Phân tích bài thơ Thề Nguyền hay nhất
Dàn ý phân tích bài thơ Thề Nguyền
I. Mở bài:
- Giới thiệu đoạn trích thề nguyền.
- dụ: Nguyễn Du đại thi hào của dân tộc, ông đã viết những bài thơ thể hiện
thân phận khổ cực và hẩm hiu của con người và nhất là của người phụ nữ. tấm lòng
nhân đạo của ông đã được thể hiện rất sâu sắc qua các bài thơ sâu sắc nhất
được thể hiện qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm nói về một nhân vật có tài sắc
vẹn toàn nhưng chữ hiếu đã hi sinh bản thân mình. một đoạn trích thể hiện
tình yêu giữa Thúy Kiều Kim Trong rất sâu sắc.Chúng ta cùng đi tìm hiểu đoạn
trích.
II. Thân bài:
1. Kiều băng lối đường đi sang nhà Kim Trọng
- Tâm trạng và tình cảm của kiều:
Kiều vội vàng, hối hức muốn được gặp Trọng.
Tình yêu của Kiều dành cho Trọng rất mãnh liệt.
Kiều có sự lo lắng về tình yêu của mình đầy phong ba và bão táp.
Kiều có một tình yêu đầu đời thật đẹp.
Kiều khát khao được yêu, tình yêu tự do.
- Tâm trạng và thái độ của Kim Trọng:
Kim Trọng khẩn trương, cẩn thận rước Kiều vào nhà.
Kim Trọng cũng yêu say đắm kiều.
2. Kiều thề nguyền cùng Kim Trọng
- Nghi lễ thề nguyền được thể hiện trang trọng thiêng liêng trước trăng, trăng
chứng nhân cho tình yêu đôi lứa.
- Sự đồng tâm đồng lòng của hai người đối với tình yêu của họ.
- Tạo nên niềm tin vào tình yêu.
- Tình yêu sâu sắc của Thúy Kiều và Kim Trọng.
III. Kết bài:
- Nêu cảm nhận về đoạn trích Thề Nguyền.
- dụ: Qua đoạn trích ta thể thấy được tình yêu đẹp và say đắm của Thúy Kiều
Kim Trọng, tình yêu ấy đã được trời đất chứng kiến qua hành động thề nguyền
rất trang trọng và thiêng liêng của đôi lứa.
Thề nguyền phân tích - Mẫu 1
Truyện Kiều một tuyệt tác của đại thi hào Nguyễn Du mà đến tận ngày nay người
ta vẫn ngớt lời khen ngợi tìm hiểu về nó. Tác phẩm viết về Thúy Kiều một
người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại số phận truân chuyên, éo le và bi kịch,
bị đẩy đưa bởi hội phong kiến đương thời tàn ác, bất công. Nguyễn Du muốn
thông qua cuộc đời Kiều để lên án cái hội ấy thể hiện ước về một xã
hội công bằng, công lý, người phụ nữ được sống đúng với bản năng, tình yêu và tự
do của mình. Đoạn trích Thề nguyền là một trong những trích đoạn đẹp nhất Truyện
Kiều, khi miêu tả cảnh Kiều cùng tình yêu đầu của mình Kim Trọng thề nguyền,
hẹn ước tình yêu dưới trăng.
Đoạn trích Thề nguyền thuộc phần đầu của tác phẩm Truyện Kiều – Gặp gỡ và đính
ước, từ câu thơ thứ 431 đến 452. Đây phần tiếp nối sau cuộc chơi xuân của chị
em Kiều sau cuộc gặp gỡ tình cờ với Kim Trọng hội "đạp thanh" ấy. Hai con
người tài sắc đã phải lòng nhau gần như ngay lập tức trong họ đã nảy nở một
thứ tình yêu sâu đậm. Về phần Kim Trọng, từ ngày gặp gỡ, chàng không thể quên
được hình ảnh của nàng Kiều, vậy nên chàng đã tìm cách thuê nhà trọ gần nhà Kiều
để ngày đêm thể nhìn thấy nàng. Về phần Kiều, nàng cũng như Kim Trọng, ngày
đêm mong nhớ tình lang. Một ngày nhân lúc cả nhà đi chơi, nàng quyết định tìm
sang phòng Kim Trọng để cùng nhau hàn huyên cho thỏa nỗi nhớ mong. Chiều tà,
nàng trở về nhà, nhưng cả nhà chưa ai về, nàng đã quyết định quay lại gặp Kim
Trọng tại đây, hai người đã cùng nhau hẹn ước thề nguyền dưới ánh trăng
sáng.
Khi viết đoạn trích này, Nguyễn Du đã bộc lộ cho người đọc thấy được tư tưởng tình
yêu tự do của mình, khi ông để cho Kiều là người tìm đến Kim Trọng chứ không phải
ngược lại. Ông muốn người phụ nữ được thoát ra khỏi cái vòng lễ giáo phong kiến
luẩn quẩn để tìm đến với tình yêu đích thực của mình. ông đã thể hiện điều đó
trong bước chân dứt khoát của Kiều khi tìm đến với Kim Trọng:
"Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu"
Những người phụ nữ xưa thường chịu ảnh hưởng sâu sắc của lễ giáo phong kiến,
của những điều luật như tam tòng tứ đức, khiến họ không thể thể hiện được tài
năng cũng như không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ "cha mẹ đặt đâu con
ngồi đó". Vậy nên càng không thể chuyện trai gái chưa vợ chưa chồng lại có thể
lén lút gặp gỡ nhau bày tỏ tình yêu, nếu làm vậy, người con gái sẽ mang tội thất
tiết, thiếu lễ giáo, Ấy vậy đây, Nguyễn Du đã để Kiều làm tất cả điều ấy.
Giữa đêm khuya, nàng băng lối vườn khuya để tìm đến với tình yêu của mình, tự tay
quyết định tình yêu cuộc đời của mình. Những từ ngữ như "vội", "xăm xăm" đều
diễn tả sự vội vã, sự nhanh chóng, khẩn trưởng của Kiều khi sang nhà Kim Trọng
lần thứ hai. Nàng "băng lối vườn khuya một mình" mà chẳng hề sợ hãi, phải chăng,
tình yêu đã tiếp cho nàng thêm sức mạnh? Sự tĩnh mịch của đêm khuya chẳng hề
làm nàng chùn bước, ngược lại, tình yêu bỏng cháy trong con tim nàng đang xé
bỏ đi lớp rào chắn của định kiến phong kiến để đưa bước chân nàng tới với tình yêu
của mình!
Lễ giáo phong kiến quan niệm "nam nữ thụ thụ bất thân", nữ nhi cũng không phải
người có thể quyết định tình yêu, hôn nhân của mình, ấy vậy mà Kiều lại khác. Nàng
phá bỏ tất thảy mọi rào cản để "băng lối" sang nhà Kim Trọng, thật quá táo bạo, thật
quá liều lĩnh! Một người con gái thông minh như Kiều lại luôn được dạy lễ giáo từ
nhỏ sao có thể làm điều đó, phải chăng, tình yêu mãnh liệt đã đưa lối khiến nàng tìm
đến thư phòng của chàng Kim để bày tỏ tình yêu của mình?
Mặt trăng soi tỏ từng cành cây bên vườn vắng còn giai nhân thì đang mau lẹ bước
chân để tìm tới nhà tình lang còn chàng Kim thì đang mơ mang bên hương án dưới
ngọn đèn học thiu thiu:
"Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê"
Chàng trai hào hoa phong nhã ấy đang dựa đầu vào hương án mà thiu thiu ngủ "dở
chiều như tỉnh, dở chiều như mê", thì chợt bước chân của nàng thơ ghé tới, "tiếng
sen" nhẹ nhàng tiến lại gần chàng. Không gian đây bao trùm bởi ánh trăng, ánh
trăng rẽ lối để Kiều tìm đến Kim Trọng, trăng càng "xế" thì nàng càng gần với người
mình yêu thương. Những hình ảnh ước lệ như "tiếng sen", "hoa lê", "giấc hòe", "giấc
mộng đêm xuân" như càng góp phần làm nên cái tâm trạng thực thực của
Kim Trọng. Chàng chẳng rõ đang mơ hay đang tỉnh, "mơ màng" không biết hình ảnh
của Kiều có là thực chăng, hay là giấc mộng của chàng khi mong nhớ về nàng?
"Tiếng sen sẽ động giấc hè
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng".
Sự xuất hiện đột ngột lần thứ hai của Kiều khiến cho Kim Trọng tưởng đâu nàng là
nữ thần của đỉnh Vu Giáp xuất hiện trong giấc đêm hè của chàng. Sự xuất hiện
ấy đột ngột quá đỗi khiến chàng không thể tin được đó là sự thật cho đến khi "miệng
hoa" cất lời:
"Nàng rằng: 'Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?"
Nếu như sự xuất hiện của nàng một sự đột ngột quá đỗi với chàng thì lời nói
hành động của nàng càng khiến cho Kim Trọng bất ngờ hơn nữa. Một hành động
chắc chỉ Kiều mới dám táo bạo liều lĩnh như thế "vì hoa nên phải trổ
đường tìm hoa". tình yêu nên nàng sẵn sàng vượt lên tất cả mọi định kiến về lễ
giáo phong kiến để tìm đến với mối tình của mình. Giữa trong "đêm trường" khuya
khoắt ấy, giữa ánh trăng vằng vặc ấy, không chỉ thời gian, không gian của trụ
còn không gian, thời gian trong tình yêu của nàng. Những người đang yêu
bao giờ cũng cảm thấy thời gian bên nhau thật ngắn ngủi, còn thời gian xa nhau ngỡ
như "đêm trường" tối tăm xa cách. Nàng muốn được gần Kim Trọng thêm nữa.
Hai chữ "hoa" trong một câu thơ nàng dùng, vốn từ để chỉ người con gái đẹp
thì đây lại phiếm chỉ tình yêu son sắt của nàng dành cho Kim Trọng. Giờ đây khi
đã gần bên nhau, nàng muốn ước hẹn cùng Kim Trọng để chứng minh cho tình yêu
của mình. Bởi sau khi bên mộ Đạm Tiên trở về, nàng luôn mang trong mình nỗi lo
âu, thấp thỏm, nàng sợ rằng tình yêu này cũng chỉ như giấc "chiêm bao".
Sự xuất hiện đột ngột chẳng báo trước của Kiều cùng những lời nói của nàng khiến
cho Kim Trọng cùng kinh ngạc, bởi đã vượt qua tất cả mọi lễ giáo thông
thường. Thế nhưng, chàng hiểu tất cả, bởi tình yêu của chàng dành cho Kiều cũng
đã cùng sâu đậm, gặp lại tình nhân đây thật không lời nào tả xiết. Chàng rước
nàng vào hương án với sự vội vàng, không biết mơ và thực nữa:
"Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương"
Chàng thêm sáp thêm hương cho không gian thêm phần rực rỡ, cũng để mừng
cho khoảnh khắc hạnh phúc sum vầy của đôi lứa yêu nhau. Và cũng tại không gian
này, chàng nàng cùng "thảo" một tờ giấy hẹn thề, đính ước cùng nhau, ước hẹn
trăm năm bạc đầu. Cắt một lọn tóc nhỏ, rồi chia làm đôi làm tín vật đính ước của đôi
trai tài gái sắc. Tất cả những vật nhỏ bé ấy giờ thành những tín vật trang trọng nhất,
đẹp đẽ nhất chứng minh tình yêu của hai người. trong không gian ấy, không thể
thiếu ánh trăng soi tỏ trên đầu, ánh trăng ấy là chứng nhân cho tình yêu của họ:
"Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song".
lẽ khi bất cứ ai nhắc đến tình yêu của Kiều Kim Trọng đều nhớ đến hình ảnh
của đôi trai gái cùng ngồi thề nguyền dưới ánh trăng. Hình ảnh đó đẹp rực rỡ, đẹp
như mối tình trong sáng, vượt trên mọi lễ nghi của họ. Hai con người giờ đây đã
chung một chữ thề "một lời song song" cùng nhau hẹn ước, cùng nhau thề hẹn trăm
năm bạc đầu.
Nguyễn Du quả một nhà thơ tài hoa bởi chỉ với vài dòng thơ ngắn ngủi, nhưng
ông đã vẽ lên cho chúng ta thấy được một bức tranh của đôi trai tài gái sắc cùng
nhau thề nguyền. Bức tranh ấy đẹp lung linh với ánh trăng làm nền soi tỏ. Để cuối
cùng khi kết lại, hai người đã cùng nhau tạc lên "một chữ đồng": đồng tâm, đồng
lòng đến chết. Hai con người ấy đã thề nguyền suốt kiếp chung tình với đối phương,
ghi tạc vào trong tim, mãi mãi không bao giờ quên. Tất cả đã chứng tỏ một thứ tình
yêu son sắt, thủy chung đến cùng, tình yêu của họ vượt lên trên tất cả những
định kiến lễ giáo phong kiến, vượt trên cả không gian và thời gian, nguyện lòng theo
đuổi một thứ tình yêu đến suốt đời, suốt kiếp.
Đoạn trích Thề nguyền một trong những trích đoạn hay lãng mạn nhất trong
Truyện Kiều. Bởi đây không chỉ chứa đựng cảnh thề nguyền hẹn ước của đôi lứa
Kiều Kim Trọng còn thể hiện cả quan điểm tình yêu tự do, hôn nhân hạnh
phúc tự do một quan điểm cùng tiến bộ của Nguyễn Du thời ấy. rằng sau
này, Kiều phải đành lòng trao lại mối tình sâu nặng ấy cho Thúy Vân để em gái thay
mình trả nghĩa cho Kim Trọng, nhưng những khung cảnh đẹp đẽ giữa họ, lời thề
ước giữa họ thì vĩnh viễn tồn tại như ánh trăng hôm đó. Qua đoạn trích này, ta cũng
thấy được tài năng của Nguyễn Du khi xây dựng những hình ảnh ước lệ đẹp tuyệt
vời, khả năng sử dụng ngôn ngữ vô cùng đặc sắc của ông.
Phân tích Thề nguyền - Mẫu 2
Truyện Kiều tác phẩm văn học xuất sắc nhất của thiên tài Nguyễn Du và của nền
văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Không những một kiệt tác bất hủ, truyện Kiều
còn ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần đời sống của con người Việt nam nhiều
thời đại. Đoạn trích Thề nguyền trích từ câu 431 đến câu 452 trong Truyện Kiều.
Đoạn trích kể về việc Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng làm lễ thề nguyền gắn
trước vầng trăng sáng vằng vặc:
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
...
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Thúy Kiều táo bạo băng lối vườn khuya tìm đến với Kim Trọng:
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Tác giả dùng hai lần chữ “vội”, một lần chữ “xăm xăm”, một lần chữ “băng” để diễn
tả tâm trạng, tình cảm của Kiều. Mặt khác thể hiện sự khẩn trương, vội vã của nàng
trong hành động táo bạo, đột xuất, bất ngờ. Kiều như tranh đua với thời gian và định
mệnh đang ám ảnh mà cũng vì tình yêu với Kim Trọng mà Kiều vội vã đến vơi chàng
Kim.
Thông thường, quan niệm Nho giáo cho rằng trong quan hệ nam nữ, bao giờ người
con trai cũng phải đóng vai trò chủ động. Người con gái không bao giờ là người chủ
động trong tình yêu. Thế nhưng, lần đầu tiên trong lịch sử, Nguyễn Du đã để cho
Kiều hành động như thế. Đây một nét mới trong cách nhìn tình yêu của Nguyễn
Du. Nhưng đây, Nguyễn Du đã nhấn mạnh sự chủ động của Kiều – người con gái.
Nhà thơ cái nhìn vượt trước thời đại, hướng đến sự bình đẳng trong tình yêu lứa
đôi và trong cuộc sống xã hội của mỗi con người.
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Không gian đêm thần tiên, ảo được tả bằng các hình ảnh ánh trăng nhặt thưa,
ngọn đèn hiu hắt, tiếng bước chân nhẹ nhàng tạo ấn tượng cho Kim Trọng như
đang sống trong mơ. Không gian như cần thêm ánh sáng, cần thêm hương thơm và
sự ấm áp. Đó không gian đẹp, nhưng cảm giác ảo, không thực, con
người rất cô đơn giữa trời đất bao la:
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hè,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Kiều đến và tỏ bày về hành động của mình:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Biết trái với luân thường đạo lí, nhưng ngọn lửa tình yêu cháy bỏng khiến nàng
mạnh bước vượt qua. Sợ Kim Trọng không vừa ý nên tỏ lòng cho rõ nguồn cơn.
Cuộc thề nguyền tuy vội vàng nhưng cũng đủ cả các hình thức nghi lễ. Hai mái đầu
xanh cùng ngước lên trời cao, có vầng trăng chứng giám lời thề, tình yêu tự nguỵen
và chung thuỷ của họ:
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương.
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
Vừng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Hình ảnh: “Đinh ninh ….song song” lời thề: “Trăm năm…..xương” thật cảm động
và thiêng liêng, lãng mạn và đầy chất lí tưởng.
Đoạn trích cho thấy tình yêu của con người rất cao đẹp thiêng liêng. Lời thề
của họ được vầng trăng chứng giám. Đoạn Trao duyên là sự tiếp tục một cách lôgic
quan niệm cách nhìn tình yêu của Thuý Kiều. Ngược lại đoạn trích này cũng góp
phần hiểu đúng đoạn Trao duyên, đây một kỉ niệm đẹp đối với Kiều và Kiều sẽ
nhớ lại những chi tiết trong đêm thề nguyền thiêng liêng này. Bởi vậy khi phải phụ lời
thề để báo hiếu Kiều luôn nhớ chàng Kim với buổi thề nguyền với tâm trạng đau xót,
tiếc thương. Hành động trao duyên tả nghĩa chàng Kim làm dịu đi phần nào nỗi đau
của Kiều
Thề nguyền là đoạn thơ chứng tỏ quan niệm mới mẻ táo bạo của Nguyễn Du về tình
yêu. Mặt khác chứng minh tình cảm say đắm, mãnh liệt, chủ dộng rất đỗi trong
sáng, thiêng liêng của Kiều – Kim. Đoạn thơ đã trở thành bản tình ca bất diệt về tình
yêu đầy lãng man, tưởng táo bạo. Đây là cái nhìn mới mẻ, giàu tính nhân văn của
Nguyễn Du về tình yêu.
Phân tích đoạn trích Thề nguyền - Mẫu 3
Trong văn học trung đại xưa, các nhà văn, nhà thơ thường đề cập đến những vấn
đề mang tính cộng đồng, hội, dùng thơ để nói chí “Thi ngôn chí”, “văn tải
đạo” rất hiếm đề cập đến tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, trong kiệt tác Truyện Kiều
của mình, Nguyễn Du không những viết về tình yêu còn ca ngợi tình yêu tự do
của đôi lứa, tưởng này được thể hiện chân thực thông qua đoạn trích Thề
nguyền.
Thề nguyền hành động hứa hẹn về tình cảm của đôi lứa, ý nghĩa cùng
thiêng liêng bởi thể hiện được tình yêu, những cảm xúc tột độ của tình yêu. Thúy
Kiều Kim Trọng gặp gỡ hôm đi chảy hội mùa xuân thì hai người thì tình yêu đã
chớm nở, để khẳng định tình yêu ấy hai người đã cùng nhau thề nguyền dưới trăng.
thể thấy hành động thề nguyền này đã phá vỡ được mọi định kiến của xã hội để
chạm tới tình yêu, là tình yêu vượt trên những định kiến của thời đại.
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Hành động “xăm xăm băng lối vườn khuya” của nàng Kiều thật táo bạo. Theo luân lí
hội phong kiến thì hành động này không được phép một người con gái,
hành động giữa đêm trốn đến nhà người yêu không thể chấp nhận. Tuy nhiên,
hành động của Kiều cũng thể hiện được tình yêu cũng như sức mạnh của tình yêu
thể vượt qua mọi rào cản, kể cả việc đi ngược lại với những định kiến đương
thời. Sức mạnh của tình yêu đã thôi thúc nàng Kiều hành động, nàng đã sống thực
với những cảm xúc mong muốn của mình. Tuy hành động táo bạo nhưng
Thúy Kiều không đi quá xa giới hạn, nàng cũng có những biện minh cho hành động
có vẻ nông nổi của mình:
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
“Vì hoa” đây tức chỉ Kim Trọng, một con người tài hoa, phong nhã khiến nàng yêu
say đắm sau lần gặp đầu tiên, chính tình yêu ấy đã thôi thúc nàng vượt bao nhiêu
định kiến để đến gặp mặt, dãi bày. Thúy Kiều ngay từ khi còn sống trong cảnh êm
đềm trướng rủ màn che đã luôn những sự cảm không lành về một tương lai
nhiều biến cố, đau khổ. tình yêu đang lúc nồng nàn, say đắm nhất thì nàng
luôn lo lắng liệu đó có phải giấc chiêm bao, mọi thứ phải chăng rồi sẽ tan biến. Hành
động vội của nàng như muốn tranh thủ từng phút giây hạnh phúc được bên
người mình yêu. Trước sự xuất hiện đường đột của Thúy Kiều, Kim Trọng đã hết
sức bất ngờ:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê
Tiếng sen, khẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Bước chân của nàng Kiều đã đánh thức giấc mộng của chàng Kim, sự xuất hiện của
nàng với vẻ đẹp thanh khiết, rực rỡ khiến cho chàng Kim tưởng chừng vừa gặp tiên
nữ núi Vu Giáp. Chính khung cảnh đêm khuya cùng sự xuất hiện bất ngờ của
Thúy Kiều Kim Trọng không biết đây cơn mộng mị hay thực tế đang diễn ra.
Khi yêu người ta luôn nhìn cuộc đời bằng con mắt mộng, hình ảnh của người
trong lòng xuất hiện xinh đẹp,lộng lẫy ngay trước mặt khiến cho chàng Kim ngỡ
ngàng như trong cơn mộng mị cũng điều thể hiểu được. Khi xác định được
Thúy Kiều đứng trước mặt mình thật, chàng Kim đã cùng vui mừng, hạnh
phúc:
Vội vàng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc Mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Khung cảnh của đêm thề nguyền được tác giả Nguyễn Du khắc họa lên bằng những
chi tiết cùng sinh động, ấn tượng với đầy đủ cả ánh sáng, màu sắc hương
thơm. Chính nét đặc sắc của không gian đêm thề nguyền đó đã trở thành một kỉ
niệm thiêng liêng trong trái tim của hai người Kim, Kiều. Buổi thề nguyền được diễn
ra với đầy đủ nghi thức: tuyên thề, tóc mây, dao vàng, vầng trăng và lời thề nguyền.
Trong buổi thề nguyền ấy, Thúy Kiều đã trao cho Kim Trọng tóc mây, đây không chỉ
nghi thức hẹn ước mà còn thể hiện được tình cảm sâu sắc mà Thúy Kiều trao cho
Kim Trọng.
Trong đêm thề nguyền này, trăng chính chứng nhân cho tình yêu đôi lứa, mặt
khác nếu theo dõi toàn bộ Truyện Kiều ta thể thấy được trăng còn một người
cố tri, chứng kiến toàn bộ những bước ngoặt trong cuộc đời của Kiều. Đó có thể là
hình ảnh ánh trăng nhợt nhạt, le lói trong đêm mà Thúy Kiều bỏ trốn theo Sở Khanh:
Đêm thâu khắc lâu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương.
Vầng trăng cũng như mất mát, đau thương khi bị chia nửa trong đêm Thúy Kiều chia
tay Thúc Sinh:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Như vậy, thể thấy ánh trăng đã chứng kiến toàn bộ những biến cố trong cuộc đời
Thúy Kiều, từ những giây phút hạnh phúc, nồng nàn khi thề nguyền cùng chàng
Kim, cũng những phút giây đau khổ, chia li sau này. Đoạn trích đã thể hiện đầy
cảm động tình yêu sâu nặng của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng, cũng thể thấy
được đây một trong những khoảnh khắc đẹp nhất trong cuộc đời bạc mệnh của
nàng Kiều.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 4
Trong cuộc đời này, liệu có mấy người dám khẳng định: ta sống không cần tình? Đại
thi hào Nga M.Gorki từng quả quyết rằng: Tình yêu - đó thơ ca cuộc đời. Cuộc
sống thiếu tình yêu không phải sống chỉ sự tồn tại! như định mệnh,
tình yêu tìm đến văn chương nghệ thuật để được bất tử hoá. Những áng văn thơ về
đề tài này, từ xưa đến nay vẫn giữ vị trí cao nhất trong lòng người đọc. Ai có thể thờ
ơ với tình yêu trong sáng của Romeo Juliet trong đêm trăng thề nguyền? Cũng
như vậy, ai thể không nhận ra một phần tâm hồn mình trong tình yêu của Thuý
Kiều Kim Trọng? Thề nguyền một nét biểu hiện đẹp trong tình yêu của người
quốc sắc, kẻ thiên tài này.
Thề nguyền một cung bậc tình cảm trong tình yêu. Lời thề sự khẳng định cho
niềm tin, lòng thuỷ chung son sắt của hai con người, cho tình yêu một chỗ dựa
vững chắc, bền chặt. Chẳng thế cả Romeo Juliet, Thuý Kiều Kim Trọng
đều xem minh chứng cho tình yêu của minh trong văn học trung đại Việt Nam,
việc xuất hiện một tình yêu kiểu Kim Kiều thật hiếm thấy. Tình yêu ấy đã phá rào
định kiến, gỡ bỏ mọi trói buộc để đến với nhau tự do, tự nguyện. Một tình yêu vượt
trên thời đại.Để bảo vệ, vun đắp cho mối tình đẹp đẽ của mình Thuý Kiều đã:
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
hành động xăm xăm băng lối vườn khuya ấy mà Kiều đã nhận lấy không biết bao
nhiêu tiếng chê - khen. Các cụ ta xưa xem đó là hành động trái lại với đạo đức, luân
lý, cương thường. Trong khi nàng phải gần gũi mình trong cảnh thâm nghiêm kín
cổng cao tường hay êm đềm trướng rủ màn che – tường đông ong bướm đi về mặc
ai, thì hành động một mình giữa đêm tối tìm đến nhà người yêu của Kiều thật khó
chấp nhận, nó không phải là hành động của bậc tiểu thư đài các thâm khuê.
Nhưng ta hãy nhìn với ánh mắt tâm hồn của kẻ đang yêu, những gì các cụ ta
cho lý, sai trái, không thể chấp nhận kia bỗng trở nên hợp lý, đúng đắn
hơn bao giờ hết. Kiều yêu bằng tình cảm đầu đời mãnh liệt, trong sáng nhất của
người con gái. Tình yêu đẹp đẽ đã cho nàng sức mạnh vượt qua bóng đêm của khu
vườn, bóng đêm của định kiến đế đến với chàng Kim. Điều đáng trân trọng, ca ngợi
nữa Kiều đã không để sự mãnh liệt trong tình yêu dẫn nàng đi quá xa, quá giới
hạn cho phép. Và cũng chính Kiều đã biện minh cho hành động của mình.
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
hoa chàng Kim con người văn chương nết đất, thông minh tính trời, vào
trong phong nhã, ra người hào hoa ấy đã khiến Kiều phải trổ đường tìm hoa giữa
khoảng vầng đêm trường. Có trách là trách ai kia chứ sao lại trách nàng?
Yêu tha thiết thế nhưng Kiều vẫn rất tỉnh táo. Cuộc đời nàng bắt đầu từ những
khúc. Bạc mệnh đến lời báo mộng của Đạm Tiên rằng nàng tên trong sổ Đoạn
trường đã khiến cho người con gái trong sáng ấy luôn thường trực nỗi ưu tư, lo
lắng. Giữa lúc tình yêu độ nồng thắm nhất nàng vẫn lo rằng: Biết đâu rồi nữa
chẳng chiêm bao? Mọi thứ sẽ tan biến như giấc chiêm bao không thể nếu giữ lại
bởi hạnh phúc nàng mong manh. Điều đó dường như không còn nỗi lo lắng
đơn thuần nữa. điềm báo chăng? Cũng giống như lời tâm sự của Juliet dưới
đêm trăng đã khiến chàng Romeo hạnh phúc đến ngây ngất, hành động của Kiều
khiến Kim Trọng ngạc nhiên và mừng rỡ không kém:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê
Tiếng sen, khẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Bước chân người đẹp đã đánh thức giấc mộng của chàng Kim. Nàng như hoa
ngậm trăng với vẻ thanh khiết, sáng láng tuyệt vời khiến chàng Kim ngỡ thần nữ núi
Vu Giáp. Chàng không khỏi ngạc nhiên: Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Lại giấc mộng. Dường như khi yêu, người ta nhìn thế giới bằng con mắt
mộng. Kiều xuất hiện trước mặt chàng đầy bất ngờ, với vẻ xinh đẹp yêu Kiều là thế
khiến chàng ngỡ mình đang đắm chìm trong giấc mộng đêm xuân mơ màng cũng là
điều dễ hiểu.Hết ngạc nhiên, chàng vui mừng hạnh phúc:
Vội vàng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc Mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Không khí đêm thề nguyền được gợi lên đầy ấn tượng, với ánh sáng, màu sắc,
hương thơm; với cảnh đẹp, người đẹp… tạo nên dấu ấn tình yêu đầu đời không bao
giờ phai mờ trong tâm hồn Kiều. Biểu hiện của buổi thề nguyền là tiên thề, tóc mây,
dao vàng, vầng trăng lời thề. Kiều trao chàng kim món tóc mây biểu hiện sự hẹn
ước. Đêm thề nguyền của hai người yêu nhau được vây gọn trong thiên nhiên đẹp
đẽ, êm đềm với sự minh chứng của vầng trăng vằng vặng giữa trời.
Trăng kẻ cố tri, thường xuyên xuất hiện và đi về để chứng kiến những bước ngoặt
trong cuộc đời nàng Kiều, vầng trăng ấy chất chứa đầy tâm trạng bởi dưới trăng
con người của nỗi niềm tâm sự khôn nguôi. Nó có lúc là thứ ánh sáng nhợt nhạt, đe
dọa trong đêm Kiều trốn theo Sở Khanh:
Đêm thâu khắc lâu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngân ngậm sương.
Hoặc có thể là vầng trăng sẻ nửa khi Kiều chia tay chàng Thúc:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Hay là bóng trăng tà đầy hoảng hốt khi Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư:
Cất mình qua ngọn tường hoa
Lần đường theo bóng trăng tà về tây…
Đã bao lần trăng hiện diện trong cuộc đời Kiều, nhưng lẽ chỉ đêm trăng thề
nguyền này tròn đầy, viên mãn nhất. Nó sáng trong vằng vặc giữa trời như lời ghi
nhận của thiên nhiên tạo vật trước tình yêu của đôi trẻ. Ánh sáng ấy như lớp màng
bảo vệ tình yêu khỏi những vết, bụi bặm đời thực; khắc hình ảnh đêm thề
nguyền vào cuộc đời hai con người như một dấu ấn, một minh chứng cho tình yêu
vĩnh hằng.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 5
Truyện Kiều của Nguyễn Du một trong những tác phẩm được xếp vào hàng kinh
điển của nền văn học dân tộc, có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống của nhân
dân Việt Nam suốt mấy trăm năm nay. Giá trị của truyện Kiều đến từ các giá trị nhân
văn, tính nhân bản như lòng thương cảm và xót xa cho số phận con người dưới chế
độ phong kiến, ca ngợi vẻ đẹp tài hoa tâm hồn của người phụ nữ, bên cạnh đó
còn mang giá trị hiện thực khi phản ánh, tố cáo chế độ phong kiến tàn ác, chèn
ép đày đọa con người đến bước đường cùng. Nhân vật chính của tác phẩm là Thúy
Kiều một gái trẻ tuổi, tài sắc vẹn toàn, thế nhưng lại phải chịu bất hạnh với kiếp
hồng nhan bạc mệnh. Trong phần thứ nhất - Gặp gỡ của tác phẩm, thì trích đoạn
Thề nguyền một trong những trích đoạn hay nhất kể về mối tình đẹp của Thúy
Kiều với Kim Trọng.
Thề nguyền bắt đầu từ câu 431 đến câu 452 của tác phẩm, sau khi gặp gỡ tại tiết
Thanh minh, Kim Trọng Thúy Kiều đã có thêm vài lần gặp gỡ, cặp trai tài gái sắc,
đang tuổi thanh xuân phơi phới đã nhanh chóng phải lòng nhau tình yêu ngày
càng trở nên sâu đậm. Chính vì lẽ đó nên Thúy Kiều nhân lúc cả nhà sang ngoại, đã
lén đi tìm gặp Kim Trọng, rồi sau khi đã trở về nhà lúc chiều tà mà chưa thấy người
nhà quay trở về nàng lại tiếp tục quay lại lần nữa, rồi tự định ước chung thân với
Kim Trọng, để bày tỏ tình yêu sâu sắc chân thành của cả hai. Trích đoạn Thề
nguyền đã kể lại tất thảy việc đính ước của cả hai dưới ánh trăng vằng vặc.
trích đoạn Thề nguyền ta dễ dàng nhận thấy quan điểm tiến bộ trước thời đại cả
của Nguyễn Du trong tình yêu đôi lứa, bộc lộ sự ủng hộ của tác giả trong việc nam
nữ theo đuổi tình yêu một cách tự do mãnh liệt, thoát khỏi cái e lệ, ngại ngần không
dám tỏ bày ông cha ta thuở xưa vẫn thường cho là phép tắc, lễ nghĩa. Điều này
thể hiện rất trong đoạn Thúy Kiều vượt tường băng qua nhà Kim Trọng ngay
trong đêm tối. Bởi trong nền giáo dục truyền thống, phận nữ nhi buộc phải an phận
thủ thường, chịu sự sắp đặt của cha mẹ theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy”, cũng không chuyện trai gái lén lút, gặp gỡ riêng nhau để tỏ bày tình yêu,
nếu thì người trai bị cho phép, thiếu lễ nghĩa, còn người con gái phải chịu
điều tiếng nặng nề hơn lăng loàn, thất tiết,... Thế nhưng với hai nhân vật Kiều và
Kim Trọng, Nguyễn Du lại hoàn toàn tạo cho họ một không gian gặp mặt riêng, để
họ được thoải mái bộc lộ tình yêu sâu sắc dành cho nhau. Đặc biệt với nhân vật
Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vẽ ra cảnh nàng đêm hôm chạy theo tiếng gọi của tình
yêu, rồi tự tay quyết định chung thân đại sự của mình. Điều đó đã từng một thời dấy
lên làn sóng tranh cãi về việc rốt cuộc Kiều phải là người phụ nữ lễ tiết thấu đáo
hay cũng chỉ loại phụ nữ trắc nết. Tuy nhiên đến nay, thì người ta lại cái nhìn
thông cảm trân trọng hơn với nàng, cũng như cái tính táo bạo, mạnh mẽ trong
tình yêu của Thúy Kiều.
“Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương dọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Trong 14 câu thơ đầu, ta thấy hiện lên hình ảnh người con gái vội vã đi tìm tình lang,
khi vừa trở về nhà thì hay tin cả nhà vẫn chưa về, ngay lập tức trong lòng Kiều đã
nảy ra ý định sang tìm Kim Trọng lần nữa. Chứng tỏ rằng tình yêu của nàng đang ở
độ mặn nồng sâu sắc nhất, nỗi nhớ đã bộc lộ ra bằng hành động để chứng minh.
Những từ “vội”, “xăm xăm”, “băng lối”, “một mình” đã thể hiện sự mạnh mẽ, quyết
đoán của Kiều trong tình yêu, không màng lễ tiết hay những quan niệm phong kiến
ngăn cản tình yêu, vứt bỏ tất cả sau lưng để tìm đến với chân ái của cuộc đời. Bên
cạnh đó tình yêu của Kiều còn được vẽ nên dưới một khung cảnh thiên nhiên rất thơ
mộng và trữ tình, gợi ra sự lãng mạn, tươi trẻ của thứ tình yêu đầu đời tuyệt đẹp. Đó
cảnh “Nhặt thưa gương dọi đầu cành”, khi ánh trăng trên cao tỏa xuống những
thứ ánh sáng dịu dàng, rồi xuyên qua từng tầng để lọt xuống những tia sáng lưa
thưa chiếu lên người giai nhân đang rảo bước trong vườn. Cảnh ánh đèn mờ mờ
của Kim Trọng xuyên qua cửa hắt ra ngoài vườn, không chỉ thể hiện ánh nhìn trông
mong, thương nhớ luôn hướng về nơi tình lang của nàng Kiều, còn thể
hiện tinh thần hiếu học, sự miệt mài chăm chỉ của Kim Trọng trong việc đèn sách,
càng chứng minh tình yêu của Kiều đã đặt đúng người. Thúy Kiều nhanh chóng
băng vườn tìm đến nhà Kim Trọng, đây thấy chàng đã hiu hiu giấc ngủ bên đèn
sách, chập chờn trong giấc mộng. Nguyễn Du dùng hình ảnh tính ước lệ như
“Tiếng sen đã động giấc hòe”, để thể hiện phong thái vội nhưng vẫn uyển
chuyển, thanh khiết nhẹ nhàng của Thúy Kiều thông qua “tiếng sen”. Lại diễn tả
cảnh say giấc của Kim Trọng bằng “giấc hòe” trích từ điển cố Thuần Vu Phần ngủ
dưới gốc hòe mơ thấy vinh hoa phú quý. Điều đó thể hiện lý tưởng và khát vọng của
Kim Trọng vào việc tạo lập công danh, sự nghiệp, thế nhưng trước giấc mộng không
thật thân ảnh Thúy Kiều đã đến bên thì Kim đã nhanh chóng thức dậy. Hình
ảnh “Bóng trăng đã xế hoa lại gần” càng làm tăng thêm sự thi vị và lãng mạn cho
công cuộc gặp gỡ của Kiều Kim Trọng. Khung cảnh đôi kim đồng ngọc nữ, dưới
ánh trăng sáng tỏ, với nội tâm là tình yêu mãnh liệt dành cho nhau trở nên thật tuyệt
diệu. Chính vì thế khi Kim Trọng tỉnh giấc, nhìn thấy Kiều dưới ánh trăng thanh lại cứ
ngỡ bản thân mình đang mơ, thực tế vì quá đỗi bất ngờ, cùng với việc nhớ mong
người yêu tưởng mình mộng phải đâu ngờ người đã tới tận bên án thư. Tại đây
Kiều đã mạnh mẽ tỏ bày nỗi lòng mình, việc xưa nay chắc chẳng mấy nữ nhi
thường tình dám chủ động, Kiều đối diện với Kim Trọng bộc lộ sự nhớ mong, trống
vắng khi xa nhau, lại sợ “đêm trường” khó tránh khỏi nhớ thương, thế nên “hoa”
chính tình yêu, nàng đã “vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa”. Thế nhưng bên cạnh
nỗi nhớ mong tình quân, thì hành động bộc phát của Kiều có lẽ còn xuất phát từ giấc
mộng về Đạm Tiên, phải chăng Thúy Kiều đang lo lắng rằng tình yêu của mình sẽ
giống như đóa hoa kia, đẹp nhưng sớm nở tối tàn đầy xót xa. Hoặc là lại giống như
một giấc “chiêm bao” cuối cùng chẳng còn lại gì, điều đó khiến lòng Kiều bất an
cùng. Chính thế nên mới cảnh tìm gặp rồi thề nguyền kết tóc, để nàng cảm
thấy an tâm hơn về tình yêu đầu đời đẹp như mộng của mình.
“Vội mừng làm lễ rước vào,
Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
Không gian thề nguyền của đôi trẻ ấy trong nhà Kim Trọng, cũng là nơi hai người
thường gặp mặt tâm sự, bối cảnh thời gian một đêm trăng sáng tạo nên không
gian thơ mộng trữ tình. Không chỉ vậy ánh trăng xưa nay luôn biểu trưng cho sự
sum vầy, đoàn viên, sự hạnh phúc mỹ mãn, bên cạnh đó còn là biểu thị cho tình yêu
trong sáng, thuần khiết chân thành của Thúy Kiều Kim Trọng. Vầng trăng
đây đã trở thành minh chứng thiêng liêng cho tình yêu tuyệt đẹp của đôi trai tài gái
sắc. Trong việc thề nguyền, đính ước, cả Thúy Kiều Kim Trọng đều cùng
thành tâm cẩn thận, tỉ mỉ, nào nến đỏ thắp trên “đài sen”, rồi có cả hương khói
tản mát trong “lò đào” làm cho không khí trở nên thập phần lãng mạn, tinh tế
thiêng liêng cùng. Cả hai đã cùng nhau viết “tiên thề”, cùng nhau cắt tóc mây
bằng “dao vàng”, thể hiện thái độ trân trọng nâng niu cùng ước nguyện cùng
nhau kết tóc, bạc đầu trăm năm, quyết tâm không đổi dời. “Đinh ninh hai miệng một
lời song song” thể hiện sự đồng lòng sắt son, là tình yêu chân thành sâu sắc đến
từ cả hai phía, từ hai trái tim nay đã hòa chung một nhịp đập, chất chứa đầy ắp thư
tình yêu đời đời thuần khiết, sâu nặng. Lời ước hẹn “Trăm năm tạc một chữ đồng
đến tâm” chính lời thề nguyền, hẹn ước suốt kiếp chỉ chung tình với đối phương,
chữ “đồng” trong đồng tâm, đồng lòng đã ghi tạc vào sâu trong trái tim mãi mãi
không bao giờ phai mờ. Tỏ tình cảm và sự thủy chung son sắt của hai con người
yêu nhau, vượt qua mọi sự ngăn cản của lễ giáo phong kiến, một lòng theo đuổi thứ
tình yêu đích thực, tươi đẹp nhất cuộc đời.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 6
Sau cuộc du xuân, Thúy Kiều Kim Trọng gặp nhau, Kim thuê trọ ở gần nhà Kiều.
Một hôm, nhân lúc cả gia đình đi mừng thọ bên ngoại, Thúy Kiều chủ động sang nhà
Kim Trọng, hai người tình tự với nhau đến tối. Trở về nhà nhưng gia đình chưa về,
Kiều lại buông rèm sang nhà Kim Trọng lần hai. Họ cùng nhau hứa hẹn chung thủy
suốt đời. “Thề nguyền” một trong những đoạn trích tiêu biểu cho tình yêu trong
sách, thủy chung không kém phần bạo dạn của Thúy Kiều - một cô gái trong xã
hội phong kiến, sẵn sàng vượt những hủ tục để có được tình yêu với Kim Trọng.
Mở đầu đoạn trích với cảnh Thúy Kiều lén sang gặp Kim Trọng lần hai khi thấy cha
mẹ chưa về:
“Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia
Một tường tuyết chở sương che
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”
Kiều đi tìm gặp Kim Trọng, Nàng với những bước chân nhanh nhẹn “xăm xăm”, can
đảm đến bên nhân tình cùng nhau xướng họa văn thơ, tâm sự bầu bạn. Quả thật
trong hội phong kiến xưa, nhưng hủ tục trói buộc con người, tạo ra một bức
tường ngăn cách tình yêu đôi lứa, nhưng Kiều một gái trái tim bồng bột ngây
thơ, với sự táo bạo, chủ động trong tình yêu, thề nguyền với người mình yêu khi
không sự cho phép của cha mẹ mình cho thấy trong nàng có khao khát một tình
yêu tự do, chính đáng, một tình cảm mãnh liệt với Kim Trọng đồng thời, nàng đang
chính mình tranh đua với thời gian, định mệnh để tìm kiếm hạnh phúc. Theo từng
bước đi đó của Thúy Kiều tưởng tiến bộ của Nguyễn Du, mở rộng ranh giới
tình cảm cho nhân vật. Nàng cứ thế bước đi trong vườn khuya, dần lạc vào ảo
mộng.

Preview text:

Phân tích bài thơ Thề Nguyền hay nhất
Dàn ý phân tích bài thơ Thề Nguyền I. Mở bài:
- Giới thiệu đoạn trích thề nguyền.
- Ví dụ: Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông đã viết những bài thơ thể hiện
thân phận khổ cực và hẩm hiu của con người và nhất là của người phụ nữ. tấm lòng
nhân đạo của ông đã được thể hiện rất sâu sắc qua các bài thơ và sâu sắc nhất
được thể hiện qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm nói về một nhân vật có tài sắc
vẹn toàn nhưng vì chữ hiếu đã hi sinh bản thân mình. Có một đoạn trích thể hiện
tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trong rất sâu sắc.Chúng ta cùng đi tìm hiểu đoạn trích. II. Thân bài:
1. Kiều băng lối đường đi sang nhà Kim Trọng
- Tâm trạng và tình cảm của kiều:
● Kiều vội vàng, hối hức muốn được gặp Trọng.
● Tình yêu của Kiều dành cho Trọng rất mãnh liệt.
● Kiều có sự lo lắng về tình yêu của mình đầy phong ba và bão táp.
● Kiều có một tình yêu đầu đời thật đẹp.
● Kiều khát khao được yêu, tình yêu tự do.
- Tâm trạng và thái độ của Kim Trọng:
● Kim Trọng khẩn trương, cẩn thận rước Kiều vào nhà.
● Kim Trọng cũng yêu say đắm kiều.
2. Kiều thề nguyền cùng Kim Trọng
- Nghi lễ thề nguyền được thể hiện trang trọng và thiêng liêng trước trăng, trăng
chứng nhân cho tình yêu đôi lứa.
- Sự đồng tâm đồng lòng của hai người đối với tình yêu của họ.
- Tạo nên niềm tin vào tình yêu.
- Tình yêu sâu sắc của Thúy Kiều và Kim Trọng. III. Kết bài:
- Nêu cảm nhận về đoạn trích Thề Nguyền.
- Ví dụ: Qua đoạn trích ta có thể thấy được tình yêu đẹp và say đắm của Thúy Kiều
và Kim Trọng, tình yêu ấy đã được trời đất chứng kiến qua hành động thề nguyền
rất trang trọng và thiêng liêng của đôi lứa.
Thề nguyền phân tích - Mẫu 1
Truyện Kiều là một tuyệt tác của đại thi hào Nguyễn Du mà đến tận ngày nay người
ta vẫn ngớt lời khen ngợi và tìm hiểu về nó. Tác phẩm viết về Thúy Kiều – một
người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại có số phận truân chuyên, éo le và bi kịch,
bị đẩy đưa bởi xã hội phong kiến đương thời tàn ác, bất công. Nguyễn Du muốn
thông qua cuộc đời Kiều để mà lên án cái xã hội ấy và thể hiện ước mơ về một xã
hội công bằng, công lý, người phụ nữ được sống đúng với bản năng, tình yêu và tự
do của mình. Đoạn trích Thề nguyền là một trong những trích đoạn đẹp nhất Truyện
Kiều, khi miêu tả cảnh Kiều cùng tình yêu đầu của mình – Kim Trọng thề nguyền,
hẹn ước tình yêu dưới trăng.
Đoạn trích Thề nguyền thuộc phần đầu của tác phẩm Truyện Kiều – Gặp gỡ và đính
ước, từ câu thơ thứ 431 đến 452. Đây là phần tiếp nối sau cuộc chơi xuân của chị
em Kiều và sau cuộc gặp gỡ tình cờ với Kim Trọng ở hội "đạp thanh" ấy. Hai con
người tài sắc đã phải lòng nhau gần như ngay lập tức và trong họ đã nảy nở một
thứ tình yêu sâu đậm. Về phần Kim Trọng, từ ngày gặp gỡ, chàng không thể quên
được hình ảnh của nàng Kiều, vậy nên chàng đã tìm cách thuê nhà trọ gần nhà Kiều
để ngày đêm có thể nhìn thấy nàng. Về phần Kiều, nàng cũng như Kim Trọng, ngày
đêm mong nhớ tình lang. Một ngày nhân lúc cả nhà đi chơi, nàng quyết định tìm
sang phòng Kim Trọng để cùng nhau hàn huyên cho thỏa nỗi nhớ mong. Chiều tà,
nàng trở về nhà, nhưng cả nhà chưa ai về, nàng đã quyết định quay lại gặp Kim
Trọng và tại đây, hai người đã cùng nhau hẹn ước và thề nguyền dưới ánh trăng sáng.
Khi viết đoạn trích này, Nguyễn Du đã bộc lộ cho người đọc thấy được tư tưởng tình
yêu tự do của mình, khi ông để cho Kiều là người tìm đến Kim Trọng chứ không phải
ngược lại. Ông muốn người phụ nữ được thoát ra khỏi cái vòng lễ giáo phong kiến
luẩn quẩn để tìm đến với tình yêu đích thực của mình. Và ông đã thể hiện điều đó
trong bước chân dứt khoát của Kiều khi tìm đến với Kim Trọng:
"Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu"
Những người phụ nữ xưa thường chịu ảnh hưởng sâu sắc của lễ giáo phong kiến,
của những điều luật như tam tòng tứ đức, khiến họ không thể thể hiện được tài
năng cũng như không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ "cha mẹ đặt đâu con
ngồi đó". Vậy nên càng không thể có chuyện trai gái chưa vợ chưa chồng lại có thể
lén lút gặp gỡ nhau mà bày tỏ tình yêu, nếu làm vậy, người con gái sẽ mang tội thất
tiết, thiếu lễ giáo, … Ấy vậy mà ở đây, Nguyễn Du đã để Kiều làm tất cả điều ấy.
Giữa đêm khuya, nàng băng lối vườn khuya để tìm đến với tình yêu của mình, tự tay
quyết định tình yêu và cuộc đời của mình. Những từ ngữ như "vội", "xăm xăm" đều
diễn tả sự vội vã, sự nhanh chóng, khẩn trưởng của Kiều khi sang nhà Kim Trọng
lần thứ hai. Nàng "băng lối vườn khuya một mình" mà chẳng hề sợ hãi, phải chăng,
tình yêu đã tiếp cho nàng thêm sức mạnh? Sự tĩnh mịch của đêm khuya chẳng hề
làm nàng chùn bước, mà ngược lại, tình yêu bỏng cháy trong con tim nàng đang xé
bỏ đi lớp rào chắn của định kiến phong kiến để đưa bước chân nàng tới với tình yêu của mình!
Lễ giáo phong kiến quan niệm "nam nữ thụ thụ bất thân", nữ nhi cũng không phải
người có thể quyết định tình yêu, hôn nhân của mình, ấy vậy mà Kiều lại khác. Nàng
phá bỏ tất thảy mọi rào cản để "băng lối" sang nhà Kim Trọng, thật quá táo bạo, thật
quá liều lĩnh! Một người con gái thông minh như Kiều lại luôn được dạy lễ giáo từ
nhỏ sao có thể làm điều đó, phải chăng, tình yêu mãnh liệt đã đưa lối khiến nàng tìm
đến thư phòng của chàng Kim để bày tỏ tình yêu của mình?
Mặt trăng soi tỏ từng cành cây bên vườn vắng còn giai nhân thì đang mau lẹ bước
chân để tìm tới nhà tình lang còn chàng Kim thì đang mơ mang bên hương án dưới ngọn đèn học thiu thiu:
"Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê"
Chàng trai hào hoa phong nhã ấy đang dựa đầu vào hương án mà thiu thiu ngủ "dở
chiều như tỉnh, dở chiều như mê", thì chợt bước chân của nàng thơ ghé tới, "tiếng
sen" nhẹ nhàng tiến lại gần chàng. Không gian ở đây bao trùm bởi ánh trăng, ánh
trăng rẽ lối để Kiều tìm đến Kim Trọng, trăng càng "xế" thì nàng càng gần với người
mình yêu thương. Những hình ảnh ước lệ như "tiếng sen", "hoa lê", "giấc hòe", "giấc
mộng đêm xuân" như càng góp phần làm nên cái tâm trạng hư hư thực thực của
Kim Trọng. Chàng chẳng rõ đang mơ hay đang tỉnh, "mơ màng" không biết hình ảnh
của Kiều có là thực chăng, hay là giấc mộng của chàng khi mong nhớ về nàng?
"Tiếng sen sẽ động giấc hè
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng".
Sự xuất hiện đột ngột lần thứ hai của Kiều khiến cho Kim Trọng tưởng đâu nàng là
nữ thần của đỉnh Vu Giáp xuất hiện trong giấc mơ đêm hè của chàng. Sự xuất hiện
ấy đột ngột quá đỗi khiến chàng không thể tin được đó là sự thật cho đến khi "miệng hoa" cất lời:
"Nàng rằng: 'Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?"
Nếu như sự xuất hiện của nàng là một sự đột ngột quá đỗi với chàng thì lời nói và
hành động của nàng càng khiến cho Kim Trọng bất ngờ hơn nữa. Một hành động
mà chắc chỉ có Kiều mới dám táo bạo và liều lĩnh như thế "vì hoa nên phải trổ
đường tìm hoa". Vì tình yêu nên nàng sẵn sàng vượt lên tất cả mọi định kiến về lễ
giáo phong kiến để tìm đến với mối tình của mình. Giữa trong "đêm trường" khuya
khoắt ấy, giữa ánh trăng vằng vặc ấy, không chỉ là thời gian, không gian của vũ trụ
mà còn là không gian, thời gian trong tình yêu của nàng. Những người đang yêu
bao giờ cũng cảm thấy thời gian bên nhau thật ngắn ngủi, còn thời gian xa nhau ngỡ
như "đêm trường" tối tăm và xa cách. Nàng muốn được gần Kim Trọng thêm nữa.
Hai chữ "hoa" trong một câu thơ mà nàng dùng, vốn là từ để chỉ người con gái đẹp
thì ở đây lại phiếm chỉ tình yêu son sắt của nàng dành cho Kim Trọng. Giờ đây khi
đã gần bên nhau, nàng muốn ước hẹn cùng Kim Trọng để chứng minh cho tình yêu
của mình. Bởi sau khi bên mộ Đạm Tiên trở về, nàng luôn mang trong mình nỗi lo
âu, thấp thỏm, nàng sợ rằng tình yêu này cũng chỉ như giấc "chiêm bao".
Sự xuất hiện đột ngột chẳng báo trước của Kiều cùng những lời nói của nàng khiến
cho Kim Trọng vô cùng kinh ngạc, bởi nó đã vượt qua tất cả mọi lễ giáo thông
thường. Thế nhưng, chàng hiểu tất cả, bởi tình yêu của chàng dành cho Kiều cũng
đã vô cùng sâu đậm, gặp lại tình nhân ở đây thật không lời nào tả xiết. Chàng rước
nàng vào hương án với sự vội vàng, không biết mơ và thực nữa:
"Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương"
Chàng thêm sáp thêm hương cho không gian thêm phần rực rỡ, cũng là để mừng
cho khoảnh khắc hạnh phúc sum vầy của đôi lứa yêu nhau. Và cũng tại không gian
này, chàng và nàng cùng "thảo" một tờ giấy hẹn thề, đính ước cùng nhau, ước hẹn
trăm năm bạc đầu. Cắt một lọn tóc nhỏ, rồi chia làm đôi làm tín vật đính ước của đôi
trai tài gái sắc. Tất cả những vật nhỏ bé ấy giờ thành những tín vật trang trọng nhất,
đẹp đẽ nhất chứng minh tình yêu của hai người. Và trong không gian ấy, không thể
thiếu ánh trăng soi tỏ trên đầu, ánh trăng ấy là chứng nhân cho tình yêu của họ:
"Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song".
Có lẽ khi bất cứ ai nhắc đến tình yêu của Kiều và Kim Trọng đều nhớ đến hình ảnh
của đôi trai gái cùng ngồi thề nguyền dưới ánh trăng. Hình ảnh đó đẹp rực rỡ, đẹp
như mối tình trong sáng, vượt trên mọi lễ nghi của họ. Hai con người giờ đây đã
chung một chữ thề "một lời song song" cùng nhau hẹn ước, cùng nhau thề hẹn trăm năm bạc đầu.
Nguyễn Du quả là một nhà thơ tài hoa bởi chỉ với vài dòng thơ ngắn ngủi, nhưng
ông đã vẽ lên cho chúng ta thấy được một bức tranh của đôi trai tài gái sắc cùng
nhau thề nguyền. Bức tranh ấy đẹp lung linh với ánh trăng làm nền soi tỏ. Để cuối
cùng khi kết lại, hai người đã cùng nhau tạc lên "một chữ đồng": đồng tâm, đồng
lòng đến chết. Hai con người ấy đã thề nguyền suốt kiếp chung tình với đối phương,
ghi tạc vào trong tim, mãi mãi không bao giờ quên. Tất cả đã chứng tỏ một thứ tình
yêu son sắt, thủy chung đến vô cùng, tình yêu của họ vượt lên trên tất cả những
định kiến lễ giáo phong kiến, vượt trên cả không gian và thời gian, nguyện lòng theo
đuổi một thứ tình yêu đến suốt đời, suốt kiếp.
Đoạn trích Thề nguyền là một trong những trích đoạn hay và lãng mạn nhất trong
Truyện Kiều. Bởi ở đây không chỉ chứa đựng cảnh thề nguyền hẹn ước của đôi lứa
Kiều – Kim Trọng và còn thể hiện cả quan điểm tình yêu tự do, hôn nhân và hạnh
phúc tự do – một quan điểm vô cùng tiến bộ của Nguyễn Du thời ấy. Dù rằng sau
này, Kiều phải đành lòng trao lại mối tình sâu nặng ấy cho Thúy Vân để em gái thay
mình trả nghĩa cho Kim Trọng, nhưng những khung cảnh đẹp đẽ giữa họ, lời thề
ước giữa họ thì vĩnh viễn tồn tại như ánh trăng hôm đó. Qua đoạn trích này, ta cũng
thấy được tài năng của Nguyễn Du khi xây dựng những hình ảnh ước lệ đẹp tuyệt
vời, khả năng sử dụng ngôn ngữ vô cùng đặc sắc của ông.
Phân tích Thề nguyền - Mẫu 2
Truyện Kiều là tác phẩm văn học xuất sắc nhất của thiên tài Nguyễn Du và của nền
văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Không những là một kiệt tác bất hủ, truyện Kiều
còn ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần và đời sống của con người Việt nam nhiều
thời đại. Đoạn trích Thề nguyền trích từ câu 431 đến câu 452 trong Truyện Kiều.
Đoạn trích kể về việc Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng và làm lễ thề nguyền gắn bó
trước vầng trăng sáng vằng vặc:
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình ...
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Thúy Kiều táo bạo băng lối vườn khuya tìm đến với Kim Trọng:
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Tác giả dùng hai lần chữ “vội”, một lần chữ “xăm xăm”, một lần chữ “băng” để diễn
tả tâm trạng, tình cảm của Kiều. Mặt khác thể hiện sự khẩn trương, vội vã của nàng
trong hành động táo bạo, đột xuất, bất ngờ. Kiều như tranh đua với thời gian và định
mệnh đang ám ảnh mà cũng vì tình yêu với Kim Trọng mà Kiều vội vã đến vơi chàng Kim.
Thông thường, quan niệm Nho giáo cho rằng trong quan hệ nam nữ, bao giờ người
con trai cũng phải đóng vai trò chủ động. Người con gái không bao giờ là người chủ
động trong tình yêu. Thế nhưng, lần đầu tiên trong lịch sử, Nguyễn Du đã để cho
Kiều hành động như thế. Đây là một nét mới trong cách nhìn tình yêu của Nguyễn
Du. Nhưng ỏ đây, Nguyễn Du đã nhấn mạnh sự chủ động của Kiều – người con gái.
Nhà thơ có cái nhìn vượt trước thời đại, hướng đến sự bình đẳng trong tình yêu lứa
đôi và trong cuộc sống xã hội của mỗi con người.
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Không gian đêm thần tiên, hư ảo được tả bằng các hình ảnh ánh trăng nhặt thưa,
ngọn đèn hiu hắt, tiếng bước chân nhẹ nhàng tạo ấn tượng cho Kim Trọng như
đang sống trong mơ. Không gian như cần thêm ánh sáng, cần thêm hương thơm và
sự ấm áp. Đó là không gian đẹp, nhưng có cảm giác hư ảo, không có thực, con
người rất cô đơn giữa trời đất bao la:
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hè,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Kiều đến và tỏ bày về hành động của mình:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Biết là trái với luân thường đạo lí, nhưng ngọn lửa tình yêu cháy bỏng khiến nàng
mạnh bước vượt qua. Sợ Kim Trọng không vừa ý nên tỏ lòng cho rõ nguồn cơn.
Cuộc thề nguyền tuy vội vàng nhưng cũng đủ cả các hình thức nghi lễ. Hai mái đầu
xanh cùng ngước lên trời cao, có vầng trăng chứng giám lời thề, tình yêu tự nguỵen và chung thuỷ của họ:
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương.
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
Vừng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Hình ảnh: “Đinh ninh ….song song” và lời thề: “Trăm năm…..xương” thật cảm động
và thiêng liêng, lãng mạn và đầy chất lí tưởng.
Đoạn trích cho thấy tình yêu của con người là rất cao đẹp và thiêng liêng. Lời thề
của họ được vầng trăng chứng giám. Đoạn Trao duyên là sự tiếp tục một cách lôgic
quan niệm và cách nhìn tình yêu của Thuý Kiều. Ngược lại đoạn trích này cũng góp
phần hiểu đúng đoạn Trao duyên, vì đây là một kỉ niệm đẹp đối với Kiều và Kiều sẽ
nhớ lại những chi tiết trong đêm thề nguyền thiêng liêng này. Bởi vậy khi phải phụ lời
thề để báo hiếu Kiều luôn nhớ chàng Kim với buổi thề nguyền với tâm trạng đau xót,
tiếc thương. Hành động trao duyên tả nghĩa chàng Kim làm dịu đi phần nào nỗi đau của Kiều
Thề nguyền là đoạn thơ chứng tỏ quan niệm mới mẻ táo bạo của Nguyễn Du về tình
yêu. Mặt khác chứng minh tình cảm say đắm, mãnh liệt, chủ dộng và rất đỗi trong
sáng, thiêng liêng của Kiều – Kim. Đoạn thơ đã trở thành bản tình ca bất diệt về tình
yêu đầy lãng man, lí tưởng táo bạo. Đây là cái nhìn mới mẻ, giàu tính nhân văn của Nguyễn Du về tình yêu.
Phân tích đoạn trích Thề nguyền - Mẫu 3
Trong văn học trung đại xưa, các nhà văn, nhà thơ thường đề cập đến những vấn
đề mang tính cộng đồng, xã hội, dùng thơ để nói chí “Thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải
đạo” mà rất hiếm đề cập đến tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, trong kiệt tác Truyện Kiều
của mình, Nguyễn Du không những viết về tình yêu mà còn ca ngợi tình yêu tự do
của đôi lứa, tư tưởng này được thể hiện chân thực thông qua đoạn trích Thề nguyền.
Thề nguyền là hành động hứa hẹn về tình cảm của đôi lứa, nó có ý nghĩa vô cùng
thiêng liêng bởi nó thể hiện được tình yêu, những cảm xúc tột độ của tình yêu. Thúy
Kiều và Kim Trọng gặp gỡ hôm đi chảy hội mùa xuân thì hai người thì tình yêu đã
chớm nở, để khẳng định tình yêu ấy hai người đã cùng nhau thề nguyền dưới trăng.
Có thể thấy hành động thề nguyền này đã phá vỡ được mọi định kiến của xã hội để
chạm tới tình yêu, là tình yêu vượt trên những định kiến của thời đại.
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Hành động “xăm xăm băng lối vườn khuya” của nàng Kiều thật táo bạo. Theo luân lí
xã hội phong kiến thì hành động này không được phép có ở một người con gái,
hành động giữa đêm trốn đến nhà người yêu là không thể chấp nhận. Tuy nhiên,
hành động của Kiều cũng thể hiện được tình yêu cũng như sức mạnh của tình yêu
có thể vượt qua mọi rào cản, kể cả việc đi ngược lại với những định kiến đương
thời. Sức mạnh của tình yêu đã thôi thúc nàng Kiều hành động, nàng đã sống thực
với những cảm xúc và mong muốn của mình. Tuy có hành động táo bạo nhưng
Thúy Kiều không đi quá xa giới hạn, nàng cũng có những biện minh cho hành động
có vẻ nông nổi của mình:
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
“Vì hoa” ở đây tức chỉ Kim Trọng, một con người tài hoa, phong nhã khiến nàng yêu
say đắm sau lần gặp đầu tiên, chính tình yêu ấy đã thôi thúc nàng vượt bao nhiêu
định kiến để đến gặp mặt, dãi bày. Thúy Kiều ngay từ khi còn sống trong cảnh êm
đềm trướng rủ màn che đã luôn có những sự cảm không lành về một tương lai
nhiều biến cố, đau khổ. Dù tình yêu đang ở lúc nồng nàn, say đắm nhất thì nàng
luôn lo lắng liệu đó có phải giấc chiêm bao, mọi thứ phải chăng rồi sẽ tan biến. Hành
động vội vã của nàng như muốn tranh thủ từng phút giây hạnh phúc được ở bên
người mình yêu. Trước sự xuất hiện đường đột của Thúy Kiều, Kim Trọng đã hết sức bất ngờ:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê
Tiếng sen, khẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Bước chân của nàng Kiều đã đánh thức giấc mộng của chàng Kim, sự xuất hiện của
nàng với vẻ đẹp thanh khiết, rực rỡ khiến cho chàng Kim tưởng chừng vừa gặp tiên
nữ ở núi Vu Giáp. Chính khung cảnh đêm khuya cùng sự xuất hiện bất ngờ của
Thúy Kiều mà Kim Trọng không biết đây là cơn mộng mị hay thực tế đang diễn ra.
Khi yêu người ta luôn nhìn cuộc đời bằng con mắt mơ mộng, hình ảnh của người
trong lòng xuất hiện xinh đẹp,lộng lẫy ngay trước mặt khiến cho chàng Kim ngỡ
ngàng như trong cơn mộng mị cũng là điều có thể hiểu được. Khi xác định được
Thúy Kiều đứng trước mặt mình là thật, chàng Kim đã vô cùng vui mừng, hạnh phúc:
Vội vàng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc Mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Khung cảnh của đêm thề nguyền được tác giả Nguyễn Du khắc họa lên bằng những
chi tiết vô cùng sinh động, ấn tượng với đầy đủ cả ánh sáng, màu sắc và hương
thơm. Chính nét đặc sắc của không gian đêm thề nguyền đó đã trở thành một kỉ
niệm thiêng liêng trong trái tim của hai người Kim, Kiều. Buổi thề nguyền được diễn
ra với đầy đủ nghi thức: tuyên thề, tóc mây, dao vàng, vầng trăng và lời thề nguyền.
Trong buổi thề nguyền ấy, Thúy Kiều đã trao cho Kim Trọng tóc mây, đây không chỉ
là nghi thức hẹn ước mà còn thể hiện được tình cảm sâu sắc mà Thúy Kiều trao cho Kim Trọng.
Trong đêm thề nguyền này, trăng chính là chứng nhân cho tình yêu đôi lứa, mặt
khác nếu theo dõi toàn bộ Truyện Kiều ta có thể thấy được trăng còn là một người
cố tri, chứng kiến toàn bộ những bước ngoặt trong cuộc đời của Kiều. Đó có thể là
hình ảnh ánh trăng nhợt nhạt, le lói trong đêm mà Thúy Kiều bỏ trốn theo Sở Khanh:
Đêm thâu khắc lâu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương.
Vầng trăng cũng như mất mát, đau thương khi bị chia nửa trong đêm Thúy Kiều chia tay Thúc Sinh:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Như vậy, có thể thấy ánh trăng đã chứng kiến toàn bộ những biến cố trong cuộc đời
Thúy Kiều, từ những giây phút hạnh phúc, nồng nàn khi thề nguyền cùng chàng
Kim, cũng là những phút giây đau khổ, chia li sau này. Đoạn trích đã thể hiện đầy
cảm động tình yêu sâu nặng của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng, cũng có thể thấy
được đây là một trong những khoảnh khắc đẹp nhất trong cuộc đời bạc mệnh của nàng Kiều.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 4
Trong cuộc đời này, liệu có mấy người dám khẳng định: ta sống không cần tình? Đại
thi hào Nga M.Gorki từng quả quyết rằng: Tình yêu - đó là thơ ca cuộc đời. Cuộc
sống thiếu tình yêu không phải là sống mà chỉ là sự tồn tại! Và như là định mệnh,
tình yêu tìm đến văn chương nghệ thuật để được bất tử hoá. Những áng văn thơ về
đề tài này, từ xưa đến nay vẫn giữ vị trí cao nhất trong lòng người đọc. Ai có thể thờ
ơ với tình yêu trong sáng của Romeo và Juliet trong đêm trăng thề nguyền? Cũng
như vậy, ai có thể không nhận ra một phần tâm hồn mình trong tình yêu của Thuý
Kiều và Kim Trọng? Thề nguyền là một nét biểu hiện đẹp trong tình yêu của người
quốc sắc, kẻ thiên tài này.
Thề nguyền là một cung bậc tình cảm trong tình yêu. Lời thề là sự khẳng định cho
niềm tin, lòng thuỷ chung son sắt của hai con người, nó cho tình yêu một chỗ dựa
vững chắc, bền chặt. Chẳng thế mà cả Romeo và Juliet, Thuý Kiều và Kim Trọng
đều xem nó là minh chứng cho tình yêu của minh trong văn học trung đại Việt Nam,
việc xuất hiện một tình yêu kiểu Kim – Kiều thật hiếm thấy. Tình yêu ấy đã phá rào
định kiến, gỡ bỏ mọi trói buộc để đến với nhau tự do, tự nguyện. Một tình yêu vượt
trên thời đại.Để bảo vệ, vun đắp cho mối tình đẹp đẽ của mình Thuý Kiều đã:
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Vì hành động xăm xăm băng lối vườn khuya ấy mà Kiều đã nhận lấy không biết bao
nhiêu tiếng chê - khen. Các cụ ta xưa xem đó là hành động trái lại với đạo đức, luân
lý, cương thường. Trong khi nàng phải gần gũi mình trong cảnh thâm nghiêm kín
cổng cao tường hay êm đềm trướng rủ màn che – tường đông ong bướm đi về mặc
ai, thì hành động một mình giữa đêm tối tìm đến nhà người yêu của Kiều thật khó
chấp nhận, nó không phải là hành động của bậc tiểu thư đài các thâm khuê.
Nhưng ta hãy nhìn nó với ánh mắt và tâm hồn của kẻ đang yêu, những gì các cụ ta
cho là vô lý, là sai trái, là không thể chấp nhận kia bỗng trở nên hợp lý, đúng đắn
hơn bao giờ hết. Kiều yêu bằng tình cảm đầu đời mãnh liệt, trong sáng nhất của
người con gái. Tình yêu đẹp đẽ đã cho nàng sức mạnh vượt qua bóng đêm của khu
vườn, bóng đêm của định kiến đế đến với chàng Kim. Điều đáng trân trọng, ca ngợi
nữa là Kiều đã không để sự mãnh liệt trong tình yêu dẫn nàng đi quá xa, quá giới
hạn cho phép. Và cũng chính Kiều đã biện minh cho hành động của mình.
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
Vì hoa – vì chàng Kim – vì con người văn chương nết đất, thông minh tính trời, vào
trong phong nhã, ra người hào hoa ấy đã khiến Kiều phải trổ đường tìm hoa giữa
khoảng vầng đêm trường. Có trách là trách ai kia chứ sao lại trách nàng?
Yêu tha thiết là thế nhưng Kiều vẫn rất tỉnh táo. Cuộc đời nàng bắt đầu từ những
khúc. Bạc mệnh đến lời báo mộng của Đạm Tiên rằng nàng có tên trong sổ Đoạn
trường đã khiến cho người con gái trong sáng ấy luôn thường trực nỗi ưu tư, lo
lắng. Giữa lúc tình yêu ở độ nồng thắm nhất mà nàng vẫn lo rằng: Biết đâu rồi nữa
chẳng là chiêm bao? Mọi thứ sẽ tan biến như giấc chiêm bao không thể nếu giữ lại
bởi hạnh phúc nàng có mong manh. Điều đó dường như không còn là nỗi lo lắng
đơn thuần nữa. Nó là điềm báo chăng? Cũng giống như lời tâm sự của Juliet dưới
đêm trăng đã khiến chàng Romeo hạnh phúc đến ngây ngất, hành động của Kiều
khiến Kim Trọng ngạc nhiên và mừng rỡ không kém:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê
Tiếng sen, khẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Bước chân người đẹp đã đánh thức giấc mộng của chàng Kim. Nàng như hoa lê
ngậm trăng với vẻ thanh khiết, sáng láng tuyệt vời khiến chàng Kim ngỡ thần nữ núi
Vu Giáp. Chàng không khỏi ngạc nhiên: Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Lại là giấc mộng. Dường như khi yêu, người ta nhìn thế giới bằng con mắt mơ
mộng. Kiều xuất hiện trước mặt chàng đầy bất ngờ, với vẻ xinh đẹp yêu Kiều là thế
khiến chàng ngỡ mình đang đắm chìm trong giấc mộng đêm xuân mơ màng cũng là
điều dễ hiểu.Hết ngạc nhiên, chàng vui mừng hạnh phúc:
Vội vàng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc Mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Không khí đêm thề nguyền được gợi lên đầy ấn tượng, với ánh sáng, màu sắc,
hương thơm; với cảnh đẹp, người đẹp… tạo nên dấu ấn tình yêu đầu đời không bao
giờ phai mờ trong tâm hồn Kiều. Biểu hiện của buổi thề nguyền là tiên thề, tóc mây,
dao vàng, vầng trăng và lời thề. Kiều trao chàng kim món tóc mây biểu hiện sự hẹn
ước. Đêm thề nguyền của hai người yêu nhau được vây gọn trong thiên nhiên đẹp
đẽ, êm đềm với sự minh chứng của vầng trăng vằng vặng giữa trời.
Trăng là kẻ cố tri, thường xuyên xuất hiện và đi về để chứng kiến những bước ngoặt
trong cuộc đời nàng Kiều, vầng trăng ấy chất chứa đầy tâm trạng bởi dưới trăng là
con người của nỗi niềm tâm sự khôn nguôi. Nó có lúc là thứ ánh sáng nhợt nhạt, đe
dọa trong đêm Kiều trốn theo Sở Khanh:
Đêm thâu khắc lâu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngân ngậm sương.
Hoặc có thể là vầng trăng sẻ nửa khi Kiều chia tay chàng Thúc:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Hay là bóng trăng tà đầy hoảng hốt khi Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư:
Cất mình qua ngọn tường hoa
Lần đường theo bóng trăng tà về tây…
Đã bao lần trăng hiện diện trong cuộc đời Kiều, nhưng có lẽ chỉ có đêm trăng thề
nguyền này là tròn đầy, viên mãn nhất. Nó sáng trong vằng vặc giữa trời như lời ghi
nhận của thiên nhiên tạo vật trước tình yêu của đôi trẻ. Ánh sáng ấy như lớp màng
bảo vệ tình yêu khỏi những tì vết, bụi bặm đời thực; nó khắc hình ảnh đêm thề
nguyền vào cuộc đời hai con người như một dấu ấn, một minh chứng cho tình yêu vĩnh hằng.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 5
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm được xếp vào hàng kinh
điển của nền văn học dân tộc, có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống của nhân
dân Việt Nam suốt mấy trăm năm nay. Giá trị của truyện Kiều đến từ các giá trị nhân
văn, tính nhân bản như lòng thương cảm và xót xa cho số phận con người dưới chế
độ phong kiến, ca ngợi vẻ đẹp tài hoa và tâm hồn của người phụ nữ, bên cạnh đó
nó còn mang giá trị hiện thực khi phản ánh, tố cáo chế độ phong kiến tàn ác, chèn
ép đày đọa con người đến bước đường cùng. Nhân vật chính của tác phẩm là Thúy
Kiều một cô gái trẻ tuổi, tài sắc vẹn toàn, thế nhưng lại phải chịu bất hạnh với kiếp
hồng nhan bạc mệnh. Trong phần thứ nhất - Gặp gỡ của tác phẩm, thì trích đoạn
Thề nguyền là một trong những trích đoạn hay nhất kể về mối tình đẹp của Thúy Kiều với Kim Trọng.
Thề nguyền bắt đầu từ câu 431 đến câu 452 của tác phẩm, sau khi gặp gỡ tại tiết
Thanh minh, Kim Trọng và Thúy Kiều đã có thêm vài lần gặp gỡ, cặp trai tài gái sắc,
đang tuổi thanh xuân phơi phới đã nhanh chóng phải lòng nhau và tình yêu ngày
càng trở nên sâu đậm. Chính vì lẽ đó nên Thúy Kiều nhân lúc cả nhà sang ngoại, đã
lén đi tìm gặp Kim Trọng, rồi sau khi đã trở về nhà lúc chiều tà mà chưa thấy người
nhà quay trở về nàng lại tiếp tục quay lại lần nữa, rồi tự định ước chung thân với
Kim Trọng, để bày tỏ tình yêu sâu sắc chân thành của cả hai. Trích đoạn Thề
nguyền đã kể lại tất thảy việc đính ước của cả hai dưới ánh trăng vằng vặc.
Ở trích đoạn Thề nguyền ta dễ dàng nhận thấy quan điểm tiến bộ trước thời đại cả
của Nguyễn Du trong tình yêu đôi lứa, bộc lộ sự ủng hộ của tác giả trong việc nam
nữ theo đuổi tình yêu một cách tự do mãnh liệt, thoát khỏi cái e lệ, ngại ngần không
dám tỏ bày mà ông cha ta thuở xưa vẫn thường cho là phép tắc, lễ nghĩa. Điều này
thể hiện rất rõ trong đoạn Thúy Kiều vượt tường băng qua nhà Kim Trọng ngay
trong đêm tối. Bởi trong nền giáo dục truyền thống, phận nữ nhi buộc phải an phận
thủ thường, chịu sự sắp đặt của cha mẹ theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy”, cũng không có chuyện trai gái lén lút, gặp gỡ riêng nhau để tỏ bày tình yêu,
nếu có thì người trai bị cho là vô phép, thiếu lễ nghĩa, còn người con gái phải chịu
điều tiếng nặng nề hơn là lăng loàn, thất tiết,... Thế nhưng với hai nhân vật Kiều và
Kim Trọng, Nguyễn Du lại hoàn toàn tạo cho họ một không gian gặp mặt riêng, để
họ được thoải mái bộc lộ tình yêu sâu sắc dành cho nhau. Đặc biệt với nhân vật
Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vẽ ra cảnh nàng đêm hôm chạy theo tiếng gọi của tình
yêu, rồi tự tay quyết định chung thân đại sự của mình. Điều đó đã từng một thời dấy
lên làn sóng tranh cãi về việc rốt cuộc Kiều có phải là người phụ nữ lễ tiết thấu đáo
hay cũng chỉ là loại phụ nữ trắc nết. Tuy nhiên đến nay, thì người ta lại có cái nhìn
thông cảm và trân trọng hơn với nàng, cũng như cái tính táo bạo, mạnh mẽ trong
tình yêu của Thúy Kiều.
“Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương dọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Trong 14 câu thơ đầu, ta thấy hiện lên hình ảnh người con gái vội vã đi tìm tình lang,
khi vừa trở về nhà thì hay tin cả nhà vẫn chưa về, ngay lập tức trong lòng Kiều đã
nảy ra ý định sang tìm Kim Trọng lần nữa. Chứng tỏ rằng tình yêu của nàng đang ở
độ mặn nồng và sâu sắc nhất, nỗi nhớ đã bộc lộ ra bằng hành động để chứng minh.
Những từ “vội”, “xăm xăm”, “băng lối”, “một mình” đã thể hiện sự mạnh mẽ, quyết
đoán của Kiều trong tình yêu, không màng lễ tiết hay những quan niệm phong kiến
ngăn cản tình yêu, vứt bỏ tất cả sau lưng để tìm đến với chân ái của cuộc đời. Bên
cạnh đó tình yêu của Kiều còn được vẽ nên dưới một khung cảnh thiên nhiên rất thơ
mộng và trữ tình, gợi ra sự lãng mạn, tươi trẻ của thứ tình yêu đầu đời tuyệt đẹp. Đó
là cảnh “Nhặt thưa gương dọi đầu cành”, khi ánh trăng trên cao tỏa xuống những
thứ ánh sáng dịu dàng, rồi xuyên qua từng tầng lá để lọt xuống những tia sáng lưa
thưa chiếu lên người giai nhân đang rảo bước trong vườn. Cảnh ánh đèn mờ mờ
của Kim Trọng xuyên qua cửa hắt ra ngoài vườn, không chỉ thể hiện ánh nhìn trông
mong, thương nhớ luôn hướng về nơi tình lang ở của nàng Kiều, mà nó còn thể
hiện tinh thần hiếu học, sự miệt mài chăm chỉ của Kim Trọng trong việc đèn sách,
càng chứng minh tình yêu của Kiều đã đặt đúng người. Thúy Kiều nhanh chóng
băng vườn tìm đến nhà Kim Trọng, ở đây thấy chàng đã hiu hiu giấc ngủ bên đèn
sách, chập chờn trong giấc mộng. Nguyễn Du dùng hình ảnh có tính ước lệ như
“Tiếng sen đã động giấc hòe”, để thể hiện phong thái dù vội vã nhưng vẫn uyển
chuyển, thanh khiết nhẹ nhàng của Thúy Kiều thông qua “tiếng sen”. Lại diễn tả
cảnh say giấc của Kim Trọng bằng “giấc hòe” trích từ điển cố Thuần Vu Phần ngủ
dưới gốc hòe mơ thấy vinh hoa phú quý. Điều đó thể hiện lý tưởng và khát vọng của
Kim Trọng vào việc tạo lập công danh, sự nghiệp, thế nhưng trước giấc mộng không
có thật và thân ảnh Thúy Kiều đã đến bên thì Kim đã nhanh chóng thức dậy. Hình
ảnh “Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần” càng làm tăng thêm sự thi vị và lãng mạn cho
công cuộc gặp gỡ của Kiều và Kim Trọng. Khung cảnh đôi kim đồng ngọc nữ, dưới
ánh trăng sáng tỏ, với nội tâm là tình yêu mãnh liệt dành cho nhau trở nên thật tuyệt
diệu. Chính vì thế khi Kim Trọng tỉnh giấc, nhìn thấy Kiều dưới ánh trăng thanh lại cứ
ngỡ bản thân mình đang mơ, thực tế là vì quá đỗi bất ngờ, cùng với việc nhớ mong
người yêu mà tưởng mình mộng phải đâu ngờ người đã tới tận bên án thư. Tại đây
Kiều đã mạnh mẽ tỏ bày nỗi lòng mình, việc mà xưa nay chắc chẳng mấy nữ nhi
thường tình dám chủ động, Kiều đối diện với Kim Trọng bộc lộ sự nhớ mong, trống
vắng khi xa nhau, lại sợ “đêm trường” khó tránh khỏi nhớ thương, thế nên ví “hoa”
chính là tình yêu, nàng đã “vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa”. Thế nhưng bên cạnh
nỗi nhớ mong tình quân, thì hành động bộc phát của Kiều có lẽ còn xuất phát từ giấc
mộng về Đạm Tiên, phải chăng Thúy Kiều đang lo lắng rằng tình yêu của mình sẽ
giống như đóa hoa kia, đẹp nhưng sớm nở tối tàn đầy xót xa. Hoặc là lại giống như
một giấc “chiêm bao” cuối cùng chẳng còn lại gì, điều đó khiến lòng Kiều bất an vô
cùng. Chính vì thế nên mới có cảnh tìm gặp rồi thề nguyền kết tóc, để nàng cảm
thấy an tâm hơn về tình yêu đầu đời đẹp như mộng của mình.
“Vội mừng làm lễ rước vào,
Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
Không gian thề nguyền của đôi trẻ ấy là trong nhà Kim Trọng, cũng là nơi hai người
thường gặp mặt tâm sự, bối cảnh thời gian là một đêm trăng sáng tạo nên không
gian thơ mộng trữ tình. Không chỉ vậy ánh trăng xưa nay luôn là biểu trưng cho sự
sum vầy, đoàn viên, sự hạnh phúc mỹ mãn, bên cạnh đó còn là biểu thị cho tình yêu
trong sáng, thuần khiết và chân thành của Thúy Kiều và Kim Trọng. Vầng trăng ở
đây đã trở thành minh chứng thiêng liêng cho tình yêu tuyệt đẹp của đôi trai tài gái
sắc. Trong việc thề nguyền, đính ước, cả Thúy Kiều và Kim Trọng đều vô cùng
thành tâm và cẩn thận, tỉ mỉ, nào là nến đỏ thắp trên “đài sen”, rồi có cả hương khói
tản mát trong “lò đào” làm cho không khí trở nên thập phần lãng mạn, tinh tế và
thiêng liêng vô cùng. Cả hai đã cùng nhau viết “tiên thề”, cùng nhau cắt tóc mây
bằng “dao vàng”, thể hiện thái độ trân trọng và nâng niu vô cùng ước nguyện cùng
nhau kết tóc, bạc đầu trăm năm, quyết tâm không đổi dời. “Đinh ninh hai miệng một
lời song song” là thể hiện sự đồng lòng sắt son, là tình yêu chân thành sâu sắc đến
từ cả hai phía, từ hai trái tim nay đã hòa chung một nhịp đập, chất chứa đầy ắp thư
tình yêu đời đời thuần khiết, sâu nặng. Lời ước hẹn “Trăm năm tạc một chữ đồng
đến tâm” chính là lời thề nguyền, hẹn ước suốt kiếp chỉ chung tình với đối phương,
mà chữ “đồng” trong đồng tâm, đồng lòng đã ghi tạc vào sâu trong trái tim mãi mãi
không bao giờ phai mờ. Tỏ rõ tình cảm và sự thủy chung son sắt của hai con người
yêu nhau, vượt qua mọi sự ngăn cản của lễ giáo phong kiến, một lòng theo đuổi thứ
tình yêu đích thực, tươi đẹp nhất cuộc đời.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 6
Sau cuộc du xuân, Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau, Kim thuê trọ ở gần nhà Kiều.
Một hôm, nhân lúc cả gia đình đi mừng thọ bên ngoại, Thúy Kiều chủ động sang nhà
Kim Trọng, hai người tình tự với nhau đến tối. Trở về nhà nhưng gia đình chưa về,
Kiều lại buông rèm sang nhà Kim Trọng lần hai. Họ cùng nhau hứa hẹn chung thủy
suốt đời. “Thề nguyền” là một trong những đoạn trích tiêu biểu cho tình yêu trong
sách, thủy chung mà không kém phần bạo dạn của Thúy Kiều - một cô gái trong xã
hội phong kiến, sẵn sàng vượt những hủ tục để có được tình yêu với Kim Trọng.
Mở đầu đoạn trích với cảnh Thúy Kiều lén sang gặp Kim Trọng lần hai khi thấy cha mẹ chưa về:
“Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia
Một tường tuyết chở sương che
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”
Kiều đi tìm gặp Kim Trọng, Nàng với những bước chân nhanh nhẹn “xăm xăm”, can
đảm đến bên nhân tình cùng nhau xướng họa văn thơ, tâm sự bầu bạn. Quả thật
trong xã hội phong kiến xưa, nhưng hủ tục trói buộc con người, tạo ra một bức
tường ngăn cách tình yêu đôi lứa, nhưng Kiều một cô gái có trái tim bồng bột ngây
thơ, với sự táo bạo, chủ động trong tình yêu, thề nguyền với người mình yêu khi
không có sự cho phép của cha mẹ mình cho thấy trong nàng có khao khát một tình
yêu tự do, chính đáng, một tình cảm mãnh liệt với Kim Trọng đồng thời, nàng đang
vì chính mình tranh đua với thời gian, định mệnh để tìm kiếm hạnh phúc. Theo từng
bước đi đó của Thúy Kiều là tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du, mở rộng ranh giới
tình cảm cho nhân vật. Nàng cứ thế bước đi trong vườn khuya, dần lạc vào ảo mộng.