Phân tích bài thơ Thương vợ của Tú Xương
chọn lọc hay nhất
1. Dàn ý phân tích i thơ "Thương vợ" của Xương:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Trần Tế Xương, hay còn gọi Xương hay
Mỡ, một trong những n thơ cách viết trào phúng, hài hước.
Giới thiệu về bài thơ "Thương vợ".
1.2. Thân bài:
Hình ảnh Tú:
Hai câu thực gợi tả cụ thể hơn cuộc sống tảo tần gắn với việc buôn bán
ngược xuôi của Tú: “Quanh năm buôn bán mom sông/Nuôi đủ năm
con với một chồng”
Công việc: buôn bán
Thời gian: quanh năm => từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua
tháng khác, không một ngày được nghỉ ngơi.
Địa điểm: mom sông (phần đất bờ sông nhô ra phía lòng sông, i
người làng chài thường hay tụ tập mua bán) => hai chữ “mom sông” gợi tả
một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cuộc đời lắm cực, phải vật lộn để
kiếm sống.
“Nuôi đ năm con với một chồng”: Gánh nặng gia đình đang đè nặng lên
đôi vai người mẹ, người vợ. Cách đếm con, chồng => ẩn chứa nỗi niềm
chua chát về một gia đình gặp nhiều khó khăn: đông con, còn người chồng
đang phải “ăn lương vợ”.
Hai câu đề: “Lặn lội thân khi quãng vắng/Eo sèo mặt nước buổi đò
đông”
Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tế Xương đã mượn nh ảnh con
trong ca dao để nói về Tú: thân lầm lũi gợi liên tưởng về thân phận
vất vả, cực khổ, của cũng như những người phụ nữ Việt Nam trong
hội cũ.
Ba từ "khi quãng vắng" đã nói lên không gian heo hút, vắng lặng chứa đầy
những lo âu, nguy hiểm.
Câu thơ dùng phép đảo ngữ (đưa t "lặn lội" lên đầu câu) dùng từ "thân
cò" thay cho từ "con cò" càng làm tăng thêm nỗi vất vả gian truân của
Tú. Không những thế, từ "thân cò" còn gợi nỗi ngậm ngùi về thân phận
nữa. Lời thơ, thế, cũng sâu sắc hơn, thấm thìa hơn.
Câu th tư làm sự vật lộn với cuộc sống đầy gian nan của Tú: “Eo
sèo mặt nước buổi đò đông.”
Eo sèo: từ láy tượng thanh ý chỉ sự kèo, kêu ca phàn nàn một cách
khó chịu => gợi tả cảnh tranh bán, cãi nơi “mặt nước”. u thơ gợi tả
cảnh chen chúc, bươn trải trên sông nước của những người làm nghề
buôn bán nhỏ.
“Buổi đò đông” hàm chứa không phải ít những lo âu, nguy hiểm "khi
quãng vắng".
Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cực. Bát
cơm, manh áo mà kiếm được để “nuôi đủ m con với một chồng”
phải lặn lội trong nắng mưa, phải giành giật, phải trả giá bằng mồ hôi,
nước mắt trong thời buổi khó khăn.
Hai câu luận: “Một duyên hai nợ, âu đành phận/Năm nắng, mười mưa dám
quản công.”
Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ
“năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà
trong cảm nhận ngôn ngữ biểu đạt:
“Duyên” duyên số, duyên phận, cái “nợ” đời phải cam
phận, chịu đựng.
“Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực.
Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai… năm… mười… làm
nổi đức hi sinh thầm lặng của Tú, một người ph nữ chịu thương,
chịu khó sự ấm no, hạnh phúc của chồng con gia đình.
“Âu đành phận”, “dám quản công” giọng thơ nhiều xót xa, thương
cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le.
=> Tóm lại, 6 câu thơ đầu bằng tấm lòng biết ơn cảm phục, Xương đã
phác họa một vài nét rất chân thực cảm động về hình ảnh Tú, người vợ
hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu
thương chịu khó, thầm ng hi sinh cho hạnh phúc gia đình.
Nỗi lòng của tác giả:
Hình ảnh Ông hiện lên thông qua ch ông tái hiện hình ảnh của vợ:
Trước hết ông một người biết yêu thương, quý trọng biết tri ân vợ.
Tình cảm yêu thương của ông được thể hiện gián tiếp qua việc khắc
họa hình ảnh bà Tú, đồng thời thể hiện trực tiếp thông qua lời khen, lời ghi
nhận công lao của ông đối vợ “Nuôi đ năm con với một chồng” theo lối
nói hài hước, tếu táo chút tự trào.
Xương cũng hiện lên một người nhân cách thông qua những lời
tự trách “một duyên hai nợ”, ông tự nhận mình cái “nợ” phải
gánh chịu, phải trả kiếp này.
Hai u kết, Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom
sông” lúc buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị: “Cha mẹ thói đời
ăn bạc/ chồng hờ hững ng như không.” Ý nghĩa của lời chửi tác
giả thầm trách bản thân mình một cách thẳng thắn, nhận ra sự dụng của
bản thân mình. Nhưng đó lại một lẽ thường tình trong hội phong kiến
trọng nam khinh nữ. Xương dám thừa nhận nh “quan ăn lương vợ”,
dám tự nhận khuyết điểm của mình. T đó cho thấy ông một người
nhân cách đẹp.
=> Hai câu kết cả một nỗi niềm tâm sự thế sự đầy buồn thương, tiếng
nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương
gia cảnh nghèo. ơng thương vợ cũng chính thương mình vậy: nỗi
đau thất thế của n thơ khi cảnh đời thay đổi.
1.3. Kết bài:
Khái quát lại nội dung nghệ thuật.
Cảm nhận chung về giá trị của bài thơ.
2. Một số mẫu phân tích bài thơ "Thương vợ" của Xương
hay nhất
2.1 Phân tích bài thơ "Thương vợ" của Xương (Mẫu số 1)
Nói về thơ trào phúng không ai thể bỏ qua Xương, một giọng thơ châm
biếm, đả kích sắc bén, quyết liệt dữ dội hiếm có. Chế Lan Viên từng viết: "
Xương nhìn n mảnh vỡ thuỷ tinh ". Nhưng Trần Tế Xương đâu một
nhà thơ hiện thực ch nghĩa điển hình, giống như Nguyễn Tuân, chất hiện
thực y chính là " chân trái ", " chân phải " của ông chất lãng mạn. Trân
trọng khâm phục nhớ về t Xương nhiều hơn lẽ người đời được
lắng nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, đầy tình cảm, biết trọng nhân
cách, với một nỗi đau thăm thẳm không nguôi. Buồn không điều kiện để
giúp đỡ một người nghèo, một đồng bào cùng cảnh ngộ, ông thề độc: " Cha
thằng nào tiền không cho ". Mang nỗi đau tột cùng của một tri thức, ông
chua chát: " Nhân tài đất Bắc kìa ai đó! /Ngoảnh mặt nhìn cảnh này ". Đó
ngoài đời, còn trong n ông luôn bị dày bởi cảm giác thiếu trách nhiệm,
Xương " thương vợ ", chồng vẫn phải đóng vai phụ, ông tự nhận i sự
" hờ hững " của mình.
Chắc rằng các cụ ông ngày xưa phần lớn thương vợ thương con, nhưng
một quan niệm nào đấy, thường ngại bộc lộ tình cảm của người chồng, nhất
lại thể hiện tình cảm với người vợ một cách trực tiếp qua giấy trắng mực
đen, qua văn chương thì lại càng ít. Thế kỉ XIX, hai nhà thơ cùng người
thành Nam, Nguyễn Khuyến Xương, đã không ngần ngại nói lên tình
thương yêu của người chồng đối với vợ ngay khi các còn đang sống.
Nhưng về chủ đề này, Thương vợ cua Xương bài thơ nổi tiếng hơn cả:
"Quanh năm buôn bán mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản ng
Cha mẹ thói đời ăn bạc,
chồng hờ hững cũng như không".
Nổi bật trong bài thơ là hình nh hai con người: một người vợ tần tảo giàu
đức hy sinh một người chồng luôn biết chia sẻ, yêu thương trân trọng
vợ rất mực. Hai câu t đầu giới thiệu về công việc của cũng như trách
nhiệm nặng nề của bà: "Quanh năm buôn bán mom sông/Nuôi đủ năm con
với một chồng". Buôn bán cũng một nghề n bao nghề khác, người phụ
nữ làm để kiếm tiền. Người xưa cũng coi đây nghề độc nhất nếu muốn
giàu (phi thương bất phú) . Nhưng việc kinh doanh của lại không
được n thế. Chẳng nhà hàng, cửa hiệu, khách sạn gì, chỗ "buôn
bán" "mom sông". Hai chữ "mom sông" đã gợi nên hình ảnh một khoảnh
đất nhô ra ven bờ, khi nước cạn thì được, nước dâng sẽ tan, thuyền qua
lại thì thành chợ không ngủ, cũng thể chợ nhóm họp một lát vào buổi sáng
hay buổi xế chiều. o tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người bán rong,
vốn liếng nhỏ nhoi, bấp bênh, tất nhiên thu nhập chẳng đáng bao. Thế
công việc khó nhọc ấy, không thể chịu đựng một hai ngày cứ làm
"quanh năm". Chữ "quanh năm" gợi một thời gian đằng đẵng, 12 tháng, từ
tháng giêng đến tết, cũng nghĩa hết năm này sang năm nọ. Cái công
việc vất vả ấy dường như theo đuổi bà Tú suốt cả cuộc đời, nhưng chẳng
thể giúp gia đình khấm khá hẳn lên để việc khác nhàn hạ hơn hay phát
triển nghề "buôn n" một cấp đ cao hơn. Công việc thì nhọc nhằn, thu
nhập thì thấp, nhưng vẫn thể lo toan được cả một gia đình sáu
miệng ăn. Hơn nữa, không phải là sáu lại "năm con với một chồng",
"Năm con" ít, nhưng dẫu sao cũng chấp nhận được, lo lắng cho chúng khi
thiếu miếng ăn, manh áo. Nhưng ông chồng, "một", tất nhiên chi p cho
cả năm đứa con kia. khi còn hơn thế nhiều! Mỗi khi ông phải đi xa tiền
lưng gạo bị lại đổ lên vai vợ, chưa kể những khi đồng chè đồng rượu,.....
Nhiều khoản chi tiêu như vậy nhưng lúc nào cũng lo "đủ ". Thật đảm
đang tháo vát quá, chiều chồng đến chừng nào!
Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dàng gì, phải đổi bằng biết bao
công sức: "Lặn lội thân khi quãng vắng/Eo sèo mặt nước buổi đò
đông". Câu thơ gợi hình ảnh con trong những câu ca dao quen
thuộc: "Con lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non/ ...
Con đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao". Hình ảnh về một
loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi
sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam suốt đời
chồng, con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình. Trong thơ Xương,
không phải con thân cò. Không còn một con vật cụ thể
thân phận, số phận, một cái rất mỏng manh, nhỏ trước biết bao vần
của cuộc đời. Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi
quãng vắng thì lặn lội; buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ được đối
nhau đầu hai u t vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu hiện. Kia
một người phụ nữ gầy yếu n thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một
mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng cất về rồi, tránh mưa gió thì
mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. kia nữa ng thân ấy lại phải lông
cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên
cho kịp chợ. Chỗ đông người thì mồ hôi, quãng vắng thì trào nước mắt.
Nhưng đó trong con mắt của ông Tú, còn với không hề một lời
kêu ca phàn nàn một thái độ chịu đựng vốn thường của người phụ
nữ phương Đông: "Một duyên hai n âu đành phận/Năm nắng mười mưa
dám quản công". Trong mối quan h vợ chồng, duyên i căn nguyên t
trước, do đó, vợ chồng lấy được nhau hoặc lấy phải nhau. Từ ý nghĩa
vừa nói, dân gian cũng đã làm ra một cặp khái niệm khác nhau: duyên nợ
(Một duyên, hai nợ, ba nh. Chồng anh, vợ tôi, đó cái nghĩa chi
đây. ..) . Như vậy trong dân gian " một duyên hai nợ " ám chỉ sự bất hạnh
của cuộc đời người con gái. Nhưng đây trong thế so sánh với câu dưới.
Một duyên hai nợ trong câu thơ của Xương đã ý nghĩa khác hoàn toàn:
một, hai không phải số đếm nữa mà số tính số nhân: duyên chỉ
một nợ đến cả hai duyên thì ít nợ lại lớn. lấy được ông nghĩ
cho kỹ đó cũng phúc. Ông ng đỗ đạt hơn người bình thường đôi chút.
Chỉ thế thôi. Chứ nếu ông chồng lại làm dở ương, khoán trắng. Tiền
bạc phó cho con mụ làm; nói ông quan ấy ăn lương vợ. .. thì quả một thứ
nợ đời. Duyên thì ít nợ lại lớn như thế. Cái vất vả, cực nhọc của lặn lội
thân câu thơ trên đến đây đã được đẩy lên thành cái vất vả, gian truân
của một số phận định mệnh của cả một kiếp người thì nặng nề cay đắng
biết bao nhiêu. Đã số phận thì phải âu đành. Âu nghĩa khổ đành
cũng phận. Một câu t cả hai lần chịu đựng. cam chịu nên Năm
nắng mười mưa dám quản công vậy. Cho dầu nắng mưa đến mấy (Năm
nắng mười mưa) cũng không một chút ngại ngần chẳng tiếc chi công
sức của mình. Dám quản công chẳng những chỉ tác dụng như đã nêu
còn cho thấy tính gìn giữ. Nổi lên thêm từ hai câu thơ sự hy sinh, chịu
đựng thầm lặng của người hiền phụ. Đây cũng phẩm chất tốt đẹp của
người phụ n Việt Nam từ trước đến nay. Đã thấy tấm lòng thương vợ của thi
nhân thấm thía sâu sắc biết bao.
Sau cùng, hai câu kết của bài thơ một lời chửi rủa: "Cha mẹ thói đời ăn
bạc/ chồng hờ hững cũng như không!" Thác lời của , nhà t đã
chửi rủa chính cái bạc bẽo cái tích sự của người chồng nghĩa của
chính mình. Tất cả nỗi thương vợ cùng với sự bất lực giận mình, giận đời đã
lắng đọng trong tiếng chửi rủa đầy day dứt, xót xa kia. Nhưng thực sự ông
bạc bẽo, hờ hững với vợ mình không? Điều này khó trả lời. Nhưng ngẫm cho
cùng, bài thơ này đã giải đáp phần nào câu hỏi y. Hơn nữa, tự coi mình
cũng như không cũng như một người thừa, một kẻ hờ hững sống đấy
cũng như đã chết thì tuy đó lời rủa mình nhưng cũng lời ca ngợi đề
cao ng ơn của vợ. Tuy một lời chửi rủa nhưng hai câu thơ kết vẫn đượm
thắm màu sắc vui đùa. Nhà t phán xét tự trách mình cũng cách biểu hiện
sự thương cảm sâu xa với vợ. Ông nói ăn bạc nhưng lòng ông không bạc,
không hờ hững với chút nào cả. Như vậy Thương vợ đúng một bài thơ
hay cho ta hình dung được nỗi lòng thương yêu mênh mông chân thành
sâu sắc của n thơ đối với người vợ chịu thương, chịu khó, hi sinh, khó
nhọc, vất vả một ch lặng thầm gánh nặng chồng con. Với một bài thơ trữ
tình giàu hình nh, nhạc điệu, ngôn ngữ tự nhiên, dân dã, nhà thơ không
những đã thể hiện được tình cảm ấy của mình còn tạo nên được một bức
chân dung bất hủ tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam với đầy đủ
các đức tính đáng quý đảm đang, cần , nhẫn nại, hi sinh.
2.2 Phân tích bài thơ "Thương vợ" của Xương (Mẫu số 2)
Xương thi trào phúng bậc thầy của nền văn học Việt Nam. Ngoài
những bài thơ châm biếm sắc nhọn, lấy tiếng cười m phương tiện phê phán
đả kích vào bộ mặt xấu xí, suy đồi của i hội thực n nửa phong kiến
thì ông cũng một số bài thơ cảm động, mang chất bao nỗi niềm của một
nhà nho nghèo nhưng thương vợ tình đời u đậm. "Thương vợ" bài
thơ xúc động nhất trong c tập thơ trào phúng của Xương. một bài
thơ trữ nh, đồng thời cũng một bài thơ thế sự. Bài t chứa chan tình cảm
thương yêu nồng ấm của tác giả đối với người vợ hiền. Những câu thơ đầu
gợi nên nh ảnh bà trong gia đình một người vợ cùng tần tảo, đảm
đang. Nếu vợ của Nguyễn Khuyến một phụ nữ " hay lam hay làm, thắt
lưng buộc que, xắn áo quai cồng, siêng chân nam đá chân chiêu, cùng tớ lo
toan tất cả mọi chuyện " (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì cũng một
người đàn bà:
"Quanh năm buôn bán mom ng
Nuôi đủ năm con với một chồng".
" Quanh năm buôn bán " cảnh làm ăn vất vả, hết ngày này qua ngày khác,
từ tháng này qua tháng khác, không một ngày nghỉ ngơi. "buôn bán
mom ng", trên mỏm đất nhô cao, ba bề bao bọc ng nước, nơi kinh
doanh đất cheo leo. Hai chữ "mom sông" gợi tả một cuộc đời nhiều mưa
nắng, một cảnh đời lắm cay cực, vất vả bươn chải kiếm tiền, mới "nuôi đủ
năm con với một chồng". Một gánh gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ,
người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm đồng tiền,....
chứ ai đếm "con" đếm "chồng". Câu thơ cũng ẩn chứa nỗi niềm chua xót của
một gia cảnh gặp lắm khó khăn: đông con, người chồng đang phải "ăn lương
vợ". thể nói, hai câu thơ trong bài này, Xương khắc hoạ được một
cách chân thực hình ảnh người vợ tảo tần, đảm đang của mình. Phần văn,
đậm nét hơn chân dung Tú, mỗi sáng mỗi tối đã "lặn lội" nơi chốn "thân
khi quãng vắng". Ngôn ngữ thơ tăng cấp càng đậm nét hơn sự nhọc nhằn
của người vợ. Câu chữ như những nét chấm phá, gam màu xen kẽ nhau, bổ
sung gia tăng; đã "lặn lội" nơi "thân ", rồi n "khi quãng vắng". Nỗi nhọc
nhằn tìm quê " mom sông " tưởng như không bao giờ diễn tả hết được!
Hình ảnh "con cò" cái trong ca dao xưa:
" Con lặn lội bờ sông.... ,
Con đi đón n mưa..... ,
Cái cò, cái vạc, cái nông, . . " được tái hiện trong t Xương với hình ảnh
" thân " mộc mạc, đã đem lại cho người xem bao liên tưởng xúc động về
Tú, cũng n số phận nhọc nhằn, vất vả, của người phụ nữ Việt Nam
trong hội cũ:
“Lặn lội thân nơi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
“Eo sèo” từ y tượng thanh chi sự m rầy bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai
đẳng: gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi nơi “mặt nước” lúc “đò
đông”. Một cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối
đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cực. Bát cơm, manh áo
kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng’” phải. “lặn lội” trong mưa
nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời
buổi khó khăn! Tiếp theo hai câu luận, Xương vận dụng rất sáng tạo hai
thành ngữ: “một duyên hai nợ” “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài
hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận ngôn ngữ biểu đạt:
“Một duyên hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa dám quản công.”
“Duyên” duyên số, duyên phận, cái “nợ đời phải cam phận,
chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ
trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai… năm mười… làm nổi đức hi
sinh thầm lặng của Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó sự ấm
no, hạnh phúc của chồng con gia đình. “Âu đành phận”, “dám quản
công” giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh
nhiều éo le. Tóm lại, sáu câu thơ đầu bằng tấm lòng biết ơn cảm phục,
Xương đã phác họa một vài nét rất chân thực cảm động về hình ảnh Tú,
người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo,
chịu thương chịu khó, thầm lăng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Xương
thể hiện một tài năng điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ sáng tạo hình
ảnh. Các từ láy, c số từ, phép đối, thành ngữ hình nh “thân đã
tạo n ấn tượng sức hấp dẫn văn chương.Hai câu kết, Xương sử
dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa
vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình:
“Cha mẹ thói đời ăn bạc,
chồng hờ hững cũng như không!”
Trách mình " ăn lương vợ ", mà " ăn bạc ". Vai trò người chồng, người cha
không giúp ích được , trái lại, họ càng " hờ hững " với gia đình. Lời tự trách
sao chua xót vậy! Ta đã biết, Xương tài năng, nhưng công danh
dang dở, thi cử trắc trở. Sống giữa một hội " dở Tây, dở ta ", công danh
lận đận, lúc ấy " Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co ", cho nên n thơ t
trách mình đồng thời ng trách cuộc đời bạc bẽo. Ông không xu thời để
được " tối rượu bia, sáng sữa ". Hai u kết cả một nỗi niềm tâm tư về
cuộc đời đầy buồn khổ, tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, yêu
nước, thương dân thương gia cảnh nghèo. Xương thương vợ cũng
như thương mình vậy: sự đau đớn bất lực của nhà thơ khi cảnh đời đổi
thay! Bài thơ " Thương vợ " được sáng tác theo thể thơ lục bát. Ngôn ngữ
thơ nh dị như câu chuyện mưu sinh nơi " mom sông " của những người
dân buôn bán nhỏ lẻ, cách đây một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc
vừa thể (bà với " năm con, một chồng ") lại khái quát sâu sắc (người
phụ nữ ngày xưa) . Hình tượng thơ hàm súc vừa gợi cảm: yêu vợ, thương
con, nghĩ về gia cảnh thêm nỗi đau cuộc đời. " Thương vợ " bài thơ trữ
tình nổi tiếng của Xương kể về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với biết
bao đức tính cao đẹp, hình ảnh được nhắc lại trong bài t thật gần gũi
với người mẹ, người ch trong mỗi gia đình Việt Nam. Xương chiếm một
địa vị vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non
Côi, sông Vị.
2.3 Phân tích bài thơ "Thương vợ" của Xương (Mẫu số 3)
Thơ n Việt nam a nay nhiều bài thơ yêu vợ, thương vợ rất xúc
động. Người ta còn truyền tụng một bài thơ của Tự Đức về một phi câu:
"Đập vỡ gương ra tìm thấy
Xếp tàn y lại đ dành hơi".
Nỗi nhớ thương đớn đau, dằn vặt ấy cũng được Bùi Hữu Nghĩa, Nguyến
Thượng Hiền, Nguyến Khuyến thể hiện xúc động trong những hoành phi, câu
đối về vợ sau này. Cảm phục, xót thương, tự hào trước tấm lòng, đức hy sinh
của vợ qua giọng văn vừa chút nh hài hước, lại rất xúc động; giữa sự
pha trộn giữa châm biếm trữ tình Xương đã làm "giàu" thêm chất liệu
sáng tác về Tú kịp đóng góp vào nền văn học Trung đại Việt Nam một
bài thơ thể hiện tình cảm với vợ chân thành sâu lắng. Xương nhà
thơ độc đáo của nền văn học trung đại cuối thế kỉ XIX. Tuy cuộc đời ngắn
ngủi, nhiều gian truân nhưng ông đã đ lại một sự nghiệp thơ ca bất tử. Sáng
tác của ông hai mảng lớn song hành với nhau : trào phúng trữ tình.
mảng thơ trữ tình, ông hẳn một đề tài viết về người vợ của mình với tấm
lòng yêu thương, trân trọng, biết ơn, trong đó bài thơ “Thương vợ”.
Thương vợ bài thơ trữ tình - châm biếm giàu chất dân gian của Xương.
Thơ Xương được sáng tác xuất bản sau khi ông đã qua đời, cho nên
nhan đề bài thơ được chọn lẽ do bạn đọc thấy nội dung của thể hiện
tình cảm với vợ. Tình cảm y trước hết được biểu hiện trong bốn u thơ đầu
với nội dung nhà t tạc dựng hình ảnh một vợ đảm đang, tảo tần chăm
chồng nuôi con:
"Quanh năm buôn bán mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông".
Câu đầu nói về cuộc sống nơi làm việc của Tú. phải lao động vất vả
"quanh năm", suốt bốn mùa không ngừng nghỉ, làm hết ngày này đến ngày
khác, từ năm này qua năm khác, không kể mưa nắng. làm việc vất vả
quanh năm suốt tháng n vậy "mom sông", nơi doi đất nhô cao ven bờ
rất cheo leo, hiểm trở. phải cật lực buôn bán một nơi nguy hiểm như vậy
để đảm bảo cuộc sống gia đình, "nuôi đủ" chồng con. u hai cho thấy
gánh nặng gia đình trên vai Tú. Đặc biệt, cách nói về gánh nặng gia đình
đang đảm nhận rất độc đáo: "năm con với một chồng". Dường như,
ông đang tự đặt mình lên bàn n khi mà bản thân ông "nặng" với năm
đứa con. phải nuôi ông sinh ra năm đứa con khác. Cách nói ấy gợi
nên tiếng cười từ chính bản thân của ông Tú: hoá ra, mình cũng chỉ là một
thứ con cần được nuôi dưỡng. Nhận ra mình là một gánh nặng trên đôi vai
gầy của vợ cho thấy ông rất trân trọng người vợ tảo tần của mình. Hai câu
thơ đầu, với việc miêu tả thời gian, không gian làm việc của cách
đếm con đếm chồng đạo của ông Tú, tác giả đã vẽ nên bức chân dung
tần tảo, cần cù, chăm chỉ cho thấy tấm lòng biết ơn vợ của mình. Hai
câu thơ tiếp theo cấu tạo đặc biệt: đưa ch lên đầu câu sử dụng hai từ
láy gợi hình. Tú phải "lặn lội" sớm hôm, tất tả ngược xuôi "khi quãng vắng".
Công việc khiến Tú phải thức dậy đi làm sớm lúc mọi người vẫn đang say
giấc trở về nhà khi mọi người cũng đã sum họp bên nhau, khi bên ngoài
đường đều những "quãng vắng" phần nguy hiểm với một người phụ nữ.
Câu thơ tiếp theo sử dụng hình tượng ẩn dụ phổ biến của ca dao Việt Nam
"con cò". Trong ca dao, hình ảnh này thường tượng trưng cho tầng lớp nông
dân, đặc biệt những người cực, nghèo đói bệnh tật. Cách sử dụng
hình tượng "con cò" hay "thân " để chỉ vừa cho thấy sự lam lũ, cực
khổ, nhọc nhằn đến tội nghiệp, đáng thương của Tú, vừa cho thấy tình
cảm ông dành cho bà. Chẳng những phải vất vả thức khuya dậy sớm
cũng phải chịu đựng nhiều khó khăn khác của công việc kinh doanh.
Khi chợ đã đông, đã kẻ bán người mua, không tránh khỏi việc chịu
đựng những lời than vãn, phàn nàn "eo sèo". Cả hai câu thơ, với cách sử
dụng phép đối, phép đảo các từ láy gợi hình kết hợp với hình ảnh ẩn dụ
quen thuộc, nhà thơ đã khắc hoạ sự nhọc nhằn, cực khổ của bà Tú, qua đó
gợi nên hình ảnh một người vợ lam lũ, tảo tần gia đình. Qua đó cũng cho
thấy sự thấu hiểu tình thương yêu của ông với người vợ tần tảo.
"Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công".
Hai câu thơ ấy cả hai thành ngữ đều nói về Tú. "Một duyên hai nợ"
thành ngữ cho biết sự bất hạnh của bà: chỉ một i "duyên" may mắn với
ông phải mang thêm "hai nợ", hai gánh nặng chồng con.
Nhưng không bao giờ kêu ca, phàn nàn, không oán trời trách đất lại
vui vẻ chấp nhận như thể đó số mệnh của mình, "âu đành phận". Nỗi khổ
sự hy sinh của không chỉ vậy. phải "năm nắng mười mưa", t
trưa đến tối thì ng "dám quản công", không tiếc công lao, không nề
khó khăn. chịu đựng hy sinh tất cả để lo cho chồng con, không suy
nghĩ cho riêng nhân mình. Hai câu luận trên, với thủ pháp nhân hoá
vận dụng sáng tạo thành ngữ, nhà thơ đã hoàn thành trọn vẹn bức chân dung
thể hiện phẩm chất cao quý của bà Tú: lòng thương yêu gia đình sự hy
sinh lớn lao. hai câu thơ khác, giọng thơ chùng xuống mang âm hưởng
đau đớn, quằn quại như gợi nên một tiếng thở dài cay đắng, chua xót của
một ông chồng cảm thấy mình dụng khi phải nhìn vợ một mình gánh vác
việc gia đình. Điều đó chứng tỏ tấm lòng thương yêu vợ hết mực của
Xương.
Nếu như sáu câu đầu bức chân dung Tú: tần tảo, cần cù, siêng năng,
yêu chồng thương con đầy đức hy sinh, giàu lòng nhân ái được khắc hoạ
với tất cả lòng biết ơn, kính trọng vợ hết mực của ông thì hai u cuối,
ông đã ợn lời cất lên tiếng chửi:
"Cha mẹ tôi ăn bạc
chồng hờ hững cũng như không".
Câu trên, ông sử dụng từ "cha mẹ" nói "thói đời" khiến khổ. "Thói
đời" ấy cái "thói" phổ biến trong hội phong kiến cũ: chồng quan thì chỉ
dạy, học, lều chõng thi cử, còn vợ phải một mình lo toan kinh tế gia đình,
gánh vác giang sơn nhà chồng. Chửi cha mẹ xong chưa đủ, ông quay qua
chửi chính mình "chồng hờ hững", ông chồng trách nhiệm, không
giúp được để vợ bớt vất vả, thậm chí n "ăn bám" vợ. l tự hận mình
quá nên ông đã quá lời gọi mình đ "chồng hờ hững" chứ thực ra, một
người sinh ra, biết trân trọng hết lòng khen ngợi những đức tính tốt đẹp
của vợ, còn tự nhận ra khuyết điểm của mình tự lên án mình gay gắt như
thế thì cũng không phải đến nỗi "hờ hững". một nhà Nho với lòng tự
trọng cao hơn nữa sống trong hội mang nặng tưởng trọng nam
khinh nữ, vậy mà ông lại tỏ ra ng tôn kính người vợ của mình, không
những thế còn t thừa nhận khuyết điểm của mình một cách chân tình, tự
khen bản thân chứng tỏ ông là con người nhân cách đáng quý. hai u
thơ cuối bài với ngôn ngữ thơ dung dị, mộc mạc, sử dụng khẩu ngữ đời
thường, tác gi bộc lộ nỗi đau xót cảnh làm chồng bắt vợ phải nuôi, trở
thành gánh nặng cho vợ; đồng thời cũng thể hiện nhân cách cao đẹp của ông
Tú. Trong văn học trung đại Việt Nam, không thiếu những bài thơ viết về vợ
nhưng ch mỗi Xương nhận ra được nét đẹp m hồn của người vợ ngay
trong cuộc sống đời thường viết về ngay khi còn sống. thể nói
rằng, tuy vất vả, cực khổ nhưng được chồng trân trọng, u thương, ngợi
ca như vậy thì cũng mát lòng mát dạ mà hãnh diện với cuộc đời. Cả
bài thơ, với việc vận dụng sáng tạo ngôn ngữ thi liệu văn hoá dân gian
cùng với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trào phúng trữ tình, Xương đã
gửi đến người đọc một cách nhìn tiến bộ về thân phận người phụ nữ trong
hội cũ.
"Thương vợ" là bài thơ viết cho vợ nổi tiếng xúc động nhất của Xương.
Bài thơ đã vẽ lên bức chân dung bà với nhiều phẩm chất điển hình của
người phụ n Việt Nam: tần tảo, dịu dàng, đảm đang, yêu chồng thương con
giàu đức hy sinh, đầy lòng nhân ái. Qua thơ ng cho thấy tấm lòng
thương yêu kính trọng vợ hết mực cùng nhân ch cao đẹp của Xương.
Đọc hết bài thơ, không ai lại không mến mộ xúc động với tình cảm
chân thật ông dành cho vợ. chắc rằng, vợ nào cũng sẵn sàng
chấp nhận vất vả cực nhọc vẫn sống vui vẻ nếu được ông chồng biết
thương yêu, quý trọng vợ như ông Tú. Cách nhìn về số phận người phụ n
khiến người đọc nhìn vào, suy ngẫm về người vợ, người mẹ của mình
cảm thấy yêu quý, kính trọng, biết ơn hơn.

Preview text:

Phân tích bài thơ Thương vợ của Tú Xương chọn lọc hay nhất
1. Dàn ý phân tích bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương: 1.1. Mở bài:

Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Trần Tế Xương, hay còn gọi là Tú Xương hay
Tú Mỡ, là một trong những nhà thơ có cách viết trào phúng, hài hước. 
Giới thiệu về bài thơ "Thương vợ". 1.2. Thân bài: Hình ảnh bà Tú:
Hai câu thực gợi tả cụ thể hơn cuộc sống tảo tần gắn với việc buôn bán
ngược xuôi của bà Tú: “Quanh năm buôn bán ở mom sông/Nuôi đủ năm con với một chồng”  Công việc: buôn bán 
Thời gian: quanh năm => từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua
tháng khác, không có một ngày được nghỉ ngơi. 
Địa điểm: mom sông (phần đất ở bờ sông nhô ra phía lòng sông, nơi
người làng chài thường hay tụ tập mua bán) => hai chữ “mom sông” gợi tả
một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cuộc đời lắm cơ cực, phải vật lộn để kiếm sống. 
“Nuôi đủ năm con với một chồng”: Gánh nặng gia đình đang đè nặng lên
đôi vai người mẹ, người vợ. Cách đếm con, chồng => ẩn chứa nỗi niềm
chua chát về một gia đình gặp nhiều khó khăn: đông con, còn người chồng
đang phải “ăn lương vợ”. 
Hai câu đề: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng/Eo sèo mặt nước buổi đò đông” 
Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tế Xương đã mượn hình ảnh con cò
trong ca dao để nói về bà Tú: thân cò lầm lũi gợi liên tưởng về thân phận
vất vả, cực khổ, của bà Tú cũng như những người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ. 
Ba từ "khi quãng vắng" đã nói lên không gian heo hút, vắng lặng chứa đầy những lo âu, nguy hiểm. 
Câu thơ dùng phép đảo ngữ (đưa từ "lặn lội" lên đầu câu) và dùng từ "thân
cò" thay cho từ "con cò" càng làm tăng thêm nỗi vất vả gian truân của bà
Tú. Không những thế, từ "thân cò" còn gợi nỗi ngậm ngùi về thân phận
nữa. Lời thơ, vì thế, mà cũng sâu sắc hơn, thấm thìa hơn. 
Câu thứ tư làm rõ sự vật lộn với cuộc sống đầy gian nan của bà Tú: “Eo
sèo mặt nước buổi đò đông.” 
Eo sèo: là từ láy tượng thanh ý chỉ sự kì kèo, kêu ca phàn nàn một cách
khó chịu => gợi tả cảnh tranh bán, cãi vã nơi “mặt nước”. Câu thơ gợi tả
cảnh chen chúc, bươn trải trên sông nước của những người làm nghề buôn bán nhỏ. 
“Buổi đò đông” hàm chứa không phải ít những lo âu, nguy hiểm "khi quãng vắng". 
Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát
cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được để “nuôi đủ năm con với một chồng”
phải lặn lội trong nắng mưa, phải giành giật, phải trả giá bằng mồ hôi,
nước mắt trong thời buổi khó khăn. 
Hai câu luận: “Một duyên hai nợ, âu đành phận/Năm nắng, mười mưa dám quản công.” 
Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và
“năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà
trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt: 
“Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. 
“Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. 
Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai… năm… mười… làm
nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương,
chịu khó vì sự ấm no, hạnh phúc của chồng con và gia đình. 
“Âu đành phận”, … “dám quản công” … giọng thơ nhiều xót xa, thương
cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le.
=> Tóm lại, 6 câu thơ đầu bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã
phác họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ
hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu
thương chịu khó, thầm lăng hi sinh cho hạnh phúc gia đình.
Nỗi lòng của tác giả:
Hình ảnh Ông Tú hiện lên thông qua cách ông tái hiện hình ảnh của vợ: 
Trước hết ông là một người biết yêu thương, quý trọng và biết tri ân vợ. 
Tình cảm yêu thương của ông Tú được thể hiện gián tiếp qua việc khắc
họa hình ảnh bà Tú, đồng thời thể hiện trực tiếp thông qua lời khen, lời ghi
nhận công lao của ông Tú đối vợ “Nuôi đủ năm con với một chồng” theo lối
nói hài hước, tếu táo và có chút tự trào. 
Tú Xương cũng hiện lên là một người có nhân cách thông qua những lời
tự trách “một duyên hai nợ”, ông tự nhận mình là cái “nợ” mà bà Tú phải
gánh chịu, phải trả ở kiếp này. 
Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom
sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị: “Cha mẹ thói đời
ăn ở bạc/ Có chồng hờ hững cũng như không.” Ý nghĩa của lời chửi là tác
giả thầm trách bản thân mình một cách thẳng thắn, nhận ra sự vô dụng của
bản thân mình. Nhưng đó lại là một lẽ thường tình trong xã hội phong kiến
trọng nam khinh nữ. Tú Xương dám thừa nhận mình là “quan ăn lương vợ”,
dám tự nhận khuyết điểm của mình. Từ đó cho thấy ông là một người có nhân cách đẹp.
=> Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng
nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương
gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương mình vậy: nỗi
đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi. 1.3. Kết bài:
Khái quát lại nội dung và nghệ thuật. 
Cảm nhận chung về giá trị của bài thơ.
2. Một số mẫu phân tích bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương hay nhất
2.1 Phân tích bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương (Mẫu số 1)
Nói về thơ trào phúng không ai có thể bỏ qua Tú Xương, một giọng thơ châm
biếm, đả kích sắc bén, quyết liệt và dữ dội hiếm có. Chế Lan Viên từng viết: "
Tú Xương nhìn như mảnh vỡ thuỷ tinh ". Nhưng Trần Tế Xương đâu là một
nhà thơ hiện thực chủ nghĩa điển hình, giống như Nguyễn Tuân, chất hiện
thực ấy chính là " chân trái ", mà " chân phải " của ông là chất lãng mạn. Trân
trọng khâm phục và nhớ về thơ Tú Xương nhiều hơn có lẽ vì người đời được
lắng nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, đầy tình cảm, biết trọng nhân
cách, với một nỗi đau thăm thẳm không nguôi. Buồn vì không có điều kiện để
giúp đỡ một người nghèo, một đồng bào cùng cảnh ngộ, ông thề độc: " Cha
thằng nào có tiền không cho ". Mang nỗi đau tột cùng của một tri thức, ông
chua chát: " Nhân tài đất Bắc kìa ai đó! /Ngoảnh mặt mà nhìn cảnh này ". Đó
là ngoài đời, còn trong nhà ông luôn bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm,
Tú Xương " thương vợ ", có chồng vẫn phải đóng vai phụ, ông tự nhận cái sự " hờ hững " của mình.
Chắc rằng các cụ ông ngày xưa phần lớn là thương vợ thương con, nhưng vì
một quan niệm nào đấy, thường ngại bộc lộ tình cảm của người chồng, nhất
là lại thể hiện tình cảm với người vợ một cách trực tiếp qua giấy trắng mực
đen, qua văn chương thì lại càng ít. Thế kỉ XIX, có hai nhà thơ cùng người
thành Nam, Nguyễn Khuyến và Tú Xương, đã không ngần ngại nói lên tình
thương yêu của người chồng đối với vợ ngay khi các bà còn đang sống.
Nhưng về chủ đề này, Thương vợ cua Tú Xương là bài thơ nổi tiếng hơn cả:
"Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không".
Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo giàu
đức hy sinh và một người chồng luôn biết chia sẻ, yêu thương và trân trọng
vợ rất mực. Hai câu thơ đầu giới thiệu về công việc của bà Tú cũng như trách
nhiệm nặng nề của bà: "Quanh năm buôn bán ở mom sông/Nuôi đủ năm con
với một chồng". Buôn bán cũng là một nghề như bao nghề khác, người phụ
nữ làm để kiếm tiền. Người xưa cũng coi đây là nghề độc nhất nếu muốn
giàu có (phi thương bất phú) . Nhưng việc kinh doanh của bà Tú lại không
được như thế. Chẳng có nhà hàng, cửa hiệu, khách sạn gì, mà chỗ bà "buôn
bán" là ở "mom sông". Hai chữ "mom sông" đã gợi nên hình ảnh một khoảnh
đất nhô ra ở ven bờ, khi nước cạn thì được, nước dâng sẽ tan, có thuyền qua
lại thì thành chợ không ngủ, cũng có thể chợ nhóm họp một lát vào buổi sáng
hay buổi xế chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người bán rong,
vốn liếng nhỏ nhoi, bấp bênh, tất nhiên thu nhập chẳng đáng là bao. Thế mà
công việc khó nhọc ấy, bà Tú không thể chịu đựng một hai ngày mà cứ làm
"quanh năm". Chữ "quanh năm" gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ
tháng giêng đến tết, cũng có nghĩa là hết năm này sang năm nọ. Cái công
việc vất vả ấy dường như theo đuổi bà Tú suốt cả cuộc đời, nhưng nó chẳng
thể giúp gia đình bà khấm khá hẳn lên để có việc khác nhàn hạ hơn hay phát
triển nghề "buôn bán" ở một cấp độ cao hơn. Công việc thì nhọc nhằn, thu
nhập thì thấp, nhưng bà Tú vẫn có thể lo toan được cả một gia đình sáu
miệng ăn. Hơn nữa, không phải là sáu mà lại là "năm con với một chồng",
"Năm con" là ít, nhưng dẫu sao cũng chấp nhận được, lo lắng cho chúng khi
thiếu miếng ăn, manh áo. Nhưng ông chồng, là "một", tất nhiên là chi phí cho
cả năm đứa con kia. Có khi còn hơn thế nhiều! Mỗi khi ông phải đi xa là tiền
lưng gạo bị lại đổ lên vai vợ, chưa kể những khi đồng chè đồng rượu,.. ..
Nhiều khoản chi tiêu như vậy nhưng lúc nào bà cũng lo "đủ ". Thật là đảm
đang tháo vát quá, chiều chồng đến chừng nào!
Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dàng gì, bà Tú phải đổi bằng biết bao
công sức: "Lặn lội thân cò khi quãng vắng/Eo sèo mặt nước buổi đò
đông".
Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao quen
thuộc: "Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non/ ...
Con cò mà đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao"
. Hình ảnh về một
loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi
sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì
chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình. Trong thơ Tú Xương,
không phải là con cò mà là thân cò. Không còn là một con vật cụ thể mà là
thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ
của cuộc đời. Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi
quãng vắng thì lặn lội; buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ được đối
nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu hiện. Kia
một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một
mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng cất về rồi, tránh mưa gió thì
mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Và kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù
cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên
cho kịp chợ. Chỗ đông người thì vã mồ hôi, quãng vắng thì trào nước mắt.
Nhưng đó là bà Tú trong con mắt của ông Tú, còn với bà không hề có một lời
kêu ca phàn nàn mà là một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ
nữ phương Đông: "Một duyên hai nợ âu đành phận/Năm nắng mười mưa
dám quản công".
Trong mối quan hệ vợ chồng, duyên là cái căn nguyên từ
trước, do đó, mà vợ chồng lấy được nhau hoặc lấy phải nhau. Từ ý nghĩa
vừa nói, dân gian cũng đã làm ra một cặp khái niệm khác nhau: duyên và nợ
(Một duyên, hai nợ, ba tình. Chồng gì anh, vợ gì tôi, đó là cái nghĩa chi
đây. ..) . Như vậy trong dân gian " một duyên hai nợ " là ám chỉ sự bất hạnh
của cuộc đời người con gái. Nhưng ở đây trong thế so sánh với câu dưới.
Một duyên hai nợ trong câu thơ của Tú Xương đã có ý nghĩa khác hoàn toàn:
một, hai không phải là số đếm nữa mà là số tính và số nhân: duyên chỉ có
một mà nợ đến cả hai duyên thì ít mà nợ lại lớn. Bà Tú lấy được ông Tú nghĩ
cho kỹ đó cũng là phúc. Ông cũng đỗ đạt hơn người bình thường đôi chút.
Chỉ có thế thôi. Chứ nếu ông là chồng mà lại làm dở ương, khoán trắng. Tiền
bạc phó cho con mụ làm; nói ông quan ấy ăn lương vợ. .. thì quả là một thứ
nợ đời. Duyên thì ít mà nợ lại lớn là như thế. Cái vất vả, cực nhọc của lặn lội
thân cò ở câu thơ trên đến đây đã được đẩy lên thành cái vất vả, gian truân
của một số phận là định mệnh của cả một kiếp người thì nặng nề và cay đắng
biết bao nhiêu. Đã là số phận thì phải âu đành. Âu có nghĩa là khổ mà đành
cũng là phận. Một câu thơ mà cả hai lần chịu đựng. Vì cam chịu nên Năm
nắng mười mưa dám quản công là vậy. Cho dầu nắng mưa đến mấy (Năm
nắng mười mưa) bà cũng không một chút ngại ngần và chẳng tiếc chi công
sức của mình. Dám quản công là chẳng những chỉ có tác dụng như đã nêu
mà còn cho thấy tính gìn giữ. Nổi lên thêm từ hai câu thơ là sự hy sinh, chịu
đựng thầm lặng của người hiền phụ. Đây cũng là phẩm chất tốt đẹp của
người phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay. Đã thấy tấm lòng thương vợ của thi
nhân là thấm thía và sâu sắc biết bao.
Sau cùng, hai câu kết của bài thơ là một lời chửi rủa: "Cha mẹ thói đời ăn ở
bạc/ Có chồng hờ hững cũng như không!"
Thác lời của bà Tú, nhà thơ đã
chửi rủa chính cái bạc bẽo và cái vô tích sự của người chồng nghĩa là của
chính mình. Tất cả nỗi thương vợ cùng với sự bất lực giận mình, giận đời đã
lắng đọng trong tiếng chửi rủa đầy day dứt, xót xa kia. Nhưng thực sự ông có
bạc bẽo, hờ hững với vợ mình không? Điều này khó trả lời. Nhưng ngẫm cho
cùng, bài thơ này đã giải đáp phần nào câu hỏi ấy. Hơn nữa, tự coi mình
cũng như không cũng như một người thừa, một kẻ hờ hững sống đấy mà
cũng như đã chết thì tuy đó là lời rủa mình nhưng cũng là lời ca ngợi và đề
cao công ơn của vợ. Tuy là một lời chửi rủa nhưng hai câu thơ kết vẫn đượm
thắm màu sắc vui đùa. Nhà thơ phán xét tự trách mình cũng là cách biểu hiện
sự thương cảm sâu xa với vợ. Ông nói ăn ở bạc nhưng lòng ông không bạc,
không hờ hững với bà chút nào cả. Như vậy Thương vợ đúng là một bài thơ
hay cho ta hình dung được nỗi lòng thương yêu mênh mông chân thành và
sâu sắc của nhà thơ đối với người vợ chịu thương, chịu khó, hi sinh, khó
nhọc, vất vả một cách lặng thầm vì gánh nặng chồng con. Với một bài thơ trữ
tình giàu hình ảnh, nhạc điệu, ngôn ngữ tự nhiên, dân dã, nhà thơ không
những đã thể hiện được tình cảm ấy của mình mà còn tạo nên được một bức
chân dung bất hủ có tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam với đầy đủ
các đức tính đáng quý là đảm đang, cần cù, nhẫn nại, hi sinh.
2.2 Phân tích bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương (Mẫu số 2)
Tú Xương là thi sĩ trào phúng bậc thầy của nền văn học Việt Nam. Ngoài
những bài thơ châm biếm sắc nhọn, lấy tiếng cười làm phương tiện phê phán
và đả kích vào bộ mặt xấu xí, suy đồi của cái xã hội thực dân nửa phong kiến
thì ông cũng có một số bài thơ cảm động, mang chất bao nỗi niềm của một
nhà nho nghèo nhưng thương vợ và tình đời sâu đậm. "Thương vợ" là bài
thơ xúc động nhất trong các tập thơ trào phúng của Tú Xương. Nó là một bài
thơ trữ tình, đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình cảm
thương yêu nồng ấm của tác giả đối với người vợ hiền. Những câu thơ đầu
gợi nên hình ảnh bà Tú trong gia đình là một người vợ vô cùng tần tảo, đảm
đang. Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ " hay lam hay làm, thắt
lưng buộc que, xắn áo quai cồng, siêng chân nam đá chân chiêu, cùng tớ lo
toan tất cả mọi chuyện " (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú cũng là một người đàn bà:
"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng".
" Quanh năm buôn bán " là cảnh làm ăn vất vả, hết ngày này qua ngày khác,
từ tháng này qua tháng khác, không có một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú "buôn bán
ở mom sông", trên mỏm đất nhô cao, ba bề bao bọc sông nước, nơi kinh
doanh là gò đất cheo leo. Hai chữ "mom sông" gợi tả một cuộc đời nhiều mưa
nắng, một cảnh đời lắm cay cực, vất vả bươn chải kiếm tiền, mới "nuôi đủ
năm con với một chồng". Một gánh gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ,
người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm đồng tiền,.. .
chứ ai đếm "con" đếm "chồng". Câu thơ cũng ẩn chứa nỗi niềm chua xót của
một gia cảnh gặp lắm khó khăn: đông con, người chồng đang phải "ăn lương
vợ". Có thể nói, hai câu thơ trong bài này, Tú Xương khắc hoạ được một
cách chân thực hình ảnh người vợ tảo tần, đảm đang của mình. Phần văn, tô
đậm nét hơn chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đã "lặn lội" nơi chốn "thân cò
khi quãng vắng". Ngôn ngữ thơ tăng cấp càng tô đậm nét hơn sự nhọc nhằn
của người vợ. Câu chữ như những nét chấm phá, gam màu xen kẽ nhau, bổ
sung và gia tăng; đã "lặn lội" nơi "thân cò", rồi còn "khi quãng vắng". Nỗi nhọc
nhằn tìm quê ở " mom sông " tưởng như không bao giờ diễn tả hết được!
Hình ảnh "con cò" cái cò trong ca dao xưa:
" Con cò lặn lội bờ sông.... ,
Con cò đi đón cơn mưa... . ,
Cái cò, cái vạc, cái nông, . . " được tái hiện trong thơ Tú Xương với hình ảnh
" thân cò " mộc mạc, đã đem lại cho người xem bao liên tưởng xúc động về
bà Tú, cũng như số phận nhọc nhằn, vất vả, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:
“Lặn lội thân cò nơi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
“Eo sèo” là từ láy tượng thanh chi sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai
đẳng: gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò
đông”. Một cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối
đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà
Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng’” phải. “lặn lội” trong mưa
nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời
buổi khó khăn! Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai
thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài
hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:
“Một duyên hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa dám quản công.”
“Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận,
chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ
trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai… năm… mười… làm nổi rõ đức hi
sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì sự ấm
no, hạnh phúc của chồng con và gia đình. “Âu đành phận”, … “dám quản
công” … giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh
nhiều éo le. Tóm lại, sáu câu thơ đầu bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú
Xương đã phác họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú,
người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo,
chịu thương chịu khó, thầm lăng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương
thể hiện một tài năng điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình
ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, thành ngữ và hình ảnh “thân cò” … đã
tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn văn chương.Hai câu kết, Tú Xương sử
dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa
vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Trách mình " ăn lương vợ ", mà " ăn ở bạc ". Vai trò người chồng, người cha
không giúp ích được gì, trái lại, họ càng " hờ hững " với gia đình. Lời tự trách
sao mà chua xót vậy! Ta đã biết, Tú Xương có tài năng, nhưng công danh
dang dở, thi cử trắc trở. Sống giữa một xã hội " dở Tây, dở ta ", công danh
lận đận, lúc ấy " Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co ", cho nên nhà thơ tự
trách mình đồng thời cũng là trách cuộc đời bạc bẽo. Ông không xu thời để
được " tối rượu bia, sáng sữa bò ". Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm tư về
cuộc đời đầy buồn khổ, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, yêu
nước, thương dân và thương gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng
như là thương mình vậy: sự đau đớn bất lực của nhà thơ khi cảnh đời đổi
thay! Bài thơ " Thương vợ " được sáng tác theo thể thơ lục bát. Ngôn ngữ
thơ bình dị như là câu chuyện mưu sinh nơi " mom sông " của những người
dân buôn bán nhỏ lẻ, cách đây một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc
vừa cá thể (bà Tú với " năm con, một chồng ") lại khái quát sâu sắc (người
phụ nữ ngày xưa) . Hình tượng thơ hàm súc vừa gợi cảm: yêu vợ, thương
con, nghĩ về gia cảnh thêm nỗi đau cuộc đời. " Thương vợ ’ " là bài thơ trữ
tình nổi tiếng của Tú Xương kể về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với biết
bao đức tính cao đẹp, hình ảnh bà Tú được nhắc lại trong bài thơ thật gần gũi
với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam. Tú Xương chiếm một
địa vị vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị.
2.3 Phân tích bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương (Mẫu số 3)
Thơ văn Việt nam xưa và nay có nhiều bài thơ yêu vợ, thương vợ rất xúc
động. Người ta còn truyền tụng một bài thơ của Tự Đức về một bà phi có câu:
"Đập vỡ gương ra tìm thấy
Xếp tàn y lại để dành hơi".
Nỗi nhớ thương đớn đau, dằn vặt ấy cũng được Bùi Hữu Nghĩa, Nguyến
Thượng Hiền, Nguyến Khuyến thể hiện xúc động trong những hoành phi, câu
đối về vợ sau này. Cảm phục, xót thương, tự hào trước tấm lòng, đức hy sinh
của vợ qua giọng văn vừa có chút tính hài hước, lại rất xúc động; giữa sự
pha trộn giữa châm biếm và trữ tình Tú Xương đã làm "giàu" thêm chất liệu
sáng tác về bà Tú và kịp đóng góp vào nền văn học Trung đại Việt Nam một
bài thơ thể hiện tình cảm với vợ chân thành và sâu lắng. Tú Xương là nhà
thơ độc đáo của nền văn học trung đại cuối thế kỉ XIX. Tuy cuộc đời ngắn
ngủi, nhiều gian truân nhưng ông đã để lại một sự nghiệp thơ ca bất tử. Sáng
tác của ông có hai mảng lớn song hành với nhau : trào phúng và trữ tình. Ở
mảng thơ trữ tình, ông có hẳn một đề tài viết về người vợ của mình với tấm
lòng yêu thương, trân trọng, biết ơn, trong đó có bài thơ “Thương vợ”.
Thương vợ là bài thơ trữ tình - châm biếm giàu chất dân gian của Tú Xương.
Thơ Tú Xương được sáng tác và xuất bản sau khi ông đã qua đời, cho nên
nhan đề bài thơ được chọn có lẽ là do bạn đọc thấy nội dung của nó thể hiện
tình cảm với vợ. Tình cảm ấy trước hết được biểu hiện trong bốn câu thơ đầu
với nội dung nhà thơ tạc dựng hình ảnh một bà vợ đảm đang, tảo tần chăm chồng nuôi con:
"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông".
Câu đầu nói về cuộc sống và nơi làm việc của bà Tú. Bà phải lao động vất vả
"quanh năm", suốt bốn mùa không ngừng nghỉ, làm hết ngày này đến ngày
khác, từ năm này qua năm khác, không kể mưa nắng. Bà làm việc vất vả
quanh năm suốt tháng như vậy ở "mom sông", nơi có doi đất nhô cao ven bờ
rất cheo leo, hiểm trở. Bà phải cật lực buôn bán ở một nơi nguy hiểm như vậy
để đảm bảo cuộc sống gia đình, "nuôi đủ" chồng và con. Câu hai cho thấy
gánh nặng gia đình trên vai bà Tú. Đặc biệt, cách nói về gánh nặng gia đình
mà bà Tú đang đảm nhận rất độc đáo: "năm con với một chồng". Dường như,
ông Tú đang tự đặt mình lên bàn cân khi mà bản thân ông "nặng" với năm
đứa con. Bà Tú phải nuôi ông và sinh ra năm đứa con khác. Cách nói ấy gợi
nên tiếng cười từ chính bản thân của ông Tú: hoá ra, mình cũng chỉ là một
thứ con cần được nuôi dưỡng. Nhận ra mình là một gánh nặng trên đôi vai
gầy của vợ cho thấy ông Tú rất trân trọng người vợ tảo tần của mình. Hai câu
thơ đầu, với việc miêu tả thời gian, không gian làm việc của bà Tú và cách
đếm con đếm chồng bá đạo của ông Tú, tác giả đã vẽ nên bức chân dung bà
Tú tần tảo, cần cù, chăm chỉ và cho thấy tấm lòng biết ơn vợ của mình. Hai
câu thơ tiếp theo có cấu tạo đặc biệt: đưa chữ lên đầu câu và sử dụng hai từ
láy gợi hình. Bà Tú phải "lặn lội" sớm hôm, tất tả ngược xuôi "khi quãng vắng".
Công việc khiến bà Tú phải thức dậy đi làm sớm lúc mọi người vẫn đang say
giấc và trở về nhà khi mọi người cũng đã sum họp bên nhau, khi bên ngoài
đường đều là những "quãng vắng" có phần nguy hiểm với một người phụ nữ.
Câu thơ tiếp theo sử dụng hình tượng ẩn dụ phổ biến của ca dao Việt Nam là
"con cò". Trong ca dao, hình ảnh này thường tượng trưng cho tầng lớp nông
dân, đặc biệt là những người cơ cực, nghèo đói và bệnh tật. Cách sử dụng
hình tượng "con cò" hay "thân cò" để chỉ bà Tú vừa cho thấy sự lam lũ, cực
khổ, nhọc nhằn đến tội nghiệp, đáng thương của bà Tú, vừa cho thấy tình
cảm mà ông Tú dành cho bà. Chẳng những phải vất vả thức khuya dậy sớm
mà bà Tú cũng phải chịu đựng nhiều khó khăn khác của công việc kinh doanh.
Khi chợ đã đông, đã có kẻ bán người mua, bà không tránh khỏi việc chịu
đựng những lời than vãn, phàn nàn "eo sèo". Cả hai câu thơ, với cách sử
dụng phép đối, phép đảo và các từ láy gợi hình kết hợp với hình ảnh ẩn dụ
quen thuộc, nhà thơ đã khắc hoạ sự nhọc nhằn, cực khổ của bà Tú, qua đó
gợi nên hình ảnh một người vợ lam lũ, tảo tần vì gia đình. Qua đó cũng cho
thấy sự thấu hiểu và tình thương yêu của ông Tú với người vợ tần tảo.
"Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công".
Hai câu thơ ấy có cả hai thành ngữ đều nói về bà Tú. "Một duyên hai nợ" là
thành ngữ cho biết sự bất hạnh của bà: chỉ có một cái "duyên" may mắn với
ông Tú mà bà phải mang thêm "hai nợ", hai gánh nặng là chồng và con.
Nhưng bà không bao giờ kêu ca, phàn nàn, không oán trời trách đất mà lại
vui vẻ chấp nhận như thể đó là số mệnh của mình, "âu đành phận". Nỗi khổ
và sự hy sinh của bà Tú không chỉ có vậy. Dù phải "năm nắng mười mưa", từ
trưa đến tối thì bà cũng "dám quản công", bà không tiếc công lao, không nề
hà khó khăn. Bà chịu đựng hy sinh tất cả để lo cho chồng con, bà không suy
nghĩ gì cho riêng cá nhân mình. Hai câu luận trên, với thủ pháp nhân hoá và
vận dụng sáng tạo thành ngữ, nhà thơ đã hoàn thành trọn vẹn bức chân dung
thể hiện phẩm chất cao quý của bà Tú: lòng thương yêu gia đình và sự hy
sinh lớn lao. Ở hai câu thơ khác, giọng thơ chùng xuống mang âm hưởng
đau đớn, quằn quại như gợi nên một tiếng thở dài cay đắng, chua xót của
một ông chồng cảm thấy mình vô dụng khi phải nhìn vợ một mình gánh vác
việc gia đình. Điều đó chứng tỏ tấm lòng thương yêu vợ hết mực của Tú Xương.
Nếu như sáu câu đầu là bức chân dung bà Tú: tần tảo, cần cù, siêng năng,
yêu chồng thương con và đầy đức hy sinh, giàu lòng nhân ái được khắc hoạ
với tất cả lòng biết ơn, kính trọng vợ hết mực của ông Tú thì ở hai câu cuối,
ông đã mượn lời bà Tú mà cất lên tiếng chửi:
"Cha mẹ tôi ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không".
Câu trên, ông sử dụng từ "cha mẹ" mà nói "thói đời" khiến bà Tú khổ. "Thói
đời" ấy là cái "thói" phổ biến trong xã hội phong kiến cũ: chồng là quan thì chỉ
có dạy, học, lều chõng thi cử, còn vợ phải một mình lo toan kinh tế gia đình,
gánh vác giang sơn nhà chồng. Chửi cha mẹ xong chưa đủ, ông quay qua
chửi chính mình là "chồng hờ hững", là ông chồng vô trách nhiệm, không
giúp gì được để vợ bớt vất vả, thậm chí còn "ăn bám" vợ. có lẽ tự hận mình
quá nên ông Tú đã quá lời gọi mình là đồ "chồng hờ hững" chứ thực ra, một
người sinh ra, biết trân trọng và hết lòng khen ngợi những đức tính tốt đẹp
của vợ, còn tự nhận ra khuyết điểm của mình mà tự lên án mình gay gắt như
thế thì cũng không phải đến nỗi là "hờ hững". Là một nhà Nho với lòng tự
trọng cao và hơn nữa là sống trong xã hội mang nặng tư tưởng trọng nam
khinh nữ, vậy mà ông lại tỏ ra vô cùng tôn kính người vợ của mình, không
những thế còn tự thừa nhận khuyết điểm của mình một cách chân tình, tự
khen bản thân chứng tỏ ông Tú là con người có nhân cách đáng quý. hai câu
thơ cuối bài với ngôn ngữ thơ dung dị, mộc mạc, sử dụng khẩu ngữ đời
thường, tác giả bộc lộ nỗi đau xót vì cảnh làm chồng mà bắt vợ phải nuôi, trở
thành gánh nặng cho vợ; đồng thời cũng thể hiện nhân cách cao đẹp của ông
Tú. Trong văn học trung đại Việt Nam, không thiếu những bài thơ viết về vợ
nhưng chỉ mỗi Tú Xương nhận ra được nét đẹp tâm hồn của người vợ ngay
trong cuộc sống đời thường và viết về bà ngay khi bà còn sống. có thể nói
rằng, tuy có vất vả, cực khổ nhưng được chồng trân trọng, yêu thương, ngợi
ca như vậy thì bà Tú cũng mát lòng mát dạ mà hãnh diện với cuộc đời. Cả
bài thơ, với việc vận dụng sáng tạo ngôn ngữ và thi liệu văn hoá dân gian
cùng với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trào phúng và trữ tình, Tú Xương đã
gửi đến người đọc một cách nhìn tiến bộ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ.
"Thương vợ" là bài thơ viết cho vợ nổi tiếng và xúc động nhất của Tú Xương.
Bài thơ đã vẽ lên bức chân dung bà Tú với nhiều phẩm chất điển hình của
người phụ nữ Việt Nam: tần tảo, dịu dàng, đảm đang, yêu chồng thương con
và giàu đức hy sinh, đầy lòng nhân ái. Qua thơ cũng cho thấy tấm lòng
thương yêu và kính trọng vợ hết mực cùng nhân cách cao đẹp của Tú Xương.
Đọc hết bài thơ, không ai lại không mến mộ bà Tú và xúc động với tình cảm
chân thật mà ông Tú dành cho vợ. Và chắc rằng, bà vợ nào cũng sẵn sàng
chấp nhận vất vả cực nhọc mà vẫn sống vui vẻ nếu có được ông chồng biết
thương yêu, quý trọng vợ như ông Tú. Cách nhìn về số phận người phụ nữ
khiến người đọc nhìn vào, suy ngẫm về người vợ, người mẹ của mình và
cảm thấy yêu quý, kính trọng, biết ơn hơn.
Document Outline

  • Phân tích bài thơ Thương vợ của Tú Xương chọn lọc
    • 1. Dàn ý phân tích bài thơ "Thương vợ" của Tú Xươn
      • 1.1. Mở bài:
      • 1.2. Thân bài:
      • 1.3. Kết bài:
    • 2. Một số mẫu phân tích bài thơ "Thương vợ" của Tú
      • 2.1 Phân tích bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương (Mẫ
      • 2.2 Phân tích bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương (Mẫ
      • 2.3 Phân tích bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương (Mẫ