Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh chọn lọc hay nhất
"Sang thu" được Hữu Thỉnh sáng tác vào cuối năm 1977 viết về là thời khắc giao mùa từ hạ sang thu, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ, sau đó được in lại nhiều lần trong các tập thơ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt điểm cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
1. Phân tích Sang thu (mẫu 1)
"Sang thu" được Hữu Thỉnh sáng tác vào cuối năm 1977 viết về là thời khắc giao mùa
từ hạ sang thu, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ, sau đó được in lại nhiều lần trong
các tập thơ. Bài thơ là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của
tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa. Không
phải là sắc "mơ phai" hay hình ảnh "con nai vàng ngơ ngác" mà là hương ổi thân quen
nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Nhà thơ chợt nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió se (nhẹ, khô và hơi lạnh)
mang theo hương ổi (ổi đang vào độ chín).
Cảm nhận đầu tiên trong tâm hồn thi sĩ không phải bắt đầu từ trời xanh, mây trắng, hoa
cúc vàng như bao thi sĩ khác mà là một sự biến chuyển hết sức tinh vi của thiên nhiên.
Mùa thu được nhận ra bắt đầu từ "hương ổi", lập tức tâm hồn thi sĩ rung lên mở căng
các giác quan (khứu giác, thị giác...) để đón nhận thu về. Hương ổi ngào ngạt phả vào
gió mang đi khắc nơi, luồn vào trong sương khiến sương chùng chình bâng khuâng lưu luyến...
"Bỗng nhận ra" là một trạng thái chưa được chuẩn bị trước, như là vô tình, sửng sốt để
cảm nhận, giữa những âm thanh, hương vị và màu sắc đặc trưng của đất trời lúc sang
thu. Nhà thơ nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió nhè nhẹ, lành lạnh se khô mang theo hương ổi.
"Phả" là một động từ mang ý tác động được dùng như một cách khẳng định sự xuất
hiện của hơi thu trong không gian: "hương ổi", một mùi hương không dễ nhận ra, bởi
hương ổi không phải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mà chỉ là một mùi
hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những cảm xúc trong lòng người.
Thi sĩ cảm nhận thiên nhiên và khúc giao mùa thật tinh tế, sâu sắc. Từ hương nhận ra
gió. Từ gió nhận ra sương. Trong sương có gió, có hương, có tình. Từ không gian hẹp
(vườn, ngõ) từ những gì vô hình (hương, gió) chuyển sang không gian rộng lớn với
nhiều tầng bậc cụ thể hơn (sông, chim, mây): Sông thì dềnh dàng trôi một cách thanh
thản; chim thì vội vã bay khi cơn gió đầu tiên mang hơi lạnh tới; đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu...
Màn sương hình như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng
chình chưa muốn dời chân:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Từ láy tượng hình "chùng chình" gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm ta như
thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình.
"Chùng chình" là sự ngắt quãng nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chính
là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng,
nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu.
"Hình như" là một từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu
của mùa thu. Sự góp mặt của màn sương buổi sáng cùng với hương ổi đã khiến cho
nhà thơ giật mình thảng thốt. Không phải là những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà
là chi tiết thật mới mẻ, bất ngờ. Có lẽ với Hữu Thỉnh, làn hương ổi rất quen với người
Việt Nam, mà rất lạ với thơ được tác giả đưa vào một cách hết sức tự nhiên.
Mùa thu được quan sát ở những không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Nếu ở khổ một, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ, thì ở khổ thơ này,
tác giả đã có thể khẳng định: Thu đến thật rồi. Thu có mặt ở khắp nơi, rất hiện hình, cụ
thể. Đường nét của mùa thu hiện lên rất rõ nét, không còn mơ hồ như ở khổ thơ thứ
nhất nữa. Đây cũng là quá trình và là quá trình và là sự chuyển biến trong thiên nhiên
và trong nhận thức của tác giả.
Hữu Thỉnh đã khéo léo và rất tinh tế khi sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để miêu tả
bức tranh giao mùa từ hạ sang thu. Phép nhân hóa gợi ra trước mắt người đọc bức
tranh thiên nhiên có hình, có hồn, gợi cảm, sống động. Sông như con người có trạng
thái, tâm trạng "sông dềnh dàng" - lững lờ trôi; chim có hành động như con người "vội
vã" bay tìm nơi ẩn trú; đám mây - nhịp cầu giao mùa như một dải lụa mềm mại, uyển
chuyển đang dịch chuyển từ hạ sang thu "vắt nửa mình sang thu".
Sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của tác giả còn thể hiện ở cách nhìn "đám mây mùa hạ" như
"vắt sang thu. Thật tài hoa, thật khéo léo và dường như ông động lòng với mùa thu, khí
thu, vị thu rất nhiều nên mới tưởng tượng ra viễn cảnh đám mây cao trên trời như đang
chuyển mình cùng nhịp đập của mùa thu. Từ "vắt" dùng rất hay, rất độc đáo đã diễn tả
được quá trình chuyển mình của mùa thu rất uyển chuyển, nhịp nhàng. Mùa thu có chút
gì đó độc đáo, tinh nghịch và cũng không kém phần duyên dáng qua cảm nhận của
Hữu Thỉnh. Màu thu đã đến thật rồi, mùa thu mang theo những gì tinh khôi, nhẹ nhàng và dịu êm nhất.
Bức tranh chuyển mùa qua lời thơ Hữu Thỉnh thực sự mềm mại, nhẹ nhàng và uyển
chuyển biết bao. Đó chính là cái tài của tác giả, tài dùng chữ vẽ tranh. Không gian giao
mùa ngày càng được mở rộng (trước đó chỉ là không gian hẹp: ngõ, xóm, làng; giờ đây là cả đất trời).
Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy
tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất nước:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây, song chỉ là "vẫn còn", "đã
vơi dần", "cũng bớt bất ngờ" bởi mùa thu đã đến. Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con
người khi đã lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm
cho người ta bất ngờ hay bị động. Những suy tư đó của tác giả có lẽ đã góp phần làm
cho "Sang thu" trở nên giàu ý nghĩa. Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ tinh tế, giọng thơ êm
đềm và những rung động man mắc, bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa đã
tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong lòng độc giả. Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc
"Sang thu" của Hữu Thỉnh, ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà.
2. Phân tích Sang thu (mẫu 2)
Bài thơ là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước
vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa. Bài thơ "Sang thu"
của nhà thơ Hữu Thỉnh thực sự đã mang giây phút giao mùa sang thu chạm đến sự
rung động của người đọc. Khoảnh khắc nhận ra thu về vừa ấn tượng lại dịu dàng và rất tinh tế.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Câu thơ có hương vị ấm nồng của tiết trời chớm thu ở một miền quê. Tín hiệu đầu tiên
để tác giả nhận ra mùa thu không phải hoa cúc vàng hay cái tiết trời mát mẻ mà là
hương ổi. Mùi hương quê nhà mộc mạc "phả" trong gió thoảng, bay trong không gian.
Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: "bỗng nhận ra" - một sự bất ngờ mà như đã chờ
đợi sẵn từ lâu lắm. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến sắc màu vàng
ươm, hương thơm lựng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. và
không chỉ có thể, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình
giăng mắc trên khắp nẻo đường quê:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sương thu đã được nhân hóa, hai chữ "chùng chình" diễn tả rất thơ bước đi chầm
chậm của mùa thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ "bỗng nhận ra" thu về khá bất ngờ
và đột ngột thì sau khi cảm nhận trực tiếp sương thu, gió thu, thi sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt
lên lời thì thầm như tự hỏi: "Hình như thu đã về?" Tâm hồn thi sĩ nắm bắt những biến
chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng
khuâng như bước đi nhẹ nhàng của mùa thu. Không gian nghệ thuật của bức tranh thu
được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung
cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Sông nước đầy nên mới "dềnh dàng" nhẹ trôi như cố tình chậm lại, những đàn chim vội
vã bay về phương nam... Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn
voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng "vắt nửa mình sang thu".
Câu thơ có tính tạo hình không gian nhưng lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời
gian: thu bắt đầu sang hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ
hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới... Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến
chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Tiết trời mùa thu vẫn còn vương vấn cái oi nồng của mùa hạ "còn bao nhiêu nắng", tuy
vẫn sáng nhưng không chói chang gay gắt mà nhạt dần, dịu dần. Vẫn có mưa, nhưng
không còn là những cơn mưa rào đến bất ngờ và đi trong thoáng chốc "vơi dần cơn
mưa". Trời vào thu cũng đã bớt đi những tiếng sấm đột ngột và bất ngờ trên những
hàng cây đứng tuổi. Hai câu thơ cuối bài được coi là câu thơ hay nhất cũng là kết tinh
giá trị tư tưởng cho toàn bộ bài thơ.
Đất trời cuối hạ sang thu chuyển mình một cách rất nhẹ nhàng nhưng rõ rệt, nhờ có
nhà thơ Hữu Thỉnh với bài "Sang thu" mà người đọc đã có cơ hội lắng mình trong giây
phút để cảm nhận thu về. Không chỉ là sự cảm nhận về thay đổi thời tiết, thiên nhiên
mà còn để nhìn nhận về chính bản thân mình sau những đổi thay.
3. Phân tích Sang thu (mẫu 3)
Chúng ta nhận ra mùa thu là lúc nào? Phải chăng là cảm giác se se lạnh. Tác giả Hữu
Thỉnh đã bộc lộ tình cảm của mình một cách nhẹ nhàng sâu lắng qua bài thơ Sang thu.
Tác phẩm diễn tả sự ngỡ ngàng của nhân vật trữ tình trước sự chuyển biến của thiên
nhiên đất trời khi lay mình thay áo mới.
Đến với đặc trưng của mùa thu xứ Bắc, dấu hiệu là mùi hương của ổi chín:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Đoạn thơ như một lời bộc lộ cảm xúc ngỡ ngàng trước thiên nhiên tươi đẹp của mùa
thu. Từ bỗng cho người đọc hình dung ra cảm xúc ngạc nhiên, ngỡ ngàng. Tác giả
nhận ra mùa thu sang từ tín hiệu hương ổi. Hương thơm đặc trưng của xứ bắc nơi thôn
quê. Hương thơm dịu nhẹ, quyện trong làn gió se lạnh. Động từ phả cho người đọc
hình dung về trạng thái mạnh mẽ, dứt khoát.
Từ bỗng diễn tả sự ngỡ ngàng, bàng hoàng, giật mình nhận ra sự thay đổi đột ngột.
Tác giả trong một lúc vô tình cảm nhận được hương vị đặc trưng của mùa thu. Thu đến
lòng người thêm rạo rực, náo nức tận hưởng khoảng thời gian giao mùa giữa mùa hạ
và mùa đông. Thu không lạnh như mùa đông, không nắng nóng gay gắt như mùa hạ,
nó là khoảng thời gian mà ánh nắng dịu nhẹ, gió se lạnh không buốt giá, nắng nhạt.
Sương sớm tràn qua từng ô cửa, khe nhà, những con ngõ nhỏ. Chùng chình như bước
đi nhẹ nhàng, thư thái, khoan thai.
Kết thúc khổ một, những sự vật, hiện tượng chỉ là những hình ảnh trong vườn, trong
ngõ, quanh quẩn trong nơi nhà của mỗi người. Nhưng đến khổ hai, không gian được
mở rộng hơn với nhiều hình ảnh khoáng đạt, rộng lớn như sông, bầu trời:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Tứ thơ mở ra trước mắt người đọc một không gian rộng lớn, mênh mang. Đó là chiều
dài của dòng sông êm đềm đưa nước mùa thu. Sông không ồn ào, cuộn sóng như mùa
hạ mà "được lúc dềnh dàng". Cụm từ nhân hóa khiến ta cảm nhận được sự thảnh thơi,
nhẹ nhàng, trầm lắng suy tư của dòng sông với nước thu trong vắt. một dáng vẻ khoan
thai đối lập hoàn toàn với sự "vội vã" của đàn chim trên trời cao xanh thẳm. Tác giả rất
tinh tế khi sử dụng từ "bắt đầu" chứ không phải là đang vội vã, bởi thu mới chạm ngõ
bằng hơi sương lạnh lẽo, còn đủ thời gian cho những biến chuyển của vạn vật trong
khúc giao mùa như vậy. Và trên bầu trời cao ấy, những đám mây như những dải lụa
mềm, nhẹ nhàng vắt ngang bầu trời, một nửa ở bầu trời mùa hạ, nửa đã vắt sang thu.
Hình ảnh "đám mây mùa hạ", "vắt nửa mình sang thu" là một sự liên tưởng thú vị, một
hình ảnh đầy chất thơ. Câu thơ gợi ra bước đi uyển chuyển, mềm mại của thời gian.