả một dân tộc khao khát ược ộc lập tự do. Một trong
số những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn chương Việt Nam thời kì ấy phải kể ến một nhà
thơ ã trưởng thành trong cuộc kháng chiến trường kỳ - Nguyễn Khoa Điềm. Và với 9
câu ầu trong bài thơ “Đất Nước”, nhà thơ sử dụng chất liệu văn hoá, văn học dân gian
ể thể hiện rõ những cảm nhận mới mẻ của bản thân về khái niệm lớn lao này.
Nổi tiếng với phong cách thơ trữ tình chính luận, thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn
người ọc bởi xúc cảm lắng ọng, giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư của người trí thức khi
tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến của nhân dân. Đoạn trích “Đất nước” thuộc
phần ầu chương V của trường ca “Mặt ường khát vọng” ược nhà thơ sáng tác năm 1971
tại chiến khu Trị - Thiên. Đoạn trích viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ô thị vùng tạm
chiến miền Nam về non sông, ất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống ường dấu
tranh hòa nhịp với cuộc chiến ấu chống ế quốc Mĩ xâm lược. Nhan ề "Đất Nước" ược
viết hoa như tên riêng và ược nhắc ến nhiều lần trong suốt bài thơ với mục ích nhấn
mạnh một ất nước ộc lập, tự do, có chủ quyền rõ ràng trên bản ồ thế giới. Không chỉ
vậy, tác giả còn muốn khẳng ịnh ây là ất nước của nhân dân và do nhân dân làm chủ.
Đây như một lời khẳng ịnh ầy tự hào, trân trọng của tác giả. Qua ó, người ọc cũng hiểu
ược về tình cảm của tác giả dành cho quê hương mình. Với Nguyễn Khoa Điềm, Tổ
quốc là những gì bình dị nhất nhưng lại ẹp vô cùng.
Bằng giọng iệu tâm tình mộc mạc, tác giả ã mở ầu chuyến hành trình ngược dòng
cảm xúc ể ến với nguồn gốc khai sinh bình dị của mảnh ất hình chữ S: “Khi ta lớn lên
Đất Nước ã có rồi”

Ở mỗi thời ại lịch sử, Đất Nước lại ược ịnh nghĩa theo những quan niệm khác nhau. Đó
có thể một Đất Nước nhỏ bé nhưng không hề tầm thường mà mang dáng vóc kì vĩ trong
thơ của Lý Thường Kiệt:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư”
Hay ó là một Đất Nước lung linh, kỳ ảo dưới ngòi bút của nhà thơ Thanh Hải:
"Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước"
Thế nhưng qua giọng thơ nhẹ nhàng của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước lại hiện lên vô
cùng bình dị và thân quen, gần gũi ến lạ thường. Không chỉ vậy, nhà thơ còn ưa ến một lOMoAR cPSD| 58702377
cảm giác mới mẻ, thấm thía và xúc ộng về Đất Nước trong quan hệ với cuộc sống của
nhân dân dưới góc ộ văn hóa dân gian. Đối với ông, Đất Nước không phải là những gì
trừu tượng, xa lạ, lớn lao mà là những gì rất ỗi gần gũi, quen thuộc, gắn bó với ời sống
và tinh thần của con người . Việc sử dụng ại tù "ta” cũng làm góc nhìn của câu thơ
không chỉ bị bó buộc ở nhân vật trữ tình là thi nhân mà còn ể nói ến chúng ta, một
cộng ồng, một dân tộc với bao thế hệ. Cụm từ “ ã có rồi” cũng thể hiện sự khẳng ịnh
chắc nịch của tác giả về sự trường tồn của ất nước từ ngàn ời một cách sừng sững và
hiên ngang. Qua ó, nhà thơ cũng thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về lịch sử anh hùng
hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Cả câu thơ như một lời tâm tình cất
lên từ sâu trong trái tim nhà thơ.
Tiếp nối câu thơ ầu tiên, nhà thơ bắt ầu lý giải nguồn cội của Đất Nước qua những
khía cạnh quen thuộc của văn hoá:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể” Khác
với Nguyễn Trãi sử dụng các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” ể làm nổi bật truyền thống
lâu ời của dân tộc ta trong bài “Bình Ngô ại cáo", Nguyễn Khoa Điềm lại sử dụng chính
những hình ảnh những câu chuyện quen thuộc trong tuổi thơ mỗi người ể ưa vào những
vần thơ của mình. Trong bài thơ “Truyện cổ nước mình”, nhà thơ Lâm Thị Vỹ Dạ từng viết:
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa”
Thật vậy, chính giọng kể “ngày xửa ngày xưa” ã con người ta quay về với những câu
chuyện cổ dân gian mà mẹ hay bà thường kể hàng êm với anh Thạch Sanh hiền lành,
dũng mãnh hay cô Tấm thảo hiền… Những nhân vật cổ tích ấy tưởng chừng như giả
tưởng ấy lại chính là hiện thân của vẻ ẹp của con người Việt Nam cần cù, lam lũ, dũng
cảm, kiên cường và giàu tình yêu thương. Những câu chuyện như dòng sữa, chăm bẵm,
nuôi dưỡng tâm hồn ta thêm trong sáng, bồi ắp thêm tình yêu quê hương, ất nước.
Với tác giả, Đất Nước không chỉ gợi nhớ ến thế giới cổ tích thần kì mà còn xuất phát
từ hình ảnh “miếng trầu" tuy nhỏ bé nhưng lại dung chứa cả "cuộc đời" của một Đất Nước:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Trong văn hoá người Việt từ xưa ến nay thì hình ảnh thân thuộc “miềng trầu” luôn mang
ý nghĩa sâu ậm. Ngoài việc thể hiện nét ẹp văn hoá ăn trầu, nhuộm răng en của người
Việt từ bao ời, hình ảnh miếng trầu còn làm người ọc nhớ ến câu chuyện sự tích trầu
cau vốn ca ngợi tình về ân tình thuỷ chung son sắt của vợ chồng, anh em. Ngoài ra, hình
ảnh ấy còn thể hiện truyền thống hiếu khách, mời trầu của dân ta vì “miếng trầu là ầu
câu chuyện”. Miếng trầu cũng là biểu tượng của tình yêu, là vật chứng cho sợ dây tơ
hồng kết duyên ối lứa không thể thiếu trong phong tục cưới hỏi. Dù hiểu theo cách nào
thì hình ảnh “miếng trầu" cũng là hiện thân của những những văn hóa, phong tục ẹp ẽ
chứa ựng biết bao tình cảm bình dị mà thân thương, gắn kết giữa Đất Nước và con người Việt suốt nghìn năm. lOMoAR cPSD| 58702377
Nếu như ba câu thơ ầu nhắc ến sự ra ời của Đất Nước thì ở câu thơ thứ tư, nhà thơ lại
miêu tả những ngày tháng Đất Nước bắt ầu "lớn lên” với những câu chuyện lịch sử ấu
tranh hào hùng của dân tộc:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà ánh giặc” Hình ảnh "lớn
lên" thể hiện sự vươn mình của dân tộc, từ những ngày ói khổ, năm tháng au thương ến
những ngày vươn dậy hào hùng, mang sức mạnh quật khởi, kiên cường; qua những giai
oạn ấu tranh, rồi dựng xây, giữ gìn, phát triển Đất Nước. Cụm từ "dân mình" như một
cách gọi thân thương của tác giả với những con người bao ời ã luôn cống hiến hết mình
ể “hóa thân dáng hình xứ sở”. Hình ảnh “trồng tre mà ánh giặc" như là một cách tinh tế
của tác giả ể nhắc ến truyền thuyết “Thánh Gióng” nhổ tre ánh uổi giặc Ân. Có thể nói
vẻ ẹp của Thánh Gióng như song hành cùng vẻ ẹp của cây tre Việt Nam:
"Nòi tre âu chịu mọc cong Chưa lên ã nhọn như chông lạ thường."
Hình ảnh “cây tre” chính là biểu tượng cho những phẩm chất, cốt cách cao ẹp của con
người Việt Nam như thật thà, chắc phác, ôn hậu, thuỷ chung, yêu chung, dũng cảm, kiên
cường. Trong cuộc sống hoà bình, tre tỏ bóng mát trưa hè, trở thành những vật dụng
sinh hoạt hàng ngày như ũa tre, chõng tre… nhưng khi có giặc ngoại xâm thì tre trở
thành những loại vũ khí như gậy tre ể cùng dân ánh uổi giặc ngoại xâm. Qua ó, hình
ảnh thơ như thể hiện sức mạnh quật khởi, kiên cường, bất khuất của dân tộc trong sự
nghiệp chiến ấu hi sinh bào vệ bờ cõi.
Hình ảnh Đất Nước không chỉ ược thể hiện vào những năm tháng chiến ấu mà còn
ược hiện diện ngay trong cuộc sống của mỗi con người, mỗi gia ình gắn với những tập
tục, thói quen và lối sống tình nghĩa, cần cù chịu khó: “Tóc mẹ thì bới sau ầu”
Vẻ ẹp giản dị của người phụ nữ Việt với phong tục “bới sau ầu” vừa tạo nên sự nữ tính,
thuần hậu, ảm ang cũng vừa thể hiện sự gọn gàng, thuận tiện trong công việc lao ộng
hàng ngày. Vẻ ẹp duyên dáng ấy cũng ược nhắc ến rất nhiều trong những câu ca dao xưa như:
“Chân mày vòng nguyệt có duyên Tóc mây gợn sóng ẹp duyên tơ hồng”
Qua ó, người phụ nữ hiện lên với vẻ ẹp giản dị, dịu dàng, ằm thắm và chịu thương,
chịu khó, tần tảo trong lao ộng.
Không chỉ vậy, Đất Nước còn ngời sáng bởi ạo lí nghĩa tình thủy chung của ôi lứa
khi mang vẻ ẹp tâm hồn con người Việt nghĩa tình, thuỷ chung, son sắt: “Cha mẹ
thương nhau bằng gừng cay muối mặn”

Trong câu thơ, Nguyễn Khoa Điềm ã vận dụng tinh tế ngạn ngữ dân gian “gừng cay
muối mặn” với những câu ca dao thân thuộc như:
“Tay bưng chén muối ĩa gừng Gừng cay muối mặn xin ừng quên nhau”
Giống như muôn lần muối vẫn mặn và gừng thì vẫn cay, tình và nghĩa luôn i cùng nhau,
vợ chồng không chỉ có tình mà còn có nghĩa gắn bó và thương nhau trọn ời, và họ chung
sống với nhau càng lâu thì lại càng thắm thiết nghĩa tình. Qua ó, câu thơ thể hiện triết lí
rằng nghĩa vợ chồng không bao giờ ổi thay cho dù khó khăn, gian khổ. lOMoAR cPSD| 58702377
Nhưng ta gắn bó với Đất Nước không chỉ bởi những tình cảm thiêng liêng ấy mà còn
ở những tập tục, hình ảnh quen thuộc gần gũi với người dân bao ời: “Cái kèo, cái cột thành tên”
Hình ảnh Đất Nước cũng gắn với những vật dụng thân thuộc hàng ngày như “kèo",
“cột”. Dù ây chỉ là những hình ảnh vô cùng nhó bé trong sống nhưng khi ặt dưới lăng
kính thơ của Nguyễn Khoa Điềm, những hình ảnh ấy lại gợi ra cả một không gian văn
hoá ậm chất Việt Nam với những ngôi nhà ược xây bằng kèo cột tạo nên kết cấu vững
chắc. Ngoài ra, câu thơ cũng gợi nhắc ến tục ặt tên nôm na, dân dã của nhân dân gắn
với những vật dụng thân thuộc với mong ước ứa con lớn lên khoẻ mạnh, kiên cường và
bình dị như chính cái tên con mang. "Cái kèo, cái cột" chính là tiếng nói, là hiện thân
của những giá trị văn hoá trường tồn với Đất Nước mà dân ta ã ánh ổi xương máu ể giữ
gìn cho ến tận ngày nay.
Đất Nước cũng “lớn lên” với hạt gạo ta ăn hàng ngày, với nghề trồng lúa nước lâu ời:
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Ở ây, tác giả sử dụng thành ngữ “một nắng hai sương” gợi truyền thống lao ộng cần cù,
chịu khó của nhân dân ta vì ể làm ra từng “hạt ngọc trời”, bát cơm dẻo thơm người nông
dân phải “dãi nắng dầm sương” bán mặt cho ất, bán lưng cho trời”. Việc liệt kê những
ộng từ mạnh như “xay, giã, giần, sàng” thể hiện sự tỉ mỉ, khó nhọc vì thấm trong từng
hạt gạo là mồ hôi, công sức, của người trồng lúa. Qua ó, nhà văn cũng nhắn nhủ người
ọc phải luôn biết giữ gìn truyền thống cao ẹp uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta một
cách khéo léo, tinh tế giống như cách mà cha ông ta gửi gắm qua câu ca dao:
“Ai ơi bưng bát cơm ầy Dẻo thơm một hạt ắng cay muôn phần”
Kết thúc phần ầu của bài thơ là lời khẳng ịnh chắc nịch về quá trình khai sinh và phát
triển của Đất Nước một cách hết sức trân trọng của tác giả: “Đất Nước có từ ngày ó…”
Có thể nói chính nhân dân là những người ã truyền lại những vẻ ẹp của ất nước, những
nét ẹp văn hóa của người Việt Nam. Dù không ai rõ chính xác “ngày ó" là ngày nào
nhưng chắc chắn “ngày ó” là ngày mà chúng ta có những huyền thoại, truyền thuyết, có
những phong tục tập quán, có những câu chuyện lịch sử về việc dân tộc Việt ta không
tiếc máu xương ể giữ từng tấc ất thiêng liêng và dùng bàn tay lao ộng ể xây dựng ất nước.
Bằng cách vận dụng khéo léo các chất liệu văn hóa dân gian với a dạng các thể loại:
từ phong tục, tập quán, ca dao, thần thoại, cổ tích cùng thể thơ tự do phóng khoáng vừa
ộc áo vừa tự nhiên, Nguyễn Khoa Điềm ã cảm nhận vẻ ẹp của Đất Nước trên cả 3
phương diện: chiều rộng của không gian ịa lý, chiều dài của lịch sử và chiều sâu văn
hóa. Với giọng thơ trữ tình - chính luận kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu
lắng của người tri thức về ất nước và nhân dân, tác giả muốn truyền tải thông iệp ến
những thế hệ mai sau rằng ta không chỉ có trách nhiệm bảo vệ vùng ất xương máu của
ông cha ta mà còn phải truyền và bảo vệ những vẻ ẹp mang ậm cốt cách của con người
Việt Nam ược truyền từ ời này sang ời khác, vì ó chính là vẻ ẹp làm nện bản sắc của
Đất Nước, của dân tộc Việt Nam ta. lOMoAR cPSD| 58702377
Nhà thơ Vũ Quần Phương từng ưa ra nhận ịnh rằng: “Đất nước trong thơ Nguyễn
Khoa Điềm là sự ồng hiện của những gì gần gũi, thân thương nhất ối với mỗi con người
Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai”. Thật vậy, chỉ với những hình ảnh vô
cùng bình dị, tác giả ã khác hoạ lại toàn vẹn hình ảnh Đất Nước trong trái tim, tâm trí
của mỗi con người Việt Nam. Có lẽ vậy mà dù những năm tháng chiến tranh ã qua i từ
lâu những những giá trị văn học mà bài thơ tạo ra vẫn luôn sống mãi với thời gian.
PHÂNTÍCHĐOẠN“NHỮNGNGƯỜIVỢ…NÚISỐNGTA"
Nhà thơ Vũ Quần Phương từng ưa ra nhận ịnh rằng: “Đất nước trong thơ Nguyễn
Khoa Điềm là sự ồng hiện của những gì gần gũi, thân thương nhất ối với mỗi con người
Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai”. Thật vậy, hình ảnh Đất Nước ược ông
cảm nhận tinh tế qua những ịa danh thắng cảnh gắn với cuộc sống thường
ngày của nhân dân. Và có lẽ thông qua 12 câu thơ từ câu “Những người vợ nhớ chồng
còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu” ến “Những cuộc ời ã hoá núi sông ta…”
ã khẳng ịnh tư tưởng cốt lõi về một “Đất Nước của nhân dân” trên phương diện ịa lí
bằng những hình ảnh vô cùng giản dị nhưng giàu tính dân tộc.
Nổi tiếng với phong cách thơ trữ tình chính luận, thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn
người ọc bởi xúc cảm lắng ọng, giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư của người trí thức khi
tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến của nhân dân. Đoạn trích “Đất nước” thuộc
phần ầu chương V của trường ca “Mặt ường khát vọng” ược nhà thơ sáng tác năm 1971
tại chiến khu Trị - Thiên. Đoạn trích viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ô thị vùng tạm
chiến miền Nam về non sông, ất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống ường dấu
tranh hòa nhịp với cuộc chiến ấu chống ế quốc Mĩ xâm lược. Nhan ề "Đất Nước" ược
viết hoa như tên riêng và ược nhắc ến nhiều lần trong suốt bài thơ với mục ích nhấn
mạnh một ất nước ộc lập, tự do, có chủ quyền rõ ràng trên bản ồ thế giới. Không chỉ
vậy, tác giả còn muốn khẳng ịnh ây là ất nước của nhân dân và do nhân dân làm chủ.
Đây như một lời khẳng ịnh ầy tự hào, trân trọng của tác giả. Qua ó, người ọc cũng hiểu
ược về tình cảm của tác giả dành cho quê hương mình. Với Nguyễn Khoa Điềm, Tổ
quốc là những gì bình dị nhất nhưng lại ẹp vô cùng.
Từ những quan niệm về quá trình hình thành và lớn lên cũng như khái niệm của Đất
Nước, sang ến phần này, tác phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng rằng Đất nước
của nhân dân thông qua lối sống tình nghĩa thuỷ chung thắm thiết của dân ta:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ
chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”
Nếu những nhà thơ, nhà văn khác ngắm nhìn giang sơn gấm vóc, thiên nhiên như những
kiệt tác của tạo hóa, những sản phẩm tuyệt vời trong kiến tạo của thiên nhiên thì Nguyễn
Khoa Điềm lại gắn liền nó với ời sống của nhân dân, với tâm hồn của dân tộc. Những
hình ảnh danh lam thắng cảnh ược nhắc ến như “núi Vọng Phu” hay “hòn Trống Mái"
không chỉ gợi ra một Đất Nước trù phù mà ó còn là hiện thân của con người. Nếu như
Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định gắn liền với sự tích nàng Tô Thị
bồng con chờ chồng hóa á, hòn Trống Mái cũng nhắc ến câu chuyện gắn bó nghĩa tình lOMoAR cPSD| 58702377
vợ chồng nghĩa nặng tình sâu. Những vẻ ẹp ấy hòa quyện với nhau như thể hiện sự thủy
chung son sắt trong tâm hồn người Việt Nam nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói
riêng. Hình ảnh "những người vợ nhớ chồng" còn gợi ta nhớ về nàng Vũ Nương trong
"Chuyện người con gái Nam Xương" hay hình ảnh người chinh phụ trong “Chinh phụ
ngâm”. Có thể nói hình ảnh người phụ nữ sắt son chờ chồng ã in sâu vào nguồn cội
nước non, vào văn học nước nhà với hình ảnh từ thuở sơ khai cho ến ngày nay. Chính
tình cảm sâu ậm nghĩa tình ấy ã "góp cho Đất Nước" chứ không chỉ là hòn Vọng Phu
hay hòn Trống Mái. Những danh lam thắng cảnh ấy không ơn thuần là hai hòn á chụm
vào nhau nữa mà ẩn chứa nhiều câu chuyện ời làm nên hình hài ấy.
Không chỉ dừng lại ở tình nghĩa thuỷ chung, vẻ ẹp trong tâm hồn người Việt còn là
tình yêu nước nồng nàn, tinh thần hướng về cội nguồn thiêng liêng góp phần làm nên
những di tích lịch sử, những chiến thắng oanh liệt:
“Gót ngựa của Thánh Gióng i qua còn trăm ao ầm ể lại Chín mươi chín con voi góp
mình dựng Đất tổ Hùng Vương”
Một lần nữa, nhà thơ lại nhắc
ến hình ảnh Thánh Gióng nhưng khác với hình ảnh
“trồng tre mà ánh giặc” ở khổ ầu, hình ảnh gót ngựa của Thánh Gióng ã ể lại cho Đất
Nước trăm ao ầm ở vùng Sóc Sơn ngày nay như hiện thân cho khí phách kiên cường,
bất khuất của người dân Việt Nam ẹp ngời sáng và bất tử với thời gian. Hay hình ảnh
chín mươi chín con voi ở Phong Châu ã quần tụ ể "góp mình" dựng ất tổ Hùng Vương
là minh chứng cho lòng dân cùng ồng thuận hướng về lí tưởng cao ẹp của Đất Nước.
Vẻ ẹp của Đất Nước không chỉ ược thể hiện qua những câu chuyện lịch sử mà còn
ược thể hiện qua vẻ ẹp của một dòng sông chảy qua:
“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”
Thay vì sử dụng tên riêng, tác giả lại lựa chọn hình ảnh ẩn dụ “con rồng" ể làm nổi bật
hình ảnh dòng sông Cửu Long với 9 cửa chảy qua phía Nam nước ta. Nếu ở phía Bắc
ta có Sông Hồng " ỏ nặng phù sa" hay sông Mã "bờm ngựa phi thác trắng" thì ở ầu bên
kia của Đất Nước lại có Cửu Long giang thơ mộng, kiêu sa gắn với một huyền thoại ẫm
màu sắc cổ tích. Những con rồng nằm in từ bao ời nay ể cho Nam Bộ một "dòng sông
xanh thắm", dòng sông ấy mềm mại chuyển mình qua những bờ bãi, xóm làng mang
phù sa tỏa khắp muôn nơi.
Sang ến câu thơ tiếp theo, tác giả lại khắc hoạ truyền thống hiếu học của những con
người xuất thân từ những vùng quê nghèo dọc khắp mảnh ất hình chữ S này:
“Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiêng”
Tác giả ã thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng ngữ liệu khi ưa hai hình ảnh là “núi Bút"
và “non Nghiêng” vào trong thơ của mình. Đây ều là hai danh lam thắng cảnh nổi tiếng
của vùng Quãng Ngãi thuộc miền Trung của nước ta. Nếu không có những người học
trò nghèo thì những ịa danh như núi Bút, non Nghiên khó mà gợi lên hình ảnh Đất Nước
nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học, tôn sư trọng ạo "lưng eo gươm tay mềm
mại bút hoa". Qua ó, tác giả muốn tôn vinh tinh thần hiếu học và vượt khó của những
con người tri thức nơi ây ã óng góp cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Đất Nước. Ngoài lOMoAR cPSD| 58702377
ra, tinh thần hiếu học cũng ược thể hiện rõ trong tư duy người Việt và vẫn luôn ược trú
trọng và tiếp nối cho ến ngày nay.
Hình ảnh Đất Nước tươi ẹp cũng ược tác giả khắc hoạ qua những hình ảnh óng góp
của những con người, cảnh vật vô cùng nhỏ bé, bình dị:
“Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào ã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” Hình
ảnh “con cóc”, “con gà quê hương” có lẽ là cách nói hoán dụ vô cùng khôn khéo của
nhà thơ ể gợi người ọc liên tưởng ến hình ảnh Hòn Con Cóc hay Hòn Trống Mái giúp
Vịnh Hạ Long thành thắng cảnh, thành di sản thiên nhiên thế giới, góp phần ưa vẻ ẹp
Đất Nước ến bốn biển năm châu. Rồi những tên ất tên làng cũng ược tạo nên từ tên của
những người bình dị như “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”. Ngay cả tác giả cũng
không thể lí giải hay cắt nghĩa những cái tên ấy nhưng chính sự hoá thân của những con
người bình dị, ời thường này ã tạo nên một Đất Nước trường tồn, phồn vinh suốt hàng nghìn năm lịch sử.
Khác với những câu thơ trên, ở những câu thơ sau, nhà thơ lại chọn những khung
cảnh làng quê bình dị thay vì nhắc ến những ịa danh nổi tiếng:
“Và ở âu trên khắp ruộng ồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” Hình ảnh
“ruộng ồng gò bãi" như lời khẳng ịnh của tác giả rằng chính những con người, những
vùng quê bình dị trên dọc mọi miền Tổ quốc ã tạo nên vẻ ẹp của Đất Nước này. Động
từ “chẳng mang" thể hiện việc ở âu trên mảnh ất hình chữ S văn hiến cũng ều mang
dáng hình của nhân dân, những người con máu ỏ da vàng.
Kết thúc oạn trích là cảm xúc dâng trào, tha thiết của tác giả trước vẻ ẹp của mảnh ất văn hiến ấy:
“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm i âu ta cũng thấy Những cuộc ời ã hoá núi sông ta…”
Thán từ “ôi” ược ặt ở ngay ầu câu như thể hiện những cơn sóng trong lòng tác giả như
cuộn trào, tràn ngập trong từng câu chữ. Chính từ “bốn nghìn năm" ã khẳng ịnh khoảng
thời gian lịch sử dài ằng ẳng ể chỉ sự bền bỉ bao ời của dân tộc Việt Nam ã làm nên bề
dày lịch sử. Động từ mạnh “hoá" dường như ã làm sang trọng hoá những “cuộc ời" vô
cùng bình dị, như gợi ra những óng góp thầm lặng mà lớn lao của những con người nhỏ
bé mà tận tuỵ trên khắp ất nước Việt Nam. Chính nhân dân là những người ã hóa thân
vào từng hình sông, dáng núi ể làm nên vóc dáng, hình hài, cơ thể của Đất Nước, làm
nên linh hồn của các danh lam thắng cảnh, làm nên trầm tích văn hóa của mỗi ịa danh.
Từng mảnh ất dòng sông, ngọn núi ều gắn liền với tính cách, tâm hồn con người Việt Nam.
Bằng việc sử dụng thể thơ tự do phóng khoáng vừa ộc áo vừa tự nhiên, giúp mạch
cảm xúc ược thể hiện một cách trôi chảy nhất cùng giọng thơ kết hợp giữa cảm xúc lOMoAR cPSD| 58702377
nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về ất nước và nhân dân, nhà thơ ã khẳng
inh lại yếu tố cao cả và thiêng liêng nhất ể tạo nên dáng vẻ của Đất Nước chính là nhân
dân. Việc liên tiếp lặp lại những cụm từ "góp nên", "góp mình", "góp cho",... với chủ
thể của những óng góp ấy là hình ảnh những con người người bình dị như những người
vợ nhớ chồng, những cặp ôi, người học trò nghèo như thể hiện nhân dân qua bao năm
tháng ã lặng lẽ kiến tạo xây dựng nên Đất Nước, in dấu sâu ậm trên dáng hình của quê
hương xứ sở. Qua ó, người ọc có thể cảm nhận ược tư tưởng Đất Nước vô cùng tiến bộ
của tác giả khi lấy những con người binh dị làm trung tâm cũng như tình cảm, cảm xúc
của chủ thể như thấm sâu vào trong cái nhìn, trong thái ộ trân trọng, yêu quý với mỗi
hình ảnh, chi tiết về Đất Nước gắn liền với nhân dân. Có thể nói bài thơ là một ví dụ
tiêu biểu của phong cách thơ trữ tình - chính luận vô cùng ặc sắc và ộc áo của ông khi
nó ã làm thức tỉnh tinh thần dân tộc của thế hệ trẻ miền Nam thời bấy giờ nói riêng cũng
như toàn bộ những người con ất Việt nói chung.
Trong cuốn “Nhà văn và Tác phẩm”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có chia sẻ: “Đất
nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh hùng, nhưng với
tôi là của những con người vô danh, của nhân dân”. Thật vậy, hình ảnh Đất Nước trong
thơ của ông hiện lên vô cùng thiêng liêng nhưng cũng gần gũi với những dẫn chứng
quen thuộc trong ời sống xưa nay. Có lẽ chính sự gần gũi ấy ã giúp cho bài thơ vẫn giữ
trọn vẹn những giá trị trong lòng người ọc cho ến tận ngày nay.