Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Ngữ văn 11

Qua đoạn trích, Nguyễn Du đã dựng nên khung cảnh lãng mạn và đề cao tính cách của Thúy Kiều trong đêm thề nguyền kết tóc xe tơ cùng Kim Trọng, bằng văn miêu tả và đối thoại. Cảnh thì dịu dàng, đẹp như một bức tranh. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 11 311 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 11 1.2 K tài liệu

Thông tin:
27 trang 6 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Ngữ văn 11

Qua đoạn trích, Nguyễn Du đã dựng nên khung cảnh lãng mạn và đề cao tính cách của Thúy Kiều trong đêm thề nguyền kết tóc xe tơ cùng Kim Trọng, bằng văn miêu tả và đối thoại. Cảnh thì dịu dàng, đẹp như một bức tranh. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

25 13 lượt tải Tải xuống
Phân tích bài thơ Thề Nguyền (Dàn ý + 9 mẫu)Văn mẫu lớp 11
Qua bài thơ Thề nguyền,chúng ta đã thấy được quan điểm tiến bộ của Nguyễn Du về sự tự do
theo đuôi tình yêu của trai gái, thấy được cá tính mạnh mẽ của nàng Kiều, bộc lộ thông qua việc
lén tìm Kim Trọng rồi tự định chung thân. Vậy dưới đây là 9 mẫu phân tích Thề nguyền cực hay,
mời các bạn cùng theo dõi.
Dàn ý phân tích bài thơ Thề Nguyền
I. Mở bài:
- Giới thiệu đoạn trích thề nguyền.
- Ví dụ: Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông đã viết những bài thơ thể hiện thân phận khổ
cực và hẩm hiu của con người và nhất là của người phụ nữ. tấm lòng nhân đạo của ông đã được
thể hiện rất sâu sắc qua các bài thơ và sâu sắc nhất được thể hiện qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác
phẩm nói về một nhân vật có tài sắc vẹn toàn nhưng vì chữ hiếu đã hi sinh bản thân mình. Có
một đoạn trích thể hiện tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trong rất sâu sắc.Chúng ta cùng đi tìm
hiểu đoạn trích.
II. Thân bài:
1. Kiều băng lối đường đi sang nhà Kim Trọng
- Tâm trạng và tình cảm của kiều:
Kiều vội vàng, hối hức muốn được gặp Trọng.
Tình yêu của Kiều dành cho Trọng rất mãnh liệt.
Kiều có sự lo lắng về tình yêu của mình đầy phong ba và bão táp.
Kiều có một tình yêu đầu đời thật đẹp.
Kiều khát khao được yêu, tình yêu tự do.
- Tâm trạng và thái độ của Kim Trọng:
Kim Trọng khẩn trương, cẩn thận rước Kiều vào nhà.
Kim Trọng cũng yêu say đắm kiều.
2. Kiều thề nguyền cùng Kim Trọng
- Nghi lễ thề nguyền được thể hiện trang trọng và thiêng liêng trước trăng, trăng chứng nhân cho
tình yêu đôi lứa.
- Sự đồng tâm đồng lòng của hai người đối với tình yêu của họ.
- Tạo nên niềm tin vào tình yêu.
- Tình yêu sâu sắc của Thúy Kiều và Kim Trọng.
III. Kết bài:
- u cảm nhận về đoạn trích Thề Nguyền.
- Ví dụ: Qua đoạn trích ta có thể thấy được tình yêu đẹp và say đắm của Thúy Kiều và Kim
Trọng, tình yêu ấy đã được trời đất chứng kiến qua hành động thề nguyền rất trang trọng và
thiêng liêng của đôi lứa.
Thề nguyền phân tích - Mẫu 1
Truyện Kiều là một tuyệt tác của đại thi hào Nguyễn Du mà đến tận ngày nay người ta vẫn ngớt
lời khen ngợi và tìm hiểu về nó. Tác phẩm viết về Thúy Kiều – một người con gái tài sắc vẹn
toàn nhưng lại có số phận truân chuyên, éo le và bi kịch, bị đẩy đưa bởi xã hội phong kiến đương
thời tàn ác, bất công. Nguyễn Du muốn thông qua cuộc đời Kiều để mà lên án cái xã hội ấy và
thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng, công lý, người phụ nữ được sống đúng với bản năng,
tình yêu và tự do của mình. Đoạn trích Thề nguyền là một trong những trích đoạn đẹp nhất
Truyện Kiều, khi miêu tả cảnh Kiều cùng tình yêu đầu của mình – Kim Trọng thề nguyền, hẹn
ước tình yêu dưới trăng.
Đoạn trích Thề nguyền thuộc phần đầu của tác phẩm Truyện Kiều – Gặp gỡ và đính ước, từ câu
thơ thứ 431 đến 452. Đây là phần tiếp nối sau cuộc chơi xuân của chị em Kiều và sau cuộc gặp
gỡ tình cờ với Kim Trọng ở hội "đạp thanh" ấy. Hai con người tài sắc đã phải lòng nhau gần như
ngay lập tức và trong họ đã nảy nở một thứ tình yêu sâu đậm. Về phần Kim Trọng, từ ngày gặp
gỡ, chàng không thể quên được hình ảnh của nàng Kiều, vậy nên chàng đã tìm cách thuê nhà trọ
gần nhà Kiều để ngày đêm có thể nhìn thấy nàng. Về phần Kiều, nàng cũng như Kim Trọng,
ngày đêm mong nhớ tình lang. Một ngày nhân lúc cả nhà đi chơi, nàng quyết định tìm sang
phòng Kim Trọng để cùng nhau hàn huyên cho thỏa nỗi nhớ mong. Chiều tà, nàng trở về nhà,
nhưng cả nhà chưa ai về, nàng đã quyết định quay lại gặp Kim Trọng và tại đây, hai người đã
cùng nhau hẹn ước và thề nguyền dưới ánh trăng sáng.
Khi viết đoạn trích này, Nguyễn Du đã bộc lộ cho người đọc thấy được tư tưởng tình yêu tự do
của mình, khi ông để cho Kiều là người tìm đến Kim Trọng chứ không phải ngược lại. Ông
muốn người phụ nữ được thoát ra khỏi cái vòng lễ giáo phong kiến luẩn quẩn để tìm đến với tình
yêu đích thực của mình. Và ông đã thể hiện điều đó trong bước chân dứt khoát của Kiều khi tìm
đến với Kim Trọng:
"Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu"
Những người phụ nữ xưa thường chịu ảnh hưởng sâu sắc của lễ giáo phong kiến, của những điều
luật như tam tòng tứ đức, khiến họ không thể thể hiện được tài năng cũng như không được phép
vượt ra ngoài khuôn khổ "cha mẹ đặt đâu con ngồi đó". Vậy nên càng không thể có chuyện trai
gái chưa vợ chưa chồng lại có thể lén lút gặp gỡ nhau mà bày tỏ tình yêu, nếu làm vậy, người
con gái sẽ mang tội thất tiết, thiếu lễ giáo, … Ấy vậy mà ở đây, Nguyễn Du đã để Kiều làm tất cả
điều ấy. Giữa đêm khuya, nàng băng lối vườn khuya để tìm đến với tình yêu của mình, tự tay
quyết định tình yêu và cuộc đời của mình. Những từ ngữ như "vội", "xăm xăm" đều diễn tả sự
vội vã, sự nhanh chóng, khẩn trưởng của Kiều khi sang nhà Kim Trọng lần thứ hai. Nàng "băng
lối vườn khuya một mình" mà chẳng hề sợ hãi, phải chăng, tình yêu đã tiếp cho nàng thêm sức
mạnh? Sự tĩnh mịch của đêm khuya chẳng hề làm nàng chùn bước, mà ngược lại, tình yêu bỏng
cháy trong con tim nàng đang xé bỏ đi lớp rào chắn của định kiến phong kiến để đưa bước chân
nàng tới với tình yêu của mình!
Lễ giáo phong kiến quan niệm "nam nữ thụ thụ bất thân", nữ nhi cũng không phải người có thể
quyết định tình yêu, hôn nhân của mình, ấy vậy mà Kiều lại khác. Nàng phá bỏ tất thảy mọi rào
cản để "băng lối" sang nhà Kim Trọng, thật quá táo bạo, thật quá liều lĩnh! Một người con gái
thông minh như Kiều lại luôn được dạy lễ giáo từ nhỏ sao có thể làm điều đó, phải chăng, tình
yêu mãnh liệt đã đưa lối khiến nàng tìm đến thư phòng của chàng Kim để bày tỏ tình yêu của
mình?
Mặt trăng soi tỏ từng cành cây bên vườn vắng còn giai nhân thì đang mau lẹ bước chân để tìm
tới nhà tình lang còn chàng Kim thì đang mơ mang bên hương án dưới ngọn đèn học thiu thiu:
"Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê"
Chàng trai hào hoa phong nhã ấy đang dựa đầu vào hương án mà thiu thiu ngủ "dở chiều như
tỉnh, dở chiều như mê", thì chợt bước chân của nàng thơ ghé tới, "tiếng sen" nhẹ nhàng tiến lại
gần chàng. Không gian ở đây bao trùm bởi ánh trăng, ánh trăng rẽ lối để Kiều tìm đến Kim
Trọng, trăng càng "xế" thì nàng càng gần với người mình yêu thương. Những hình ảnh ước lệ
như "tiếng sen", "hoa lê", "giấc hòe", "giấc mộng đêm xuân" như càng góp phần làm nên cái tâm
trạng hư hư thực thực của Kim Trọng. Chàng chẳng rõ đang mơ hay đang tỉnh, "mơ màng"
không biết hình ảnh của Kiều có là thực chăng, hay là giấc mộng của chàng khi mong nhớ về
nàng?
"Tiếng sen sẽ động giấc
Bóng trăng đã xế hoa lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân màng".
Sự xuất hiện đột ngột lần thứ hai của Kiều khiến cho Kim Trọng tưởng đâu nàng là nữ thần của
đỉnh Vu Giáp xuất hiện trong giấc mơ đêm hè của chàng. Sự xuất hiện ấy đột ngột quá đỗi khiến
chàng không thể tin được đó là sự thật cho đến khi "miệng hoa" cất lời:
"Nàng rằng: 'Khoảng vắng đêm trường
hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng chiêm bao?"
Nếu như sự xuất hiện của nàng là một sự đột ngột quá đỗi với chàng thì lời nói và hành động của
nàng càng khiến cho Kim Trọng bất ngờ hơn nữa. Một hành động mà chắc chỉ có Kiều mới dám
táo bạo và liều lĩnh như thế "vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa". Vì tình yêu nên nàng sẵn sàng
vượt lên tất cả mọi định kiến về lễ giáo phong kiến để tìm đến với mối tình của mình. Giữa trong
"đêm trường" khuya khoắt ấy, giữa ánh trăng vằng vặc ấy, không chỉ là thời gian, không gian của
vũ trụ mà còn là không gian, thời gian trong tình yêu của nàng. Những người đang yêu bao giờ
cũng cảm thấy thời gian bên nhau thật ngắn ngủi, còn thời gian xa nhau ngỡ như "đêm trường"
tối tăm và xa cách. Nàng muốn được gần Kim Trọng thêm nữa. Hai chữ "hoa" trong một câu thơ
mà nàng dùng, vốn là từ để chỉ người con gái đẹp thì ở đây lại phiếm chỉ tình yêu son sắt của
nàng dành cho Kim Trọng. Giờ đây khi đã gần bên nhau, nàng muốn ước hẹn cùng Kim Trọng
để chứng minh cho tình yêu của mình. Bởi sau khi bên mộ Đạm Tiên trở về, nàng luôn mang
trong mình nỗi lo âu, thấp thỏm, nàng sợ rằng tình yêu này cũng chỉ như giấc "chiêm bao".
Sự xuất hiện đột ngột chẳng báo trước của Kiều cùng những lời nói của nàng khiến cho Kim
Trọng vô cùng kinh ngạc, bởi nó đã vượt qua tất cả mọi lễ giáo thông thường. Thế nhưng, chàng
hiểu tất cả, bởi tình yêu của chàng dành cho Kiều cũng đã vô cùng sâu đậm, gặp lại tình nhân ở
đây thật không lời nào tả xiết. Chàng rước nàng vào hương án với sự vội vàng, không biết mơ và
thực nữa:
"Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp đào thêm hương"
Chàng thêm sáp thêm hương cho không gian thêm phần rực rỡ, cũng là để mừng cho khoảnh
khắc hạnh phúc sum vầy của đôi lứa yêu nhau. Và cũng tại không gian này, chàng và nàng cùng
"thảo" một tờ giấy hẹn thề, đính ước cùng nhau, ước hẹn trăm năm bạc đầu. Cắt một lọn tóc nhỏ,
rồi chia làm đôi làm tín vật đính ước của đôi trai tài gái sắc. Tất cả những vật nhỏ bé ấy giờ
thành những tín vật trang trọng nhất, đẹp đẽ nhất chứng minh tình yêu của hai người. Và trong
không gian ấy, không thể thiếu ánh trăng soi tỏ trên đầu, ánh trăng ấy là chứng nhân cho tình yêu
của họ:
"Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song".
Có lẽ khi bất cứ ai nhắc đến tình yêu của Kiều và Kim Trọng đều nhớ đến hình ảnh của đôi trai
gái cùng ngồi thề nguyền dưới ánh trăng. Hình ảnh đó đẹp rực rỡ, đẹp như mối tình trong sáng,
vượt trên mọi lễ nghi của họ. Hai con người giờ đây đã chung một chữ thề "một lời song song"
cùng nhau hẹn ước, cùng nhau thề hẹn trăm năm bạc đầu.
Nguyễn Du quả là một nhà thơ tài hoa bởi chỉ với vài dòng thơ ngắn ngủi, nhưng ông đã vẽ lên
cho chúng ta thấy được một bức tranh của đôi trai tài gái sắc cùng nhau thề nguyền. Bức tranh ấy
đẹp lung linh với ánh trăng làm nền soi tỏ. Để cuối cùng khi kết lại, hai người đã cùng nhau tạc
lên "một chữ đồng": đồng tâm, đồng lòng đến chết. Hai con người ấy đã thề nguyền suốt kiếp
chung tình với đối phương, ghi tạc vào trong tim, mãi mãi không bao giờ quên. Tất cả đã chứng
tỏ một thứ tình yêu son sắt, thủy chung đến vô cùng, tình yêu của họ vượt lên trên tất cả những
định kiến lễ giáo phong kiến, vượt trên cả không gian và thời gian, nguyện lòng theo đuổi một
thứ tình yêu đến suốt đời, suốt kiếp.
Đoạn trích Thề nguyền là một trong những trích đoạn hay và lãng mạn nhất trong Truyện Kiều.
Bởi ở đây không chỉ chứa đựng cảnh thề nguyền hẹn ước của đôi lứa Kiều – Kim Trọng và còn
thể hiện cả quan điểm tình yêu tự do, hôn nhân và hạnh phúc tự do – một quan điểm vô cùng tiến
bộ của Nguyễn Du thời ấy. Dù rằng sau này, Kiều phải đành lòng trao lại mối tình sâu nặng ấy
cho Thúy Vân để em gái thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, nhưng những khung cảnh đẹp đẽ
giữa họ, lời thề ước giữa họ thì vĩnh viễn tồn tại như ánh trăng hôm đó. Qua đoạn trích này, ta
cũng thấy được tài năng của Nguyễn Du khi xây dựng những hình ảnh ước lệ đẹp tuyệt vời, khả
năng sử dụng ngôn ngữ vô cùng đặc sắc của ông.
Phân tích Thề nguyền - Mẫu 2
Truyện Kiều là tác phẩm văn học xuất sắc nhất của thiên tài Nguyễn Du và của nền văn học Việt
Nam từ xưa đến nay. Không những là một kiệt tác bất hủ, truyện Kiều còn ảnh hưởng sâu sắc
đến tinh thần và đời sống của con người Việt nam nhiều thời đại. Đoạn trích Thề nguyền trích từ
câu 431 đến câu 452 trong Truyện Kiều. Đoạn trích kể về việc Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng
và làm lễ thề nguyền gắn bó trước vầng trăng sáng vằng vặc:
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
...
Tóc căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Thúy Kiều táo bạo băng lối vườn khuya tìm đến với Kim Trọng:
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Tác giả dùng hai lần chữ “vội”, một lần chữ “xăm xăm”, một lần chữ “băng” để diễn tả tâm
trạng, tình cảm của Kiều. Mặt khác thể hiện sự khẩn trương, vội vã của nàng trong hành động táo
bạo, đột xuất, bất ngờ. Kiều như tranh đua với thời gian và định mệnh đang ám ảnh mà cũng vì
tình yêu với Kim Trọng mà Kiều vội vã đến vơi chàng Kim.
Thông thường, quan niệm Nho giáo cho rằng trong quan hệ nam nữ, bao giờ người con trai cũng
phải đóng vai trò chủ động. Người con gái không bao giờ là người chủ động trong tình yêu. Thế
nhưng, lần đầu tiên trong lịch sử, Nguyễn Du đã để cho Kiều hành động như thế. Đây là một nét
mới trong cách nhìn tình yêu của Nguyễn Du. Nhưng ỏ đây, Nguyễn Du đã nhấn mạnh sự chủ
động của Kiều – người con gái. Nhà thơ có cái nhìn vượt trước thời đại, hướng đến sự bình đẳng
trong tình yêu lứa đôi và trong cuộc sống xã hội của mỗi con người.
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Không gian đêm thần tiên, hư ảo được tả bằng các hình ảnh ánh trăng nhặt thưa, ngọn đèn hiu
hắt, tiếng bước chân nhẹ nhàng tạo ấn tượng cho Kim Trọng như đang sống trong mơ. Không
gian như cần thêm ánh sáng, cần thêm hương thơm và sự ấm áp. Đó là không gian đẹp, nhưng có
cảm giác hư ảo, không có thực, con người rất cô đơn giữa trời đất bao la:
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hè,
Bóng trăng đã xế hoa lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân màng.
Kiều đến và tỏ bày về hành động của mình:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng chiêm bao?”
Biết là trái với luân thường đạo lí, nhưng ngọn lửa tình yêu cháy bỏng khiến nàng mạnh bước
vượt qua. Sợ Kim Trọng không vừa ý nên tỏ lòng cho rõ nguồn cơn.
Cuộc thề nguyền tuy vội vàng nhưng cũng đủ cả các hình thức nghi lễ. Hai mái đầu xanh cùng
ngước lên trời cao, có vầng trăng chứng giám lời thề, tình yêu tự nguỵen và chung thuỷ của họ:
Đài sen nối sáp đào thêm hương.
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
Vừng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Hình ảnh: “Đinh ninh ….song song” và lời thề: “Trăm năm…..xương” thật cảm động và thiêng
liêng, lãng mạn và đầy chất lí tưởng.
Đoạn trích cho thấy tình yêu của con người là rất cao đẹp và thiêng liêng. Lời thề của họ được
vầng trăng chứng giám. Đoạn Trao duyên là sự tiếp tục một cách lôgic quan niệm và cách nhìn
tình yêu của Thuý Kiều. Ngược lại đoạn trích này cũng góp phần hiểu đúng đoạn Trao duyên, vì
đây là một kỉ niệm đẹp đối với Kiều và Kiều sẽ nhớ lại những chi tiết trong đêm thề nguyền
thiêng liêng này. Bởi vậy khi phải phụ lời thề để báo hiếu Kiều luôn nhớ chàng Kim với buổi thề
nguyền với tâm trạng đau xót, tiếc thương. Hành động trao duyên tả nghĩa chàng Kim làm dịu đi
phần nào nỗi đau của Kiều
Thề nguyền là đoạn thơ chứng tỏ quan niệm mới mẻ táo bạo của Nguyễn Du về tình yêu. Mặt
khác chứng minh tình cảm say đắm, mãnh liệt, chủ dộng và rất đỗi trong sáng, thiêng liêng của
Kiều – Kim. Đoạn thơ đã trở thành bản tình ca bất diệt về tình yêu đầy lãng man, lí tưởng táo
bạo. Đây là cái nhìn mới mẻ, giàu tính nhân văn của Nguyễn Du về tình yêu.
Phân tích đoạn trích Thề nguyền - Mẫu 3
Trong văn học trung đại xưa, các nhà văn, nhà thơ thường đề cập đến những vấn đề mang tính
cộng đồng, xã hội, dùng thơ để nói chí “Thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo” mà rất hiếm đề cập
đến tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, trong kiệt tác Truyện Kiều của mình, Nguyễn Du không những
viết về tình yêu mà còn ca ngợi tình u tự do của đôi lứa, tư tưởng này được thể hiện chân thực
thông qua đoạn trích Thề nguyền.
Thề nguyền là hành động hứa hẹn về tình cảm của đôi lứa, nó có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng
bởi nó thể hiện được tình yêu, những cảm xúc tột độ của tình yêu. Thúy Kiều và Kim Trọng gặp
gỡ hôm đi chảy hội mùa xuân thì hai người thì tình yêu đã chớm nở, để khẳng định tình u ấy
hai người đã cùng nhau thề nguyền dưới trăng. Có thể thấy hành động thề nguyền này đã phá vỡ
được mọi định kiến của xã hội để chạm tới tình yêu, là tình yêu vượt trên những định kiến của
thời đại.
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Hành động “xăm xăm băng lối vườn khuya” của nàng Kiều thật táo bạo. Theo luân lí xã hội
phong kiến thì hành động này không được phép có ở một người con gái, hành động giữa đêm
trốn đến nhà người yêu là không thể chấp nhận. Tuy nhiên, hành động của Kiều cũng thể hiện
được tình yêu cũng như sức mạnh của tình yêu có thể vượt qua mọi rào cản, kể cả việc đi ngược
lại với những định kiến đương thời. Sức mạnh của tình yêu đã thôi thúc nàng Kiều hành động,
nàng đã sống thực với những cảm xúc và mong muốn của mình. Tuy có hành động táo bạo
nhưng Thúy Kiều không đi quá xa giới hạn, nàng cũng có những biện minh cho hành động có vẻ
nông nổi của mình:
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng chiêm bao?
“Vì hoa” ở đây tức chỉ Kim Trọng, một con người tài hoa, phong nhã khiến nàng yêu say đắm
sau lần gặp đầu tiên, chính tình yêu ấy đã thôi thúc nàng vượt bao nhiêu định kiến để đến gặp
mặt, dãi bày. Thúy Kiều ngay từ khi còn sống trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che đã luôn có
những sự cảm không lành về một tương lai nhiều biến cố, đau khổ. Dù tình yêu đang ở lúc nồng
nàn, say đắm nhất thì nàng luôn lo lắng liệu đó có phải giấc chiêm bao, mọi thứ phải chăng rồi sẽ
tan biến. Hành động vội vã của nàng như muốn tranh thủ từng phút giây hạnh phúc được ở bên
người mình yêu. Trước sự xuất hiện đường đột của Thúy Kiều, Kim Trọng đã hết sức bất ngờ:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như
Tiếng sen, khẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân màng.
Bước chân của nàng Kiều đã đánh thức giấc mộng của chàng Kim, sự xuất hiện của nàng với vẻ
đẹp thanh khiết, rực rỡ khiến cho chàng Kim tưởng chừng vừa gặp tiên nữ ở núi Vu Giáp. Chính
khung cảnh đêm khuya cùng sự xuất hiện bất ngờ của Thúy Kiều mà Kim Trọng không biết đây
là cơn mộng mị hay thực tế đang diễn ra. Khi yêu người ta luôn nhìn cuộc đời bằng con mắt mơ
mộng, hình ảnh của người trong lòng xuất hiện xinh đẹp,lộng lẫy ngay trước mặt khiến cho
chàng Kim ngỡ ngàng như trong cơn mộng mị cũng là điều có thể hiểu được. Khi xác định được
Thúy Kiều đứng trước mặt mình là thật, chàng Kim đã vô cùng vui mừng, hạnh phúc:
Vội vàng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc Mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Khung cảnh của đêm thề nguyền được tác giả Nguyễn Du khắc họa lên bằng những chi tiết vô
cùng sinh động, ấn tượng với đầy đủ cả ánh sáng, màu sắc và hương thơm. Chính nét đặc sắc của
không gian đêm thề nguyền đó đã trở thành một kỉ niệm thiêng liêng trong trái tim của hai người
Kim, Kiều. Buổi thề nguyền được diễn ra với đầy đủ nghi thức: tuyên thề, tóc mây, dao vàng,
vầng trăng và lời thề nguyền. Trong buổi thề nguyền ấy, Thúy Kiều đã trao cho Kim Trọng tóc
mây, đây không chỉ là nghi thức hẹn ước mà còn thể hiện được tình cảm sâu sắc mà Thúy Kiều
trao cho Kim Trọng.
Trong đêm thề nguyền này, trăng chính là chứng nhân cho tình yêu đôi lứa, mặt khác nếu theo
dõi toàn bộ Truyện Kiều ta có thể thấy được trăng còn là một người cố tri, chứng kiến toàn bộ
những bước ngoặt trong cuộc đời của Kiều. Đó có thể là hình ảnh ánh trăng nhợt nhạt, le lói
trong đêm mà Thúy Kiều bỏ trốn theo Sở Khanh:
Đêm thâu khắc lâu canh tàn
Gió cây trút trăng ngàn ngậm sương.
Vầng trăng cũng như mất mát, đau thương khi bị chia nửa trong đêm Thúy Kiều chia tay Thúc
Sinh:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Như vậy, có thể thấy ánh trăng đã chứng kiến toàn bộ những biến cố trong cuộc đời Thúy Kiều,
từ những giây phút hạnh phúc, nồng nàn khi thề nguyền cùng chàng Kim, cũng là những phút
giây đau khổ, chia li sau này. Đoạn trích đã thể hiện đầy cảm động tình yêu sâu nặng của Thúy
Kiều dành cho Kim Trọng, cũng có thể thấy được đây là một trong những khoảnh khắc đẹp nhất
trong cuộc đời bạc mệnh của nàng Kiều.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 4
Trong cuộc đời này, liệu có mấy người dám khẳng định: ta sống không cần tình? Đại thi hào Nga
M.Gorki từng quả quyết rằng: Tình yêu - đó là thơ ca cuộc đời. Cuộc sống thiếu tình yêu không
phải là sống mà chỉ là sự tồn tại! Và như là định mệnh, tình yêu tìm đến văn chương nghệ thuật
để được bất tử hoá. Những áng văn thơ về đề tài này, từ xưa đến nay vẫn giữ vị trí cao nhất trong
lòng người đọc. Ai có thể thờ ơ với tình yêu trong sáng của Romeo và Juliet trong đêm trăng thề
nguyền? Cũng như vậy, ai có thể không nhận ra một phần tâm hồn mình trong tình yêu của Thuý
Kiều và Kim Trọng? Thề nguyền là một nét biểu hiện đẹp trong tình yêu của người quốc sắc, kẻ
thiên tài này.
Thề nguyền là một cung bậc tình cảm trong tình yêu. Lời thề là sự khẳng định cho niềm tin, lòng
thuỷ chung son sắt của hai con người, nó cho tình yêu một chỗ dựa vững chắc, bền chặt. Chẳng
thế mà cả Romeo và Juliet, Thuý Kiều và Kim Trọng đều xem nó là minh chứng cho tình yêu
của minh trong văn học trung đại Việt Nam, việc xuất hiện một tình yêu kiểu Kim – Kiều thật
hiếm thấy. Tình yêu ấy đã phá rào định kiến, gỡ bỏ mọi trói buộc để đến với nhau tự do, tự
nguyện. Một tình yêu vượt trên thời đại.Để bảo vệ, vun đắp cho mối tình đẹp đẽ của mình Thuý
Kiều đã:
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Vì hành động xăm xăm băng lối vườn khuya ấy mà Kiều đã nhận lấy không biết bao nhiêu tiếng
chê - khen. Các cụ ta xưa xem đó là hành động trái lại với đạo đức, luân lý, cương thường. Trong
khi nàng phải gần gũi mình trong cảnh thâm nghiêm kín cổng cao tường hay êm đềm trướng rủ
màn che tường đông ong bướm đi về mặc ai, thì hành động một mình giữa đêm tối tìm đến nhà
người yêu của Kiều thật khó chấp nhận, nó không phải là hành động của bậc tiểu thư đài các
thâm khuê.
Nhưng ta hãy nhìn nó với ánh mắt và tâm hồn của kẻ đang yêu, những gì các cụ ta cho là vô lý,
là sai trái, là không thể chấp nhận kia bỗng trở nên hợp lý, đúng đắn hơn bao giờ hết. Kiều yêu
bằng tình cảm đầu đời mãnh liệt, trong sáng nhất của người con gái. Tình yêu đẹp đẽ đã cho
nàng sức mạnh vượt qua bóng đêm của khu vườn, bóng đêm của định kiến đế đến với chàng
Kim. Điều đáng trân trọng, ca ngợi nữa là Kiều đã không để sự mãnh liệt trong tình u dẫn nàng
đi quá xa, quá giới hạn cho phép. Và cũng chính Kiều đã biện minh cho hành động của mình.
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng chiêm bao?
Vì hoa vì chàng Kim vì con người văn chương nết đất, thông minh tính trời, vào trong phong
nhã, ra người hào hoa ấy đã khiến Kiều phải trổ đường tìm hoa giữa khoảng vầng đêm trường.
Có trách là trách ai kia chứ sao lại trách nàng?
Yêu tha thiết là thế nhưng Kiều vẫn rất tỉnh táo. Cuộc đời nàng bắt đầu từ những khúc. Bạc mệnh
đến lời báo mộng của Đạm Tiên rằng nàng có tên trong sổ Đoạn trường đã khiến cho người con
gái trong sáng ấy luôn thường trực nỗi ưu tư, lo lắng. Giữa lúc tình yêu ở độ nồng thắm nhất mà
nàng vẫn lo rằng: Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao? Mọi thứ sẽ tan biến như giấc chiêm bao
không thể nếu giữ lại bởi hạnh phúc nàng có mong manh. Điều đó dường như không còn là nỗi
lo lắng đơn thuần nữa. Nó là điềm báo chăng? Cũng giống như lời tâm sự của Juliet dưới đêm
trăng đã khiến chàng Romeo hạnh phúc đến ngây ngất, hành động của Kiều khiến Kim Trọng
ngạc nhiên và mừng rỡ không kém:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như
Tiếng sen, khẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân màng.
Bước chân người đẹp đã đánh thức giấc mộng của chàng Kim. Nàng như hoa lê ngậm trăng với
vẻ thanh khiết, sáng láng tuyệt vời khiến chàng Kim ngỡ thần nữ núi Vu Giáp. Chàng không
khỏi ngạc nhiên: Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Lại là giấc mộng. Dường như khi yêu, người ta nhìn thế giới bằng con mắt mơ mộng. Kiều xuất
hiện trước mặt chàng đầy bất ngờ, với vẻ xinh đẹp yêu Kiều là thế khiến chàng ngỡ mình đang
đắm chìm trong giấc mộng đêm xuân mơ màng cũng là điều dễ hiểu.Hết ngạc nhiên, chàng vui
mừng hạnh phúc:
Vội vàng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc Mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Không khí đêm thề nguyền được gợi lên đầy ấn tượng, với ánh sáng, màu sắc, hương thơm; với
cảnh đẹp, người đẹp… tạo nên dấu ấn tình yêu đầu đời không bao giờ phai mờ trong tâm hồn
Kiều. Biểu hiện của buổi thề nguyền là tiên thề, tóc mây, dao vàng, vầng trăng và lời thề. Kiều
trao chàng kim món tóc mây biểu hiện sự hẹn ước. Đêm thề nguyền của hai người yêu nhau
được vây gọn trong thiên nhiên đẹp đẽ, êm đềm với sự minh chứng của vầng trăng vằng vặng
giữa trời.
Trăng là kẻ cố tri, thường xuyên xuất hiện và đi về để chứng kiến những bước ngoặt trong cuộc
đời nàng Kiều, vầng trăng ấy chất chứa đầy tâm trạng bởi dưới trăng là con người của nỗi niềm
tâm sự khôn nguôi. Nó có lúc là thứ ánh sáng nhợt nhạt, đe dọa trong đêm Kiều trốn theo Sở
Khanh:
Đêm thâu khắc lâu canh tàn
Gió cây trút trăng ngân ngậm sương.
Hoặc có thể là vầng trăng sẻ nửa khi Kiều chia tay chàng Thúc:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Hay là bóng trăng tà đầy hoảng hốt khi Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư:
Cất mình qua ngọn tường hoa
Lần đường theo bóng trăng về tây…
Đã bao lần trăng hiện diện trong cuộc đời Kiều, nhưng có lẽ chỉ có đêm trăng thề nguyền này là
tròn đầy, viên mãn nhất. Nó sáng trong vằng vặc giữa trời như lời ghi nhận của thiên nhiên tạo
vật trước tình yêu của đôi trẻ. Ánh sáng ấy như lớp màng bảo vệ tình yêu khỏi những tì vết, bụi
bặm đời thực; nó khắc hình ảnh đêm thề nguyền vào cuộc đời hai con người như một dấu ấn,
một minh chứng cho tình yêu vĩnh hằng.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 5
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm được xếp vào hàng kinh điển của nền
văn học dân tộc, có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống của nhân dân Việt Nam suốt mấy
trăm năm nay. Giá trị của truyện Kiều đến từ các giá trị nhân văn, tính nhân bản như lòng thương
cảm và xót xa cho số phận con người dưới chế độ phong kiến, ca ngợi vẻ đẹp tài hoa và tâm hồn
của người phụ nữ, bên cạnh đó nó còn mang giá trị hiện thực khi phản ánh, tố cáo chế độ phong
kiến tàn ác, chèn ép đày đọa con người đến bước đường cùng. Nhân vật chính của tác phẩm là
Thúy Kiều một cô gái trẻ tuổi, tài sắc vẹn toàn, thế nhưng lại phải chịu bất hạnh với kiếp hồng
nhan bạc mệnh. Trong phần thứ nhất - Gặp gỡ của tác phẩm, thì trích đoạn Thề nguyền là một
trong những trích đoạn hay nhất kể về mối tình đẹp của Thúy Kiều với Kim Trọng.
Thề nguyền bắt đầu từ câu 431 đến câu 452 của tác phẩm, sau khi gặp gỡ tại tiết Thanh minh,
Kim Trọng và Thúy Kiều đã có thêm vài lần gặp gỡ, cặp trai tài gái sắc, đang tuổi thanh xuân
phơi phới đã nhanh chóng phải lòng nhau và tình yêu ngày càng trở nên sâu đậm. Chính vì lẽ đó
nên Thúy Kiều nhân lúc cả nhà sang ngoại, đã lén đi tìm gặp Kim Trọng, rồi sau khi đã trở về
nhà lúc chiều tà mà chưa thấy người nhà quay trở về nàng lại tiếp tục quay lại lần nữa, rồi tự
định ước chung thân với Kim Trọng, để bày tỏ tình yêu sâu sắc chân thành của cả hai. Trích đoạn
Thề nguyền đã kể lại tất thảy việc đính ước của cả hai dưới ánh trăng vằng vặc.
Ở trích đoạn Thề nguyền ta dễ dàng nhận thấy quan điểm tiến bộ trước thời đại cả của Nguyễn
Du trong tình yêu đôi lứa, bộc lộ sự ủng hộ của tác giả trong việc nam nữ theo đuổi tình yêu một
cách tự do mãnh liệt, thoát khỏi cái e lệ, ngại ngần không dám tỏ bày mà ông cha ta thuở xưa vẫn
thường cho là phép tắc, lễ nghĩa. Điều này thể hiện rất rõ trong đoạn Thúy Kiều vượt tường băng
qua nhà Kim Trọng ngay trong đêm tối. Bởi trong nền giáo dục truyền thống, phận nữ nhi buộc
phải an phận thủ thường, chịu sự sắp đặt của cha mẹ theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy”, cũng không có chuyện trai gái lén lút, gặp gỡ riêng nhau để tỏ bày tình yêu, nếu có thì
người trai bị cho là vô phép, thiếu lễ nghĩa, còn người con gái phải chịu điều tiếng nặng nề hơn
là lăng loàn, thất tiết,... Thế nhưng với hai nhân vật Kiều và Kim Trọng, Nguyễn Du lại hoàn
toàn tạo cho họ một không gian gặp mặt riêng, để họ được thoải mái bộc lộ tình yêu sâu sắc dành
cho nhau. Đặc biệt với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vẽ ra cảnh nàng đêm hôm chạy theo
tiếng gọi của tình yêu, rồi tự tay quyết định chung thân đại sự của mình. Điều đó đã từng một
thời dấy lên làn sóng tranh cãi về việc rốt cuộc Kiều có phải là người phụ nữ lễ tiết thấu đáo hay
cũng chỉ là loại phụ nữ trắc nết. Tuy nhiên đến nay, thì người ta lại có cái nhìn thông cảm và trân
trọng hơn với nàng, cũng như cái tính táo bạo, mạnh mẽ trong tình yêu của Thúy Kiều.
“Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương dọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân màng
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng chiêm bao?”
Trong 14 câu thơ đầu, ta thấy hiện lên hình ảnh người con gái vội vã đi tìm tình lang, khi vừa trở
về nhà thì hay tin cả nhà vẫn chưa về, ngay lập tức trong lòng Kiều đã nảy ra ý định sang tìm
Kim Trọng lần nữa. Chứng tỏ rằng tình yêu của nàng đang ở độ mặn nồng và sâu sắc nhất, nỗi
nhớ đã bộc lộ ra bằng hành động để chứng minh. Những từ “vội”, “xăm xăm”, “băng lối”, “một
mình” đã thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán của Kiều trong tình yêu, không màng lễ tiết hay
những quan niệm phong kiến ngăn cản tình yêu, vứt bỏ tất cả sau lưng để tìm đến với chân ái của
cuộc đời. Bên cạnh đó tình yêu của Kiều còn được vẽ nên dưới một khung cảnh thiên nhiên rất
thơ mộng và trữ tình, gợi ra sự lãng mạn, tươi trẻ của thứ tình yêu đầu đời tuyệt đẹp. Đó là cảnh
“Nhặt thưa gương dọi đầu cành”, khi ánh trăng trên cao tỏa xuống những thứ ánh sáng dịu dàng,
rồi xuyên qua từng tầng lá để lọt xuống những tia sáng lưa thưa chiếu lên người giai nhân đang
rảo bước trong vườn. Cảnh ánh đèn mờ mờ của Kim Trọng xuyên qua cửa hắt ra ngoài vườn,
không chỉ thể hiện ánh nhìn trông mong, thương nhớ luôn hướng về nơi tình lang ở của nàng
Kiều, mà nó còn thể hiện tinh thần hiếu học, sự miệt mài chăm chỉ của Kim Trọng trong việc đèn
sách, càng chứng minh tình yêu của Kiều đã đặt đúng người. Thúy Kiều nhanh chóng băng vườn
tìm đến nhà Kim Trọng, ở đây thấy chàng đã hiu hiu giấc ngủ bên đèn sách, chập chờn trong giấc
mộng. Nguyễn Du dùng hình ảnh có tính ước lệ như “Tiếng sen đã động giấc hòe”, để thể hiện
phong thái dù vội vã nhưng vẫn uyển chuyển, thanh khiết nhẹ nhàng của Thúy Kiều thông qua
“tiếng sen”. Lại diễn tả cảnh say giấc của Kim Trọng bằng “giấc hòe” trích từ điển cố Thuần Vu
Phần ngủ dưới gốc hòe mơ thấy vinh hoa phú quý. Điều đó thể hiện lý tưởng và khát vọng của
Kim Trọng vào việc tạo lập công danh, sự nghiệp, thế nhưng trước giấc mộng không có thật và
thân ảnh Thúy Kiều đã đến bên thì Kim đã nhanh chóng thức dậy. Hình ảnh “Bóng trăng đã xế
hoa lê lại gần” càng làm tăng thêm sự thi vị và lãng mạn cho công cuộc gặp gỡ của Kiều và Kim
Trọng. Khung cảnh đôi kim đồng ngọc nữ, dưới ánh trăng sáng tỏ, với nội tâm là tình yêu mãnh
liệt dành cho nhau trở nên thật tuyệt diệu. Chính vì thế khi Kim Trọng tỉnh giấc, nhìn thấy Kiều
dưới ánh trăng thanh lại cứ ngỡ bản thân mình đang mơ, thực tế là vì quá đỗi bất ngờ, cùng với
việc nhớ mong người yêu mà tưởng mình mộng phải đâu ngờ người đã tới tận bên án thư. Tại
đây Kiều đã mạnh mẽ tỏ bày nỗi lòng mình, việc mà xưa nay chắc chẳng mấy nữ nhi thường tình
dám chủ động, Kiều đối diện với Kim Trọng bộc lộ sự nhớ mong, trống vắng khi xa nhau, lại sợ
“đêm trường” khó tránh khỏi nhớ thương, thế nên ví “hoa” chính là tình yêu, nàng đã “vì hoa nên
phải trổ đường tìm hoa”. Thế nhưng bên cạnh nỗi nhớ mong tình quân, thì hành động bộc phát
của Kiều có lẽ còn xuất phát từ giấc mộng về Đạm Tiên, phải chăng Thúy Kiều đang lo lắng
rằng tình yêu của mình sẽ giống như đóa hoa kia, đẹp nhưng sớm nở tối tàn đầy xót xa. Hoặc là
lại giống như một giấc “chiêm bao” cuối cùng chẳng còn lại gì, điều đó khiến lòng Kiều bất an
vô cùng. Chính vì thế nên mới có cảnh tìm gặp rồi thề nguyền kết tóc, để nàng cảm thấy an tâm
hơn về tình yêu đầu đời đẹp như mộng của mình.
“Vội mừng làm lễ rước vào,
Đài sen nối sáp, đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
Không gian thề nguyền của đôi trẻ ấy là trong nhà Kim Trọng, cũng là nơi hai người thường gặp
mặt tâm sự, bối cảnh thời gian là một đêm trăng sáng tạo nên không gian thơ mộng trữ tình.
Không chỉ vậy ánh trăng xưa nay luôn là biểu trưng cho sự sum vầy, đoàn viên, sự hạnh phúc mỹ
mãn, bên cạnh đó còn là biểu thị cho tình yêu trong sáng, thuần khiết và chân thành của Thúy
Kiều và Kim Trọng. Vầng trăng ở đây đã trở thành minh chứng thiêng liêng cho tình yêu tuyệt
đẹp của đôi trai tài gái sắc. Trong việc thề nguyền, đính ước, cả Thúy Kiều và Kim Trọng đều vô
cùng thành tâm và cẩn thận, tỉ mỉ, nào là nến đỏ thắp trên “đài sen”, rồi có cả hương khói tản mát
trong “lò đào” làm cho không khí trở nên thập phần lãng mạn, tinh tế và thiêng liêng vô cùng. Cả
hai đã cùng nhau viết “tiên thề”, cùng nhau cắt tóc mây bằng “dao vàng”, thể hiện thái độ trân
trọng và nâng niu vô cùng ước nguyện cùng nhau kết tóc, bạc đầu trăm năm, quyết tâm không
đổi dời. “Đinh ninh hai miệng một lời song song” là thể hiện sự đồng lòng sắt son, là tình yêu
chân thành sâu sắc đến từ cả hai phía, từ hai trái tim nay đã hòa chung một nhịp đập, chất chứa
đầy ắp thư tình yêu đời đời thuần khiết, sâu nặng. Lời ước hẹn “Trăm năm tạc một chữ đồng đến
tâm” chính là lời thề nguyền, hẹn ước suốt kiếp chỉ chung tình với đối phương, mà chữ “đồng”
trong đồng tâm, đồng lòng đã ghi tạc vào sâu trong trái tim mãi mãi không bao giờ phai mờ. Tỏ
rõ tình cảm và sự thủy chung son sắt của hai con người yêu nhau, vượt qua mọi sự ngăn cản của
lễ giáo phong kiến, một lòng theo đuổi thứ tình yêu đích thực, tươi đẹp nhất cuộc đời.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 6
Sau cuộc du xuân, Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau, Kim thuê trọ ở gần nhà Kiều. Một hôm,
nhân lúc cả gia đình đi mừng thọ bên ngoại, Thúy Kiều chủ động sang nhà Kim Trọng, hai người
tình tự với nhau đến tối. Trở về nhà nhưng gia đình chưa về, Kiều lại buông rèm sang nhà Kim
Trọng lần hai. Họ cùng nhau hứa hẹn chung thủy suốt đời. “Thề nguyền” là một trong những
đoạn trích tiêu biểu cho tình yêu trong sách, thủy chung mà không kém phần bạo dạn của Thúy
Kiều - một cô gái trong xã hội phong kiến, sẵn sàng vượt những hủ tục để có được tình yêu với
Kim Trọng.
Mở đầu đoạn trích với cảnh Thúy Kiều lén sang gặp Kim Trọng lần hai khi thấy cha mẹ chưa về:
“Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia
Một tường tuyết chở sương che
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”
Kiều đi tìm gặp Kim Trọng, Nàng với những bước chân nhanh nhẹn “xăm xăm”, can đảm đến
bên nhân tình cùng nhau xướng họa văn thơ, tâm sự bầu bạn. Quả thật trong xã hội phong kiến
xưa, nhưng hủ tục trói buộc con người, tạo ra một bức tường ngăn cách tình yêu đôi lứa, nhưng
Kiều một cô gái có trái tim bồng bột ngây thơ, với sự táo bạo, chủ động trong tình yêu, thề
nguyền với người mình yêu khi không có sự cho phép của cha mẹ mình cho thấy trong nàng có
khao khát một tình yêu tự do, chính đáng, một tình cảm mãnh liệt với Kim Trọng đồng thời,
nàng đang vì chính mình tranh đua với thời gian, định mệnh để tìm kiếm hạnh phúc. Theo từng
bước đi đó của Thúy Kiều là tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du, mở rộng ranh giới tình cảm cho
nhân vật. Nàng cứ thế bước đi trong vườn khuya, dần lạc vào ảo mộng.
Còn với Kim Trọng thì khoảnh khắc lúc này đáng quý hơn bao giờ hết, bởi vì sau bao ngày tháng
mong ngóng chờ đợi giờ đây được gặp trực tiếp, được giãi bày tâm sự cùng nàng:
“Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như
Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân màng”
Nguyễn Du đã dùng hình ảnh ước lệ “tiếng sen” để nói về từng bước chân nhẹ nhàng của Thúy
Kiều giữa lúc chàng Kim đang nửa tỉnh, nửa mê, luyến tiếc khi nàng Kiều quay trở về nhà sau
lần gặp gỡ thứ nhất. Thế rồi nàng Kiều bất chợt quay lại khiến tâm trạng chàng bâng khuâng, xao
xuyến tưởng chừng như còn mơ màng trong giấc mộng đêm xuân. Nguyễn Du đã mượn điển tích
“đỉnh Giáp non thần” vua nước Sở nằm mơ thấy thần nữ núi Vu Giáp trong điển tích của văn học
cổ Trung Quốc, để thể hiện sự trân trọng của chàng khi người đẹp đến.
Sức mạnh của tình yêu đã thôi thúc nàng Kiều hành động, nàng đã sống thực với những cảm xúc
và mong muốn của mình. Tuy có hành động táo bạo nhưng Thúy Kiều không đi quá xa giới hạn,
nàng cũng có những biện minh cho hành động có vẻ nông nổi của mình:
“Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng chiêm bao?”
“Khoảng vắng đêm trường” gợi một khoảng không gian thời gian trong tâm trí rợn ngợp mà
nàng phải vượt qua để tới gặp Kim Trọng. “Vì hoa” ở đây tức chỉ Kim Trọng, một con người tài
hoa, phong nhã khiến nàng yêu say đắm sau lần gặp đầu tiên, chính tình yêu ấy đã thôi thúc nàng
vượt bao nhiêu định kiến để đến gặp mặt, giãi bày. Thúy Kiều ngay từ khi còn sống trong cảnh
êm đềm trướng rủ màn che đã luôn có những sự cảm không lành về một tương lai nhiều biến cố,
đau khổ. Dù tình yêu đang ở lúc nồng nàn, say đắm nhất thì nàng luôn lo lắng liệu đó có phải
giấc chiêm bao, mọi thứ phải chăng rồi sẽ tan biến. Hành động vội vã của nàng như muốn tranh
thủ từng phút giây hạnh phúc được ở bên người mình yêu.
Sau những lời giãi bày của Kiều, Kim Trọng cùng nàng vào trong phòng, nhanh chóng đốt trầm
hương thơm thoảng, thắp thêm đèn tỏa ánh sáng ấm áp, chàng lấy tờ giấy hoa ra viết lời thề, cắt
tóc chia thành hai phần đặt lên án thư, trao đổi vật tin. Dưới sự chứng giám của vầng trăng:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
Buổi thề nguyền ngắn gọn, vội vàng nhưng đầy đủ nghi thức: thề nguyền, tóc mây, dao vàng,
vầng trăng và lời thề nguyền. Trong buổi thề nguyền ấy, Thúy Kiều đã trao cho Kim Trọng tóc
mây, đây không chỉ là nghi thức hẹn ước mà còn thể hiện được tình cảm sâu sắc mà Thúy Kiều
trao cho Kim Trọng. Với nhiều hình ảnh ước lệ cùng điển cố, điển tích, Nguyễn Du đã khắc họa
ra một không gian thề nguyền lãng mạn, thơ mộng, mà ở đó vầng trăng là nhân chứng cho mối
tình son sắt của hai người.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 7
Tình yêu có rất nhiều giai đoạn với các cung bậc cảm xúc khác nhau.Khi cảm thấy có sự đồng
điệu giữa hai tâm hồn, những người yêu nhau sẽ thề nguyền để hẹn ước đời đời gắn bó, luôn bên
cạnh nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn.Thúy Kiều và Kim Trọng cũng vậy, họ đã có một lễ thề
nguyền trong không gian đầy thơ mộng.Có lẽ trong văn chương trung đại Việt Nam chưa có một
cuộc thề nguyền nào lãng mạn đến thế.
Mở đầu đoạn trích "Thề nguyền" là sự chủ động đến táo bạo của Thúy Kiều khi sang nhà Kim
Trọng nhân cơ hội cha mẹ và các em sang bên ngoại chưa về nhà:
"Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu".
Khi con tim đã rung động vì tình yêu thì ước muốn luôn được ở bên cạnh người mình yêu cũng
là điều dễ hiểu. Các động từ "vội","xăm xăm", "băng lối" diễn tả trạng thái vội vàng, nhanh
chóng, khẩn trương của Thúy Kiều khi sang nhà Kim Trọng lần thứ hai. "Vườn khuya" tĩnh
mịch, thanh vắng không khiến nàng chùn bước mà ngược lại, tình yêu nồng cháy nơi con tim
Thúy Kiều đã khiến nàng xé bỏ rào cản, bức tường ngăn cách tình yêu đôi lứa trong xã hội
đương thời. Xã hội xưa quan niệm "Nam nữ thụ thụ bất thân", trong tình yêu, người phụ nữ
không có quyền chủ động quyết định hạnh phúc của mình vậy mà Thúy Kiều lại chủ động "băng
lối" sang nhà chàng Kim vào buổi chiều tà. Như vậy chẳng phải là quá táo bạo hay sao? Nàng
khao khát một tình yêu đến từ chính trái tim của hai người, một tình yêu tự do và mãnh liệt nên
đã thề nguyền cùng Kim Trọng. Mặt trăng đã lên và chiếu những tia sáng qua lá cây tạo nên một
không gian huyền ảo. Chàng Kim lúc này đang mơ màng dưới ngọn đèn học hiu hắt:
"Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như
Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân màng".
| 1/27

Preview text:

Phân tích bài thơ Thề Nguyền (Dàn ý + 9 mẫu)Văn mẫu lớp 11
Qua bài thơ Thề nguyền,chúng ta đã thấy được quan điểm tiến bộ của Nguyễn Du về sự tự do
theo đuôi tình yêu của trai gái, thấy được cá tính mạnh mẽ của nàng Kiều, bộc lộ thông qua việc
lén tìm Kim Trọng rồi tự định chung thân. Vậy dưới đây là 9 mẫu phân tích Thề nguyền cực hay,
mời các bạn cùng theo dõi.
Dàn ý phân tích bài thơ Thề Nguyền I. Mở bài:
- Giới thiệu đoạn trích thề nguyền.
- Ví dụ: Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông đã viết những bài thơ thể hiện thân phận khổ
cực và hẩm hiu của con người và nhất là của người phụ nữ. tấm lòng nhân đạo của ông đã được
thể hiện rất sâu sắc qua các bài thơ và sâu sắc nhất được thể hiện qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác
phẩm nói về một nhân vật có tài sắc vẹn toàn nhưng vì chữ hiếu đã hi sinh bản thân mình. Có
một đoạn trích thể hiện tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trong rất sâu sắc.Chúng ta cùng đi tìm hiểu đoạn trích. II. Thân bài:
1. Kiều băng lối đường đi sang nhà Kim Trọng
- Tâm trạng và tình cảm của kiều:
 Kiều vội vàng, hối hức muốn được gặp Trọng.
 Tình yêu của Kiều dành cho Trọng rất mãnh liệt.
 Kiều có sự lo lắng về tình yêu của mình đầy phong ba và bão táp.
 Kiều có một tình yêu đầu đời thật đẹp.
 Kiều khát khao được yêu, tình yêu tự do.
- Tâm trạng và thái độ của Kim Trọng:
 Kim Trọng khẩn trương, cẩn thận rước Kiều vào nhà.
 Kim Trọng cũng yêu say đắm kiều.
2. Kiều thề nguyền cùng Kim Trọng
- Nghi lễ thề nguyền được thể hiện trang trọng và thiêng liêng trước trăng, trăng chứng nhân cho tình yêu đôi lứa.
- Sự đồng tâm đồng lòng của hai người đối với tình yêu của họ.
- Tạo nên niềm tin vào tình yêu.
- Tình yêu sâu sắc của Thúy Kiều và Kim Trọng. III. Kết bài:
- Nêu cảm nhận về đoạn trích Thề Nguyền.
- Ví dụ: Qua đoạn trích ta có thể thấy được tình yêu đẹp và say đắm của Thúy Kiều và Kim
Trọng, tình yêu ấy đã được trời đất chứng kiến qua hành động thề nguyền rất trang trọng và
thiêng liêng của đôi lứa.
Thề nguyền phân tích - Mẫu 1
Truyện Kiều là một tuyệt tác của đại thi hào Nguyễn Du mà đến tận ngày nay người ta vẫn ngớt
lời khen ngợi và tìm hiểu về nó. Tác phẩm viết về Thúy Kiều – một người con gái tài sắc vẹn
toàn nhưng lại có số phận truân chuyên, éo le và bi kịch, bị đẩy đưa bởi xã hội phong kiến đương
thời tàn ác, bất công. Nguyễn Du muốn thông qua cuộc đời Kiều để mà lên án cái xã hội ấy và
thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng, công lý, người phụ nữ được sống đúng với bản năng,
tình yêu và tự do của mình. Đoạn trích Thề nguyền là một trong những trích đoạn đẹp nhất
Truyện Kiều, khi miêu tả cảnh Kiều cùng tình yêu đầu của mình – Kim Trọng thề nguyền, hẹn
ước tình yêu dưới trăng.
Đoạn trích Thề nguyền thuộc phần đầu của tác phẩm Truyện Kiều – Gặp gỡ và đính ước, từ câu
thơ thứ 431 đến 452. Đây là phần tiếp nối sau cuộc chơi xuân của chị em Kiều và sau cuộc gặp
gỡ tình cờ với Kim Trọng ở hội "đạp thanh" ấy. Hai con người tài sắc đã phải lòng nhau gần như
ngay lập tức và trong họ đã nảy nở một thứ tình yêu sâu đậm. Về phần Kim Trọng, từ ngày gặp
gỡ, chàng không thể quên được hình ảnh của nàng Kiều, vậy nên chàng đã tìm cách thuê nhà trọ
gần nhà Kiều để ngày đêm có thể nhìn thấy nàng. Về phần Kiều, nàng cũng như Kim Trọng,
ngày đêm mong nhớ tình lang. Một ngày nhân lúc cả nhà đi chơi, nàng quyết định tìm sang
phòng Kim Trọng để cùng nhau hàn huyên cho thỏa nỗi nhớ mong. Chiều tà, nàng trở về nhà,
nhưng cả nhà chưa ai về, nàng đã quyết định quay lại gặp Kim Trọng và tại đây, hai người đã
cùng nhau hẹn ước và thề nguyền dưới ánh trăng sáng.
Khi viết đoạn trích này, Nguyễn Du đã bộc lộ cho người đọc thấy được tư tưởng tình yêu tự do
của mình, khi ông để cho Kiều là người tìm đến Kim Trọng chứ không phải ngược lại. Ông
muốn người phụ nữ được thoát ra khỏi cái vòng lễ giáo phong kiến luẩn quẩn để tìm đến với tình
yêu đích thực của mình. Và ông đã thể hiện điều đó trong bước chân dứt khoát của Kiều khi tìm đến với Kim Trọng:
"Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu"
Những người phụ nữ xưa thường chịu ảnh hưởng sâu sắc của lễ giáo phong kiến, của những điều
luật như tam tòng tứ đức, khiến họ không thể thể hiện được tài năng cũng như không được phép
vượt ra ngoài khuôn khổ "cha mẹ đặt đâu con ngồi đó". Vậy nên càng không thể có chuyện trai
gái chưa vợ chưa chồng lại có thể lén lút gặp gỡ nhau mà bày tỏ tình yêu, nếu làm vậy, người
con gái sẽ mang tội thất tiết, thiếu lễ giáo, … Ấy vậy mà ở đây, Nguyễn Du đã để Kiều làm tất cả
điều ấy. Giữa đêm khuya, nàng băng lối vườn khuya để tìm đến với tình yêu của mình, tự tay
quyết định tình yêu và cuộc đời của mình. Những từ ngữ như "vội", "xăm xăm" đều diễn tả sự
vội vã, sự nhanh chóng, khẩn trưởng của Kiều khi sang nhà Kim Trọng lần thứ hai. Nàng "băng
lối vườn khuya một mình" mà chẳng hề sợ hãi, phải chăng, tình yêu đã tiếp cho nàng thêm sức
mạnh? Sự tĩnh mịch của đêm khuya chẳng hề làm nàng chùn bước, mà ngược lại, tình yêu bỏng
cháy trong con tim nàng đang xé bỏ đi lớp rào chắn của định kiến phong kiến để đưa bước chân
nàng tới với tình yêu của mình!
Lễ giáo phong kiến quan niệm "nam nữ thụ thụ bất thân", nữ nhi cũng không phải người có thể
quyết định tình yêu, hôn nhân của mình, ấy vậy mà Kiều lại khác. Nàng phá bỏ tất thảy mọi rào
cản để "băng lối" sang nhà Kim Trọng, thật quá táo bạo, thật quá liều lĩnh! Một người con gái
thông minh như Kiều lại luôn được dạy lễ giáo từ nhỏ sao có thể làm điều đó, phải chăng, tình
yêu mãnh liệt đã đưa lối khiến nàng tìm đến thư phòng của chàng Kim để bày tỏ tình yêu của mình?
Mặt trăng soi tỏ từng cành cây bên vườn vắng còn giai nhân thì đang mau lẹ bước chân để tìm
tới nhà tình lang còn chàng Kim thì đang mơ mang bên hương án dưới ngọn đèn học thiu thiu:
"Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê"
Chàng trai hào hoa phong nhã ấy đang dựa đầu vào hương án mà thiu thiu ngủ "dở chiều như
tỉnh, dở chiều như mê", thì chợt bước chân của nàng thơ ghé tới, "tiếng sen" nhẹ nhàng tiến lại
gần chàng. Không gian ở đây bao trùm bởi ánh trăng, ánh trăng rẽ lối để Kiều tìm đến Kim
Trọng, trăng càng "xế" thì nàng càng gần với người mình yêu thương. Những hình ảnh ước lệ
như "tiếng sen", "hoa lê", "giấc hòe", "giấc mộng đêm xuân" như càng góp phần làm nên cái tâm
trạng hư hư thực thực của Kim Trọng. Chàng chẳng rõ đang mơ hay đang tỉnh, "mơ màng"
không biết hình ảnh của Kiều có là thực chăng, hay là giấc mộng của chàng khi mong nhớ về nàng?
"Tiếng sen sẽ động giấc hè
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng".
Sự xuất hiện đột ngột lần thứ hai của Kiều khiến cho Kim Trọng tưởng đâu nàng là nữ thần của
đỉnh Vu Giáp xuất hiện trong giấc mơ đêm hè của chàng. Sự xuất hiện ấy đột ngột quá đỗi khiến
chàng không thể tin được đó là sự thật cho đến khi "miệng hoa" cất lời:
"Nàng rằng: 'Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?"
Nếu như sự xuất hiện của nàng là một sự đột ngột quá đỗi với chàng thì lời nói và hành động của
nàng càng khiến cho Kim Trọng bất ngờ hơn nữa. Một hành động mà chắc chỉ có Kiều mới dám
táo bạo và liều lĩnh như thế "vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa". Vì tình yêu nên nàng sẵn sàng
vượt lên tất cả mọi định kiến về lễ giáo phong kiến để tìm đến với mối tình của mình. Giữa trong
"đêm trường" khuya khoắt ấy, giữa ánh trăng vằng vặc ấy, không chỉ là thời gian, không gian của
vũ trụ mà còn là không gian, thời gian trong tình yêu của nàng. Những người đang yêu bao giờ
cũng cảm thấy thời gian bên nhau thật ngắn ngủi, còn thời gian xa nhau ngỡ như "đêm trường"
tối tăm và xa cách. Nàng muốn được gần Kim Trọng thêm nữa. Hai chữ "hoa" trong một câu thơ
mà nàng dùng, vốn là từ để chỉ người con gái đẹp thì ở đây lại phiếm chỉ tình yêu son sắt của
nàng dành cho Kim Trọng. Giờ đây khi đã gần bên nhau, nàng muốn ước hẹn cùng Kim Trọng
để chứng minh cho tình yêu của mình. Bởi sau khi bên mộ Đạm Tiên trở về, nàng luôn mang
trong mình nỗi lo âu, thấp thỏm, nàng sợ rằng tình yêu này cũng chỉ như giấc "chiêm bao".
Sự xuất hiện đột ngột chẳng báo trước của Kiều cùng những lời nói của nàng khiến cho Kim
Trọng vô cùng kinh ngạc, bởi nó đã vượt qua tất cả mọi lễ giáo thông thường. Thế nhưng, chàng
hiểu tất cả, bởi tình yêu của chàng dành cho Kiều cũng đã vô cùng sâu đậm, gặp lại tình nhân ở
đây thật không lời nào tả xiết. Chàng rước nàng vào hương án với sự vội vàng, không biết mơ và thực nữa:
"Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương"
Chàng thêm sáp thêm hương cho không gian thêm phần rực rỡ, cũng là để mừng cho khoảnh
khắc hạnh phúc sum vầy của đôi lứa yêu nhau. Và cũng tại không gian này, chàng và nàng cùng
"thảo" một tờ giấy hẹn thề, đính ước cùng nhau, ước hẹn trăm năm bạc đầu. Cắt một lọn tóc nhỏ,
rồi chia làm đôi làm tín vật đính ước của đôi trai tài gái sắc. Tất cả những vật nhỏ bé ấy giờ
thành những tín vật trang trọng nhất, đẹp đẽ nhất chứng minh tình yêu của hai người. Và trong
không gian ấy, không thể thiếu ánh trăng soi tỏ trên đầu, ánh trăng ấy là chứng nhân cho tình yêu của họ:
"Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song".
Có lẽ khi bất cứ ai nhắc đến tình yêu của Kiều và Kim Trọng đều nhớ đến hình ảnh của đôi trai
gái cùng ngồi thề nguyền dưới ánh trăng. Hình ảnh đó đẹp rực rỡ, đẹp như mối tình trong sáng,
vượt trên mọi lễ nghi của họ. Hai con người giờ đây đã chung một chữ thề "một lời song song"
cùng nhau hẹn ước, cùng nhau thề hẹn trăm năm bạc đầu.
Nguyễn Du quả là một nhà thơ tài hoa bởi chỉ với vài dòng thơ ngắn ngủi, nhưng ông đã vẽ lên
cho chúng ta thấy được một bức tranh của đôi trai tài gái sắc cùng nhau thề nguyền. Bức tranh ấy
đẹp lung linh với ánh trăng làm nền soi tỏ. Để cuối cùng khi kết lại, hai người đã cùng nhau tạc
lên "một chữ đồng": đồng tâm, đồng lòng đến chết. Hai con người ấy đã thề nguyền suốt kiếp
chung tình với đối phương, ghi tạc vào trong tim, mãi mãi không bao giờ quên. Tất cả đã chứng
tỏ một thứ tình yêu son sắt, thủy chung đến vô cùng, tình yêu của họ vượt lên trên tất cả những
định kiến lễ giáo phong kiến, vượt trên cả không gian và thời gian, nguyện lòng theo đuổi một
thứ tình yêu đến suốt đời, suốt kiếp.
Đoạn trích Thề nguyền là một trong những trích đoạn hay và lãng mạn nhất trong Truyện Kiều.
Bởi ở đây không chỉ chứa đựng cảnh thề nguyền hẹn ước của đôi lứa Kiều – Kim Trọng và còn
thể hiện cả quan điểm tình yêu tự do, hôn nhân và hạnh phúc tự do – một quan điểm vô cùng tiến
bộ của Nguyễn Du thời ấy. Dù rằng sau này, Kiều phải đành lòng trao lại mối tình sâu nặng ấy
cho Thúy Vân để em gái thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, nhưng những khung cảnh đẹp đẽ
giữa họ, lời thề ước giữa họ thì vĩnh viễn tồn tại như ánh trăng hôm đó. Qua đoạn trích này, ta
cũng thấy được tài năng của Nguyễn Du khi xây dựng những hình ảnh ước lệ đẹp tuyệt vời, khả
năng sử dụng ngôn ngữ vô cùng đặc sắc của ông.
Phân tích Thề nguyền - Mẫu 2
Truyện Kiều là tác phẩm văn học xuất sắc nhất của thiên tài Nguyễn Du và của nền văn học Việt
Nam từ xưa đến nay. Không những là một kiệt tác bất hủ, truyện Kiều còn ảnh hưởng sâu sắc
đến tinh thần và đời sống của con người Việt nam nhiều thời đại. Đoạn trích Thề nguyền trích từ
câu 431 đến câu 452 trong Truyện Kiều. Đoạn trích kể về việc Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng
và làm lễ thề nguyền gắn bó trước vầng trăng sáng vằng vặc:
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình ...
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Thúy Kiều táo bạo băng lối vườn khuya tìm đến với Kim Trọng:
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Tác giả dùng hai lần chữ “vội”, một lần chữ “xăm xăm”, một lần chữ “băng” để diễn tả tâm
trạng, tình cảm của Kiều. Mặt khác thể hiện sự khẩn trương, vội vã của nàng trong hành động táo
bạo, đột xuất, bất ngờ. Kiều như tranh đua với thời gian và định mệnh đang ám ảnh mà cũng vì
tình yêu với Kim Trọng mà Kiều vội vã đến vơi chàng Kim.
Thông thường, quan niệm Nho giáo cho rằng trong quan hệ nam nữ, bao giờ người con trai cũng
phải đóng vai trò chủ động. Người con gái không bao giờ là người chủ động trong tình yêu. Thế
nhưng, lần đầu tiên trong lịch sử, Nguyễn Du đã để cho Kiều hành động như thế. Đây là một nét
mới trong cách nhìn tình yêu của Nguyễn Du. Nhưng ỏ đây, Nguyễn Du đã nhấn mạnh sự chủ
động của Kiều – người con gái. Nhà thơ có cái nhìn vượt trước thời đại, hướng đến sự bình đẳng
trong tình yêu lứa đôi và trong cuộc sống xã hội của mỗi con người.
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Không gian đêm thần tiên, hư ảo được tả bằng các hình ảnh ánh trăng nhặt thưa, ngọn đèn hiu
hắt, tiếng bước chân nhẹ nhàng tạo ấn tượng cho Kim Trọng như đang sống trong mơ. Không
gian như cần thêm ánh sáng, cần thêm hương thơm và sự ấm áp. Đó là không gian đẹp, nhưng có
cảm giác hư ảo, không có thực, con người rất cô đơn giữa trời đất bao la:
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hè,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Kiều đến và tỏ bày về hành động của mình:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Biết là trái với luân thường đạo lí, nhưng ngọn lửa tình yêu cháy bỏng khiến nàng mạnh bước
vượt qua. Sợ Kim Trọng không vừa ý nên tỏ lòng cho rõ nguồn cơn.
Cuộc thề nguyền tuy vội vàng nhưng cũng đủ cả các hình thức nghi lễ. Hai mái đầu xanh cùng
ngước lên trời cao, có vầng trăng chứng giám lời thề, tình yêu tự nguỵen và chung thuỷ của họ:
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương.
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
Vừng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Hình ảnh: “Đinh ninh ….song song” và lời thề: “Trăm năm…..xương” thật cảm động và thiêng
liêng, lãng mạn và đầy chất lí tưởng.
Đoạn trích cho thấy tình yêu của con người là rất cao đẹp và thiêng liêng. Lời thề của họ được
vầng trăng chứng giám. Đoạn Trao duyên là sự tiếp tục một cách lôgic quan niệm và cách nhìn
tình yêu của Thuý Kiều. Ngược lại đoạn trích này cũng góp phần hiểu đúng đoạn Trao duyên, vì
đây là một kỉ niệm đẹp đối với Kiều và Kiều sẽ nhớ lại những chi tiết trong đêm thề nguyền
thiêng liêng này. Bởi vậy khi phải phụ lời thề để báo hiếu Kiều luôn nhớ chàng Kim với buổi thề
nguyền với tâm trạng đau xót, tiếc thương. Hành động trao duyên tả nghĩa chàng Kim làm dịu đi
phần nào nỗi đau của Kiều
Thề nguyền là đoạn thơ chứng tỏ quan niệm mới mẻ táo bạo của Nguyễn Du về tình yêu. Mặt
khác chứng minh tình cảm say đắm, mãnh liệt, chủ dộng và rất đỗi trong sáng, thiêng liêng của
Kiều – Kim. Đoạn thơ đã trở thành bản tình ca bất diệt về tình yêu đầy lãng man, lí tưởng táo
bạo. Đây là cái nhìn mới mẻ, giàu tính nhân văn của Nguyễn Du về tình yêu.
Phân tích đoạn trích Thề nguyền - Mẫu 3
Trong văn học trung đại xưa, các nhà văn, nhà thơ thường đề cập đến những vấn đề mang tính
cộng đồng, xã hội, dùng thơ để nói chí “Thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo” mà rất hiếm đề cập
đến tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, trong kiệt tác Truyện Kiều của mình, Nguyễn Du không những
viết về tình yêu mà còn ca ngợi tình yêu tự do của đôi lứa, tư tưởng này được thể hiện chân thực
thông qua đoạn trích Thề nguyền.
Thề nguyền là hành động hứa hẹn về tình cảm của đôi lứa, nó có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng
bởi nó thể hiện được tình yêu, những cảm xúc tột độ của tình yêu. Thúy Kiều và Kim Trọng gặp
gỡ hôm đi chảy hội mùa xuân thì hai người thì tình yêu đã chớm nở, để khẳng định tình yêu ấy
hai người đã cùng nhau thề nguyền dưới trăng. Có thể thấy hành động thề nguyền này đã phá vỡ
được mọi định kiến của xã hội để chạm tới tình yêu, là tình yêu vượt trên những định kiến của thời đại.
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Hành động “xăm xăm băng lối vườn khuya” của nàng Kiều thật táo bạo. Theo luân lí xã hội
phong kiến thì hành động này không được phép có ở một người con gái, hành động giữa đêm
trốn đến nhà người yêu là không thể chấp nhận. Tuy nhiên, hành động của Kiều cũng thể hiện
được tình yêu cũng như sức mạnh của tình yêu có thể vượt qua mọi rào cản, kể cả việc đi ngược
lại với những định kiến đương thời. Sức mạnh của tình yêu đã thôi thúc nàng Kiều hành động,
nàng đã sống thực với những cảm xúc và mong muốn của mình. Tuy có hành động táo bạo
nhưng Thúy Kiều không đi quá xa giới hạn, nàng cũng có những biện minh cho hành động có vẻ nông nổi của mình:
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
“Vì hoa” ở đây tức chỉ Kim Trọng, một con người tài hoa, phong nhã khiến nàng yêu say đắm
sau lần gặp đầu tiên, chính tình yêu ấy đã thôi thúc nàng vượt bao nhiêu định kiến để đến gặp
mặt, dãi bày. Thúy Kiều ngay từ khi còn sống trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che đã luôn có
những sự cảm không lành về một tương lai nhiều biến cố, đau khổ. Dù tình yêu đang ở lúc nồng
nàn, say đắm nhất thì nàng luôn lo lắng liệu đó có phải giấc chiêm bao, mọi thứ phải chăng rồi sẽ
tan biến. Hành động vội vã của nàng như muốn tranh thủ từng phút giây hạnh phúc được ở bên
người mình yêu. Trước sự xuất hiện đường đột của Thúy Kiều, Kim Trọng đã hết sức bất ngờ:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê
Tiếng sen, khẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Bước chân của nàng Kiều đã đánh thức giấc mộng của chàng Kim, sự xuất hiện của nàng với vẻ
đẹp thanh khiết, rực rỡ khiến cho chàng Kim tưởng chừng vừa gặp tiên nữ ở núi Vu Giáp. Chính
khung cảnh đêm khuya cùng sự xuất hiện bất ngờ của Thúy Kiều mà Kim Trọng không biết đây
là cơn mộng mị hay thực tế đang diễn ra. Khi yêu người ta luôn nhìn cuộc đời bằng con mắt mơ
mộng, hình ảnh của người trong lòng xuất hiện xinh đẹp,lộng lẫy ngay trước mặt khiến cho
chàng Kim ngỡ ngàng như trong cơn mộng mị cũng là điều có thể hiểu được. Khi xác định được
Thúy Kiều đứng trước mặt mình là thật, chàng Kim đã vô cùng vui mừng, hạnh phúc:
Vội vàng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc Mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Khung cảnh của đêm thề nguyền được tác giả Nguyễn Du khắc họa lên bằng những chi tiết vô
cùng sinh động, ấn tượng với đầy đủ cả ánh sáng, màu sắc và hương thơm. Chính nét đặc sắc của
không gian đêm thề nguyền đó đã trở thành một kỉ niệm thiêng liêng trong trái tim của hai người
Kim, Kiều. Buổi thề nguyền được diễn ra với đầy đủ nghi thức: tuyên thề, tóc mây, dao vàng,
vầng trăng và lời thề nguyền. Trong buổi thề nguyền ấy, Thúy Kiều đã trao cho Kim Trọng tóc
mây, đây không chỉ là nghi thức hẹn ước mà còn thể hiện được tình cảm sâu sắc mà Thúy Kiều trao cho Kim Trọng.
Trong đêm thề nguyền này, trăng chính là chứng nhân cho tình yêu đôi lứa, mặt khác nếu theo
dõi toàn bộ Truyện Kiều ta có thể thấy được trăng còn là một người cố tri, chứng kiến toàn bộ
những bước ngoặt trong cuộc đời của Kiều. Đó có thể là hình ảnh ánh trăng nhợt nhạt, le lói
trong đêm mà Thúy Kiều bỏ trốn theo Sở Khanh:
Đêm thâu khắc lâu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương.
Vầng trăng cũng như mất mát, đau thương khi bị chia nửa trong đêm Thúy Kiều chia tay Thúc Sinh:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Như vậy, có thể thấy ánh trăng đã chứng kiến toàn bộ những biến cố trong cuộc đời Thúy Kiều,
từ những giây phút hạnh phúc, nồng nàn khi thề nguyền cùng chàng Kim, cũng là những phút
giây đau khổ, chia li sau này. Đoạn trích đã thể hiện đầy cảm động tình yêu sâu nặng của Thúy
Kiều dành cho Kim Trọng, cũng có thể thấy được đây là một trong những khoảnh khắc đẹp nhất
trong cuộc đời bạc mệnh của nàng Kiều.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 4
Trong cuộc đời này, liệu có mấy người dám khẳng định: ta sống không cần tình? Đại thi hào Nga
M.Gorki từng quả quyết rằng: Tình yêu - đó là thơ ca cuộc đời. Cuộc sống thiếu tình yêu không
phải là sống mà chỉ là sự tồn tại! Và như là định mệnh, tình yêu tìm đến văn chương nghệ thuật
để được bất tử hoá. Những áng văn thơ về đề tài này, từ xưa đến nay vẫn giữ vị trí cao nhất trong
lòng người đọc. Ai có thể thờ ơ với tình yêu trong sáng của Romeo và Juliet trong đêm trăng thề
nguyền? Cũng như vậy, ai có thể không nhận ra một phần tâm hồn mình trong tình yêu của Thuý
Kiều và Kim Trọng? Thề nguyền là một nét biểu hiện đẹp trong tình yêu của người quốc sắc, kẻ thiên tài này.
Thề nguyền là một cung bậc tình cảm trong tình yêu. Lời thề là sự khẳng định cho niềm tin, lòng
thuỷ chung son sắt của hai con người, nó cho tình yêu một chỗ dựa vững chắc, bền chặt. Chẳng
thế mà cả Romeo và Juliet, Thuý Kiều và Kim Trọng đều xem nó là minh chứng cho tình yêu
của minh trong văn học trung đại Việt Nam, việc xuất hiện một tình yêu kiểu Kim – Kiều thật
hiếm thấy. Tình yêu ấy đã phá rào định kiến, gỡ bỏ mọi trói buộc để đến với nhau tự do, tự
nguyện. Một tình yêu vượt trên thời đại.Để bảo vệ, vun đắp cho mối tình đẹp đẽ của mình Thuý Kiều đã:
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Vì hành động xăm xăm băng lối vườn khuya ấy mà Kiều đã nhận lấy không biết bao nhiêu tiếng
chê - khen. Các cụ ta xưa xem đó là hành động trái lại với đạo đức, luân lý, cương thường. Trong
khi nàng phải gần gũi mình trong cảnh thâm nghiêm kín cổng cao tường hay êm đềm trướng rủ
màn che – tường đông ong bướm đi về mặc ai, thì hành động một mình giữa đêm tối tìm đến nhà
người yêu của Kiều thật khó chấp nhận, nó không phải là hành động của bậc tiểu thư đài các thâm khuê.
Nhưng ta hãy nhìn nó với ánh mắt và tâm hồn của kẻ đang yêu, những gì các cụ ta cho là vô lý,
là sai trái, là không thể chấp nhận kia bỗng trở nên hợp lý, đúng đắn hơn bao giờ hết. Kiều yêu
bằng tình cảm đầu đời mãnh liệt, trong sáng nhất của người con gái. Tình yêu đẹp đẽ đã cho
nàng sức mạnh vượt qua bóng đêm của khu vườn, bóng đêm của định kiến đế đến với chàng
Kim. Điều đáng trân trọng, ca ngợi nữa là Kiều đã không để sự mãnh liệt trong tình yêu dẫn nàng
đi quá xa, quá giới hạn cho phép. Và cũng chính Kiều đã biện minh cho hành động của mình.
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
Vì hoa – vì chàng Kim – vì con người văn chương nết đất, thông minh tính trời, vào trong phong
nhã, ra người hào hoa ấy đã khiến Kiều phải trổ đường tìm hoa giữa khoảng vầng đêm trường.
Có trách là trách ai kia chứ sao lại trách nàng?
Yêu tha thiết là thế nhưng Kiều vẫn rất tỉnh táo. Cuộc đời nàng bắt đầu từ những khúc. Bạc mệnh
đến lời báo mộng của Đạm Tiên rằng nàng có tên trong sổ Đoạn trường đã khiến cho người con
gái trong sáng ấy luôn thường trực nỗi ưu tư, lo lắng. Giữa lúc tình yêu ở độ nồng thắm nhất mà
nàng vẫn lo rằng: Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao? Mọi thứ sẽ tan biến như giấc chiêm bao
không thể nếu giữ lại bởi hạnh phúc nàng có mong manh. Điều đó dường như không còn là nỗi
lo lắng đơn thuần nữa. Nó là điềm báo chăng? Cũng giống như lời tâm sự của Juliet dưới đêm
trăng đã khiến chàng Romeo hạnh phúc đến ngây ngất, hành động của Kiều khiến Kim Trọng
ngạc nhiên và mừng rỡ không kém:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê
Tiếng sen, khẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Bước chân người đẹp đã đánh thức giấc mộng của chàng Kim. Nàng như hoa lê ngậm trăng với
vẻ thanh khiết, sáng láng tuyệt vời khiến chàng Kim ngỡ thần nữ núi Vu Giáp. Chàng không
khỏi ngạc nhiên: Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Lại là giấc mộng. Dường như khi yêu, người ta nhìn thế giới bằng con mắt mơ mộng. Kiều xuất
hiện trước mặt chàng đầy bất ngờ, với vẻ xinh đẹp yêu Kiều là thế khiến chàng ngỡ mình đang
đắm chìm trong giấc mộng đêm xuân mơ màng cũng là điều dễ hiểu.Hết ngạc nhiên, chàng vui mừng hạnh phúc:
Vội vàng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc Mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Không khí đêm thề nguyền được gợi lên đầy ấn tượng, với ánh sáng, màu sắc, hương thơm; với
cảnh đẹp, người đẹp… tạo nên dấu ấn tình yêu đầu đời không bao giờ phai mờ trong tâm hồn
Kiều. Biểu hiện của buổi thề nguyền là tiên thề, tóc mây, dao vàng, vầng trăng và lời thề. Kiều
trao chàng kim món tóc mây biểu hiện sự hẹn ước. Đêm thề nguyền của hai người yêu nhau
được vây gọn trong thiên nhiên đẹp đẽ, êm đềm với sự minh chứng của vầng trăng vằng vặng giữa trời.
Trăng là kẻ cố tri, thường xuyên xuất hiện và đi về để chứng kiến những bước ngoặt trong cuộc
đời nàng Kiều, vầng trăng ấy chất chứa đầy tâm trạng bởi dưới trăng là con người của nỗi niềm
tâm sự khôn nguôi. Nó có lúc là thứ ánh sáng nhợt nhạt, đe dọa trong đêm Kiều trốn theo Sở Khanh:
Đêm thâu khắc lâu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngân ngậm sương.
Hoặc có thể là vầng trăng sẻ nửa khi Kiều chia tay chàng Thúc:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Hay là bóng trăng tà đầy hoảng hốt khi Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư:
Cất mình qua ngọn tường hoa
Lần đường theo bóng trăng tà về tây…
Đã bao lần trăng hiện diện trong cuộc đời Kiều, nhưng có lẽ chỉ có đêm trăng thề nguyền này là
tròn đầy, viên mãn nhất. Nó sáng trong vằng vặc giữa trời như lời ghi nhận của thiên nhiên tạo
vật trước tình yêu của đôi trẻ. Ánh sáng ấy như lớp màng bảo vệ tình yêu khỏi những tì vết, bụi
bặm đời thực; nó khắc hình ảnh đêm thề nguyền vào cuộc đời hai con người như một dấu ấn,
một minh chứng cho tình yêu vĩnh hằng.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 5
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm được xếp vào hàng kinh điển của nền
văn học dân tộc, có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống của nhân dân Việt Nam suốt mấy
trăm năm nay. Giá trị của truyện Kiều đến từ các giá trị nhân văn, tính nhân bản như lòng thương
cảm và xót xa cho số phận con người dưới chế độ phong kiến, ca ngợi vẻ đẹp tài hoa và tâm hồn
của người phụ nữ, bên cạnh đó nó còn mang giá trị hiện thực khi phản ánh, tố cáo chế độ phong
kiến tàn ác, chèn ép đày đọa con người đến bước đường cùng. Nhân vật chính của tác phẩm là
Thúy Kiều một cô gái trẻ tuổi, tài sắc vẹn toàn, thế nhưng lại phải chịu bất hạnh với kiếp hồng
nhan bạc mệnh. Trong phần thứ nhất - Gặp gỡ của tác phẩm, thì trích đoạn Thề nguyền là một
trong những trích đoạn hay nhất kể về mối tình đẹp của Thúy Kiều với Kim Trọng.
Thề nguyền bắt đầu từ câu 431 đến câu 452 của tác phẩm, sau khi gặp gỡ tại tiết Thanh minh,
Kim Trọng và Thúy Kiều đã có thêm vài lần gặp gỡ, cặp trai tài gái sắc, đang tuổi thanh xuân
phơi phới đã nhanh chóng phải lòng nhau và tình yêu ngày càng trở nên sâu đậm. Chính vì lẽ đó
nên Thúy Kiều nhân lúc cả nhà sang ngoại, đã lén đi tìm gặp Kim Trọng, rồi sau khi đã trở về
nhà lúc chiều tà mà chưa thấy người nhà quay trở về nàng lại tiếp tục quay lại lần nữa, rồi tự
định ước chung thân với Kim Trọng, để bày tỏ tình yêu sâu sắc chân thành của cả hai. Trích đoạn
Thề nguyền đã kể lại tất thảy việc đính ước của cả hai dưới ánh trăng vằng vặc.
Ở trích đoạn Thề nguyền ta dễ dàng nhận thấy quan điểm tiến bộ trước thời đại cả của Nguyễn
Du trong tình yêu đôi lứa, bộc lộ sự ủng hộ của tác giả trong việc nam nữ theo đuổi tình yêu một
cách tự do mãnh liệt, thoát khỏi cái e lệ, ngại ngần không dám tỏ bày mà ông cha ta thuở xưa vẫn
thường cho là phép tắc, lễ nghĩa. Điều này thể hiện rất rõ trong đoạn Thúy Kiều vượt tường băng
qua nhà Kim Trọng ngay trong đêm tối. Bởi trong nền giáo dục truyền thống, phận nữ nhi buộc
phải an phận thủ thường, chịu sự sắp đặt của cha mẹ theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy”, cũng không có chuyện trai gái lén lút, gặp gỡ riêng nhau để tỏ bày tình yêu, nếu có thì
người trai bị cho là vô phép, thiếu lễ nghĩa, còn người con gái phải chịu điều tiếng nặng nề hơn
là lăng loàn, thất tiết,... Thế nhưng với hai nhân vật Kiều và Kim Trọng, Nguyễn Du lại hoàn
toàn tạo cho họ một không gian gặp mặt riêng, để họ được thoải mái bộc lộ tình yêu sâu sắc dành
cho nhau. Đặc biệt với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vẽ ra cảnh nàng đêm hôm chạy theo
tiếng gọi của tình yêu, rồi tự tay quyết định chung thân đại sự của mình. Điều đó đã từng một
thời dấy lên làn sóng tranh cãi về việc rốt cuộc Kiều có phải là người phụ nữ lễ tiết thấu đáo hay
cũng chỉ là loại phụ nữ trắc nết. Tuy nhiên đến nay, thì người ta lại có cái nhìn thông cảm và trân
trọng hơn với nàng, cũng như cái tính táo bạo, mạnh mẽ trong tình yêu của Thúy Kiều.
“Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương dọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Trong 14 câu thơ đầu, ta thấy hiện lên hình ảnh người con gái vội vã đi tìm tình lang, khi vừa trở
về nhà thì hay tin cả nhà vẫn chưa về, ngay lập tức trong lòng Kiều đã nảy ra ý định sang tìm
Kim Trọng lần nữa. Chứng tỏ rằng tình yêu của nàng đang ở độ mặn nồng và sâu sắc nhất, nỗi
nhớ đã bộc lộ ra bằng hành động để chứng minh. Những từ “vội”, “xăm xăm”, “băng lối”, “một
mình” đã thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán của Kiều trong tình yêu, không màng lễ tiết hay
những quan niệm phong kiến ngăn cản tình yêu, vứt bỏ tất cả sau lưng để tìm đến với chân ái của
cuộc đời. Bên cạnh đó tình yêu của Kiều còn được vẽ nên dưới một khung cảnh thiên nhiên rất
thơ mộng và trữ tình, gợi ra sự lãng mạn, tươi trẻ của thứ tình yêu đầu đời tuyệt đẹp. Đó là cảnh
“Nhặt thưa gương dọi đầu cành”, khi ánh trăng trên cao tỏa xuống những thứ ánh sáng dịu dàng,
rồi xuyên qua từng tầng lá để lọt xuống những tia sáng lưa thưa chiếu lên người giai nhân đang
rảo bước trong vườn. Cảnh ánh đèn mờ mờ của Kim Trọng xuyên qua cửa hắt ra ngoài vườn,
không chỉ thể hiện ánh nhìn trông mong, thương nhớ luôn hướng về nơi tình lang ở của nàng
Kiều, mà nó còn thể hiện tinh thần hiếu học, sự miệt mài chăm chỉ của Kim Trọng trong việc đèn
sách, càng chứng minh tình yêu của Kiều đã đặt đúng người. Thúy Kiều nhanh chóng băng vườn
tìm đến nhà Kim Trọng, ở đây thấy chàng đã hiu hiu giấc ngủ bên đèn sách, chập chờn trong giấc
mộng. Nguyễn Du dùng hình ảnh có tính ước lệ như “Tiếng sen đã động giấc hòe”, để thể hiện
phong thái dù vội vã nhưng vẫn uyển chuyển, thanh khiết nhẹ nhàng của Thúy Kiều thông qua
“tiếng sen”. Lại diễn tả cảnh say giấc của Kim Trọng bằng “giấc hòe” trích từ điển cố Thuần Vu
Phần ngủ dưới gốc hòe mơ thấy vinh hoa phú quý. Điều đó thể hiện lý tưởng và khát vọng của
Kim Trọng vào việc tạo lập công danh, sự nghiệp, thế nhưng trước giấc mộng không có thật và
thân ảnh Thúy Kiều đã đến bên thì Kim đã nhanh chóng thức dậy. Hình ảnh “Bóng trăng đã xế
hoa lê lại gần” càng làm tăng thêm sự thi vị và lãng mạn cho công cuộc gặp gỡ của Kiều và Kim
Trọng. Khung cảnh đôi kim đồng ngọc nữ, dưới ánh trăng sáng tỏ, với nội tâm là tình yêu mãnh
liệt dành cho nhau trở nên thật tuyệt diệu. Chính vì thế khi Kim Trọng tỉnh giấc, nhìn thấy Kiều
dưới ánh trăng thanh lại cứ ngỡ bản thân mình đang mơ, thực tế là vì quá đỗi bất ngờ, cùng với
việc nhớ mong người yêu mà tưởng mình mộng phải đâu ngờ người đã tới tận bên án thư. Tại
đây Kiều đã mạnh mẽ tỏ bày nỗi lòng mình, việc mà xưa nay chắc chẳng mấy nữ nhi thường tình
dám chủ động, Kiều đối diện với Kim Trọng bộc lộ sự nhớ mong, trống vắng khi xa nhau, lại sợ
“đêm trường” khó tránh khỏi nhớ thương, thế nên ví “hoa” chính là tình yêu, nàng đã “vì hoa nên
phải trổ đường tìm hoa”. Thế nhưng bên cạnh nỗi nhớ mong tình quân, thì hành động bộc phát
của Kiều có lẽ còn xuất phát từ giấc mộng về Đạm Tiên, phải chăng Thúy Kiều đang lo lắng
rằng tình yêu của mình sẽ giống như đóa hoa kia, đẹp nhưng sớm nở tối tàn đầy xót xa. Hoặc là
lại giống như một giấc “chiêm bao” cuối cùng chẳng còn lại gì, điều đó khiến lòng Kiều bất an
vô cùng. Chính vì thế nên mới có cảnh tìm gặp rồi thề nguyền kết tóc, để nàng cảm thấy an tâm
hơn về tình yêu đầu đời đẹp như mộng của mình.
“Vội mừng làm lễ rước vào,
Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
Không gian thề nguyền của đôi trẻ ấy là trong nhà Kim Trọng, cũng là nơi hai người thường gặp
mặt tâm sự, bối cảnh thời gian là một đêm trăng sáng tạo nên không gian thơ mộng trữ tình.
Không chỉ vậy ánh trăng xưa nay luôn là biểu trưng cho sự sum vầy, đoàn viên, sự hạnh phúc mỹ
mãn, bên cạnh đó còn là biểu thị cho tình yêu trong sáng, thuần khiết và chân thành của Thúy
Kiều và Kim Trọng. Vầng trăng ở đây đã trở thành minh chứng thiêng liêng cho tình yêu tuyệt
đẹp của đôi trai tài gái sắc. Trong việc thề nguyền, đính ước, cả Thúy Kiều và Kim Trọng đều vô
cùng thành tâm và cẩn thận, tỉ mỉ, nào là nến đỏ thắp trên “đài sen”, rồi có cả hương khói tản mát
trong “lò đào” làm cho không khí trở nên thập phần lãng mạn, tinh tế và thiêng liêng vô cùng. Cả
hai đã cùng nhau viết “tiên thề”, cùng nhau cắt tóc mây bằng “dao vàng”, thể hiện thái độ trân
trọng và nâng niu vô cùng ước nguyện cùng nhau kết tóc, bạc đầu trăm năm, quyết tâm không
đổi dời. “Đinh ninh hai miệng một lời song song” là thể hiện sự đồng lòng sắt son, là tình yêu
chân thành sâu sắc đến từ cả hai phía, từ hai trái tim nay đã hòa chung một nhịp đập, chất chứa
đầy ắp thư tình yêu đời đời thuần khiết, sâu nặng. Lời ước hẹn “Trăm năm tạc một chữ đồng đến
tâm” chính là lời thề nguyền, hẹn ước suốt kiếp chỉ chung tình với đối phương, mà chữ “đồng”
trong đồng tâm, đồng lòng đã ghi tạc vào sâu trong trái tim mãi mãi không bao giờ phai mờ. Tỏ
rõ tình cảm và sự thủy chung son sắt của hai con người yêu nhau, vượt qua mọi sự ngăn cản của
lễ giáo phong kiến, một lòng theo đuổi thứ tình yêu đích thực, tươi đẹp nhất cuộc đời.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 6
Sau cuộc du xuân, Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau, Kim thuê trọ ở gần nhà Kiều. Một hôm,
nhân lúc cả gia đình đi mừng thọ bên ngoại, Thúy Kiều chủ động sang nhà Kim Trọng, hai người
tình tự với nhau đến tối. Trở về nhà nhưng gia đình chưa về, Kiều lại buông rèm sang nhà Kim
Trọng lần hai. Họ cùng nhau hứa hẹn chung thủy suốt đời. “Thề nguyền” là một trong những
đoạn trích tiêu biểu cho tình yêu trong sách, thủy chung mà không kém phần bạo dạn của Thúy
Kiều - một cô gái trong xã hội phong kiến, sẵn sàng vượt những hủ tục để có được tình yêu với Kim Trọng.
Mở đầu đoạn trích với cảnh Thúy Kiều lén sang gặp Kim Trọng lần hai khi thấy cha mẹ chưa về:
“Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia
Một tường tuyết chở sương che
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”
Kiều đi tìm gặp Kim Trọng, Nàng với những bước chân nhanh nhẹn “xăm xăm”, can đảm đến
bên nhân tình cùng nhau xướng họa văn thơ, tâm sự bầu bạn. Quả thật trong xã hội phong kiến
xưa, nhưng hủ tục trói buộc con người, tạo ra một bức tường ngăn cách tình yêu đôi lứa, nhưng
Kiều một cô gái có trái tim bồng bột ngây thơ, với sự táo bạo, chủ động trong tình yêu, thề
nguyền với người mình yêu khi không có sự cho phép của cha mẹ mình cho thấy trong nàng có
khao khát một tình yêu tự do, chính đáng, một tình cảm mãnh liệt với Kim Trọng đồng thời,
nàng đang vì chính mình tranh đua với thời gian, định mệnh để tìm kiếm hạnh phúc. Theo từng
bước đi đó của Thúy Kiều là tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du, mở rộng ranh giới tình cảm cho
nhân vật. Nàng cứ thế bước đi trong vườn khuya, dần lạc vào ảo mộng.
Còn với Kim Trọng thì khoảnh khắc lúc này đáng quý hơn bao giờ hết, bởi vì sau bao ngày tháng
mong ngóng chờ đợi giờ đây được gặp trực tiếp, được giãi bày tâm sự cùng nàng:
“Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê
Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng”
Nguyễn Du đã dùng hình ảnh ước lệ “tiếng sen” để nói về từng bước chân nhẹ nhàng của Thúy
Kiều giữa lúc chàng Kim đang nửa tỉnh, nửa mê, luyến tiếc khi nàng Kiều quay trở về nhà sau
lần gặp gỡ thứ nhất. Thế rồi nàng Kiều bất chợt quay lại khiến tâm trạng chàng bâng khuâng, xao
xuyến tưởng chừng như còn mơ màng trong giấc mộng đêm xuân. Nguyễn Du đã mượn điển tích
“đỉnh Giáp non thần” vua nước Sở nằm mơ thấy thần nữ núi Vu Giáp trong điển tích của văn học
cổ Trung Quốc, để thể hiện sự trân trọng của chàng khi người đẹp đến.
Sức mạnh của tình yêu đã thôi thúc nàng Kiều hành động, nàng đã sống thực với những cảm xúc
và mong muốn của mình. Tuy có hành động táo bạo nhưng Thúy Kiều không đi quá xa giới hạn,
nàng cũng có những biện minh cho hành động có vẻ nông nổi của mình:
“Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
“Khoảng vắng đêm trường” gợi một khoảng không gian thời gian trong tâm trí rợn ngợp mà
nàng phải vượt qua để tới gặp Kim Trọng. “Vì hoa” ở đây tức chỉ Kim Trọng, một con người tài
hoa, phong nhã khiến nàng yêu say đắm sau lần gặp đầu tiên, chính tình yêu ấy đã thôi thúc nàng
vượt bao nhiêu định kiến để đến gặp mặt, giãi bày. Thúy Kiều ngay từ khi còn sống trong cảnh
êm đềm trướng rủ màn che đã luôn có những sự cảm không lành về một tương lai nhiều biến cố,
đau khổ. Dù tình yêu đang ở lúc nồng nàn, say đắm nhất thì nàng luôn lo lắng liệu đó có phải
giấc chiêm bao, mọi thứ phải chăng rồi sẽ tan biến. Hành động vội vã của nàng như muốn tranh
thủ từng phút giây hạnh phúc được ở bên người mình yêu.
Sau những lời giãi bày của Kiều, Kim Trọng cùng nàng vào trong phòng, nhanh chóng đốt trầm
hương thơm thoảng, thắp thêm đèn tỏa ánh sáng ấm áp, chàng lấy tờ giấy hoa ra viết lời thề, cắt
tóc chia thành hai phần đặt lên án thư, trao đổi vật tin. Dưới sự chứng giám của vầng trăng:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
Buổi thề nguyền ngắn gọn, vội vàng nhưng đầy đủ nghi thức: thề nguyền, tóc mây, dao vàng,
vầng trăng và lời thề nguyền. Trong buổi thề nguyền ấy, Thúy Kiều đã trao cho Kim Trọng tóc
mây, đây không chỉ là nghi thức hẹn ước mà còn thể hiện được tình cảm sâu sắc mà Thúy Kiều
trao cho Kim Trọng. Với nhiều hình ảnh ước lệ cùng điển cố, điển tích, Nguyễn Du đã khắc họa
ra một không gian thề nguyền lãng mạn, thơ mộng, mà ở đó vầng trăng là nhân chứng cho mối
tình son sắt của hai người.
Phân tích bài thơ Thề Nguyền - Mẫu 7
Tình yêu có rất nhiều giai đoạn với các cung bậc cảm xúc khác nhau.Khi cảm thấy có sự đồng
điệu giữa hai tâm hồn, những người yêu nhau sẽ thề nguyền để hẹn ước đời đời gắn bó, luôn bên
cạnh nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn.Thúy Kiều và Kim Trọng cũng vậy, họ đã có một lễ thề
nguyền trong không gian đầy thơ mộng.Có lẽ trong văn chương trung đại Việt Nam chưa có một
cuộc thề nguyền nào lãng mạn đến thế.
Mở đầu đoạn trích "Thề nguyền" là sự chủ động đến táo bạo của Thúy Kiều khi sang nhà Kim
Trọng nhân cơ hội cha mẹ và các em sang bên ngoại chưa về nhà:
"Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu".
Khi con tim đã rung động vì tình yêu thì ước muốn luôn được ở bên cạnh người mình yêu cũng
là điều dễ hiểu. Các động từ "vội","xăm xăm", "băng lối" diễn tả trạng thái vội vàng, nhanh
chóng, khẩn trương của Thúy Kiều khi sang nhà Kim Trọng lần thứ hai. "Vườn khuya" tĩnh
mịch, thanh vắng không khiến nàng chùn bước mà ngược lại, tình yêu nồng cháy nơi con tim
Thúy Kiều đã khiến nàng xé bỏ rào cản, bức tường ngăn cách tình yêu đôi lứa trong xã hội
đương thời. Xã hội xưa quan niệm "Nam nữ thụ thụ bất thân", trong tình yêu, người phụ nữ
không có quyền chủ động quyết định hạnh phúc của mình vậy mà Thúy Kiều lại chủ động "băng
lối" sang nhà chàng Kim vào buổi chiều tà. Như vậy chẳng phải là quá táo bạo hay sao? Nàng
khao khát một tình yêu đến từ chính trái tim của hai người, một tình yêu tự do và mãnh liệt nên
đã thề nguyền cùng Kim Trọng. Mặt trăng đã lên và chiếu những tia sáng qua lá cây tạo nên một
không gian huyền ảo. Chàng Kim lúc này đang mơ màng dưới ngọn đèn học hiu hắt:
"Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê
Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng".