-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu (Sơ đồ tư duy) | Văn mẫu 8 Kết nối tri thức
Vào những năm kháng chiến chống Pháp, đất nước ta sục sôi ý chí, quyết tâm đánh giặc. Hoà mình vào khí thế ấy đã có hàng vạn , hàng triệu thanh niên nhập ngũ. Những chiến sĩ dũng cảm, can trường ấy đã trở thành một hình tượng, một đề tài trong thơ ca thời đó. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 8 265 tài liệu
Ngữ Văn 8 1.4 K tài liệu
Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu (Sơ đồ tư duy) | Văn mẫu 8 Kết nối tri thức
Vào những năm kháng chiến chống Pháp, đất nước ta sục sôi ý chí, quyết tâm đánh giặc. Hoà mình vào khí thế ấy đã có hàng vạn , hàng triệu thanh niên nhập ngũ. Những chiến sĩ dũng cảm, can trường ấy đã trở thành một hình tượng, một đề tài trong thơ ca thời đó. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Văn mẫu 8 265 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 8 1.4 K tài liệu
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Ngữ Văn 8
Preview text:
Sơ đồ tư duy phân tích Đồng chí
Dàn ý phân tích bài thơ Đồng chí I. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm: Đồng chí, tác giả: Chính Hữu.
Hoàn cảnh sáng tác: đầu năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt bắc.
Vào những năm kháng chiến chống Pháp, đất nước ta sục sôi ý chí, quyết tâm đánh
giặc. Hoà mình vào khí thế ấy đã có hàng vạn , hàng triệu thanh niên nhập ngũ.
Những chiến sĩ dũng cảm, can trường ấy đã trở thành một hình tượng, một đề tài
trong thơ ca thời đó. Một trong những bài thơ rất hay về người chiến sĩ, về tình đồng
đội là bài Đồng chí của nhà thơ lính Chính Hữu. II. Thân bài
1. Cơ sở hình thành tình đồng chí
- Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
"Anh" ra đi từ vùng "nước mặn đồng chua", "tôi" từ miền "đất cày lên sỏi đá". Hai
miền đất xa nhau, "đôi người xa lạ" nhưng cùng giống nhau ở cái "nghèo". Hai câu
thơ giới thiệu thật giản dị hoàn cảnh xuất thân của người lính :họ là những người nông dân nghèo.
- Tình đồng chí hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng, sát
cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu"
Họ vốn "chẳng hẹn quen nhau" nhưng lý tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ lại
với nhau trong hang ngũ quân đội cách mạng. "Súng" biểu tượng cho nhiệm vụ
chiến đấu, đầu biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ. Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo
nên âm điệu khoẻ, chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lý tưởng, cùng chung nhiệm vụ.
- Tình đồng chí nảy nở và bền chặt trong sự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui:
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ.
Cái khó khăn thiếu thốn hiện lên: đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải "chung
chăn". Nhưng chính sự chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở
thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để trở thành "đôi tri kỷ".
* Đến đây, nhà thơ hạ xuống một giọng thơ thật đặc biệt với hai tiếng: "Đồng chí!"
câu thơ ngắn, cùng với hình thức cảm thán mang âm điệu vui tươi, vang lên như
một sự phát hiện, một lời khẳng định. Hai tiếng "đồng chí" nói lên một tình cảm lớn
lao, mới mẻ của thời đại.
=> Sáu câu thơ đầu đã giải thích cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí giữa
những người đồng đội. Câu thơ thứ bảy như một cái bản lề khép lại đoạn thơ một để mở ra đoạn hai.
2. Những biểu hiện cảm động của tình đồng đội:
- Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau. Những
người lính gắn bó với nhau, họ hiểu đến những nỗi niềm sâu xa, thầm kín của đồng đội mình:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương:
ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa,... Từ "mặc kệ"cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính.
Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt trận, họ vẫn
hình dung thấy gian nhà không đang lung lay trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi.
- Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay."
Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến
chống pháp hiện lên rất cụ thể, chân thực: áo rách, quần vá, chân không giày, ...Sự
từng trải của đời lính đã cho Chính hữu "biết"được sự khổ sở của những cơn sốt rét
rừng hành hạ: người nóng sốt hầm hập đến ướt cả mồ hôi mà vẫn cứ ớn lạnh đến
run người. Và nếu không có sự từng trải ấy, cũng không thể nào biết được cái cảm
giác của "miệng cười buốt giá": trời buốt giá, môi miệng khô và nứt nẻ, nói cười rất
khó khăn, có khi nứt ra chảy cả máu. Thế nhưng, những người lính vẫn cười trong
gian lao, bởi họ có hơi ấm và niềm vui của tình đồng đội "thương nhau tay nắm lấy
bàn tay". Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở "chân không giày"
và thời tiết "buốt giá". Trong đoạn thơ , "anh" và "tôi" luôn đi với nhau, có khi đứng
chung trong một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau. Cấu trúc
ấy đã diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng đội.
* Liên hệ mở rộng: Tình đồng đội trong bài "Những ngôi sao xa xôi" - Lê Minh Khuê. 3. Đoạn kết:
- Ba câu cuối cùng kết thúc bài thơ bằng một hình ảnh thơ thật đẹp:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính "đứng cạnh
bên nhau chờ giặc tới". Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau
trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái
căng thẳng của những giây phút "chờ giặc tới". Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ,
giúp họ vượt lên tất cả...
- Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc : "Đầu súng trăng treo". Đó là một hình ảnh
thật mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng
khuya:"...suốt đêm vầng trăng từ bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc nó như treo
lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng đối với chúng
tôi như một người bạn; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật...".
- Nhưng nó còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa.
+ "Súng " biểu tượng cho chiến tranh , cho hiện thực khốc liệt. "Trăng" biểu tượng
cho vẻ đẹp yên bình, mơ mộng và lãng mạn.
+ Hai hình ảnh "súng" và "trăng" kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về
cuộc đời người lính : chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Hình ảnh ấy mang
được cả đặc điểm của thơ ca kháng chiến - một nền thơ giàu chất hiện thực và giàu cảm hứng lãng mạn.
+ Vì vậy, câu thơ này đã được Chính Hữu lấy làm nhan đề cho cả một tập thơ - tập "Đầu súng trăng treo".
+ Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính. III. Kết bài:
- Tóm tắt các ý đã phân tích. - Liên hệ bản thân.
Bài thơ kết thúc nhưng lại mở ra những suy nghĩ mới trong lòng người đọc. Bài thơ
đã làm sống lại một thời khổ cực của ông cha ta, làm sống lại chiến tranh ác liệt. Bài
thơ khơi gợi lại những kỷ niệm đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương mà
chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được.
Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ gợi cảm mà lại gần gũi thân thuộc, với biện
pháp sóng đô, đối ngữ được sử dụng rất thành công, Chính Hữu đã viết nên một bài
ca với những ngôn từ chọn lọc, bình dị mà có sức ngân vang . Bài thơ đã ca ngợi
tình đồng chí hết sức thiêng liêng , như là một ngọn lửa vẫn cháy mãi, bập bùng,
không bao giờ tắt, ngọn lửa tháp sáng đêm đen của chiến tranh. .....
Phân tích bài thơ Đồng chí ngắn gọn
Chính Hữu là một trong những nhà thơ xuất sắc trưởng thành trong thời kì kháng
chiến chống Pháp. Trong số những tác phẩm của ông, có một bài thơ đã gây nên
tiếng vang lớn trong lòng độc giả, bởi những xúc cảm dạt dào, chân thực giữa
những người lính, những người đồng đội. Đó là bài thơ đồng chí. Qua vần thơ, lời
thơ bình dị, bài thơ đã thể hiện tình cảm gắn bó, tình đồng đội giữa những người
chiến sĩ, qua đó ngợi ca tình cảm cao đẹp ấy.
Những người lính vốn là những chàng trai khoẻ mạnh vốn chỉ quen với việc đồng
áng, cấy cày. Họ đến từ những vùng quê khác nhau, những vùng miền xa xôi, hẻo
lánh. Vì chung nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, quê hương, chung tình yêu đất nước, họ
không hẹn mà gặp nhau, quen nhau và gắn bó với nhau. Chính Hữu đã kể lại cuộc
gặp gỡ ấy như một lời kỉ niệm, hồi tưởng đẹp, giản dị và xúc động:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Thật lạ kì! Tình cảm của những con người ấy được tạo nên từ sự tình cờ, chẳng
hẹn quen nhau. Họ đều chiến đấu vì muốn thoát khỏi cái đói, cái khổ của những
người dân bị áp bức, bóc lột. Mảnh đất đã nuôi dưỡng họ lớn lên đều bị bủa vây bởi
khốn khó; những nương rẫy nước mặn đồng chua, vùng làng quê đất cày lên sỏi đá.
Từ sự xa lạ ban đầu giữa đôi người ấy, họ đã quen nhau, gắn bó với nhau, gọi nhau
là đồng chí. Đôi người - hai con người - cách dùng từ của tác giả đã làm nổi bật lên
cả đoạn thơ - tưởng chừng như số phận định mệnh, ngay từ đầu đã báo trước một
tình cảm nảy nở khăng khít trong chiến đấu:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Đồng chí!
Hình ảnh súng bên súng, đầu sát bên đầu vừa tả thực, vừa mang tính tượng trưng.
Nó không chỉ vẽ lên hình ảnh hai con người cùng kề vai sát cánh mà còn gợi ra
trong lòng người đọc lí tưởng cao đẹp: mục đích chung không của riêng ai mà là
khát vọng tự do của cả một dân tộc. Từ việc cùng chung lí tưởng, qua gian khổ,
thiếu thốn, tình cảm đã nảy sinh giữa đôi người xa lạ ấy. Đêm rét chung chăn thành
đôi tri kỉ là một hình ảnh chân thực mà cảm động lạ kì... Đâu cần phô trương, đâu
cần sự gắn kết gì cao xa, chỉ cần qua gian khổ, giữa con người cũng có thể thành tri
kỉ. Giọng thơ đột ngột bị ngắt nhịp bởi hai tiếng gọi thân thương: Đồng chí! Dường
như đó là tiếng gọi thốt ra từ trái tim, từ xúc cảm tha thiết, thân thương giữa những
người đồng đội. Câu thơ đã làm nên một nút thắt đặc biệt, một điểm nhấn, một nét
chấm phá riêng biệt cho bài thơ. Âm hưởng da diết của tiếng gọi đã làm rung động
lòng người: Đồng chí. Từ việc cùng chung chí hướng - trong gian nan đã tạo nên
niềm cảm kích, xúc động chân thành, trong giây lát, tiếng gọi Đồng chí vang lên -
phải chăng đó là cung bậc tình cảm cao quí nhất, thiêng liêng nhất sưởi ấm cho trái
tim những con người thổn thức nhớ về quê hương?
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà tranh mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Họ tâm tình, kể chuyện cho nhau nghe, về ruộng nương anh, về gian nhà không,
giếng nước, gốc đa. Hoài niệm, hồi ức của quê hương ùa về trong tâm trí họ. Để
cho ta hiểu rằng, họ bỏ quê hương cũng vì muốn tốt đẹp cho quê hương. Họ đành
dứt áo ra đi, mặc kệ tất cả, bỏ lại người thân, gia đình để dấn thân vào cuộc kháng
chiến trường kì gian khổ. Lạ lùng thay, cũng chính nơi đây, họ tìm được niềm đồng
cảm, sẻ chia và nó cũng chính là động lực giúp họ vượt qua biết bao khó khăn.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Những trận sốt rét rừng thâm độc không thể quật ngã ý chí một con người. Bởi bên
họ, luôn có sự tương trợ, giúp đỡ, luôn có tình đồng chí thân thương. Và tất cả thiếu
thốn trở thành vô nghĩa: Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Bằng những chi tiết rất thực, tác giả đã tạo nên hình ảnh hai người lính, tuy vất vả,
thiếu thốn về vật chất áo rách vai, quần có vài mảnh vá, chân, không giày, nhưng
vẫn cười trong cái giá lạnh của nơi rừng thiêng nước độc. Và họ đã sưởi ấm cho
nhau, bộc lộ tình cảm với nhau bằng cử chỉ giản dị mà đầy xúc động:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Chao ôi! Đâu cần vật chất của cải, đâu cần lời hay ý đẹp, những người đồng chí bộc
lộ tình cảm với nhau thật chân thành lặng lẽ nắm lấy bàn tay nhau. Chính hơi ấm
của đôi bàn tay ấy đã làm nên sức mạnh chiến thắng tất cả.
Kết thúc bài thơ, Chính Hữu thể hiện tình đồng chí qua những câu thơ đầy thi vị.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau, chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Cảnh rừng âm u buổi đêm như trở nên lãng mạn, đầy chất thơ, khi mà ở đó có hơi
ấm tình người. Đầu súng trăng treo - hình ảnh độc đáo và sáng tạo tuyệt vời. Hình
ảnh trăng tròn vành vạnh lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Rất chân
thực nhưng cũng rất lãng mạn, hư hư thực thực, một không gian đầy mộng tưởng
mà vẫn mang vẻ đẹp tinh thần chiến đấu... Tình đồng chí, đồng đội đang dần toả
sáng, rực rỡ trong gian lao chiến đấu.
Toàn bộ bài thơ hàm súc, cô đọng với hình ảnh chân thực, giản dị mà sâu sắc thấm
thía. Chính Hữu đã thể hiện thành công tình đồng chí cao đẹp giữa những người lính.
Đọc xong bài thơ, trong lòng độc giả không khỏi xúc động bởi những tình cảm chân
thành, sâu lắng. Có thể chính vì lẽ đó, mà bài thơ luôn còn sống mãi với thời gian.
Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 1
Hình tượng người lính vốn là đề tài nổi bậc và xuyên suốt nền văn học kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ cứu nước. Bài thơ “Đồng chí” là một trong những tác phẩm
tiên phong đi đầu trong nhiệm vụ khắc họa hình ảnh người lính chân thực, bình dị
trong chiến đấu. Tác phẩm ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh tử có
nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh
giặc trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).
Mở đầu bài thơ, Chính Hữu giới thiệu về quê hương người lính. Hai câu thơ đầu cấu
trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt” người chiến sĩ rất trẻ, như
đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Giọng điệu tự nhiên, mộc mạc, đầy thân tình. “Quê anh” và “làng tôi” đều là những
vùng đất nghèo, cằn cỗi, xác xơ, là nơi “ nước mặn đồng chua” – vùng đồng bằng
ven biển, là xứ sở của “đất cày lên sỏi đá” – vùng đồi núi trung du.
Tác giả đã mượn thành ngữ, tục ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân
yêu của những người chiến sĩ. Điều ấy đã làm cho lời thơ mang đậm chất chân quê,
dân dã đúng như con người vậy – những chàng trai dân cày chân đất, áo nâu lần
đầu mặc áo lính lên đường ra trận! Như vậy, sự đồng cảnh, cùng chung giai cấp
chính là cơ sở, là cái gốc hình thành nên tình đồng chí.
Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ “đôi người xa lạ” rồi
“thành đôi tri kỉ”, về sau kết thành “đồng chí”. Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại,
nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng
dưới lá quân kì: “Anh với tôi đôi người xa lạ – Tự phương trời chẳng hẹn quen
nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ Đồng chí!"
Câu thơ có độ dài ngắn khác nhau, cảm xúc thơ như dồn tụ, nén chặt lại. Những
ngày đầu, đứng dưới lá quân kì, những chàng trai ấy còn là “đôi người xa lạ”, mỗi
người một phương trời “chẳng hẹn quen nhau”. Nhưng rồi cùng với thời gian kháng
chiến, đôi bạn ấy gắn bó với nhau bằng biết bao kỉ niệm: “Súng bên súng, đầu sát
bên đầu – Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. “Súng bên súng” là cách nói hàm
súc,giàu hình tượng, đó là những con người cùng chung lí tưởng chiến đấu. Họ
cùng nhau ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước, quê hương, giữ gìn nền độc lập, tự
do, sự sống còn của dân tộc – “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Còn hình ảnh
“đầu sát bên đầu” lại diễn tả sự đồng ý, đồng tâm, đồng lòng của hai con người đó.
Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” ắp đầy kỉ niệm về một thời gian khổ,
cùng nhau chia ngọt sẻ bùi “Bát cơm sẻ nửa – Chăn sui đắp cùng” . Và như thế mới
thành “đôi tri kỉ” để rồi đọng kết lại là “ Đồng chí!”. “Đồng chí” – hai tiếng ấy mới
thiêng liêng làm sao! Nó diễn tả niềm tự hào, xúc động, cứ ngân vang lên mãi. Xúc
động bởi đó là biểu hiện cao nhất của một tình bạn thắm thiết, đẹp đẽ. Còn tự hào
bởi đó là tình cảm thiêng liêng, cao cả của những con người cùng chung chí hướng,
cùng một ý nguyện, cùng một lí tưởng, ước mơ.
Dòng thơ thứ bảy trong bài thơ “Đồng chí” là một điểm sáng tạo,một nét độc đáo
qua ngòi bút của Chính Hữu. Dòng thơ được tác riêng độc lập, là một câu đặc biệt
gồm từ hai âm tiết đi cùng dấu chấm than, tạo nốt nhấn vang lên như một sự phát
hiện, một lời khẳng định đồng thời như một bản lề gắn kết đoạn thơ đầu với đoạn
thơ sau. Sáu câu thơ đầu là cội nguồn, là cơ sở hình thành tình đồng chí; mười câu
thơ tiếp theo là biểu hiện, sức mạnh của tình đồng chí. “Đồng chí” – ấy là điểm hội
tụ, là nơi kết tinh bao tình cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn,tình người trong chiến
tranh. Hai tiếng “đồng chí” bởi vậy mà giản dị, đẹp đẽ, sáng ngời và thiêng liêng.
Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của
những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc.
Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành – đã thể
hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp
tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể quên:
“Ôi núi thẳm rừng sâu
Trung đội đã về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
Nơi đây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét ban đầu
Thấm mối tình Việt Bắc…”
(“Chiều mưa đường số 5” – Thâm Tâm)
Ba câu thơ tiếp theo nói đến hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng
nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào
cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”.
Vì nghĩa lớn, các anh sẵn sàng từ giã những gì gắn bó thân thương nhất: “ruộng
nương”,”gian nhà”,”giếng nước”,”gốc đa”… Họ ra đi để lại sau lưng những băn
khoăn, trăn trở, những bộn bề, lo toan của cuộc sống đời thường. Hai chữ “mặc kệ”
đã diễn tả sâu sắc vẻ đẹp và chiều sâu đời sống tâm hồn người lính. Vì nghĩa lớn,
họ sẵn sàng ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, mục đích đã chọn lựa.Song dù có dứt
khoát thì vẫn nặng lòng với quê hương. Gác tình riêng ra đi vì nghĩa lớn, vẻ đẹp ấy
thật đáng trân trọng và tự hào. Trong bài thơ “Đất nước”, ta bắt gặp điểm tương
đồng trong tâm hồn những người lính:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
Mặc dù đầu không ngoảnh lại nhưng các anh vẫn cảm nhận được “Sau lưng thềm
nắng lá rơi đầy”, cũng như người lính trong thơ của Chính Hữu, nói “mặc kệ” nhưng
tấm lòng luôn hướng về quê hương. “Giếng nước gốc đa” là hình ảnh hoán dụ mang
tính chất nhân hóa diễn tả một cách tinh tế tâm hồn người chiến sĩ, tô đậm sự gắn
bó của người lính với quê nhà. “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là
tấm lòng của người ra đi không nguôi nhớ về quê hương. Quả thật, giữa người
chiến sĩ và quê hương có mối giao cảm vô cùng sâu sắc,đậm đà. Người đọc cảm
nhận từ hình ảnh thơ một tình quê ăm ắp và đây cũng là nguồn động viên, an ủi, là
sức mạnh tinh thần giúp người chiến sĩ vượt qua mọi gian lao, thử thách suốt một thời máu lửa, đạn bom.
Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời, tình yêu quê hương đã góp phần hình thành
tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách
gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cùng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ “Bao giờ trở lại”, Hoàng Trung Thông viết:
“Bấm tay tính buổi anh đi,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê,
Anh đi là để giữ quê quán mình.
Cây đa bến nước sân đình,
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.
Hoa cau thơm ngát đầu nương,
Anh đi là giữ tình thương dạt dào.
(…) Anh đi chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?”
Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng
chiến buổi đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi
đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,… nhân dân ta
phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng
chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang,
thiếu lương thực, thuốc men…. Người lính ra trận “áo vải chân không đi lùng giặc
chinh”, áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày…”
Bằng những hình ảnh tả thực, hình ảnh sóng đôi, tác giả đã tái hiện chân thực
những khó khăn thiếu thốn trong buổi đầu kháng chiến: thiếu lương thực, thiếu vũ
khí, quân trang, thiếu thuốc men… Người lính phải chịu “từng cơn ớn lạnh”, những
cơn sốt rét rừng hành hạ, sức khỏe giảm sút, song sức mạnh của tình đồng chí đã
giúp họ vượt qua tất cả. Nếu như hình ảnh “Miệng cười buốt giá” làm ấm lên, sáng
lên tinh thần lạc quan của người chiến sĩ trong gian khổ thì cái nắm tay lại thể hiện
tình đồng chí, đồng đội thật sâu sắc! Cách biểu lộ chân thực, không ồn ào mà thấm
thía. Những cái bắt tay truyền cho nhau hơi ấm, niềm tin và sức mạnh để vượt qua
mọi khó khăn, gian khổ. Cái nắm tay nhau ấy còn là lời hứa hẹn lập công.
Chữ “biết” trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử
thách. Các chữ: “anh với tôi”, “áo anh… quần tôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một
sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao đẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu
trúc tương phản: “Miệng cười buốt giá” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai
chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn
nén bỗng ào lên: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình thương đồng đội được
hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: “tay nắm lấy bàn tay”. Anh nắm lấy tay
tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức
mạnh, để vượt qua mọi thử thách, “đi tới và làm nên thắng trận”.
Bài thơ khép lại với bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội, là biểu tượng cao đẹp
về cuộc đời người chiến sĩ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính “đứng cạnh
bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau
trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái
căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ,
giúp họ vượt lên tất cả….
Câu kết là một hình ảnh thơ rất đẹp: “Đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực, vừa
mộng. Về ý nghĩa của hình ảnh này có thể hiểu: Đêm khuya, trăng tà, cả cánh rừng
ngập chìm trong sương muối. Trăng lơ lửng trên không, chiếu ánh sáng qua lớp
sương mờ trắng, đục. Bầu trời như thấp xuống, trăng như sà xuống theo. Trong khi
đó, người chiến sĩ khoác súng trên vai, đầu súng hướng lên trời cao như chạm vào
vầng trăng và trăng như treo trên đầu súng. “Trăng” là biểu tượng cho vẻ đẹp thiên
nhiên, đất nước, là sự sống thanh bình. “Súng” là hiện thân cho cuộc chiến đấu gian
khổ, hi sinh. Súng và trăng, cứng rắn và dịu hiền. Súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ.
Hai hình ảnh đó trong thực tế vốn xa nhau vời vợi nay lại gắn kết bên nhau trong
cảm nhận của người chiến sĩ: trăng treo trên đầu súng. Như vậy, sự kết hợp hai yếu
tố, hiện thực và lãng mạn đã tạo nên cái vẻ đẹp độc đáo cho hình tượng thơ. Và
phải chăng, cũng chính vì lẽ đó, Chính Hữu đã lấy hình ảnh làm nhan đề cho cả tập
thơ của mình – tập “Đầu súng trăng treo” – như một bông hoa đầu mùa trong vườn thơ cách mạng.
Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của
người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời
sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng
chiến. Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự,
tâm tinh. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo
nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và
màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.
“Đồng chí” là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ – người nông dân mặc áo
lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài
chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 2
Chính Hữu sáng tác ít, nhưng có nhiều bài thơ phổ nhạc hơn bất cứ thi sĩ nào. Đó là
nét lạ của thơ Chính Hữu.
Hồi nhỏ tôi đã nghe hát "Đồng chí", rồi thuộc, chưa bao giờ xem lại bài thơ. Gần đây
thì tôi mới mở bài thơ ra xem. Mắt vừa chạm vào thơ, tôi đã thấy lạ. Thì ra lâu nay
mình chỉ mới thưởng thức phần nhạc của thơ mà ta bỏ quên phần hình của nó. Câu thơ hai chữ: Đồng chí!
Gần như đứng giữa bài thơ, riết cái thân bài thơ thành một cái lưng ong. Nửa trên là
một mảng quy nạp (như thế này là đồng chí), nửa dưới là một mảng diễn dịch (đồng
chí còn là như thế này nữa). Một cấu trúc chính luận cho một bài thơ trữ tình. Lạ!
Chủ đề Đồng chí hiện lên trong từng cấu trúc ngôn ngữ, nghĩa là trong từng tế bào
thơ. "Tôi" với "anh" khi được xếp dọc:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Khi thì xếp ngang:
Tôi với anh đôi người xa lạ
Khi thì điệp điệp (nét thẳng của ý chí và nét cong của tình cảm):
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Để đến đêm rét trùm chung cái chăn thì nhập lại thành "đồng chí". Cái chăn đắp lại
thì tâm tư mở ra. Họ soi vào nhau. Anh hiểu tôi, tôi hiểu đến nỗi lòng sâu kín của anh:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giải thích sao đây hai chữ "mặc kệ"? Có giống với thái độ này không:
Người đi, ừ nhỉ, người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say.
Không! Nó đâu có khinh bạc và phiêu du như thế. Ở ngoài mặt trận mà biết gió lay
từng gốc cột của ngôi nhà mình thì không còn chữ nào để diễn tả nổi vì tình cảm
thiết tha của họ đối với gia đình. Nhưng trước hết phải vì nghĩa lớn. Thái độ hiệp sĩ
ấy gần với Hồng Nguyên, gần với Trần Mai Ninh trong buổi đầu kháng chiến chống
Pháp, gắn với Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Trần Quang Long ... trong kháng chiến chống Mỹ.
Họ hiểu nhau đến chiều sâu như thế là để nương tựa vào nhau mà đi đến chiều cao này:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Chung nhau một cái chăn là một cặp đồng chí, nắm đôi bàn tay mà ấm cả đôi bàn
chân là một cặp đồng chí, và đêm nay giữa "rừng hoang sương muối", "đứng cạnh
bên nhau chờ giặc tới" là một cặp đồng chí. Lãng mạn thay, súng và trăng cũng là một cặp đồng chí:
Đầu súng trăng treo
Cặp đồng chí này nói về cặp đồng chí kia, nói được cái cụ thể đến vô cùng. Súng và
trăng, gần và xa "tôi với anh đôi người xa lạ.Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau";
súng và trăng, cứng rắn và dịu hiền; súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ; súng và trăng
... là biểu hiện cao cả của tình đồng chí.
Sự kết hợp yếu tố hiện thực roi rói với tính chất lãng mạn trong trẻo là màu sắc mới
mẻ mà Chính Hữu đã sớm mang lại cho thơ.
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 3
Lịch sử nước ta đã đi qua biết bao thăng trầm biến cố. Mỗi lần biến động là mỗi lần
dân ta sít gần lại nhau hơn, cùng nhau vì mục đích cao cả chung. Đó là những năm
tháng hào hùng, khí thế của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu tranh chống Pháp,
chống Mỹ vĩ đại. Giữa những đau thương chiến đấu, cuộc chiến còn góp phần đắp
xây nên mối quan hệ giữa những người lính với nhau. Cho nên không có gì khó hiểu
khi vào năm 1948, tác phẩm “ Đồng Chí” của nhà thơ Chính Hữu lại tạo nên một sự
bùng nổ, lan truyền rộng khắp trong giới quân đội. Bài thơ “Đồng chí” ca ngợi tình
đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những
người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời
chín năm kháng chiến chống Pháp. Chính bài thơ đã khơi dậy những xúc động
mạnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua …
Đầu súng trăng treo”
Trong bài thơ “Đồng Chí”, Chính Hữu đã khắc hoạ thành công cái chất hiền lành,
tình nghĩa mộc mạc mà dung dị cũng như tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng cao cả
của những người lính nông dân. Từ mọi miền quê trên dải đất hình chữ S, những
con người xa lạ bỗng đứng lên theo tiếng gọi của Tổ quốc, tụ họp lại với nhau, trở
thành những người lính. Họ là những người nông dân từ những vùng quê lam lũ đói
nghèo, quanh năm chỉ biết đến con trâu mảnh ruộng, các anh giã từ quê hương lên đường chiến đấu:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Không hẹn mà nên, các anh đã gặp nhau tại một điểm là tình yêu quê hương đất
nước. Từ những người “xa lạ” rồi thành “đôi tri kỉ”, về sau thành “đồng chí”. Câu thơ
biến hoá 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống còn 2 từ cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén
chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kỳ: “Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự
phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!”
Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu vai kề vai, súng bên súng, chia nhau gian khổ,
nguy hiểm, đêm đắp chung một chiếc chăn chịu rét. Đắp chung chăn trở thành biểu
tượng của tình thân hữu, ấm cúng ruột thịt. Những cái chung đã biến những con
người xa lại thành đôi tri kỷ. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái
gốc để làm nên tình bạn, tình đồng chí.
Tấm lòng của họ đối với đất nước thật cảm động khi giặc đến các anh đã gửi lại
người bạn thân mảnh ruộng chưa cày, mặc kệ những gian nhà bị gió cuốn lung lay
để ra đi kháng chiến . Bình thường vậy thôi, nhưng nếu không có một tình yêu đất
nước xâu nặng không thể có một thái độ ra đi như vậy:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay"
Họ đứng lên chiến đấu chỉ vì một lẽ giản dị: tình yêu quê hương đất nước, ý thức
dân tộc là máu thịt, là cuộc đời họ. Bởi vậy, họ nguyện bỏ lại tất cả: ruộng nương,
xóm làng. Nhưng ở chiến khu, những người lính nông dân lại trở mình, lòng lại bận
tâm lo lắng về mảnh ruộng chưa cày, với căn nhà bị gió lung lay. Nỗi nhớ của các
anh là thế cụ thể nhưng cảm động biết bao. Người lính luôn hiểu rằng nơi quê nhà
người mẹ già, người vợ trẻ cùng đám con thơ đang trông ngóng anh trở về:
“Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính”
Trong những tâm hồn ấy, hẳn sự ra đi cũng đơn giản như cuộc đời thường nhật,
nhưng thực sự hành động ấy là cả một sự hy sinh cao cả. Cả cuộc đời ông cha gắn
với quê hương ruộng vườn, nay lại ra đi cũng như dứt bỏ đi nửa cuộc đời mình.
Sống tình nghĩa, nhân hậu, hay lo toan cũng là phẩm chất cao đẹp của người lính
nông dân. Với họ vượt qua gian khổ thiếu thốn của cuộc sống là điều giản dị bình
thường, không có gì phi thường cả:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Chính Hữu đã khắc hoạ hiện thực khó khăn mà người lính gặp phải. Đối mặt với
những khó khăn đó, những người lính không hề một chút sợ hãi, những thử thách
giữa nơi rừng thiêng nước độc cứ kéo đến liên miên nhưng người lính vẫn đứng
vững, vẫn nở “miệng cười buốt giá”. Đó là hình của sự lạc quan, yêu cuộc sống hay
cũng là sự động viên giản dị của những người lính với nhau. Những câu thơ hầu
như rất giản dị nhưng lại có sức lay động sâu xa trong lòng người đọc chúng ta. Tuy
nhiên từ trong sự bình thường, hình ảnh người lính của Chính Hữu vẫn ánh lên vẻ
đẹp rực rỡ của lí tưởng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, dũng cảm lạc quan trước hiểm nguy kẻ thù rình rập:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Thật là bức tranh đơn sơ, thi vị về người lính trong một đêm chờ giặc tới giữa nơi
rừng hoang sương muối. Những người lính kề vai, sát cánh cùng hướng mũi súng
vào kẻ thù. Trong cái vắng lặng bát ngát của rừng khuya, trăng bất ngờ xuất hiện
chơi vơi lơ lửng nơi đầu súng. Những người lính nông dân giờ đây hiện ra với một
tư thế khác hẳn, như những người nghệ sĩ đầy chất thơ, bình dị nhưng vẫn đẹp lạ lùng.
Sẽ là một thiếu sót rất lớn khi lại đề cập quá nhiều đến hình tượng người lính mà lại
không nói về tình đồng chí, tình đồng đội của người chiến sĩ trong bài thơ. Tìm hiểu
nhau, những người lính hiểu ra họ có cùng chung quê hương vất vả khó nghèo,
chung tình giai cấp, chung lý tưởng và mục đích chiến đấu. Chính cái chung ấy như
một thứ keo sơn bền vững nối cuộc đời những người lính với nhau để làm nên hai
tiếng “đồng chí” xúc động và thiêng liêng.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Vẻ đẹp tâm hồn nơi người lính không chỉ phát ra từ những hiện thực khó khăn hiểm
nguy mà còn phát ra từ ánh sáng lung linh, chính là tình đồng đội. Vượt rừng đâu
phải chuyện dễ dàng. Những căn bệnh quái ác, những đêm tối lạnh buốt xương,
những thiếu thốn vật chất của đoàn quân mới được gây dựng vội vã. Nhưng những
người lính đã cùng nhau vượt qua. Họ lo cho nhau từng cơn sốt, từng miếng áo
rách, quần vá. Với họ quan tâm tới những người đồng đội giờ đây cũng như là quan
tâm chăm sóc cho chính mình. Ôi ấm áp biết mấy là cái siết tay của đồng đội lúc
gian khó. Cái siết tay truyền đi hơi ấm, sức mạnh cho ý chí con người. Và cùng
nhau, giúp đỡ nhau, những người lính vượt qua với tư thế ngẩng cao đầu trước mọi thử thách, gian nan:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, …
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Cái khốn khó, gian truân hãy còn dài trên bước đường kháng chiến dân tộc. Nhưng
dường như trước mắt những con người này, mọi thứ không còn hiểm nguy. Trong