Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chọn lọc hay nhất

Mùa thu, với vẻ đẹp và sự trữ tình đặc trưng, luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho những thi nhân, làm cho tâm hồn họ hòa mình vào không gian thơ mộng. Nguyễn Khuyến, trong bài thơ "Thu ẩm," tạo nên một bức tranh thu tĩnh lặng, hòa mình vào không khí yên bình của thôn quê. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
11 trang 6 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chọn lọc hay nhất

Mùa thu, với vẻ đẹp và sự trữ tình đặc trưng, luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho những thi nhân, làm cho tâm hồn họ hòa mình vào không gian thơ mộng. Nguyễn Khuyến, trong bài thơ "Thu ẩm," tạo nên một bức tranh thu tĩnh lặng, hòa mình vào không khí yên bình của thôn quê. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích bài thơ Đây mùa thu ti ca Xuân Diu chn lc hay
nht
Kính mi quý bạn đọc tham kho mt s bài văn trình bày Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới
ca Xuân Diu chn lc hay nht
Mục lục bài viết
Mu 01. Phân tích bài thơ Đây mùa thu ti ca Xuân Diu chn lc hay nht
Mu 02. Phân tích bài thơ Đây mùa thu ti ca Xuân Diu chn lc hay nht
Mu 03. Phân tích bài thơ Đây mùa thu ti ca Xuân Diu chn lc hay nht
Mẫu 01. Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chọn lọc hay nhất
Mùa thu, với vẻ đẹp và sự trữ tình đặc trưng, luônnguồn cảm hứng vô tận cho những thi nhân,
làm cho tâm hồn họ hòa mình vào không gian thơ mộng. Nguyễn Khuyến, trong bài thơ "Thu ẩm,"
tạo nên một bức tranh thu tĩnh lặng, a mình vào không khí yên bình của thôn quê. Lưu Trọng
Lư, qua "Tiếng thu," mang lại cảm nhận tinh tế về một trời thu sống động, đầy ắp âm thanh của
mùa lá rụng. Còn Xuân Diệu, với "Đây mùa thu tới," đưa người đọc đến với một mùa thu mới bắt
đầu, nét đẹp đặc sắc và diệu kỳ mà ông nhìn nhận. Ngay từ tiêu đề "Đây mùa thu tới," độc giả đã
cảm nhận được sự chấp nhận của tác giả đối với bức tranh mùa thu mới bắt đầu. Xuân Diệu không
tập trung vào giữa mùa hay cuối mùa thu, khoảnh khắc đất trời vừa chia tay mùa hè và bắt
đầu hòa nh trong mùa thu mới. Từ đó, ông khám phá ra những diễn biến độc đáo của thiên nhiên
đưa chúng vào tác phẩm của mình.
Điều đặc biệt là cách Xuân Diệu nắm bắt sự chuyển đổi của đất trời. Ông không chỉ đơn thuần mô
tả mùa thu qua hình ảnh lá rụng, mà còn lồng ghép sự kỳ diệu và phức tạp của sự sống. Từ những
thay đổi nhỏ nhưng đầy ý nghĩa y, tác giả làm cho mùa thu trở nên huyền bí và phong cách hơn,
khơi gợi sự tò mò và sự ngạc nhiên của độc giả.
“Rng liu đìu hiu đứng chu tang,
Tóc bun buông xung l ngàn hàng;
Đây mùa thu ti - mùa thu ti
Vi áo phai dt vàng”.
Bài thơ của Xuân Diệu mở đầu bằng hình ảnh buồn của rặng liễu rũ. Thông qua từ ngữ tình
cảm tưởng tượng phong phú, nhà thơ tạo ra một bức tranh mùa thu đậm chất u sầu. Rặng liễu
không còn hình ảnh êm đềm, thay vào đó, chúng được nhìn nhận như những giọt lệ buồn rơi
xuống, tưởng chừng như đang kể lể về một cảm xúc bi thương, mất mát, hay một sự chia lìa đau
đớn. Từ việc biểu hiện tâm trạng của rặng liễu, Xuân Diệu giữ nguyên tinh thần của mùa thu
chuyển đổi thành một thế giới của những cảm xúc đắng cay uất ức. Ông làm cho mùa thu
trở nên linh động, như một hình ảnh phản ánh của con người, với khả năng cảm nhận, buồn bã, và
khóc lóc. Tiếp theo, nhà thơ thông báo sự đến của mùa thu một cách mờ nhạt, với lá vàng mờ nhạt
và không khí chung quanh trở nên ảm đạm. Các từ ngữ và hình ảnh này không chỉ mô tả cảnh sắc
mùa thu mà còn làm nổi bật tâm trạng bi lụy và đau buồn mà nhà thơ đang trải qua. Trong khổ thơ
thứ hai, nhà thơ tiếp tục sử dụng những từ ngữ nhân hóa để tạo hình mùa thu như một người có
tâm trạng, khả năng khóc, khả năng dệt lá. Điều y tạo nên một hiện thực khác biệt,
khiến mùa thu không chỉ là một phần của tự nhiên mà còn là một người bạn, một người đồng cảm
với những tâm trạng của con người.
“Hơn mt loài hoa đã rng cành
Trong n sc đỏ rũa màu xanh;
Nhng lung run ry rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gy xương mng manh”.
Khổ thơ mở đầu của tác phẩm đầy màu sắc và nét chấm phá, như là những nét vẽ tinh tế trên bức
tranh thu, đậm chất biểu cảm về sự khô héo u sầu. Tác giả sử dụng màu sắc để nền tảng cho
tâm trạng thất vọng chán chường của con người, đồng thời làm tôn lên vẻ buồn bã của mùa thu.
Nét chấm phá, như những điểm bỏ trên bức tranh, thể hiện sự nát bại, xơ xác của mùa thu
tâm trạng u tối của nhân vật chính. Những dòng thơ dưới bàn tay tài năng của nhà thơ, tạo nên
hình ảnh thu đầy buồn thương, với những đảo ngữ tinh tế, làm nổi bật sự biến đổi của mùa thu và
tôn lên nét u ám, đau thương của tâm hồn con người.
Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả sử dụng hình ảnh "nàng trăng" để tạo ra một vẻ đẹp huyền bí và đồng
thời thể hiện sự tiếc nuối, ngẩn ntrước sự thay đổi của thời gian vũ trụ. Từ "nàng trăng"
không chỉ một biểu ợng của trăng còn hình ảnh của một gái ngây thơ, mộng,
đứng đối diện với sự biến đổi đau thương của thế giới xung quanh. Như vậy, cả hai khổ thơ đã
cùng nhau tạo nên một bức tranh mùa thu đẹp mắt đầy duy, nơi tâm trạng con người hòa
mình vào sự biến đổi của thiên nhiên và vũ trụ, thể hiện sự nhạy bén và tài năng sáng tác của nhà
thơ.
“Thnh thong nàng trăng t ngn ngơ…
Non xa khi s nht ơng mờ…
Đã nghe rét t lun trong gió…
Đã vng người sang nhng chuyến đò…”
Không chỉ trăng ngẩn ngơ, mà núi non cũng trở nên mờ nhạt, như một bức tranh mùa thu với sắc
màu u tối ảm đạm. Sự hiu quạnh, mờ ảo lan tỏa khắp vạn vật, tạo nên một không khí buồn
lạnh lẽo khi mùa thu bắt đầu. Cơn gió lạnh đầu mùa, gió thu, như những bàn tay lạnh giá, len
lỏi vào từng khoảng trống của đất trời tâm hồn con người, làm cho cảnh vật tâm trạng trở
nên buốt giá và cô đơn. Nhà thơ sử dụng từ ngữ sống động để miêu tả cảnh vật và tâm trạng trong
mùa thu. Chuyến đò hàng ngày, một hình ảnh quen thuộc, giờ trở nên vắng vẻ, chẳng còn ai qua
sông. Điều này không chỉ một hiện thực về cuộc sống hàng ngày còn biểu tượng cho sự
khô cằn lạnh lẽo trong tâm hồn con người khi mùa thu đến. Từ "đã" như một phủ định, đánh
dấu sự chắc chắn và thực tế của mùa thu, không còn là sự chờ đợi mà đã trở nên hiện hữu và đậm
chất u uất. Tác giả thông qua bài thơ "Đây mùa thu tới" của mình đã tạo nên một bức tranh mùa
thu đặc sắc, với một tâm trạng đầy nỗi buồn đau khổ. Mùa thu không chỉ thời điểm của sự
khép kín và u ám mà còn là thời điểm của niềm đau và hoài niệm về những thời kỳ khó khăn trong
lịch sử đất nước.
“Mây vn tng không, chim bay đi,
Khí tri u ut hn chia ly.
Ít nhiu thiếu n bun không nói
Ta ca nhìn xa, nghĩ ngi gì”.
Nhà thơ Xuân Diệu trong "Đây mùa thu tới" đã thành công trong việc kết hợp tâm trạng cá nhân
với hình ảnh của mùa thu, tạo nên một bức tranh cảm xúc độc đáo sâu sắc. Dưới bàn tay tài
năng của ông, mùa thu không chỉ là một khung cảnh tự nhiên mà còn là bản năng cảm xúc, tương
tác với tâm hồn thi sĩ. Tâm trạng buồn rầu của tác giả được chuyển tải mạnh mẽ qua tả mùa
thu. Những hình ảnh về rặng liễu rũ như giọt lệ, vàng mờ nhạt đều làm nổi bật sự u buồn, chất
chứa nỗi đau lòng trong tâm trạng của nhà thơ. Sự nhạt nhòa và ảm đạm của mùa thu trở nên phản
ánh cho tâm hồn uất hận và bi thương của người sáng tác.
Trong khổ thơ cuối, một loạt hình ảnh về sự chia lìa và tử biệt xuất hiện, nhấn mạnh sự đau thương
và tuyệt vọng trong cuộc sống. Hình ảnh người thiếu nữ buồn không nói, nhìn xa xăm tạo ra một
không gian cảm xúc u tối, nơi nỗi đau hình trở nên ràng. "Tự cửa" như một biểu tượng của
sự mất mát và sự không biết bấu víu vào điều gì, đồng thời thể hiện tâm mơ hồ và mơ mộng của
nhà thơ. Bài thơ sử dụng ngôn ngữ phong phú, những từ ngữ nhân a, cấu trúc câu thơ đặc
sắc, tất cả kết hợp để tạo nên một bức tranh mùa thu không chỉ đẹp về hình ảnh mà còn sâu sắc về
tâm trạng và cảm xúc. Sự linh hoạt trong thể thơ tự do càng làm cho bức tranh thu trở nên tự nhiên
và chân thực, chạm đến trái tim của người đọc.
Mẫu 02. Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chọn lọc hay nhất
Xuân Diệu, một ông hoàng của thơ tình yêu, không chỉ là người mang đến những tình cảm đẹp đẽ,
lãng mạn trong thơ ca, mà còn đem đến những góc nhìn mới, sáng tạo về cuộc sống và tình yêu.
Ông được biết đến là thi của mùa thu, nơi mà tâm hồn của ông bộc lộ qua những cảm xúc lãng
mạn xao xuyến. Bài thơ "Đây mùa thu tới" là một minh chứng tiêu biểu cho sự tài năng và sáng
tạo của Xuân Diệu. Bài thơ này được Xuân Diệu sáng tác xuất bản vào năm 1938, trong tập
"Thơ Thơ". Trong đó, ông mô tả mùa thu không chỉ là hình ảnh của lá rụng và gió hắt hiu, mà còn
là biểu tượng của sự đau khổ, bi ai. Tác phẩm rơi vào đề tài của một tâm hồn nhạy cảm, nhận biết
được những biến đổi nhỏ nhất của thiên nhiên và cảm nhận sâu sắc những cảm xúc mùa thu mang
lại. Hình ảnh mùa thu trong bài thơ không chỉ là những chiếc rơi, còn những cành liễu,
tượng trưng cho sự tang thương bi ai. Mùa thu trong thơ của Xuân Diệu không chỉ sự kết
thúc của mùa hè, mà còn là một kỳ nghỉ trầm lặng của tâm hồn, là lúc để nhìn lại và cảm nhận sâu
hơn về cuộc sống.
"Rng liu đìu hiu đứng chu tang,
Tóc bun buông xung l ngàn hàng".
Không gian mở ra với vẻ "đìu hiu," buồn bã, trống vắng. Rặng liễu mênh mông như một dải
tang thương, lá liễu trải dài như mái tóc dài của cô phụ buồn bã, lửng lơ. Xuân Diệu sử dụng hình
ảnh của sương thu, ướt đẫm trên những nhánh liễu như một phương tiện đtruyền đạt tâm trạng
sâu sắc. Các cành liễu phỏng như những gái già trải qua gian khổ, mặc diện mạo dịu
dàng nhưng đôi mắt chứa đựng nỗi buồn đẫm lệ. Phương tiện láy âm được tận dụng linh hoạt, tạo
ra những vần thơ độc đáo với âm điệu đầy phức tạp: "đìu hiu - chịu," "tang - ngàn - hàng," "buồn
- buông - xuống." Điều này thêm vào những đặc điểm độc đáo của thơ của Xuân Diệu trong những
năm đầu thế kỉ 20. Trong khi nhìn ngắm rặng liễu, bất chợt tác giả phát hiện màu thu đã đến,
sử dụng cách ngắt nhịp 4/3 cùng với điệp ngữ "mùa thu tới," đã thể hiện bước chuyển động của
mùa thu và sự mong đợi đã dậy lên từ tận sâu trong trái tim thi sĩ.
"Đây mùa thu ti mùa thu ti
Vi áo phai dt vàng".
Cách ghép vần tài tình như một đường cong tình cảm: "tới - với," và từ "dệt" tinh tế như một bàn
tay nghệ nhân đan xen giữa mô tả và trải nghiệm. Mùa thu không chỉ là sự đổi màu của lá cây, mà
còn một bức tranh được "dệt" tỉ mỉ, mang đến vẻ đẹp không phải sự tình cờ, kết quả
của sự sáng tạo. "Với áo mơ phai dệt lá vàng" không chỉ là một dòng thơ, mà là một cảm nhận sâu
sắc về tâm hồn thu, với sắc màu y được điểm bởi bức tranh thanh nhẹ, tươi sáng của mùa
thu thân thương. Mặc dù, mùa thu đẹp đẽ ấy lại mở đầu bằng một nỗi buồn nặng trên tâm trí. Khi
mùa thu về, cảnh đẹp thay đổi, màu sắc trở nên rực rỡ. Mùa thu đã đến và rồi qua đi, thời gian trôi
nhanh chóng không thể tin nổi. Cảnh đẹp thay đổi từng khoảnh khắc, hoa rơi như những bông
tuyết đỏ lấm chấm những đám lá xanh, cây cỏ bắt đầu rụng lá một cách nhẹ nhàng như đang "run
rẩy," khẽ "rung rinh" dưới làn gió thu dịu dàng, se lạnh, hòa mình vào không khí thu quyến rũ.
"Hơn mt loài hoa đã rng cành
Trong n sc đỏ rũa màu xanh.
Nhng lung run ry, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô gy xương mng manh".
Xuân Diệu, một ông hoàng của thơ tình yêu, không chỉ là người mang đến những tình cảm đẹp đẽ,
lãng mạn trong thơ ca, mà còn đem đến những góc nhìn mới, sáng tạo vcuộc sống và tình yêu.
Ông được biết đến là thi của mùa thu, nơi mà tâm hồn của ông bộc lộ qua những cảm xúc lãng
mạn xao xuyến. Bài thơ "Đây mùa thu tới" là một minh chứng tiêu biểu cho sự tài năng và sáng
tạo của Xuân Diệu. Bài thơ này được Xuân Diệu sáng tác xuất bản vào năm 1938. Trong đó,
ông mô tả mùa thu không chỉ hình ảnh của rụng và gió hắt hiu, mà còn biểu tượng của sự
đau khổ, bi ai. Tác phẩm rơi vào đề tài của một tâm hồn nhạy cảm, nhận biết được những biến đổi
nhỏ nhất của thiên nhiên và cảm nhận sâu sắc những cảm xúc mùa thu mang lại.
Hình ảnh mùa thu trong bài thơ không chỉ là những chiếc lá rơi, mà còn là những cành liễu, tượng
trưng cho sự tang thương và bi ai. Mùa thu trong thơ của Xuân Diệu không chỉ là sự kết thúc của
mùa hè, còn là một kỳ nghỉ trầm lặng của tâm hồn, là lúc để nhìn lại và cảm nhận sâu hơn về
cuộc sống.
"Thnh thoang nàng trăng t ngn ngơ
Non xa khi s nht ơng mờ… "
"Đã nghe rét t lun trong gió,
Đã vng người sang nhng chuyến đò”
Hai từ "đã nghe" "đã vắng" như những tiếng chuông, mở ra một không gian bao la và trống
trải của những buổi chiều thu, nơi không khí se se lạnh tận cùng. Sự chuyển đổi giữa xúc giác và
thính giác tạo nên một cảm giác đa chiều, khiến cho độc giả không chỉ nhận biết qua giác quan mà
còn đắm chìm trong trạng thái tinh tế của tâm hồn. Thi nhân cảm nhận sự lạnh lẽo của rét, cảm
nhận gió thoảng qua, và cảm nhận sự xa vắng không chỉ qua giác quan mà còn qua linh hồn, như
chính tác giả đang đứng giữa làn gió thu, se lạnh, và từng giọt lạnh leo qua da.
Khổ thơ cuối cùng một tuyệt tác về hình ảnh thiên nhiên, từ cảnh đẹp của bầu trời, đám y,
cánh chim cho đến vẻ đẹp của một người phụ nữ. Mây trời và cánh chim không chỉ hình ảnh
thiên nhiên mà còn là biểu tượng của sự nhẹ nhàng, mong manh và tự do. Tuy nhiên, trong vẻ đẹp
của thiên nhiên và người đẹp, thoáng chốc lại hiện lên nét buồn hồ mênh mông, như một
bức tranh của tình yêu xa cách, những "bèo dạt mây trôi" của một tình cảm chia lìa.
"Mây vn tng không chim bay đi,
Khí tri u ut hn chia li"…
"Ít nhiu thiếu n bun không nói,
Ta ca nhìn xa, nghĩ ngi gì"
Trong thơ của Xuân Diệu, không thể phủ nhận sự xuất hiện đặc biệt và quan trọng của hình bóng
giai nhân. Bài thơ "Đây mùa thu tới" cũng không nằm ngoài quy luật y. Tại đây, tác giả không
chỉ mô tả mùa thu qua những cảm xúc và hình ảnh của thiên nhiên mà còn chú ý đặc biệt đến hình
bóng của giai nhân, tạo nên một góc nhìn mới sáng tạo vmùa thu. Trong bài thơ, giai nhân
được miêu tả như một hình ảnh tương mộng tưởng. Sự xuất hiện của giai nhân không chỉ
làm phong phú thêm không khí mùa thu mà còn làm nổi bật cảm xúc tương tư, huyền bí trong tâm
hồn người thơ. Giai nhân trong thơ Xuân Diệu thường được xem như biểu tượng của vẻ đẹp, tình
yêu và sự quý phái. Cách cảm nhận mùa thu của tác giả là sự kết hợp hài hòa giữa những nét đẹp
tự nhiên vẻ duyên dáng của giai nhân. Bằng cách này, ông đã làm cho bức tranh mùa thu trở
nên phong cách, sâu sắc hơn, và tạo ra một không khí đặc biệt mà độc giả không thể quên.
Mẫu 03. Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chọn lọc hay nhất
Mùa thu trong bài thơ "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu không phải là bức tranh thu truyền thống,
nó không tả vẻ đẹp yên bình, hòa mình trong sắc vàng của lá y. Ngược lại, tác giả quan sát
mùa thu thông qua những biến đổi độc đáo của thiên nhiên đất trời trong khoảnh khắc giao a
giữa hạ và thu. Nhà thơ không chỉ một người quan sát còn người cảm thu được tất cả
những sự thay đổi tinh tế phong phú của mùa thu. Điểm đặc biệt của bài thơ cách nhạy bén
tinh tế khi nhìn nhận hình ảnh rặng liễu, một hiện tượng mới và lạ mắt trong thơ Việt Nam. Nhà
thơ biến đổi hình ảnh rặng liễu thành một tượng trưng sâu sắc, liên tưởng đến hình ảnh thiếu nữ
trẻ trung, đẹp đẽ và chịu tang, tóc buông xõa và tràn lệ. Sự kết hợp giữa hiện thực và tưởng tượng
tạo nên một mùa thu mới, độc đáo, và đậm chất nghệ thuật. Bằng cách này, Xuân Diệu đã làm nổi
bật cái đẹp hồn của mùa thu, không chỉ một thời điểm trong năm còn một trạng thái
tinh thần, một cảm xúc sâu sắc phong phú. Mùa thu trong thơ ông không chỉ là sự chuyển đổi
của thời tiết mà còn là sự thay đổi của tâm trạng và linh hồn.
“Rng liu đìu hiu đứng chu tang
Tóc bun buông xung l ngàn hàng”
Xuân Diệu, nhà thơ tài năng và lãng mạn, thường xuyên sử dụng hình ảnh của giai nhân để thể
hiện vẻ đẹp và tình cảm trong thơ. Bài thơ "Đây mùa thu tới" không phải là ngoại lệ, và tác giả đã
vô cùng tinh tế khi chọn giai nhân như một điểm nhấn quan trọng trong bức tranh mùa thu. Hình
bóng của giai nhân không chỉ làm cho mùa thu trnên quyến và huyền hơn, còn mang
đến nét thanh xuân, tươi mới, nhẹ nhàng. Xuân Diệu sử dụng hình ảnh này như một thước đo
để diễn đạt vẻ đẹp của thiên nhiên. Bằng cách này, ông kết nối giữa vẻ đẹp tự nhiên và vẻ đẹp của
con người, tạo ra một sự tương phản đặc sắc.
Tuy nhiên, cảnh đẹp mùa thu của Xuân Diệu không chỉ sự hòa quyện của thiên nhiên và giai
nhân mà còn mang chút buồn bã, u sầu. Điều này thể hiện sự tinh tế của tác giả trong việc kết hợp
giữa vẻ đẹp nỗi buồn, làm cho bức tranh mùa thu trở nên phức tạp sâu sắc hơn. Tất cả tạo
nên một không khí ngọt ngào, nhưng cũng buồn bã và thâm trầm, làm cho độc giả cảm nhận được
đầy đủ mặt trái và mặt phải của mùa thu trong thơ của Xuân Diệu.
“Đây mùa thu ti - mùa thu ti
Vi áo phai dt vàng”
Những từ ngữ của Xuân Diệu đưa người đọc đến một hình ảnh mùa thu đặc biệt, không chỉ là sự
chuyển đổi của thời tiết mà còn sự tinh tế độc đáo trong mắt của nhà thơ. Điệp ngữ "đây a
thu tới - mùa thu tới" không chỉ đơn thuần miêu tả thời gian còn một cung bậc cảm xúc
sôi nổi, như tiếng reo thích thú trước vẻ đẹp của mùa thu. Hình ảnh "áo phai dệt vàng"
một biểu tượng tuyệt vời cho sự độc đáo của mùa thu. Màu sắc không chỉ là vàng truyền thống
còn chứa đựng ánh xanh, tạo nên một tông màu mới mẻ, phong cách sáng tạo. phai như
một lớp màng mỏng che phủ, điểm cho bức tranh thu một vẻ đẹp tinh tế quý phái. Sự soi
sáng của "áo mơ" không chỉ làm nổi bật cái đẹp của mùa thu còn làm tăng thêm sự linh hoạt
và thanh nhã. Xuân Diệu không chỉ miêu tả mùa thu mà còn tạo ra một không gian tâm lý, nơi mà
tình cảm và sự phát hiện đều tự nhiên như hơi thở của mùa thu đang lưu luyến.
“Hơn mt loài hoa đã rng cành
Trong n sc đỏ rũa màu xanh
Nhng lung run ry rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gy sương mng manh”
Nhà thơ Xuân Diệu không chỉ giới hạn mình trong việc diễn đạt về mùa thu còn đi sâu vào
quan sát chi tiết cảnh vật trong vườn thu, tạo nên một bức tranh tinh tế và đầy sắc màu về mùa thu.
Hình ảnh hoa rơi nhẹ xuống mặt đất mang theo vẻ đẹp thoáng đã qua, biểu tượng cho sự tàn úa và
rơi rụng của thời gian. y đã tàn úa, màu xanh của sự tươi mới dần chuyển sang màu đỏ,
biểu tượng của sự chết tróc sự thay đổi của thời gian. Sự tả về sự khô kiệt mỏng manh
của cành cây như là hình ảnh của sự mất mát, sự kết thúc, tăng cường thêm vào cảm giác lạnh lẽo
và tĩnh lặng của mùa thu.
Sự chú ý đặc biệt đến âm thanh của cành cây "run rẩy", "rung rinh" tạo ra một không khí lạnh lẽo
huyền bí. Sự lựa chọn cẩn thận của từ ngữ như "run" "rung" giúp thhiện chính xác hình
ảnh của y cỏ đang chịu tác động của gió mùa thu. Biện pháp láy phụ âm đầu như "r" thêm vào
sự ấn tượng của sự rung động, làm nổi bật hơn sự yếu đuối và giữa bối cảnh giàu cảm xúc của mùa
thu. Cảnh trăng cao, non xa, đò sâu được tả một cách mở rộng, mở rộng tầm nhìn của độc
giả ra khỏi vườn thu, tạo nên một không gian bao la biểu tượng cho sự vĩnh cửu sự chìm
đắm của tâm hồn trong không gian mùa thu.
“Thnh thong nàng trăng t ngn ngơ…
Non xa khi s nht ơng mờ…
Đã nghe rét t lun trong gió..
Đã vng người sang nhng chuyến đò..”
Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa để tạo ra một hình ảnh mùa thu phong cách và lôi cuốn.
Khi nhà thơ gọi trăng "nàng trăng," ông không chỉ nhìn nhận như một hiện thân của thiên
nhiên mà còn truyền tải một linh hồn, một tính cách con người. "Nàng trăng" giống như một phụ
nữ đang tựa vào cửa sổ, dành thời gian để suy nghĩ và ngâm ngấm vào vẻ đẹp và sự hiện hữu của
mình. Hình ảnh này không chỉ là một tượng trưng cho vẻ đẹp của trăng mà còn làm tăng thêm sự
quyến rũ và sâu sắc của mùa thu.
Việc miêu tả trăng cao, non xa và đò sâu làm cho không gian mùa thu trở nên bao la huyền
hơn. "Cao non xa" đưa độc giả vào một không gian tận, trong đó mùa thu trải rộng đưa chúng
ta vào một trạng thái tinh thần chìm đắm và cô đơn. Đồng thời, "đò sâu" mang lại cảm giác của sự
mê hoặc và khả năng khám phá, mở ra một thế giới nơi tâm hồn có thể lang thang và tìm kiếm.
“Non xa khi s nht sương m…”
Cụm từ "non xa" như một bức tranh sinh động mô tả y núi vươn lên trong khói sương, nhấp nhô
trùng điệp, tạo nên một cảnh đẹp hùng vĩ, tráng lệ, và đồng thời mang đến cho độc giả một cảm
giác thơ mộng. Từ "khởi sự" như một lời mở đầu cho câu chuyện của cảnh đẹp, làm nổi bật v
hùng của phong cảnh thiên nhiên. Tiếp theo, cụm từ "rét mướt" không chỉ một tả chân
thực về thời tiết mùa thu đông mà còn tạo nên một hình ảnh sống động về cảm giác lạnh lẽo, tinh
khôi của không khí mùa thu khi nó chạm vào những sợi gió. Sự giao thoa của ba mùa, hạ, thu,
đông, được tác giả mô tả qua từ ngữ tinh tế, tạo nên một bức tranh phong phú và sâu sắc vmùa
thu.
“Đã vng người sang nhng chuyến đò..”
Những chuyến đò vắng khách là biểu tượng cho sự đơn và chia li trong mùa thu của Xuân Diệu.
Hình ảnh những chuyến đò không người đi qua làm tăng thêm sự hưng phấn bình yên của
không gian thu. Tuy nhiên, việc nhắc đến việc "người đi chôn trong bóng trăng đâu?" tạo ra một
cảm giác lạc lõng và buồn bã. Có thể hiểu rằng người đã rời đi để lại một khoảnh khắc cô đơn
đau buồn, đặc biệt khi kết hợp với hình ảnh của trăng, một biểu tượng của tình cảm mộng.
Những người chia tay không chỉ là con người mà còn là cảnh vật, mùa thu và mùa chia tay. Cảnh
vật trở nên trống vắng khi mọi người mọi thứ đều chuẩn bị chia tay chìm đắm trong sự hoang
vắng. Điều y thể hiện sự nhạy cảm sâu sắc của Xuân Diệu trong việc diễn đạt cảm xúc
tâm trạng của mình về mùa thu.
“Mây vn tng không chim bay đi
Khí tri u ut hn chia li
Ít nhiu thiếu n bun không nói
Ta ca nhìn xa nghĩ ngi gì”
Màu sắc của sự chia ly lan tỏa từ cảnh vật xung quanh, như một điệu nhấn tinh tế của tâm trạng.
Loài chim di cư, nhạy bén cảm nhận sự lạnh giá của mùa đông đang đến, nên chúng vội hành
trình về phương Nam, tránh xa khỏi cái lạnh khắc nghiệt tại phương Bắc. Hành trình của chúng,
không chỉ là một hiện tượng tự nhiên mà còn trở thành biểu tượng cho sự chia li và di cư, thể hiện
sự biến đổi của thế giới tự nhiên. Bầu trời, thông qua tả về đám mây vần sự chao đảo,
nhuốm màu u uất và xám xịt, trở nên vẩn đục như tâm trạng của những người chia xa. Cảnh trời u
ám, không ràng như một hình ảnh của sự chia tay nỗi nhớ, đồng thời cũng làm nổi bật sự
buồn bã và lạc lõng trong không gian tâm lý.
“Ít nhiu thiếu n bun không nói
Ta ca nhìn xa nghĩ ngi gì”
Hình ảnh những thiếu nữ tươi trẻ tựa cửa với dáng đứng yểu điệu và ánh mắt xa xăm tạo nên một
bức tranh thu sâu lắng hồ. Xuân Diệu tận dụng hình ảnh của những gái để tạo nên một
không khí lãng mạn, nhưng đồng thời ánh mắt xa xăm của họ cũng làm tăng thêm lớp ẩn
buồn bã. Sự lựa chọn chi tiết tinh tế như vậy khiến bức tranh trở nên gợi cảm phức tạp, khơi
gợi nhiều cảm xúc đa dạng. "Bước chân nhẹ nghiêng vương hoàng hôn" là một hình ảnh tinh tế và
chấn động, tạo nên sự mềm mại thoáng đãng. Hình ảnh hoàng hôn thời điểm chuyển giao
giữa ban ngày và đêm, mang theo một chút buồn bã, hòa quyện với dáng đi của những thiếu nữ,
tạo nên một tuyệt tác nghệ thuật với sự kết hợp hài hòa giữa tự nhiên và con người.
Bức tranh của Xuân Diệu không chỉ đẹp về hình ảnh còn lồng ghép một lớp cảm xúc phong
phú, từ vui tươi của bước chân nhđến sự buồn của ánh mắt xa xăm. Mỗi chi tiết được chọn
lọc cẩn thận, hài hòa một cách tự nhiên, tạo nên một bức tranh thu sâu sắc và đầy nghệ thuật.
"Rng liu đìu hiu đứng chu tang,
Tóc bun buông xung l ngàn hàng".
"Say mê ngắm 'rặng liễu đìu hiu…', nhà thơ khẽ reo lên khi chợt nhận thấy thu đã đến. Cách ngắt
nhịp 4/3 với điệp ngữ 'mùa thu tới' đã diễn tbước đi của mùa thu niềm mong đợi thu về bấy
lâu nay trong lòng thi sĩ."
Nhà thơ Xuân Diệu chìm đắm trong sự say mê, ngắm nhìn cảnh đẹp của rặng liễu, và ý thức được
sự đổi thay của mùa thu. Cảm giác của ông được truyền đạt qua việc sử dụng điệp ngữ "mùa thu
tới", như một lời chào đón, một niềm hạnh phúc và mong đợi. Cách ngắt nhịp 4/3 không chỉ tạo ra
sự nhấn mạnh mà còn thể hiện sự tươi mới, sôi động của mùa thu đang bắt đầu. Điều này thể hiện
tâm trạng phấn khích và mong đợi mà mùa thu mang lại cho nhà thơ.
"Đây mùa thu ti/mùa thu ti
Vi áo phai/dt vàng".
Cặp vần "tới - với" và từ "dệt" tạo nên một hình ảnh rất tinh tế và phong cách trong bài thơ. Sự lựa
chọn cụm từ "dệt lá vàng" không chỉ diễn đạt về sự thay đổi của mùa thu mà còn như một dấu hiệu
của thời gian, như một nghệ nhân tài năng đang tạo ra một tác phẩm nghệ thuật. tả vsự
biến đổi của mùa thu được thể hiện một cách sâu sắc tinh tế. Hình ảnh cây "mơ phai" như
một bức tranh tĩnh lặng, đậm chất nghệ thuật, khiến cho người đọc có thể hình dung được mùa thu
đang khắc nên một câu chuyện đẹp mắt. Câu thơ "Với áo phai dệt vàng" không chỉ một
tả hình ảnh còn chứa đựng một cảm xúc sâu sắc về thời gian trôi qua sự biến đổi của
mọi thứ. Sự lựa chọn từ ngôn ngữ cẩn thận của tác giả đã làm cho bức tranh mùa thu trở nên sống
động và ý nghĩa.
"Sc đâu nhum quan hà
C vùng cây đỏ bóng dương"
Cây cối bắt đầu rụng lá trơ cành như đang "run rẩy", khẽ "rung rinh" trước những làn gió thu lành
lạnh, se sắt. Khổ thơ thứ hai, chất thơ ấy là sự lay động xôn xao từ cảnh vật, từ hoa lá hơi may
thấm vào hồn thi sĩ, như là một điệu nhảy mềm mại của tự nhiên, như một bản giao hưởng êm
dịu của mùa thu.
"Hơn mt loài hoa đã rng cành
Trong n sc đỏ rũa màu xanh.
Nhng lung run ry, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô gy xương mng manh".
Các từ láy: "run rẩy", "rung rinh”, "mỏng manh" là những nét vẽ thần diệu gợi tả cái run rẩy, cái
rùng mình của cây lá buổi chiều thu. Nghệ thuật sử dụng các phụ âm, “r" (rụng, rũa, run rẩy, rung
rinh) phụ âm "m" (một, màu, mỏng manh) với dụng ý thẩm trong gợi tả biểu cảm đặc
sắc. Đó cũng là một nét mới trong thi pháp của Xuân Diệu. Khổ thơ thứ 3, thi liệu vừa hiện thực
vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân sáng tạo. Cũng có trăng nhưng là "nàng trăng tự
ngẩn ngơ" trên bầu trời. Không nói là trăng non đầu tháng, không hỏi "Trăng bao nhiêu tuổi trăng
già" mà lại nói "nàng trăng". Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Cũng núi,
non, lúc ẩn lúc hiện, "khởi sự" nhô lên cuối chân trời xa, qua lớp sương thu mờ. Trăng núi trong
thơ Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê hương, gần gũi thân thuộc từ
bao đời nay được vẽ lên thật đẹp:
"Thnh thoang nàng trăng t ngn ngơ
Non xa khi s nht ơng mờ… "
Hai tiếng "đã nghe", "đã vắng" gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của những buổi chiều thu
lành lạnh. Sự lặng lẽ, huyền bí của tiếng đã nghe và sự hiện diện nhưng cũng như là mất mát của
"đã vắng" được diễn đạt một cách tinh tế. Tiếng thu bên tai không chỉ là âm thanh mà còn là một
bức tranh nh lặng với những khoảnh khắc đong đầy cảm xúc. Tiếp theo câu thơ thứ 4, ngôn
ngữ tĩnh lặng, thơ mộng khi tả "hương cỏ lau". Hương thơm nhẹ nhàng của cỏ lau tưởng chừng
như đang đưa đẩy độc giả vào không gian thu bình yên, giữa bản dạng trời rộng lớn và thảnh thơi.
Bức tranh thu bắt đầu hiện lên từ hương cỏ lau mềm mại, tạo nên một c phẩm hình ảnh thuần
khiết, gần gũi với tự nhiên.
"Đã nghe rét t lun trong gió,
Đã vng người sang nhng chuyến đò”
Cấu trúc câu thơ tinh tế sự diễn đạt độc đáo đã làm cho bài thơ trở nên mới mẻ ấn tượng.
Chuyển đổi cảm giác giữa xúc giác và thính gc giúp tạo nên một trải nghiệm đa chiều, làm phong
phú thêm sự hiểu biết về sự đa dạng và phong phú của mùa thu. Chữ "luồn" đã thêm sự cụ thể và
hình ảnh cho cảm nhận về cái rét. Rét mướt không chỉ là cảm giác lạnh lẽo còn một trạng
thái linh hồn, nơi thi nhân thể đắm chìm trong sự trải nghiệm của mùa thu. Việc tả rét
mướt "luồn trong gió thu hiu hắt" với hình ảnh của gió thu làm tăng thêm sự sống động sinh
động cho bức tranh, tạo nên một khung cảnh thuận buồm cho tâm hồn của người đọc.
Chữ "động" trong việc tả cánh chim bay áng y chiều trôi tạo nên một bức tranh sống
động yên bình. Cảnh đẹp của thiên nhiên, mây trời cánh chim tạo ra một không gian bình
yên, thể hiện sự hài a giữa con người tự nhiên. Sự đẹp của thiên nhiên, đám y, cánh
chim kết hợp với nỗi buồn mơ hồ làm cho bức tranh trở nên phức tạp, đầy ý nghĩa và sâu sắc. Thi
đã thành công trong việc kết hợp cảm giác của thiên nhiên xúc cảm của con người, tạo nên
một tác phẩm thơ vừa sôi động, vừa tĩnh lặng, làm cho người đọc cảm nhận được sự hòa mình vào
vẻ đẹp của mùa thu và tâm hồn của nhân vật trong bài thơ.
| 1/11

Preview text:

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chọn lọc hay nhất
Kính mời quý bạn đọc tham khảo một số bài văn trình bày Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới
của Xuân Diệu chọn lọc hay nhất

Mục lục bài viết
 Mẫu 01. Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chọn lọc hay nhất
 Mẫu 02. Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chọn lọc hay nhất
 Mẫu 03. Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chọn lọc hay nhất
Mẫu 01. Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chọn lọc hay nhất
Mùa thu, với vẻ đẹp và sự trữ tình đặc trưng, luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho những thi nhân,
làm cho tâm hồn họ hòa mình vào không gian thơ mộng. Nguyễn Khuyến, trong bài thơ "Thu ẩm,"
tạo nên một bức tranh thu tĩnh lặng, hòa mình vào không khí yên bình của thôn quê. Lưu Trọng
Lư, qua "Tiếng thu," mang lại cảm nhận tinh tế về một trời thu sống động, đầy ắp âm thanh của
mùa lá rụng. Còn Xuân Diệu, với "Đây mùa thu tới," đưa người đọc đến với một mùa thu mới bắt
đầu, nét đẹp đặc sắc và diệu kỳ mà ông nhìn nhận. Ngay từ tiêu đề "Đây mùa thu tới," độc giả đã
cảm nhận được sự chấp nhận của tác giả đối với bức tranh mùa thu mới bắt đầu. Xuân Diệu không
tập trung vào giữa mùa hay cuối mùa thu, mà là khoảnh khắc đất trời vừa chia tay mùa hè và bắt
đầu hòa mình trong mùa thu mới. Từ đó, ông khám phá ra những diễn biến độc đáo của thiên nhiên
và đưa chúng vào tác phẩm của mình.
Điều đặc biệt là cách Xuân Diệu nắm bắt sự chuyển đổi của đất trời. Ông không chỉ đơn thuần mô
tả mùa thu qua hình ảnh lá rụng, mà còn lồng ghép sự kỳ diệu và phức tạp của sự sống. Từ những
thay đổi nhỏ nhưng đầy ý nghĩa này, tác giả làm cho mùa thu trở nên huyền bí và phong cách hơn,
khơi gợi sự tò mò và sự ngạc nhiên của độc giả.
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”.
Bài thơ của Xuân Diệu mở đầu bằng hình ảnh buồn bã của rặng liễu rũ. Thông qua từ ngữ tình
cảm và tưởng tượng phong phú, nhà thơ tạo ra một bức tranh mùa thu đậm chất u sầu. Rặng liễu
không còn hình ảnh êm đềm, mà thay vào đó, chúng được nhìn nhận như những giọt lệ buồn rơi
xuống, tưởng chừng như đang kể lể về một cảm xúc bi thương, mất mát, hay một sự chia lìa đau
đớn. Từ việc biểu hiện tâm trạng của rặng liễu, Xuân Diệu giữ nguyên tinh thần của mùa thu và
chuyển đổi nó thành một thế giới của những cảm xúc đắng cay và uất ức. Ông làm cho mùa thu
trở nên linh động, như một hình ảnh phản ánh của con người, với khả năng cảm nhận, buồn bã, và
khóc lóc. Tiếp theo, nhà thơ thông báo sự đến của mùa thu một cách mờ nhạt, với lá vàng mờ nhạt
và không khí chung quanh trở nên ảm đạm. Các từ ngữ và hình ảnh này không chỉ mô tả cảnh sắc
mùa thu mà còn làm nổi bật tâm trạng bi lụy và đau buồn mà nhà thơ đang trải qua. Trong khổ thơ
thứ hai, nhà thơ tiếp tục sử dụng những từ ngữ nhân hóa để tạo hình mùa thu như một người có
tâm trạng, có khả năng khóc, và có khả năng dệt lá. Điều này tạo nên một hiện thực khác biệt,
khiến mùa thu không chỉ là một phần của tự nhiên mà còn là một người bạn, một người đồng cảm
với những tâm trạng của con người.
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
Khổ thơ mở đầu của tác phẩm đầy màu sắc và nét chấm phá, như là những nét vẽ tinh tế trên bức
tranh thu, đậm chất biểu cảm về sự khô héo và u sầu. Tác giả sử dụng màu sắc để nền tảng cho
tâm trạng thất vọng và chán chường của con người, đồng thời làm tôn lên vẻ buồn bã của mùa thu.
Nét chấm phá, như những điểm xé bỏ trên bức tranh, thể hiện sự nát bại, xơ xác của mùa thu và
tâm trạng u tối của nhân vật chính. Những dòng thơ dưới bàn tay tài năng của nhà thơ, tạo nên
hình ảnh thu đầy buồn thương, với những đảo ngữ tinh tế, làm nổi bật sự biến đổi của mùa thu và
tôn lên nét u ám, đau thương của tâm hồn con người.
Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả sử dụng hình ảnh "nàng trăng" để tạo ra một vẻ đẹp huyền bí và đồng
thời thể hiện sự tiếc nuối, ngẩn ngơ trước sự thay đổi của thời gian và vũ trụ. Từ "nàng trăng"
không chỉ là một biểu tượng của trăng mà còn là hình ảnh của một cô gái ngây thơ, mơ mộng,
đứng đối diện với sự biến đổi đau thương của thế giới xung quanh. Như vậy, cả hai khổ thơ đã
cùng nhau tạo nên một bức tranh mùa thu đẹp mắt và đầy tư duy, nơi tâm trạng con người hòa
mình vào sự biến đổi của thiên nhiên và vũ trụ, thể hiện sự nhạy bén và tài năng sáng tác của nhà thơ.
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…”
Không chỉ trăng ngẩn ngơ, mà núi non cũng trở nên mờ nhạt, như một bức tranh mùa thu với sắc
màu u tối và ảm đạm. Sự hiu quạnh, mờ ảo lan tỏa khắp vạn vật, tạo nên một không khí buồn bã
và lạnh lẽo khi mùa thu bắt đầu. Cơn gió lạnh đầu mùa, gió thu, như những bàn tay lạnh giá, len
lỏi vào từng khoảng trống của đất trời và tâm hồn con người, làm cho cảnh vật và tâm trạng trở
nên buốt giá và cô đơn. Nhà thơ sử dụng từ ngữ sống động để miêu tả cảnh vật và tâm trạng trong
mùa thu. Chuyến đò hàng ngày, một hình ảnh quen thuộc, giờ trở nên vắng vẻ, chẳng còn ai qua
sông. Điều này không chỉ là một hiện thực về cuộc sống hàng ngày mà còn là biểu tượng cho sự
khô cằn và lạnh lẽo trong tâm hồn con người khi mùa thu đến. Từ "đã" như một phủ định, đánh
dấu sự chắc chắn và thực tế của mùa thu, không còn là sự chờ đợi mà đã trở nên hiện hữu và đậm
chất u uất. Tác giả thông qua bài thơ "Đây mùa thu tới" của mình đã tạo nên một bức tranh mùa
thu đặc sắc, với một tâm trạng đầy nỗi buồn và đau khổ. Mùa thu không chỉ là thời điểm của sự
khép kín và u ám mà còn là thời điểm của niềm đau và hoài niệm về những thời kỳ khó khăn trong lịch sử đất nước.
“Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.
Nhà thơ Xuân Diệu trong "Đây mùa thu tới" đã thành công trong việc kết hợp tâm trạng cá nhân
với hình ảnh của mùa thu, tạo nên một bức tranh cảm xúc độc đáo và sâu sắc. Dưới bàn tay tài
năng của ông, mùa thu không chỉ là một khung cảnh tự nhiên mà còn là bản năng cảm xúc, tương
tác với tâm hồn thi sĩ. Tâm trạng buồn rầu của tác giả được chuyển tải mạnh mẽ qua mô tả mùa
thu. Những hình ảnh về rặng liễu rũ như giọt lệ, lá vàng mờ nhạt đều làm nổi bật sự u buồn, chất
chứa nỗi đau lòng trong tâm trạng của nhà thơ. Sự nhạt nhòa và ảm đạm của mùa thu trở nên phản
ánh cho tâm hồn uất hận và bi thương của người sáng tác.
Trong khổ thơ cuối, một loạt hình ảnh về sự chia lìa và tử biệt xuất hiện, nhấn mạnh sự đau thương
và tuyệt vọng trong cuộc sống. Hình ảnh người thiếu nữ buồn không nói, nhìn xa xăm tạo ra một
không gian cảm xúc u tối, nơi nỗi đau vô hình trở nên rõ ràng. "Tự cửa" như một biểu tượng của
sự mất mát và sự không biết bấu víu vào điều gì, đồng thời thể hiện tâm tư mơ hồ và mơ mộng của
nhà thơ. Bài thơ sử dụng ngôn ngữ phong phú, những từ ngữ nhân hóa, và cấu trúc câu thơ đặc
sắc, tất cả kết hợp để tạo nên một bức tranh mùa thu không chỉ đẹp về hình ảnh mà còn sâu sắc về
tâm trạng và cảm xúc. Sự linh hoạt trong thể thơ tự do càng làm cho bức tranh thu trở nên tự nhiên
và chân thực, chạm đến trái tim của người đọc.
Mẫu 02. Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chọn lọc hay nhất
Xuân Diệu, một ông hoàng của thơ tình yêu, không chỉ là người mang đến những tình cảm đẹp đẽ,
lãng mạn trong thơ ca, mà còn đem đến những góc nhìn mới, sáng tạo về cuộc sống và tình yêu.
Ông được biết đến là thi sĩ của mùa thu, nơi mà tâm hồn của ông bộc lộ qua những cảm xúc lãng
mạn và xao xuyến. Bài thơ "Đây mùa thu tới" là một minh chứng tiêu biểu cho sự tài năng và sáng
tạo của Xuân Diệu. Bài thơ này được Xuân Diệu sáng tác và xuất bản vào năm 1938, trong tập
"Thơ Thơ". Trong đó, ông mô tả mùa thu không chỉ là hình ảnh của lá rụng và gió hắt hiu, mà còn
là biểu tượng của sự đau khổ, bi ai. Tác phẩm rơi vào đề tài của một tâm hồn nhạy cảm, nhận biết
được những biến đổi nhỏ nhất của thiên nhiên và cảm nhận sâu sắc những cảm xúc mùa thu mang
lại. Hình ảnh mùa thu trong bài thơ không chỉ là những chiếc lá rơi, mà còn là những cành liễu,
tượng trưng cho sự tang thương và bi ai. Mùa thu trong thơ của Xuân Diệu không chỉ là sự kết
thúc của mùa hè, mà còn là một kỳ nghỉ trầm lặng của tâm hồn, là lúc để nhìn lại và cảm nhận sâu hơn về cuộc sống.
"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng".
Không gian mở ra với vẻ "đìu hiu," buồn bã, và trống vắng. Rặng liễu mênh mông như một dải
tang thương, lá liễu trải dài như mái tóc dài của cô phụ buồn bã, lửng lơ. Xuân Diệu sử dụng hình
ảnh của sương thu, ướt đẫm trên những nhánh liễu như một phương tiện để truyền đạt tâm trạng
sâu sắc. Các cành liễu mô phỏng như những cô gái già trải qua gian khổ, mặc dù diện mạo dịu
dàng nhưng đôi mắt chứa đựng nỗi buồn đẫm lệ. Phương tiện láy âm được tận dụng linh hoạt, tạo
ra những vần thơ độc đáo với âm điệu đầy phức tạp: "đìu hiu - chịu," "tang - ngàn - hàng," "buồn
- buông - xuống." Điều này thêm vào những đặc điểm độc đáo của thơ của Xuân Diệu trong những
năm đầu thế kỉ 20. Trong khi nhìn ngắm rặng liễu, bất chợt tác giả phát hiện màu thu đã đến, và
sử dụng cách ngắt nhịp 4/3 cùng với điệp ngữ "mùa thu tới," đã thể hiện bước chuyển động của
mùa thu và sự mong đợi đã dậy lên từ tận sâu trong trái tim thi sĩ.
"Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng".
Cách ghép vần tài tình như một đường cong tình cảm: "tới - với," và từ "dệt" tinh tế như một bàn
tay nghệ nhân đan xen giữa mô tả và trải nghiệm. Mùa thu không chỉ là sự đổi màu của lá cây, mà
còn là một bức tranh được "dệt" tỉ mỉ, mang đến vẻ đẹp không phải là sự tình cờ, mà là kết quả
của sự sáng tạo. "Với áo mơ phai dệt lá vàng" không chỉ là một dòng thơ, mà là một cảm nhận sâu
sắc về tâm hồn thu, với sắc màu lá cây được tô điểm bởi bức tranh thanh nhẹ, tươi sáng của mùa
thu thân thương. Mặc dù, mùa thu đẹp đẽ ấy lại mở đầu bằng một nỗi buồn nặng trên tâm trí. Khi
mùa thu về, cảnh đẹp thay đổi, màu sắc trở nên rực rỡ. Mùa thu đã đến và rồi qua đi, thời gian trôi
nhanh chóng không thể tin nổi. Cảnh đẹp thay đổi từng khoảnh khắc, hoa rơi như những bông
tuyết đỏ lấm chấm những đám lá xanh, cây cỏ bắt đầu rụng lá một cách nhẹ nhàng như đang "run
rẩy," khẽ "rung rinh" dưới làn gió thu dịu dàng, se lạnh, hòa mình vào không khí thu quyến rũ.
"Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
Những luồng run rẩy, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh".
Xuân Diệu, một ông hoàng của thơ tình yêu, không chỉ là người mang đến những tình cảm đẹp đẽ,
lãng mạn trong thơ ca, mà còn đem đến những góc nhìn mới, sáng tạo về cuộc sống và tình yêu.
Ông được biết đến là thi sĩ của mùa thu, nơi mà tâm hồn của ông bộc lộ qua những cảm xúc lãng
mạn và xao xuyến. Bài thơ "Đây mùa thu tới" là một minh chứng tiêu biểu cho sự tài năng và sáng
tạo của Xuân Diệu. Bài thơ này được Xuân Diệu sáng tác và xuất bản vào năm 1938. Trong đó,
ông mô tả mùa thu không chỉ là hình ảnh của lá rụng và gió hắt hiu, mà còn là biểu tượng của sự
đau khổ, bi ai. Tác phẩm rơi vào đề tài của một tâm hồn nhạy cảm, nhận biết được những biến đổi
nhỏ nhất của thiên nhiên và cảm nhận sâu sắc những cảm xúc mùa thu mang lại.
Hình ảnh mùa thu trong bài thơ không chỉ là những chiếc lá rơi, mà còn là những cành liễu, tượng
trưng cho sự tang thương và bi ai. Mùa thu trong thơ của Xuân Diệu không chỉ là sự kết thúc của
mùa hè, mà còn là một kỳ nghỉ trầm lặng của tâm hồn, là lúc để nhìn lại và cảm nhận sâu hơn về cuộc sống.
"Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ… "
"Đã nghe rét mướt luồn trong gió,
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Hai từ "đã nghe" và "đã vắng" như là những tiếng chuông, mở ra một không gian bao la và trống
trải của những buổi chiều thu, nơi không khí se se lạnh tận cùng. Sự chuyển đổi giữa xúc giác và
thính giác tạo nên một cảm giác đa chiều, khiến cho độc giả không chỉ nhận biết qua giác quan mà
còn đắm chìm trong trạng thái tinh tế của tâm hồn. Thi nhân cảm nhận sự lạnh lẽo của rét, cảm
nhận gió thoảng qua, và cảm nhận sự xa vắng không chỉ qua giác quan mà còn qua linh hồn, như
chính tác giả đang đứng giữa làn gió thu, se lạnh, và từng giọt lạnh leo qua da.
Khổ thơ cuối cùng là một tuyệt tác về hình ảnh thiên nhiên, từ cảnh đẹp của bầu trời, đám mây,
cánh chim cho đến vẻ đẹp của một người phụ nữ. Mây trời và cánh chim không chỉ là hình ảnh
thiên nhiên mà còn là biểu tượng của sự nhẹ nhàng, mong manh và tự do. Tuy nhiên, trong vẻ đẹp
của thiên nhiên và người đẹp, thoáng chốc lại hiện lên nét buồn mơ hồ và mênh mông, như một
bức tranh của tình yêu xa cách, những "bèo dạt mây trôi" của một tình cảm chia lìa.
"Mây vẩn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia li"…
"Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì"
Trong thơ của Xuân Diệu, không thể phủ nhận sự xuất hiện đặc biệt và quan trọng của hình bóng
giai nhân. Bài thơ "Đây mùa thu tới" cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Tại đây, tác giả không
chỉ mô tả mùa thu qua những cảm xúc và hình ảnh của thiên nhiên mà còn chú ý đặc biệt đến hình
bóng của giai nhân, tạo nên một góc nhìn mới và sáng tạo về mùa thu. Trong bài thơ, giai nhân
được miêu tả như một hình ảnh tương tư và mộng tưởng. Sự xuất hiện của giai nhân không chỉ
làm phong phú thêm không khí mùa thu mà còn làm nổi bật cảm xúc tương tư, huyền bí trong tâm
hồn người thơ. Giai nhân trong thơ Xuân Diệu thường được xem như biểu tượng của vẻ đẹp, tình
yêu và sự quý phái. Cách cảm nhận mùa thu của tác giả là sự kết hợp hài hòa giữa những nét đẹp
tự nhiên và vẻ duyên dáng của giai nhân. Bằng cách này, ông đã làm cho bức tranh mùa thu trở
nên phong cách, sâu sắc hơn, và tạo ra một không khí đặc biệt mà độc giả không thể quên.
Mẫu 03. Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chọn lọc hay nhất
Mùa thu trong bài thơ "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu không phải là bức tranh thu truyền thống,
nó không mô tả vẻ đẹp yên bình, hòa mình trong sắc vàng của lá cây. Ngược lại, tác giả quan sát
mùa thu thông qua những biến đổi độc đáo của thiên nhiên đất trời trong khoảnh khắc giao mùa
giữa hạ và thu. Nhà thơ không chỉ là một người quan sát mà còn là người cảm thu được tất cả
những sự thay đổi tinh tế và phong phú của mùa thu. Điểm đặc biệt của bài thơ là cách nhạy bén
và tinh tế khi nhìn nhận hình ảnh rặng liễu, một hiện tượng mới và lạ mắt trong thơ Việt Nam. Nhà
thơ biến đổi hình ảnh rặng liễu thành một tượng trưng sâu sắc, liên tưởng đến hình ảnh thiếu nữ
trẻ trung, đẹp đẽ và chịu tang, tóc buông xõa và tràn lệ. Sự kết hợp giữa hiện thực và tưởng tượng
tạo nên một mùa thu mới, độc đáo, và đậm chất nghệ thuật. Bằng cách này, Xuân Diệu đã làm nổi
bật cái đẹp và hồn của mùa thu, không chỉ là một thời điểm trong năm mà còn là một trạng thái
tinh thần, một cảm xúc sâu sắc và phong phú. Mùa thu trong thơ ông không chỉ là sự chuyển đổi
của thời tiết mà còn là sự thay đổi của tâm trạng và linh hồn.
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
Xuân Diệu, nhà thơ tài năng và lãng mạn, thường xuyên sử dụng hình ảnh của giai nhân để thể
hiện vẻ đẹp và tình cảm trong thơ. Bài thơ "Đây mùa thu tới" không phải là ngoại lệ, và tác giả đã
vô cùng tinh tế khi chọn giai nhân như một điểm nhấn quan trọng trong bức tranh mùa thu. Hình
bóng của giai nhân không chỉ làm cho mùa thu trở nên quyến rũ và huyền bí hơn, mà còn mang
đến nét thanh xuân, tươi mới, và nhẹ nhàng. Xuân Diệu sử dụng hình ảnh này như một thước đo
để diễn đạt vẻ đẹp của thiên nhiên. Bằng cách này, ông kết nối giữa vẻ đẹp tự nhiên và vẻ đẹp của
con người, tạo ra một sự tương phản đặc sắc.
Tuy nhiên, cảnh đẹp mùa thu của Xuân Diệu không chỉ là sự hòa quyện của thiên nhiên và giai
nhân mà còn mang chút buồn bã, u sầu. Điều này thể hiện sự tinh tế của tác giả trong việc kết hợp
giữa vẻ đẹp và nỗi buồn, làm cho bức tranh mùa thu trở nên phức tạp và sâu sắc hơn. Tất cả tạo
nên một không khí ngọt ngào, nhưng cũng buồn bã và thâm trầm, làm cho độc giả cảm nhận được
đầy đủ mặt trái và mặt phải của mùa thu trong thơ của Xuân Diệu.
“Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Những từ ngữ của Xuân Diệu đưa người đọc đến một hình ảnh mùa thu đặc biệt, không chỉ là sự
chuyển đổi của thời tiết mà còn là sự tinh tế và độc đáo trong mắt của nhà thơ. Điệp ngữ "đây mùa
thu tới - mùa thu tới" không chỉ đơn thuần là miêu tả thời gian mà còn là một cung bậc cảm xúc
sôi nổi, như tiếng reo thích thú trước vẻ đẹp của mùa thu. Hình ảnh "áo mơ phai dệt lá vàng" là
một biểu tượng tuyệt vời cho sự độc đáo của mùa thu. Màu sắc không chỉ là vàng truyền thống mà
còn chứa đựng ánh xanh, tạo nên một tông màu mới mẻ, phong cách và sáng tạo. Mơ phai như
một lớp màng mỏng che phủ, tô điểm cho bức tranh thu một vẻ đẹp tinh tế và quý phái. Sự soi
sáng của "áo mơ" không chỉ làm nổi bật cái đẹp của mùa thu mà còn làm tăng thêm sự linh hoạt
và thanh nhã. Xuân Diệu không chỉ miêu tả mùa thu mà còn tạo ra một không gian tâm lý, nơi mà
tình cảm và sự phát hiện đều tự nhiên như hơi thở của mùa thu đang lưu luyến.
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh”
Nhà thơ Xuân Diệu không chỉ giới hạn mình trong việc diễn đạt về mùa thu mà còn đi sâu vào
quan sát chi tiết cảnh vật trong vườn thu, tạo nên một bức tranh tinh tế và đầy sắc màu về mùa thu.
Hình ảnh hoa rơi nhẹ xuống mặt đất mang theo vẻ đẹp thoáng đã qua, biểu tượng cho sự tàn úa và
rơi rụng của thời gian. Lá cây đã tàn úa, màu xanh của sự tươi mới dần chuyển sang màu đỏ, là
biểu tượng của sự chết tróc và sự thay đổi của thời gian. Sự mô tả về sự khô kiệt và mỏng manh
của cành cây như là hình ảnh của sự mất mát, sự kết thúc, tăng cường thêm vào cảm giác lạnh lẽo
và tĩnh lặng của mùa thu.
Sự chú ý đặc biệt đến âm thanh của cành cây "run rẩy", "rung rinh" tạo ra một không khí lạnh lẽo
và huyền bí. Sự lựa chọn cẩn thận của từ ngữ như "run" và "rung" giúp thể hiện chính xác hình
ảnh của cây cỏ đang chịu tác động của gió mùa thu. Biện pháp láy phụ âm đầu như "r" thêm vào
sự ấn tượng của sự rung động, làm nổi bật hơn sự yếu đuối và giữa bối cảnh giàu cảm xúc của mùa
thu. Cảnh trăng cao, non xa, và đò sâu được mô tả một cách mở rộng, mở rộng tầm nhìn của độc
giả ra khỏi vườn thu, tạo nên một không gian bao la và biểu tượng cho sự vĩnh cửu và sự chìm
đắm của tâm hồn trong không gian mùa thu.
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió..
Đã vắng người sang những chuyến đò..”
Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa để tạo ra một hình ảnh mùa thu phong cách và lôi cuốn.
Khi nhà thơ gọi trăng là "nàng trăng," ông không chỉ nhìn nhận nó như một hiện thân của thiên
nhiên mà còn truyền tải một linh hồn, một tính cách con người. "Nàng trăng" giống như một phụ
nữ đang tựa vào cửa sổ, dành thời gian để suy nghĩ và ngâm ngấm vào vẻ đẹp và sự hiện hữu của
mình. Hình ảnh này không chỉ là một tượng trưng cho vẻ đẹp của trăng mà còn làm tăng thêm sự
quyến rũ và sâu sắc của mùa thu.
Việc miêu tả trăng cao, non xa và đò sâu làm cho không gian mùa thu trở nên bao la và huyền bí
hơn. "Cao non xa" đưa độc giả vào một không gian vô tận, trong đó mùa thu trải rộng và đưa chúng
ta vào một trạng thái tinh thần chìm đắm và cô đơn. Đồng thời, "đò sâu" mang lại cảm giác của sự
mê hoặc và khả năng khám phá, mở ra một thế giới nơi tâm hồn có thể lang thang và tìm kiếm.
“Non xa khởi sự nhạt sương mờ…”
Cụm từ "non xa" như một bức tranh sinh động mô tả dãy núi vươn lên trong khói sương, nhấp nhô
và trùng điệp, tạo nên một cảnh đẹp hùng vĩ, tráng lệ, và đồng thời mang đến cho độc giả một cảm
giác thơ mộng. Từ "khởi sự" như một lời mở đầu cho câu chuyện của cảnh đẹp, làm nổi bật vẻ
hùng vĩ của phong cảnh thiên nhiên. Tiếp theo, cụm từ "rét mướt" không chỉ là một mô tả chân
thực về thời tiết mùa thu đông mà còn tạo nên một hình ảnh sống động về cảm giác lạnh lẽo, tinh
khôi của không khí mùa thu khi nó chạm vào những sợi gió. Sự giao thoa của ba mùa, hạ, thu, và
đông, được tác giả mô tả qua từ ngữ tinh tế, tạo nên một bức tranh phong phú và sâu sắc về mùa thu.
“Đã vắng người sang những chuyến đò..”
Những chuyến đò vắng khách là biểu tượng cho sự cô đơn và chia li trong mùa thu của Xuân Diệu.
Hình ảnh những chuyến đò không có người đi qua làm tăng thêm sự hưng phấn và bình yên của
không gian thu. Tuy nhiên, việc nhắc đến việc "người đi chôn trong bóng trăng đâu?" tạo ra một
cảm giác lạc lõng và buồn bã. Có thể hiểu rằng người đã rời đi để lại một khoảnh khắc cô đơn và
đau buồn, đặc biệt là khi kết hợp với hình ảnh của trăng, một biểu tượng của tình cảm và mơ mộng.
Những người chia tay không chỉ là con người mà còn là cảnh vật, mùa thu và mùa chia tay. Cảnh
vật trở nên trống vắng khi mọi người và mọi thứ đều chuẩn bị chia tay và chìm đắm trong sự hoang
vắng. Điều này thể hiện sự nhạy cảm và sâu sắc của Xuân Diệu trong việc diễn đạt cảm xúc và
tâm trạng của mình về mùa thu.
“Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
Màu sắc của sự chia ly lan tỏa từ cảnh vật xung quanh, như một điệu nhấn tinh tế của tâm trạng.
Loài chim di cư, nhạy bén cảm nhận sự lạnh giá của mùa đông đang đến, nên chúng vội vã hành
trình về phương Nam, tránh xa khỏi cái lạnh khắc nghiệt tại phương Bắc. Hành trình của chúng,
không chỉ là một hiện tượng tự nhiên mà còn trở thành biểu tượng cho sự chia li và di cư, thể hiện
sự biến đổi của thế giới tự nhiên. Bầu trời, thông qua mô tả về đám mây vần vũ và sự chao đảo,
nhuốm màu u uất và xám xịt, trở nên vẩn đục như tâm trạng của những người chia xa. Cảnh trời u
ám, không rõ ràng như một hình ảnh của sự chia tay và nỗi nhớ, đồng thời cũng làm nổi bật sự
buồn bã và lạc lõng trong không gian tâm lý.
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
Hình ảnh những thiếu nữ tươi trẻ tựa cửa với dáng đứng yểu điệu và ánh mắt xa xăm tạo nên một
bức tranh thu sâu lắng và mơ hồ. Xuân Diệu tận dụng hình ảnh của những cô gái để tạo nên một
không khí lãng mạn, nhưng đồng thời ánh mắt xa xăm của họ cũng làm tăng thêm lớp bí ẩn và
buồn bã. Sự lựa chọn chi tiết tinh tế như vậy khiến bức tranh trở nên gợi cảm và phức tạp, khơi
gợi nhiều cảm xúc đa dạng. "Bước chân nhẹ nghiêng vương hoàng hôn" là một hình ảnh tinh tế và
chấn động, tạo nên sự mềm mại và thoáng đãng. Hình ảnh hoàng hôn là thời điểm chuyển giao
giữa ban ngày và đêm, mang theo một chút buồn bã, hòa quyện với dáng đi của những thiếu nữ,
tạo nên một tuyệt tác nghệ thuật với sự kết hợp hài hòa giữa tự nhiên và con người.
Bức tranh của Xuân Diệu không chỉ đẹp về hình ảnh mà còn lồng ghép một lớp cảm xúc phong
phú, từ vui tươi của bước chân nhẹ đến sự buồn bã của ánh mắt xa xăm. Mỗi chi tiết được chọn
lọc cẩn thận, hài hòa một cách tự nhiên, tạo nên một bức tranh thu sâu sắc và đầy nghệ thuật.
"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng".
"Say mê ngắm 'rặng liễu đìu hiu…', nhà thơ khẽ reo lên khi chợt nhận thấy thu đã đến. Cách ngắt
nhịp 4/3 với điệp ngữ 'mùa thu tới' đã diễn tả bước đi của mùa thu và niềm mong đợi thu về bấy
lâu nay trong lòng thi sĩ."
Nhà thơ Xuân Diệu chìm đắm trong sự say mê, ngắm nhìn cảnh đẹp của rặng liễu, và ý thức được
sự đổi thay của mùa thu. Cảm giác của ông được truyền đạt qua việc sử dụng điệp ngữ "mùa thu
tới", như một lời chào đón, một niềm hạnh phúc và mong đợi. Cách ngắt nhịp 4/3 không chỉ tạo ra
sự nhấn mạnh mà còn thể hiện sự tươi mới, sôi động của mùa thu đang bắt đầu. Điều này thể hiện
tâm trạng phấn khích và mong đợi mà mùa thu mang lại cho nhà thơ.
"Đây mùa thu tới/mùa thu tới
Với áo mơ phai/dệt lá vàng".
Cặp vần "tới - với" và từ "dệt" tạo nên một hình ảnh rất tinh tế và phong cách trong bài thơ. Sự lựa
chọn cụm từ "dệt lá vàng" không chỉ diễn đạt về sự thay đổi của mùa thu mà còn như một dấu hiệu
của thời gian, như là một nghệ nhân tài năng đang tạo ra một tác phẩm nghệ thuật. Mô tả về sự
biến đổi của mùa thu được thể hiện một cách sâu sắc và tinh tế. Hình ảnh lá cây "mơ phai" như
một bức tranh tĩnh lặng, đậm chất nghệ thuật, khiến cho người đọc có thể hình dung được mùa thu
đang khắc nên một câu chuyện đẹp mắt. Câu thơ "Với áo mơ phai dệt lá vàng" không chỉ là một
mô tả hình ảnh mà còn chứa đựng một cảm xúc sâu sắc về thời gian trôi qua và sự biến đổi của
mọi thứ. Sự lựa chọn từ ngôn ngữ cẩn thận của tác giả đã làm cho bức tranh mùa thu trở nên sống động và ý nghĩa.
"Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vùng cây đỏ bóng tà tà dương"
Cây cối bắt đầu rụng lá trơ cành như đang "run rẩy", khẽ "rung rinh" trước những làn gió thu lành
lạnh, se sắt. Khổ thơ thứ hai, chất thơ ấy là sự lay động xôn xao từ cảnh vật, từ hoa lá hơi may mà
thấm vào hồn thi sĩ, như là một điệu nhảy mềm mại của tự nhiên, như là một bản giao hưởng êm dịu của mùa thu.
"Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
Những luồng run rẩy, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh".
Các từ láy: "run rẩy", "rung rinh”, "mỏng manh" là những nét vẽ thần diệu gợi tả cái run rẩy, cái
rùng mình của cây lá buổi chiều thu. Nghệ thuật sử dụng các phụ âm, “r" (rụng, rũa, run rẩy, rung
rinh) và phụ âm "m" (một, màu, mỏng manh) với dụng ý thẩm mĩ trong gợi tả và biểu cảm đặc
sắc. Đó cũng là một nét mới trong thi pháp của Xuân Diệu. Khổ thơ thứ 3, thi liệu vừa hiện thực
vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân sáng tạo. Cũng có trăng nhưng là "nàng trăng tự
ngẩn ngơ" trên bầu trời. Không nói là trăng non đầu tháng, không hỏi "Trăng bao nhiêu tuổi trăng
già" mà lại nói là "nàng trăng". Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Cũng có núi, có
non, lúc ẩn lúc hiện, "khởi sự" nhô lên cuối chân trời xa, qua lớp sương thu mờ. Trăng và núi trong
thơ Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê hương, gần gũi và thân thuộc từ
bao đời nay được vẽ lên thật đẹp:
"Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ… "
Hai tiếng "đã nghe", "đã vắng" gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của những buổi chiều thu
lành lạnh. Sự lặng lẽ, huyền bí của tiếng đã nghe và sự hiện diện nhưng cũng như là mất mát của
"đã vắng" được diễn đạt một cách tinh tế. Tiếng thu bên tai không chỉ là âm thanh mà còn là một
bức tranh tĩnh lặng với những khoảnh khắc đong đầy cảm xúc. Tiếp theo là câu thơ thứ 4, ngôn
ngữ tĩnh lặng, thơ mộng khi tả "hương cỏ lau". Hương thơm nhẹ nhàng của cỏ lau tưởng chừng
như đang đưa đẩy độc giả vào không gian thu bình yên, giữa bản dạng trời rộng lớn và thảnh thơi.
Bức tranh thu bắt đầu hiện lên từ hương cỏ lau mềm mại, tạo nên một tác phẩm hình ảnh thuần
khiết, gần gũi với tự nhiên.
"Đã nghe rét mướt luồn trong gió,
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Cấu trúc câu thơ tinh tế và sự diễn đạt độc đáo đã làm cho bài thơ trở nên mới mẻ và ấn tượng.
Chuyển đổi cảm giác giữa xúc giác và thính giác giúp tạo nên một trải nghiệm đa chiều, làm phong
phú thêm sự hiểu biết về sự đa dạng và phong phú của mùa thu. Chữ "luồn" đã thêm sự cụ thể và
hình ảnh cho cảm nhận về cái rét. Rét mướt không chỉ là cảm giác lạnh lẽo mà còn là một trạng
thái linh hồn, nơi mà thi nhân có thể đắm chìm trong sự trải nghiệm của mùa thu. Việc mô tả rét
mướt "luồn trong gió thu hiu hắt" với hình ảnh của gió thu làm tăng thêm sự sống động và sinh
động cho bức tranh, tạo nên một khung cảnh thuận buồm cho tâm hồn của người đọc.
Chữ "động" trong việc mô tả cánh chim bay và áng mây chiều trôi tạo nên một bức tranh sống
động và yên bình. Cảnh đẹp của thiên nhiên, mây trời và cánh chim tạo ra một không gian bình
yên, thể hiện sự hài hòa giữa con người và tự nhiên. Sự đẹp của thiên nhiên, đám mây, và cánh
chim kết hợp với nỗi buồn mơ hồ làm cho bức tranh trở nên phức tạp, đầy ý nghĩa và sâu sắc. Thi
sĩ đã thành công trong việc kết hợp cảm giác của thiên nhiên và xúc cảm của con người, tạo nên
một tác phẩm thơ vừa sôi động, vừa tĩnh lặng, làm cho người đọc cảm nhận được sự hòa mình vào
vẻ đẹp của mùa thu và tâm hồn của nhân vật trong bài thơ.