Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải

Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào. Ở những năm đầu thế kỉ XX, ông là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu với giọng điệu bi tráng, thống thiết. Hai chữ nước nhà là tác phẩm tiêu biểu của ông. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 8 209 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 8 1.2 K tài liệu

Thông tin:
10 trang 4 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải

Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào. Ở những năm đầu thế kỉ XX, ông là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu với giọng điệu bi tráng, thống thiết. Hai chữ nước nhà là tác phẩm tiêu biểu của ông. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

21 11 lượt tải Tải xuống
Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần
Tuấn Khải
Phân tích tác phẩm Hai chữ nước nhà mẫu 1
Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi
đau mất nước, qua đó thức tỉnh tinh thần của đồng bào. những năm đầu thế kỉ XX,
ông là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu với giọng điệu bi tráng, thống thiết. Hai
chữ nước nhà c phẩm tiêu biểu của ông. Dưới hình thức song thất lục bát, bài thơ
Hai chữ nước nhà để lại một ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc trong lòng người đọc. "Tâm
trạng xã hội khoảng 1926 uất ức, bi tráng, điệu lục bát du dương êm hòa không đủ,
đòi hỏi một điệu thơ song thất lục bát để toát, để thoát, nỗi niềm u uất đè nặng tâm
hồn" (Xuân Diệu).
Cuộc chia tay cảm động giữa hai cha con Phi Khanh Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước
mất nhà tan trong bài thơ là những khoảnh khắc đặc biệt, sức lay động lớn đã được
Trần Tuấn Khải sử dụng để kí thác tâm trạng, cảm xúc hiện tại, thực của mình. Lời trăng
trối của người cha đối với con khi vĩnh biệt trĩu nặng ân tình, nhuốm đậm những đau
thương. Tiếng lòng sầu thảm, ai oán kia khi thì trùng điệp dồn nén, khi thì da diết xót xa.
Tác giả quả đã không uổng công chút nào khi lựa chọn âm điệu phong phú của thể
thơ song thất lục bát để dồn tả những tiếng lòng ấy.
Có thể hình dung bố cục của văn bản trích Hai chữ nước nhà thành ba phần. Phần 1 (8
câu thơ đầu): Diễn tả tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau lòng; phần 2
(20 câu tiếp): Phác họa tình cảnh đau thương tang tóc của đất nước; phần 3 (8 câu thơ
còn lại): Xót phận mình bất lực, người cha trao gửi cho con tâm nguyện cứu nước. Đi
vào tìm hiểu từng phần ta sẽ cảm nhận được mạch xúc cảm thống thiết, chân thành của
bài thơ.
8 u thơ đầu, c giả gợi ra bối cảnh không gian biên ải ảm đạm, hun hút tâm trạng
của nhân vật trữ tình. Bốn câu đầu là không gian chia li:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Trong cuộc ra đi không ngày trở lại thì biên ải này chính điểm Nguyễn Phi Khanh
vĩnh biệt tổ quốc, quê hương, vĩnh biệt người con thân yêu của mình. Tâm trạng của kẻ
sắp ra đi vĩnh viễn phủ lên khung cảnh vốn đã heo hút, ảm đạm một màu tang c, thê
lương. Tâm sầu, cảnh sầu khơi gợi lẫn nhau thành một mối sầu thảm tái tê, u hoài
dằng dặc. Đoạn thơ này tạo ra không khí chung cho toàn i, không khí thời cuộc năm
xưa (thời Phi Khanh - Nguyễn Trãi) cũng không khí của xã hội Việt Nam những năm
20 thế kỉ XX. Bốn câu tiếp đầm đìa máu lệ:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tài lần bước dặm khơi,
Trông con tầm châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giờ phút này đây, cha sẽ ra đi mà chẳng bao giờ về nữa. Đất nước lầm than, cha con li
biệt, tình đất nước lớn lao hòa trong tình phụ tử sâu nặng Nguyễn Phi Khanh bgiải sang
Tàu. Để làm tròn đạo hiếu với cha già, Nguyễn Trãi muốn đi theo để phụng dưỡng. Nhưng
Phi Khanh gạt tình riêng, dằn lòng khuyên con trở lại để trả thù nhà, đền nnước. Người
sắp ra đi vĩnh viễn thường nói những lời gan ruột, những lời người còn sống phải
khắc cốt ghi xương.
Tấm lòng đối với đất nước của người cha thật cảm động. những câu thơ tiếp theo
trong phần 2 tác giả đã hóa thân vào người trong cuộc li tan để phát ra tình cảnh đau
thương của đất nước lầm than lệ. Trong đó tác giả sử dụng cả tự sự và miêu tả xen
lẫn những lời cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất nước nhà tan, tất cả đang chìm ngập
trong thảm họa "xương rừng máu sông"; uất hận sầu đau đang ngùn ngụt ngút trời:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông đổ nhường tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Nỗi đau ở đây là một nỗi đau lớn, vượt lên nỗi đau riêng để thành nỗi đau cao cả, thiêng
liêng của cả đất nước, giống nòi. Sự lớn lao ấy được diễn tả bằng hàng loạt các hình ảnh
mang tầm vóc mô: Vong quốc, đồ, đất khóc, giời than, nòi giống. Dòng xúc cảm
mãnh liệt thống thiết biểu hiện qua những từ ngữ diễn tả tình cảm cung bậc mạnh, bi
thiết: K sao kể xiết, tâm can, ngậm ngùi, khóc than, thương tâm. Mỗi ng thơ là một
tiếng kêu than đứt ruột, đầy những hờn căm, bi phẫn. Chẳng đủ nước mắt để khóc than
cho những đớn đau đang tràn ngập giang sơn, đắng cay đành nuốt sâu trong dạ, người
cha nhắn nhủ tâm huyết lại cho con:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...
Nói phận mình bất lực để ủy thác tất cả cho con, cha "tuổi già sức yếu", lại gặp cơn nguy
nan, đành uất hận, tủi hờn mà tay. Khơi gợi lại truyền thống kiên cường bất khuất của
tổ tiên, người cha muốn thắp lên trong người con tin yêu của mình ngọn lửa căm thù xâm
lăng, ngọn lửa ý chí quyết tâm khôi phục cơ đồ nước nhà và là cả niềm hi vọng lớn vào
con trước khi đi mãi. Lời trao gửi nặng tựa Thái sơn. Nước mất thì nhà cũng tan, thù nhà
chỉ thể trả được khi thù nước đã rửa sạch. Nguyễn Phi Khanh muốn con mình biến
nỗi đau mất cha thành nỗi hận mất nước.
Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn thủ pháp từ lâu đời trong truyền
thống văn học. Trần Tuấn Khải đã rất thành công khi lựa chọn chuyện chia li giữa hai cha
con Nguyễn Phi Khanh và Nguyn Trãi để gửi gắm m sự, nỗi đau mất nước nhằm khơi
gợi tinh thần yêu nước thương nòi khi non sông đang bị giày xéo bởi gót giày thực dân.
Bằng tình cảm sâu đậm, mãnh liệt, với một giọng điệu thống thiết, thán ca, tác giả của
Hai chữ nước nhà đã thực hiện bổn phận, sứ mệnh cao cả ca người nghệ sĩ yêu nước.
Thơ ông thôi thúc lòng người, khích lệ mọi người tranh đấu cho giang sơn độc lập, tự do.
Phân tích tác phẩm Hai chữ nước nhà mẫu 2
Tác giả: Á Nam Trần Tuấn Khải (1895 - 1983), bút hiệu Á Nam quê làng Quang Xán,
Mĩ Hà, huyện Lộc, tỉnh Nam Định. Á Nam Á Nam Trần Tuấn Khải thường mượn
những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, qua đó mà thức
tỉnh tinh thần của đồng bào
Bài thơ nổi bật đlại nhiều ấn tượng nhất của tác giả lẽ " Hai chữ nước nhà".
Bởi lẽ sáng tác đó đã i hộ tấm lòng trái tim yêu nước của người dân Việt Nam lúc
bấy giờ.
Hai chữ nước nhà bài thơ mở đầu cho tập Bút quan hoài I (xuất bản năm 1924). Bài
thơ lấy đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta. Nhà thơ đã mượn lời của người
cha Nguyễn Phi Khanh dặn con là Nguyễn Trãi để gửi gắm nỗi lòng của mình. Đoạn
trích gồm 36 câu thơ thể song thất lục bát.
Đây là đoạn trích trong tập "Bút Quan hoài" sáng tác vào năm 1926. Để phân tích cụ thể
tác phẩm chúng ta có thể chia bài thơ thành ba phần. Phần đầu: Có 8 câu là cảnh chia li
nơi biên giới, giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh - Nguyễn Trãi diễn ra rất ảm đạm,
thê lương.
Phần thứ hai: gồm 20 câu tiếp theo là lời người cha kể về dòng giống Lạc Hồng, về lịch
sử trường tồn mấy ngàn năm của dân tộc và những mất mát đau thương đất nước đang
phải gánh chịu. Phần thứ ba:gồm 8 câu, tác giả đã để cho người cha dặn dò người con,
là nói lên niềm tin tha thiết về đất nước.
Mở đầu bài thơ gi lên khung cảnh i chia ly không thể trở về của người cha, tạo không
khí bao trùm cả bài thơ:
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dặm khơi
Trông con tầm châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên
Mở đầu, tác giả đã gợi lên cảnh đất nước đau thương dưới ách thống trị của giặc ngoại
xâm. Những hình ảnh nhân hóa rất điêu luyện: "mây sầu ảm đạm", "gió thảm đìu hiu" "hổ
thét chim kêu"... Cảnh vật núi sông như mang nỗi đau con người. Cả một không gian
rộng lớn từ "chốn ải Bắc" đến "chốn ải Nam'' và "khắp bốn bể" đều chung một niềm đau
với con người nơi đây. Từng câu thơ như thấm đầy nước mắt, giọng thơ thiết tha não
nùng: "Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước/ Chút thân tàn lần bước dặm khơi / Trông
con tầm tã châu rơi".
Hình ảnh người cha già với chút thân tàn đang lê bước tới chốn lưu đày khiến người con
rất đỗi đau lòng. Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi thật éo le, con muốn đi theo để
phụng dưỡng cha, nhưng cha dằn lòng khuyên con trở lại để mưu tính việc trả thù nhà,
đền nợ nước.
Phần thứ hai là lời dặn từ tâm can của Nguyễn Phi Khanh giành cho Nguyễn Trãi . Nhớ
"hai chữ nước nhà" nhớ về dòng giống Hồng Lạc, nhớ về lịch sử trường tồn "mấy
ngàn năm" của dân tộc, nhớ giang sơn "giời Nam riêng một cõi này", nhđến bao
"anh hùng hiệp nữ" .., để nâng cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Phải thật khâm phục
tác giả đã hóa thân mượn lời bày tỏ nỗi lòng thật tài tình. Nhưng sau đó những câu
thơ bày tỏ bức tranh thê thảm của non sông đất nước, giọng thơ trở nênm phẫn hơn
hết:
Than vận nước gặp khi biến đổi
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm hoạ xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn dân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Thảm vong quốc kể sao cho xiết
Trông đồ nhường tâm can
Ngậm ngùi khóc đất giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng lĩnh như xây khối uất
Sóng Long giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! càng nói càng đau...
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Tác giả sử dụng tự sự và miêu tả xen lẫn những lời cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất
nước nhà tan, tất cả đang chìm ngập trong thảm họa "xương rừng máu sông", lòng dân
căm phẫn. Những từ ngữ hình ảnh "khói lửa bừng bừng", "xương rừng máu sông", "thành
tung quách vỡ", "đất khóc giời than", "xây khối t", "vật cơn sầu"... tuy mang tính ước
lệ, nhưng trong văn cảnh vẫn sức truyền cảm mạnh mẽ đã gợi lên bao nỗi nhục
mất nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược.
Ngoài ra tác giả đã sử dụng những động từ, tính từ có sức gợi cảm cao như: "kể sao xiết
kể", "xé tâm can", "thương tâm", lầm than" và những hình ảnh gây xúc động "Ngậm ngùi
đất khóc giời than" đã phản ánh mức độ bi thảm của thực trạng mất nước lúc bấy giờ.
Tám câu cuối cùng là lời kêu gọi, dặn dò của người cha trước lúc từ biệt:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...
Thay lời cho người cha, Á Nam Trần Tuấn Khải đã viết nên những lời gan ruột, tâm huyết
trao lại cho Nguyễn Trãi. Người cha muốn thắp lên trong người con tin yêu của mình
ngọn lửa căm thù xâm lăng, ngọn lửa ý chí quyết tâm khôi phục cơ đồ nước nhà. Gánh
nặng sơn hà, xã tắc xin uỷ thác cho thế hệ sau này với tất cả niềm tin tưởng và hi vọng .
Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn thủ pháp từ lâu đời trong truyền
thống văn học. Á Nam Trần Tuấn Khải đã thành công khi tạo cảm xúc sâu sắc trước tâm
sự yêu nước mãnh liệt của người cha, cũng tâm sự yêu nước mãnh liệt của nhà thơ
để tác phẩm của ông mãi đi vào lòng người đọc sau này.
Phân tích tác phẩm Hai chữ nước nhà mẫu 3
Trần Tuấn Khải (1895 - 1983), bút hiệu Á Nam quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện
Lộc, tỉnh Nam Định. một nhà Nho tiến bộ, ông thường mượn đề tài lịch sử hoặc
những biểu tượng nghệ thuật bóng gió để kín đáo bộc lộ nỗi đau mất nước, thái độ căm
giận bọn cướp nước cùng lũ tay sai và bày tỏ khát vọng độc lập, tự do của mình, đồng
thời động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào.
Thơ Trần Tuấn Khải được truyền tụng rộng rãi trong giai đoạn đầu thế kỉ XX, nổi tiếng
nhất những bài hát theo làn điệu dân ca như Gánh nước đêm, Anh đi anh nhớ, Hai
chữ nước nhà được viết dưới hình thức thơ lục bát và song thất lục bát.
Hai chữ nước nhà bài thơ mở đầu tập Bút quan hoài I, quyển thứ nhất, sáng tác vào
năm 1924. Mượn đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh,
một viên quan tài giỏi của triều đình phong kiến đương thời bị giặc bắt đem sang Trung
Quốc. Nguyễn Trãi định đi theo để chăm sóc cha nhưng tới biên giới phía Bắc, Nguyễn
Phi Khanh đã khuyên con nên quay về để mưu tính việc trả thù nhà, đền nợ nước.
Đoạn trích trong ch giáo khoa gồm 36 u phần mở đầu của bài thơ dài 101 câu,
nội dung kể lại cuộc chia tay đầy ý nghĩa của cha con Nguyễn Trãi đã được ghi vào lịch
sử chống ngoại xâm đau thương và oanh liệt của dân tộc. Trong cảnh ngộ đau thương,
Nguyễn Phi Khanh gạt lệ khuyên con trai bao điều hữu ích.
Đất nước thịnh suy lẽ thường tình. Làm trai phải biết nuốt hận, chờ thời cơ để trả nợ
nước, báo thù nhà. Người cha già lực bất tòng tâm, đành gửi trọn niềm tin vào con trai,
mong con nối chí lớn của mình, tiếp tục sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng đất
nước. Đoạn trích có thể chia làm ba phần:
Phần 1: Từ đầu... đến lời cha khuyên: Tâm trạng đau đớn của người cha trong cảnh ngộ
éo le;
Phần 2: Tiếp theo... đến sau đó mà: Hiện tình đất nước trong cảnh đau thương, tang tóc.
Phần còn lại: Sự bất lực của người cha và lời trao gửi tâm huyết dành cho con.
Tại sao tác giả lại lấy Hai chữ nước nhà làm tựa đề của bài thơ? Tựa đề đó gắn với
tưởng chung của bài thơ như thế nào? Nước nvốn hai khái niệm, nhưng trong
hoàn cảnh riêng của hai cha con Nguyễn Trãi thời xưa (thế kỉ XV) hoàn cảnh chung
của đất nước ta vào những năm đầu thế kỉ XX thì hai khái niệm đó lại mối liên quan
không thể tách rời. Nước mất thì nhà tan. Thù nhà chỉ thể trả được khi thù nước đã
rửa. Bởi thế Nguyễn Phi Khanh muốn nhắc nhở con hãy lấy nước làm nhà, lấy i
nghĩa với nước thay cho chữ hiếu với cha, như thế là vẹn cả đôi đường.
Sức truyền cảm mạnh mẽ của bài thơ toát lên từ nội dung yêu nước. Tác giả đã tái hiện
khá đầy đủ khung cảnh buổi chia li và tâm trạng đau thương, khắc khoải cua hai cha con
Nguyễn trãi. Điều đó giống như "gảy đúng vào dây đàn yêu nước thương nòi của mọi
lòng người". (Xuân Diệu).
Có thể coi những lời khuyên của Nguyễn Phi Khanh trong bối cảnh nước mất, nhà tan là
lời trăn trối của cha với con trong giờ vĩnh biệt. Các câu cảm thán đã tạo nên âm hưởng
lâm li, thống thiết. Thể thơ song thất lục bát rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng nặng
trĩu buồn thương của nhân vật.
Nội dung bài thơ không chỉ đơn thuần mang tính chất hoài cổ chất chứa tâm sự
phẫn uất, đau thương của tác giả trước tình cảnh nước mất, nhà tan trong hiện tại.
vậy, nó làm rung động lòng người được truyền tụng rộng rãi, đặc biệt là trong tầng lớp
trí thức, thanh niên và học sinh yêu nước. Đốn câu thơ đầu là khung cảnh cuộc chia li:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Cuộc chia tay giữa hai cha con diễn ra biên ải phía Bắc vốn nơi ảm đạm, heo hút,
bốn brừng núi trập trùng, y sầu, gió thảm, hổ thốt, chim kêu... Đối với cuộc ra đi
không ngày trở lại của Nguyễn Phi Khanh thì đây tựa điểm dừng chân cuối cùng để
rồi vĩnh viễn xa lìa Tổ quốc, quê hương và những người ruột thịt. Tâm trạng đau đớn của
kẻ blưu đày biệt xứ đã phlên cảnh vật một màu tang c, thê lương và ngược lại, cảnh
vật ấy càng như giục Cơn sầu trong lòng người vốn nặng tình non nước.
Tình cảm yêu nước của tác giả đã biến những hình ảnh ước lệ và từ ngữ o mòn trong
thơ cổ điển thành chân thực và cảm động. Dường như tác giả được trực tiếp chứng kiến
cuộc chia tay đau đớn ấy a thân vào cả kẻ lẫn người đi để thấu hiểu, đồng cảm
với tâm trạng nhân vật, từ đó viết nên những dòng thơ máu hòa nước mắt:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay.
Giời Nam riêng một cõi này,
Anh hùng hiệp lữ xưa nay kém gì!
Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi thật éo le: cha bị giặc bắt giải sang Tàu, không
mong ngày trở lại; con muốn đi theo để phụng dưỡng cha già cho trọn đạo hiếu, nhưng
cha dằn lòng khuyên con trở lại để mưu tính việc đền nợ nước, trả thù nhà. Đối với cả
hai cha con, nghĩa nước, tình nhà đều thiêng liêng sâu đậm.
Trước cảnh nước mất, nhà tan, cha con li biệt, nỗi đau đớn xót xa trong lòng họ càng
tăng lên gấp bội.Nguyễn Phi Khanh khuyên con những điều tâm huyết. Trước hết, ông
nhắc nhở con về dòng giống cao quý của dân tộc Việt: Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã
định.
Sau đó phân tích cho con hiểu về quy luật của lịch sử là các triều đại phong kiến ắt phải
trải qua các giai đoạn hưng thịnh và suy vong nhưng gương anh hùng, hiệp ncứu nước
thì xưa nay không hiếm không kém những gương sáng trong lịch sử phong kiến
phương Bắc. Để bảo vệ đất nước, người phụ nữ còn làm nghĩa hiệp, huống chi các bậc
nam nhi?!
Nguyễn Phi Khanh lấy bốn chữ Giang sơn làm trọng để giải thích cho Nguyễn Trãi -
người con mà ông yêu quý và tin tưởng nhất. Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, lời
khuyên của người cha ý nghĩa như một lời trăng trối. thiêng liêng, xúc động
cùng, khiến người con phải khắc cốt ghi xương.
Tác giả hóa thân vào Nguyễn Phi Khanh, người bị biệt xứ lưu đày, tâm trĩu nặng nỗi
lo đời để miêu tả tình hình bi thảm của đất nước lên án tội ác trời không dung đất
không tha của quân xâm lược:
Thân vận nước gặp khi biến đổi,
Để quân Minh thừa hội xâm lăng,
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Những câu thơ này xoáy mạnh vào nỗi nhục mất nước trong tâm can người đọc đương
thời. Giặc Pháp bây giờ nào có khác chi giặc Minh thuở ấy, cũng đang gây ra bao cảnh
đau thương tang tóc trên đất nước ta. Xen giữa những dòng tâmđắng cay, chua xót
là những lời cảm thán ngậm ngùi, bi thương:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông đồ nhường tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Những động từ, tính từ có sức gợi cảm cao như: kể sao xiết kể, tâm can, thương tâm,
lầm than đã phản ánh mức độ bi thảm của thực trạng mất nước lúc bấy giờ. Gây xúc
động nhất là hình ảnh: Ngậm ngùi đất khóc giời than, quả là "tình cảnh cảm sầu, kể sao
cho xiết" đúng như nhận định của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.
Tâm sự đau đớn của Nguyễn Phi Khanh được thể hiện trong bài thơ là nỗi đau lớn lao,
vượt lên số phận cá nhân, trở thành nỗi đau non nước. Mỗi lời nhắn nhủ con một tiếng
than, tiếng nấc nghẹn ngào, cay đắng. Giọng thơ bi phẫn vốn sở trường của Trần Tuấn
Khải rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng khắc khoải, buồn thương của nhân vật Nguyễn
Phi Khanh. Do đó bài thơ sức lay động lòng người, nhất đối với những tâm hồn
đồng điệu đương thời.
Trong những giây phút cuối cùng được sống bên con, Nguyễn Phi Khanh đã đặt ra cho
Nguyễn Trãi một câu hỏi lớn, cũng là nỗi niềm băn khoăn không lúc nào nguôi trong lòng
ông:
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Tác giả mượn hình ảnh khói núi Nùng, sóng sông Nhị (sông Hồng còn gọi Nhị Hà) biểu
tượng của kinh đô nước Đại Việt để thể hiện mức độ căm giận quân xâm lược của mình,
cơ nghiệp lớn lao vững chắc của ông cha, tổ tiên gây dựng tự bao đời, nay con cháu há
lại để rơi vào tay giặc dữ? Nói đến tình cảnh "lực bất tòng tâm" của Nguyễn Phi Khanh,
ngòi bút tác giả như đẫm nước mắt:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...
Tất cả những lời nói trên của Nguyễn Phi Khanh đều lời gan ruột, tâm huyết trao lại
cho con. Gánh nặng sơn hà, tắc đã uỷ thác cho thế hệ sau với tất cả niềm tin tưởng
hi vọng. Lời khuyên của cha kích thích, hun đúc chí nam nhi của con, động viên con
hãy tỏ ra xứng đáng với sự nghiệp oanh liệt của tổ tông đã bao phen vì nước.
Hai chữ nước nhà là bài thơ nổi tiếng của Á Nam Trần Tuấn Khải. Tác giả tái hiện cuộc
chia tay giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất
nhà tan để thông qua đó bộc lộ cảm xúc của mình, đồng thời khích lệ lòng yêu nước, ý
chí cứu nước của đồng bào ta. Tình cảm sâu đậm, mãnh liệt đối với nước nhà của tác
giả đã tạo nên sức sống lâu dài cho bài thơ.
Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét rất đúng: "Hai chữ nước nhà được xem là bài thơ hay nhất
đã tổng hợp các típ văn thơ yêu nước của Á Nam, từ giọng bi tráng đến giọng mỉa
mai, từ chất căm hờn đến lời mắng mỏ, từ sự dỗi tức nguyền rủa bọn Việt gian chết tiệt
đến nỗi đau thương ôm lấy bà mẹ giang san".
Phân tích tác phẩm Hai chữ nước nhà mẫu 4
Những năm 20 của thế kỉ trước, những bài thơ hát theo làn điệu dân ca, những bài thơ
lục bát, song thất lục bát, thất ngôn... được truyền sâu rộng trong dân gian. Những
gương anh hùng được Trần Tuấn Khải nói đến có giá trị khích lệ tinh thần yêu nước, nói
lên nỗi đau nhục nô lệ lầm than, bày tỏ khát vọng độc lập tự do không bao giờ nguôi.
Đoạn trích bài thơ "hai chữ nước nhà" gồm 36 câu thơ song thất lục bát được Trần
Tuấn Khải sáng tác vào năm 1926, in trong tập "Bút quan hoài". Trong lời đề từ, nhà thơ
nói rõ cảm hứng của mình là "nghĩ tới lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị
quân Minh bắt giải sang Tàu". Qua đó,ta cảm nhận được "Hai chữ nước nhà" là bài thơ
mượn đề tài lịch sử để thể hiện cảm hứng yêu nước, kích thích lòng yêu nước cho quốc
dân đồng bào khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp.
Lời đề từ đưa chúng ta trở về những năm tháng đau thương của đất nước dân tộc.
Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, dìm đất nước ta vào trong máu lửa, chúng ta
bắt cha con ông Hồ Quý Li một số đại thần, trong đó Nguyễn Phi Khanh giải về
Tàu. thể nói bài thơ lời cha dặn con về "Hai chữ nước nhà", về mối thù nhà nợ
nước.
Trong phần đầu tiên của đoạn trích, tác giả đã gợi lên cảnh đất nước đau thương dưới
ách thống trị của giặc Minh tàn bạo. Những hình ảnh nhân hóa rất gợi: "mây sầu ảm
đạm", "gió thảm đìu hiu" "hổ thét chim kêu"... Cảnh vật núi sông như mang nỗi đau con
người. Cả một không gian rộng lớn từ "chốn ải Bắc" đến "chốn ải Nam’' "khắp bốn bể"
đều thấm máu và nước mắt của hàng triệu con người:
"Chốn ải Bắc, mây sầu ảm đạm,
Cõi trời Nam, gió thảm đìu hiu
Bốn bể hổ thét chim kêu..."
Trước thảm cảnh "vong quốc", người cha già trên con đường đi đày càng ngổn ngang
nỗi niềm. Các chữ, các hình ảnh như: "bất bình", "hạt máu nóng thấm quanh hồn nước",
"tầm châu rơi" đã nói lên một cách cảm động "di hận" của người anh hùng thất thế,
một bi kịch lịch sử của cha con Phi Khanh Nguyễn Trãi. Câu thơ như thấm đầy lệ,
giọng thơ thiết tha não nùng:
"Trông con tầm châu rơi
Con ơi! Con nhớ lấy lời cha khuyên"
Nguyễn Trãi câu thơ chữ Hán "Anh hùng di hận kỉ thiên niên", nghĩa người anh
hùng để lại mối hận đến nghìn năm. Phần đầu bài "hai chữ nước nhà", Trần Tuấn Khải
đã nói lên thật xúc động nỗi đau nước mất nhà tan, nỗi "di hận" của người anh hùng thất
thế Nguyễn Phi Khanh.
Phần thhai những lời thống thiết cha dặn con. Nhớ "hai chữ nước nhà" nhớ về
dòng giống Hồng Lạc, là nhớ về lịch sử trường tồn "mấy ngàn năm" của dân tộc, là nhớ
giang sơn "giời Nam riêng một cõi này", là nhớ đến bao "anh hùng hiệp nữ" như: Hai Bà
Trưng, Bà Triệu, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn... Nhớ "Hai chữ nước nhà" là để nâng
cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc:
"Giời Nam riêng một cõi này
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!"
Giọng thơ trở nên bừng bừng căm giận khi cha dặn con hãy khắc cốt ghi tâm những tội
ác tày trời của quân "cuồng Minh":
"Bốn phương khói lửa bừng bừng .
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn
.....
Khói Hùng Lĩnh như xây khói uất
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu”
Những từ ngữ hình ảnh "khói lửa bừng bừng", "xương rừng máu sông", "thành tung
quách vỡ", "đất khóc giời than", "xây khối nát", "vật cơn sầu"... tuy mang tính ước lệ,
nhưng trong văn cảnh vẫn sức truyền cảm mạnh mẽ đã gợi lên bao nỗi nhục mất
nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược. Đặc biệt đoạn thơ của Trần Tuấn Khải đã
đem đến liên tưởng cho người đọc về "Bình Ngô đại cáo"đoạn nói về tội ác giặc Minh tàn
bạo:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kể,
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi..."
Người cha bị cùm trói, bị giải sang Tàu, nhìn đồ giang san đau đớn như tâm
can. Càng đau đớn, ông càng lo lắng cho vận mnh của đất nước, tương lai của giống
nòi. Câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ cất lên vô cùng thống thiết:
"Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai tế độ đần sau đó mà?"
Vần thơ như chứa đầy lệ, lời than, tiếng nức nở. Lời cha dặn con cũng lời non
nước. Tám câu cuối trong phần cuối bài thơ vừa nói lên bi kịch của người cha: "tuổi già
sức yếu", "sa đành chịu tay"... vừa trông cậy vào con đtrả thù, rửa hận nước:
"Giang san gánh vác sau y cậy con"... Cha thiết tha dặn con lần cuối: "nước" hãy
"nhớ tổ tông", hãy đem máu đào hi sinh chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Đó
"hai chữ nước nhà" đó là những lời huyết lệ:
"Con nên nhớ tổ tông khi trước
Đã từng phen nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây..."
"Hai chữ nước nhà" là một bài thơ hay và cảm động. Nói lên một cách hàm súc cô đọng
nỗi đau, nỗi nhục mất nước của dân tộc ta trong thế kỉ XV căm thù đối với giặc Minh
cướp nước. Sâu xa hơn, bài thơ đã khích lệ lòng yêu nước của đồng bào, ku gợi khát
vọng độc lập tự do của dân tộc khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp. "Hai chữ
nước nhà" vừa là lời cha dặn con, vừa là lời Tổ quốc kêu gọi.
Từ ngôn ngữ, hình ảnh đến giọng thơ, vần thơ, từ những cặp câu thất ngôn đối nhau đến
những hình ảnh nhân hóa, tượng trưng ước lệ đều cho thấy một bút pháp nghệ thuật rất
già dặn, giàu bản sắc của Á Nam. Trong thời Pháp thuộc, bài thơ "Hai chữ nước nhà" đã
làm lay động hàng triệu con người. Ngày nay, nó vẫn làm ta xúc động.
| 1/10

Preview text:

Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải
Phân tích tác phẩm Hai chữ nước nhà mẫu 1
Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi
đau mất nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào. Ở những năm đầu thế kỉ XX,
ông là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu với giọng điệu bi tráng, thống thiết. Hai
chữ nước nhà là tác phẩm tiêu biểu của ông. Dưới hình thức song thất lục bát, bài thơ
Hai chữ nước nhà để lại một ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc trong lòng người đọc. "Tâm
trạng xã hội khoảng 1926 uất ức, bi tráng, điệu lục bát du dương êm hòa không đủ, mà
đòi hỏi một điệu thơ song thất lục bát để toát, để thoát, xé nỗi niềm u uất đè nặng tâm hồn" (Xuân Diệu).
Cuộc chia tay cảm động giữa hai cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước
mất nhà tan trong bài thơ là những khoảnh khắc đặc biệt, có sức lay động lớn đã được
Trần Tuấn Khải sử dụng để kí thác tâm trạng, cảm xúc hiện tại, thực của mình. Lời trăng
trối của người cha đối với con khi vĩnh biệt trĩu nặng ân tình, nhuốm đậm những đau
thương. Tiếng lòng sầu thảm, ai oán kia khi thì trùng điệp dồn nén, khi thì da diết xót xa.
Tác giả quả là đã không uổng công chút nào khi lựa chọn âm điệu phong phú của thể
thơ song thất lục bát để dồn tả những tiếng lòng ấy.
Có thể hình dung bố cục của văn bản trích Hai chữ nước nhà thành ba phần. Phần 1 (8
câu thơ đầu): Diễn tả tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau lòng; phần 2
(20 câu tiếp): Phác họa tình cảnh đau thương tang tóc của đất nước; phần 3 (8 câu thơ
còn lại): Xót phận mình bất lực, người cha trao gửi cho con tâm nguyện cứu nước. Đi
vào tìm hiểu từng phần ta sẽ cảm nhận được mạch xúc cảm thống thiết, chân thành của bài thơ.
Ở 8 câu thơ đầu, tác giả gợi ra bối cảnh không gian biên ải ảm đạm, hun hút và tâm trạng
của nhân vật trữ tình. Bốn câu đầu là không gian chia li:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Trong cuộc ra đi không có ngày trở lại thì biên ải này chính là điểm mà Nguyễn Phi Khanh
vĩnh biệt tổ quốc, quê hương, vĩnh biệt người con thân yêu của mình. Tâm trạng của kẻ
sắp ra đi vĩnh viễn phủ lên khung cảnh vốn đã heo hút, ảm đạm một màu tang tóc, thê
lương. Tâm sầu, cảnh sầu cũ khơi gợi lẫn nhau thành một mối sầu thảm tái tê, u hoài
dằng dặc. Đoạn thơ này tạo ra không khí chung cho toàn bài, không khí thời cuộc năm
xưa (thời Phi Khanh - Nguyễn Trãi) và cũng là không khí của xã hội Việt Nam những năm
20 thế kỉ XX. Bốn câu tiếp đầm đìa máu lệ:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tài lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giờ phút này đây, cha sẽ ra đi mà chẳng bao giờ về nữa. Đất nước lầm than, cha con li
biệt, tình đất nước lớn lao hòa trong tình phụ tử sâu nặng Nguyễn Phi Khanh bị giải sang
Tàu. Để làm tròn đạo hiếu với cha già, Nguyễn Trãi muốn đi theo để phụng dưỡng. Nhưng
Phi Khanh gạt tình riêng, dằn lòng khuyên con trở lại để trả thù nhà, đền nợ nước. Người
sắp ra đi vĩnh viễn thường nói những lời gan ruột, những lời mà người còn sống phải khắc cốt ghi xương.
Tấm lòng đối với đất nước của người cha thật cảm động. Ở những câu thơ tiếp theo
trong phần 2 tác giả đã hóa thân vào người trong cuộc li tan để phát ra tình cảnh đau
thương của đất nước lầm than nô lệ. Trong đó tác giả sử dụng cả tự sự và miêu tả xen
lẫn những lời cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất nước nhà tan, tất cả đang chìm ngập
trong thảm họa "xương rừng máu sông"; uất hận sầu đau đang ngùn ngụt ngút trời:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đổ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Nỗi đau ở đây là một nỗi đau lớn, vượt lên nỗi đau riêng để thành nỗi đau cao cả, thiêng
liêng của cả đất nước, giống nòi. Sự lớn lao ấy được diễn tả bằng hàng loạt các hình ảnh
mang tầm vóc vĩ mô: Vong quốc, cơ đồ, đất khóc, giời than, nòi giống. Dòng xúc cảm
mãnh liệt thống thiết biểu hiện qua những từ ngữ diễn tả tình cảm ở cung bậc mạnh, bi
thiết: Kể sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc than, thương tâm. Mỗi dòng thơ là một
tiếng kêu than đứt ruột, đầy những hờn căm, bi phẫn. Chẳng đủ nước mắt để khóc than
cho những đớn đau đang tràn ngập giang sơn, đắng cay đành nuốt sâu trong dạ, người
cha nhắn nhủ tâm huyết lại cho con:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...
Nói phận mình bất lực để ủy thác tất cả cho con, cha "tuổi già sức yếu", lại gặp cơn nguy
nan, đành uất hận, tủi hờn mà bó tay. Khơi gợi lại truyền thống kiên cường bất khuất của
tổ tiên, người cha muốn thắp lên trong người con tin yêu của mình ngọn lửa căm thù xâm
lăng, ngọn lửa ý chí quyết tâm khôi phục cơ đồ nước nhà và là cả niềm hi vọng lớn vào
con trước khi đi mãi. Lời trao gửi nặng tựa Thái sơn. Nước mất thì nhà cũng tan, thù nhà
chỉ có thể trả được khi thù nước đã rửa sạch. Nguyễn Phi Khanh muốn con mình biến
nỗi đau mất cha thành nỗi hận mất nước.
Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủ pháp có từ lâu đời trong truyền
thống văn học. Trần Tuấn Khải đã rất thành công khi lựa chọn chuyện chia li giữa hai cha
con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi để gửi gắm tâm sự, nỗi đau mất nước nhằm khơi
gợi tinh thần yêu nước thương nòi khi non sông đang bị giày xéo bởi gót giày thực dân.
Bằng tình cảm sâu đậm, mãnh liệt, với một giọng điệu thống thiết, thán ca, tác giả của
Hai chữ nước nhà đã thực hiện bổn phận, sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ yêu nước.
Thơ ông thôi thúc lòng người, khích lệ mọi người tranh đấu cho giang sơn độc lập, tự do.
Phân tích tác phẩm Hai chữ nước nhà mẫu 2
Tác giả: Á Nam Trần Tuấn Khải (1895 - 1983), bút hiệu Á Nam quê ở làng Quang Xán,
xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Á Nam Á Nam Trần Tuấn Khải thường mượn
những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, qua đó mà thức
tỉnh tinh thần của đồng bào
Bài thơ nổi bật và để lại nhiều ấn tượng nhất của tác giả có lẽ là " Hai chữ nước nhà".
Bởi lẽ sáng tác đó đã nói hộ tấm lòng và trái tim yêu nước của người dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu cho tập Bút quan hoài I (xuất bản năm 1924). Bài
thơ lấy đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta. Nhà thơ đã mượn lời của người
cha là Nguyễn Phi Khanh dặn dò con là Nguyễn Trãi để gửi gắm nỗi lòng của mình. Đoạn
trích gồm 36 câu thơ thể song thất lục bát.
Đây là đoạn trích trong tập "Bút Quan hoài" sáng tác vào năm 1926. Để phân tích cụ thể
tác phẩm chúng ta có thể chia bài thơ thành ba phần. Phần đầu: Có 8 câu là cảnh chia li
ở nơi biên giới, giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh - Nguyễn Trãi diễn ra rất ảm đạm, thê lương.
Phần thứ hai: gồm 20 câu tiếp theo là lời người cha kể về dòng giống Lạc Hồng, về lịch
sử trường tồn mấy ngàn năm của dân tộc và những mất mát đau thương đất nước đang
phải gánh chịu. Phần thứ ba:gồm 8 câu, tác giả đã để cho người cha dặn dò người con,
là nói lên niềm tin tha thiết về đất nước.
Mở đầu bài thơ gợi lên khung cảnh nơi chia ly không thể trở về của người cha, tạo không
khí bao trùm cả bài thơ:
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dặm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên
Mở đầu, tác giả đã gợi lên cảnh đất nước đau thương dưới ách thống trị của giặc ngoại
xâm. Những hình ảnh nhân hóa rất điêu luyện: "mây sầu ảm đạm", "gió thảm đìu hiu" "hổ
thét chim kêu"... Cảnh vật núi sông như mang nỗi đau con người. Cả một không gian
rộng lớn từ "chốn ải Bắc" đến "chốn ải Nam'' và "khắp bốn bể" đều chung một niềm đau
với con người nơi đây. Từng câu thơ như thấm đầy nước mắt, giọng thơ thiết tha não
nùng: "Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước/ Chút thân tàn lần bước dặm khơi / Trông con tầm tã châu rơi".
Hình ảnh người cha già với chút thân tàn đang lê bước tới chốn lưu đày khiến người con
rất đỗi đau lòng. Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi thật éo le, con muốn đi theo để
phụng dưỡng cha, nhưng cha dằn lòng khuyên con trở lại để mưu tính việc trả thù nhà, đền nợ nước.
Phần thứ hai là lời dặn từ tâm can của Nguyễn Phi Khanh giành cho Nguyễn Trãi . Nhớ
"hai chữ nước nhà" là nhớ về dòng giống Hồng Lạc, là nhớ về lịch sử trường tồn "mấy
ngàn năm" của dân tộc, là nhớ giang sơn "giời Nam riêng một cõi này", là nhớ đến bao
"anh hùng hiệp nữ" .., là để nâng cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Phải thật khâm phục
tác giả đã hóa thân mượn lời bày tỏ nỗi lòng thật tài tình. Nhưng sau đó là những câu
thơ bày tỏ bức tranh thê thảm của non sông đất nước, giọng thơ trở nên căm phẫn hơn hết:
Than vận nước gặp khi biến đổi
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm hoạ xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn dân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Thảm vong quốc kể sao cho xiết
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi khóc đất giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng lĩnh như xây khối uất
Sóng Long giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! càng nói càng đau...
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Tác giả sử dụng tự sự và miêu tả xen lẫn những lời cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất
nước nhà tan, tất cả đang chìm ngập trong thảm họa "xương rừng máu sông", lòng dân
căm phẫn. Những từ ngữ hình ảnh "khói lửa bừng bừng", "xương rừng máu sông", "thành
tung quách vỡ", "đất khóc giời than", "xây khối nát", "vật cơn sầu"... tuy mang tính ước
lệ, nhưng trong văn cảnh vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ vì đã gợi lên bao nỗi nhục
mất nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược.
Ngoài ra tác giả đã sử dụng những động từ, tính từ có sức gợi cảm cao như: "kể sao xiết
kể", "xé tâm can", "thương tâm", lầm than" và những hình ảnh gây xúc động "Ngậm ngùi
đất khóc giời than" đã phản ánh mức độ bi thảm của thực trạng mất nước lúc bấy giờ.
Tám câu cuối cùng là lời kêu gọi, dặn dò của người cha trước lúc từ biệt:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...
Thay lời cho người cha, Á Nam Trần Tuấn Khải đã viết nên những lời gan ruột, tâm huyết
trao lại cho Nguyễn Trãi. Người cha muốn thắp lên trong người con tin yêu của mình
ngọn lửa căm thù xâm lăng, ngọn lửa ý chí quyết tâm khôi phục cơ đồ nước nhà. Gánh
nặng sơn hà, xã tắc xin uỷ thác cho thế hệ sau này với tất cả niềm tin tưởng và hi vọng .
Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủ pháp có từ lâu đời trong truyền
thống văn học. Á Nam Trần Tuấn Khải đã thành công khi tạo cảm xúc sâu sắc trước tâm
sự yêu nước mãnh liệt của người cha, cũng là tâm sự yêu nước mãnh liệt của nhà thơ
để tác phẩm của ông mãi đi vào lòng người đọc sau này.
Phân tích tác phẩm Hai chữ nước nhà mẫu 3
Trần Tuấn Khải (1895 - 1983), bút hiệu Á Nam quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện
Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Là một nhà Nho tiến bộ, ông thường mượn đề tài lịch sử hoặc
những biểu tượng nghệ thuật bóng gió để kín đáo bộc lộ nỗi đau mất nước, thái độ căm
giận bọn cướp nước cùng bè lũ tay sai và bày tỏ khát vọng độc lập, tự do của mình, đồng
thời động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào.
Thơ Trần Tuấn Khải được truyền tụng rộng rãi trong giai đoạn đầu thế kỉ XX, nổi tiếng
nhất là những bài hát theo làn điệu dân ca như Gánh nước đêm, Anh đi anh nhớ, Hai
chữ nước nhà được viết dưới hình thức thơ lục bát và song thất lục bát.
Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu tập Bút quan hoài I, quyển thứ nhất, sáng tác vào
năm 1924. Mượn đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh,
một viên quan tài giỏi của triều đình phong kiến đương thời bị giặc bắt đem sang Trung
Quốc. Nguyễn Trãi định đi theo để chăm sóc cha nhưng tới biên giới phía Bắc, Nguyễn
Phi Khanh đã khuyên con nên quay về để mưu tính việc trả thù nhà, đền nợ nước.
Đoạn trích trong sách giáo khoa gồm 36 câu là phần mở đầu của bài thơ dài 101 câu,
nội dung kể lại cuộc chia tay đầy ý nghĩa của cha con Nguyễn Trãi đã được ghi vào lịch
sử chống ngoại xâm đau thương và oanh liệt của dân tộc. Trong cảnh ngộ đau thương,
Nguyễn Phi Khanh gạt lệ khuyên con trai bao điều hữu ích.
Đất nước thịnh suy là lẽ thường tình. Làm trai phải biết nuốt hận, chờ thời cơ để trả nợ
nước, báo thù nhà. Người cha già lực bất tòng tâm, đành gửi trọn niềm tin vào con trai,
mong con nối chí lớn của mình, tiếp tục sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng đất
nước. Đoạn trích có thể chia làm ba phần:
Phần 1: Từ đầu... đến lời cha khuyên: Tâm trạng đau đớn của người cha trong cảnh ngộ éo le;
Phần 2: Tiếp theo... đến sau đó mà: Hiện tình đất nước trong cảnh đau thương, tang tóc.
Phần còn lại: Sự bất lực của người cha và lời trao gửi tâm huyết dành cho con.
Tại sao tác giả lại lấy Hai chữ nước nhà làm tựa đề của bài thơ? Tựa đề đó gắn với tư
tưởng chung của bài thơ như thế nào? Nước và nhà vốn là hai khái niệm, nhưng trong
hoàn cảnh riêng của hai cha con Nguyễn Trãi thời xưa (thế kỉ XV) và hoàn cảnh chung
của đất nước ta vào những năm đầu thế kỉ XX thì hai khái niệm đó lại có mối liên quan
không thể tách rời. Nước mất thì nhà tan. Thù nhà chỉ có thể trả được khi thù nước đã
rửa. Bởi thế Nguyễn Phi Khanh muốn nhắc nhở con là hãy lấy nước làm nhà, lấy cái
nghĩa với nước thay cho chữ hiếu với cha, như thế là vẹn cả đôi đường.
Sức truyền cảm mạnh mẽ của bài thơ toát lên từ nội dung yêu nước. Tác giả đã tái hiện
khá đầy đủ khung cảnh buổi chia li và tâm trạng đau thương, khắc khoải cua hai cha con
Nguyễn trãi. Điều đó giống như "gảy đúng vào dây đàn yêu nước thương nòi của mọi
lòng người". (Xuân Diệu).
Có thể coi những lời khuyên của Nguyễn Phi Khanh trong bối cảnh nước mất, nhà tan là
lời trăn trối của cha với con trong giờ vĩnh biệt. Các câu cảm thán đã tạo nên âm hưởng
lâm li, thống thiết. Thể thơ song thất lục bát rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng nặng
trĩu buồn thương của nhân vật.
Nội dung bài thơ không chỉ đơn thuần mang tính chất hoài cổ mà nó chất chứa tâm sự
phẫn uất, đau thương của tác giả trước tình cảnh nước mất, nhà tan trong hiện tại. Vì
vậy, nó làm rung động lòng người và được truyền tụng rộng rãi, đặc biệt là trong tầng lớp
trí thức, thanh niên và học sinh yêu nước. Đốn câu thơ đầu là khung cảnh cuộc chia li:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Cuộc chia tay giữa hai cha con diễn ra ở biên ải phía Bắc vốn là nơi ảm đạm, heo hút,
bốn bề rừng núi trập trùng, mây sầu, gió thảm, hổ thốt, chim kêu... Đối với cuộc ra đi
không có ngày trở lại của Nguyễn Phi Khanh thì đây tựa điểm dừng chân cuối cùng để
rồi vĩnh viễn xa lìa Tổ quốc, quê hương và những người ruột thịt. Tâm trạng đau đớn của
kẻ bị lưu đày biệt xứ đã phủ lên cảnh vật một màu tang tóc, thê lương và ngược lại, cảnh
vật ấy càng như giục Cơn sầu trong lòng người vốn nặng tình non nước.
Tình cảm yêu nước của tác giả đã biến những hình ảnh ước lệ và từ ngữ sáo mòn trong
thơ cổ điển thành chân thực và cảm động. Dường như tác giả được trực tiếp chứng kiến
cuộc chia tay đau đớn ấy và hóa thân vào cả kẻ ở lẫn người đi để thấu hiểu, đồng cảm
với tâm trạng nhân vật, từ đó viết nên những dòng thơ máu hòa nước mắt:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay.
Giời Nam riêng một cõi này,
Anh hùng hiệp lữ xưa nay kém gì!
Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi thật éo le: cha bị giặc bắt giải sang Tàu, không
mong ngày trở lại; con muốn đi theo để phụng dưỡng cha già cho trọn đạo hiếu, nhưng
cha dằn lòng khuyên con trở lại để mưu tính việc đền nợ nước, trả thù nhà. Đối với cả
hai cha con, nghĩa nước, tình nhà đều thiêng liêng sâu đậm.
Trước cảnh nước mất, nhà tan, cha con li biệt, nỗi đau đớn xót xa trong lòng họ càng
tăng lên gấp bội.Nguyễn Phi Khanh khuyên con những điều tâm huyết. Trước hết, ông
nhắc nhở con về dòng giống cao quý của dân tộc Việt: Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định.
Sau đó phân tích cho con hiểu về quy luật của lịch sử là các triều đại phong kiến ắt phải
trải qua các giai đoạn hưng thịnh và suy vong nhưng gương anh hùng, hiệp nữ cứu nước
thì xưa nay không hiếm và không kém gì những gương sáng trong lịch sử phong kiến
phương Bắc. Để bảo vệ đất nước, người phụ nữ còn làm nghĩa hiệp, huống chi các bậc nam nhi?!
Nguyễn Phi Khanh lấy bốn chữ Giang sơn làm trọng để giải thích cho Nguyễn Trãi -
người con mà ông yêu quý và tin tưởng nhất. Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, lời
khuyên của người cha có ý nghĩa như một lời trăng trối. Nó thiêng liêng, xúc động vô
cùng, khiến người con phải khắc cốt ghi xương.
Tác giả hóa thân vào Nguyễn Phi Khanh, người bị biệt xứ lưu đày, tâm tư trĩu nặng nỗi
lo đời để miêu tả tình hình bi thảm của đất nước và lên án tội ác trời không dung đất
không tha của quân xâm lược:
Thân vận nước gặp khi biến đổi,
Để quân Minh thừa hội xâm lăng,
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Những câu thơ này xoáy mạnh vào nỗi nhục mất nước trong tâm can người đọc đương
thời. Giặc Pháp bây giờ nào có khác chi giặc Minh thuở ấy, cũng đang gây ra bao cảnh
đau thương tang tóc trên đất nước ta. Xen giữa những dòng tâm tư đắng cay, chua xót
là những lời cảm thán ngậm ngùi, bi thương:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Những động từ, tính từ có sức gợi cảm cao như: kể sao xiết kể, xé tâm can, thương tâm,
lầm than đã phản ánh mức độ bi thảm của thực trạng mất nước lúc bấy giờ. Gây xúc
động nhất là hình ảnh: Ngậm ngùi đất khóc giời than, quả là "tình cảnh cảm sầu, kể sao
cho xiết" đúng như nhận định của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.
Tâm sự đau đớn của Nguyễn Phi Khanh được thể hiện trong bài thơ là nỗi đau lớn lao,
vượt lên số phận cá nhân, trở thành nỗi đau non nước. Mỗi lời nhắn nhủ con là một tiếng
than, tiếng nấc nghẹn ngào, cay đắng. Giọng thơ bi phẫn vốn là sở trường của Trần Tuấn
Khải rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng khắc khoải, buồn thương của nhân vật Nguyễn
Phi Khanh. Do đó bài thơ có sức lay động lòng người, nhất là đối với những tâm hồn
đồng điệu đương thời.
Trong những giây phút cuối cùng được sống bên con, Nguyễn Phi Khanh đã đặt ra cho
Nguyễn Trãi một câu hỏi lớn, cũng là nỗi niềm băn khoăn không lúc nào nguôi trong lòng ông:
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Tác giả mượn hình ảnh khói núi Nùng, sóng sông Nhị (sông Hồng còn gọi là Nhị Hà) biểu
tượng của kinh đô nước Đại Việt để thể hiện mức độ căm giận quân xâm lược của mình,
cơ nghiệp lớn lao vững chắc của ông cha, tổ tiên gây dựng tự bao đời, nay con cháu há
lại để rơi vào tay giặc dữ? Nói đến tình cảnh "lực bất tòng tâm" của Nguyễn Phi Khanh,
ngòi bút tác giả như đẫm nước mắt:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...
Tất cả những lời nói trên của Nguyễn Phi Khanh đều là lời gan ruột, tâm huyết trao lại
cho con. Gánh nặng sơn hà, xã tắc đã uỷ thác cho thế hệ sau với tất cả niềm tin tưởng
và hi vọng. Lời khuyên của cha kích thích, hun đúc chí nam nhi của con, động viên con
hãy tỏ ra xứng đáng với sự nghiệp oanh liệt của tổ tông đã bao phen vì nước.
Hai chữ nước nhà là bài thơ nổi tiếng của Á Nam Trần Tuấn Khải. Tác giả tái hiện cuộc
chia tay giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất
nhà tan để thông qua đó bộc lộ cảm xúc của mình, đồng thời khích lệ lòng yêu nước, ý
chí cứu nước của đồng bào ta. Tình cảm sâu đậm, mãnh liệt đối với nước nhà của tác
giả đã tạo nên sức sống lâu dài cho bài thơ.
Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét rất đúng: "Hai chữ nước nhà được xem là bài thơ hay nhất
đã tổng hợp các mô típ văn thơ yêu nước của Á Nam, từ giọng bi tráng đến giọng mỉa
mai, từ chất căm hờn đến lời mắng mỏ, từ sự dỗi tức nguyền rủa bọn Việt gian chết tiệt
đến nỗi đau thương ôm lấy bà mẹ giang san".
Phân tích tác phẩm Hai chữ nước nhà mẫu 4
Những năm 20 của thế kỉ trước, những bài thơ hát theo làn điệu dân ca, những bài thơ
lục bát, song thất lục bát, thất ngôn... được truyền bá sâu rộng trong dân gian. Những
gương anh hùng được Trần Tuấn Khải nói đến có giá trị khích lệ tinh thần yêu nước, nói
lên nỗi đau nhục nô lệ lầm than, bày tỏ khát vọng độc lập tự do không bao giờ nguôi.
Đoạn trích bài thơ "hai chữ nước nhà" gồm có 36 câu thơ song thất lục bát được Trần
Tuấn Khải sáng tác vào năm 1926, in trong tập "Bút quan hoài". Trong lời đề từ, nhà thơ
nói rõ cảm hứng của mình là "nghĩ tới lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị
quân Minh bắt giải sang Tàu". Qua đó,ta cảm nhận được "Hai chữ nước nhà" là bài thơ
mượn đề tài lịch sử để thể hiện cảm hứng yêu nước, kích thích lòng yêu nước cho quốc
dân đồng bào khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp.
Lời đề từ đưa chúng ta trở về những năm tháng đau thương của đất nước và dân tộc.
Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, dìm đất nước ta vào trong máu lửa, chúng ta
bắt cha con ông Hồ Quý Li và một số đại thần, trong đó có Nguyễn Phi Khanh giải về
Tàu. Có thể nói bài thơ là lời cha dặn con về "Hai chữ nước nhà", về mối thù nhà nợ nước.
Trong phần đầu tiên của đoạn trích, tác giả đã gợi lên cảnh đất nước đau thương dưới
ách thống trị của giặc Minh tàn bạo. Những hình ảnh nhân hóa rất gợi: "mây sầu ảm
đạm", "gió thảm đìu hiu" "hổ thét chim kêu"... Cảnh vật núi sông như mang nỗi đau con
người. Cả một không gian rộng lớn từ "chốn ải Bắc" đến "chốn ải Nam’' và "khắp bốn bể"
đều thấm máu và nước mắt của hàng triệu con người:
"Chốn ải Bắc, mây sầu ảm đạm,
Cõi trời Nam, gió thảm đìu hiu
Bốn bể hổ thét chim kêu..."
Trước thảm cảnh "vong quốc", người cha già trên con đường đi đày càng ngổn ngang
nỗi niềm. Các chữ, các hình ảnh như: "bất bình", "hạt máu nóng thấm quanh hồn nước",
"tầm tã châu rơi" đã nói lên một cách cảm động "di hận" của người anh hùng thất thế,
một bi kịch lịch sử của cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi. Câu thơ như thấm đầy lệ,
giọng thơ thiết tha não nùng:
"Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi! Con nhớ lấy lời cha khuyên"
Nguyễn Trãi có câu thơ chữ Hán "Anh hùng di hận kỉ thiên niên", nghĩa là người anh
hùng để lại mối hận đến nghìn năm. Phần đầu bài "hai chữ nước nhà", Trần Tuấn Khải
đã nói lên thật xúc động nỗi đau nước mất nhà tan, nỗi "di hận" của người anh hùng thất thế Nguyễn Phi Khanh.
Phần thứ hai là những lời thống thiết cha dặn con. Nhớ "hai chữ nước nhà" là nhớ về
dòng giống Hồng Lạc, là nhớ về lịch sử trường tồn "mấy ngàn năm" của dân tộc, là nhớ
giang sơn "giời Nam riêng một cõi này", là nhớ đến bao "anh hùng hiệp nữ" như: Hai Bà
Trưng, Bà Triệu, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn... Nhớ "Hai chữ nước nhà" là để nâng
cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc:
"Giời Nam riêng một cõi này
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!"
Giọng thơ trở nên bừng bừng căm giận khi cha dặn con hãy khắc cốt ghi tâm những tội
ác tày trời của quân "cuồng Minh":
"Bốn phương khói lửa bừng bừng .
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn .....
Khói Hùng Lĩnh như xây khói uất
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu”
Những từ ngữ hình ảnh "khói lửa bừng bừng", "xương rừng máu sông", "thành tung
quách vỡ", "đất khóc giời than", "xây khối nát", "vật cơn sầu"... tuy mang tính ước lệ,
nhưng trong văn cảnh vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ vì đã gợi lên bao nỗi nhục mất
nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược. Đặc biệt đoạn thơ của Trần Tuấn Khải đã
đem đến liên tưởng cho người đọc về "Bình Ngô đại cáo"đoạn nói về tội ác giặc Minh tàn bạo:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kể,
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi..."
Người cha bị cùm trói, bị giải sang Tàu, nhìn cơ đồ giang san mà đau đớn như xé tâm
can. Càng đau đớn, ông càng lo lắng cho vận mệnh của đất nước, tương lai của giống
nòi. Câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ cất lên vô cùng thống thiết:
"Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai tế độ đần sau đó mà?"
Vần thơ như chứa đầy lệ, có lời than, có tiếng nức nở. Lời cha dặn con cũng là lời non
nước. Tám câu cuối trong phần cuối bài thơ vừa nói lên bi kịch của người cha: "tuổi già
sức yếu", "sa cơ đành chịu bó tay"... vừa trông cậy vào con để trả thù, rửa hận nước:
"Giang san gánh vác sau này cậy con"... Cha thiết tha dặn con lần cuối: "Vì nước" hãy
"nhớ tổ tông", hãy đem máu đào mà hi sinh chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Đó là
"hai chữ nước nhà" đó là những lời huyết lệ:
"Con nên nhớ tổ tông khi trước
Đã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây..."
"Hai chữ nước nhà" là một bài thơ hay và cảm động. Nói lên một cách hàm súc cô đọng
nỗi đau, nỗi nhục mất nước của dân tộc ta trong thế kỉ XV và căm thù đối với giặc Minh
cướp nước. Sâu xa hơn, bài thơ đã khích lệ lòng yêu nước của đồng bào, khêu gợi khát
vọng độc lập tự do của dân tộc khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp. "Hai chữ
nước nhà" vừa là lời cha dặn con, vừa là lời Tổ quốc kêu gọi.
Từ ngôn ngữ, hình ảnh đến giọng thơ, vần thơ, từ những cặp câu thất ngôn đối nhau đến
những hình ảnh nhân hóa, tượng trưng ước lệ đều cho thấy một bút pháp nghệ thuật rất
già dặn, giàu bản sắc của Á Nam. Trong thời Pháp thuộc, bài thơ "Hai chữ nước nhà" đã
làm lay động hàng triệu con người. Ngày nay, nó vẫn làm ta xúc động.