Phân tích bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận hay nhất | Ngữ văn 11

Huy Cận, tên khai sinh là Cù Huy Cận, sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919, trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu (thượng nguồn sông La) ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn sau đó thuộc huyện Đức Thọ (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 11 322 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 11 1.2 K tài liệu

Thông tin:
6 trang 5 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận hay nhất | Ngữ văn 11

Huy Cận, tên khai sinh là Cù Huy Cận, sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919, trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu (thượng nguồn sông La) ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn sau đó thuộc huyện Đức Thọ (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

157 79 lượt tải Tải xuống
Phân tích bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận hay nhất
1. Tác giả, tác phẩm
1.1. Tác giả
Huy Cận, tên khai sinh là Cù Huy Cận, sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919, trong một gia đình nhà nho nghèo
gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu (thượng nguồn sông La) ở làng Ân Phú,
huyện Hương Sơn sau đó thuộc huyện Đức Thọ (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Ông
là một chính khách, từng giữ nhiều chức vụ lãnh đạo cao cấp trong chính phủ Việt Nam như Bộ trưởng Bộ
Canh nông (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Thứ trưởng Bộ Văn hóa Nghệ thuật, Bộ trưởng
Bộ Văn hóa Giáo dục, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ Kinh tế, Bộ trưởng Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ), ngoài ra ông còn là một nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng
Dân chủ Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời cũng là một trong những thi sĩ xuất sắc
nhất của phong trào Thơ mới. Ông từng là Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới và Chủ tịch Ủy ban Liên hiệp
các Hiệp hội Văn học Việt Nam giai đoạn 1984 - 1995.
Mỗi bài thơ của Huy Cận đều mang một phong cách đặc biệt và có một điểm chung là hàm súc, triết lý. Ông
là một đại biểu xuất sắc cho phong trào Thơ mới với hồn thơ ảo não. Huy Cận là một người yêu thích thơ ca
Việt Nam, thơ Đường và chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp. Có thể chia sự nghiệp sáng tác của ông
thành hai giai đoạn chính:
Giai đoạn đầu là giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám mang nét sầu não, buồn thương. Huy Cận có thơ
đăng báo từ 1936, cho in tập thơ đầu Lửa thiêng năm 1940 (gồm những bài đã đăng báo, khoảng 1936 -
1940) và trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ mới lúc bấy giờ. Bao trùm Lửa
Thiêng là một nỗi buồn mênh mang da diết. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng
thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình nhưng xét đến cùng, chủ yếu là buồn thương về
cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ "ảo não", bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và
mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời. Trong Kinh cầu tự (1942, văn xuôi triết lý) và Vũ trụ ca (thơ
đăng báo 1940-1942), Huy Cận đã tìm đến ca ngợi niềm vui, sự sống trong vũ trụ vô biên song vẫn chưa
thoát khỏi bế tắc.
Giai đoạn thứ sai, sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ Huy Cận mang nét tươi vui hơn. Trong giai đoạn
này, các sáng tác của ông hướng tới cuộc sống lao động, chiến đấu của quân và dân ta, mang hy vọng và
những niềm vui mới. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông trong thời kì này có thể kể đến như: Trời mỗi ngày
lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Hai bàn tay em, Phù Đổng Thiên Vương, Những năm sáu mươi, Cô
gái Mèo, Chiến trường gần đến chiến trường xa, Họp mặt thiếu niên anh hùng, Những người mẹ những
người vợ, Ngày hằng sống ngày hằng thơ, Sơn Tinh Thủy Tinh, Ngôi nhà giữa nắng,...
1.2. Tác phẩm
Tràng Giang là một trong những tác phẩm xuất sắc và nổi tiếng, làm nên tên tuổi Huy Cận. Bài thơ được
viết vào mùa thu năm 1939, sau đó được in trên báo và rồi được xuất bản trong tập Lửa thiêng. Bài thơ
mang một vẻ đẹp cổ điển, song được xây dựng bằng bút pháp hiện đại. Qua việc miêu tả bức tranh thiên
nhiên sông nước mênh mông, nhà thơ bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn,
trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha.
Bao trùm toàn bộ Tràng giang là nỗi buồn. Bài thơ gồm bốn khổ thơ tựa như bốn bài tứ tuyệt Đuờng thi, mỗi
khổ thơ là một nỗi buồn sầu góp vào mối buồn chung vô tận. Tuy mỗi khổ thơ cảnh vật và tâm trạng con
người được thể hiện khác nhau song toàn bộ bài thơ vẫn có một chỉnh thể chung hoàn chỉnh là cảnh
sóng nước mênh mang và con người với cái tôi nhỏ bé, mang tâm trạng cô đơn, buồn sầu.
2. Phân tích bài thơ Tràng giang
Hoài Thanh - Hoài Chân, trong "Thi nhân Việt Nam" đã nói về Huy Cận thế này: "Người nói cùng ta nỗi buồn
nơi quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ dừng ngựa trên non,
buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn. Và cũng như người đã làm thơ với những cái hình như không có gì nên thơ,
người tìm ra thơ trong những chốn ta tưởng không còn thơ nữa. Người đã gọi dậy cái hồn buồn của Đông
Á, người đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này." Những lời nhận xét ấy
đã được chứng minh trong Tràng giang. Bài thơ là một kiến trúc ngôn từ đồ sộ, mang vẻ đẹp cổ điển với nỗi
sầu nhân thế, được xây dựng khéo léo với ngôn ngữ thơ ca hiện đại. Với Tràng giang, Huy Cận đã khẳng
định được phong cách thơ ca cũng như tìm thấy vị trí của mình trên thi đàn Việt Nam.
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong
phong trào Thơ mới 1930 - 1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm
2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên
nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Kinh cầu tự. Nhưng sau Cách mạng
tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất
nước của nhân dân lao động: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời,... Vẻ đẹp thiên nhiên
và nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ Tràng
Giang. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài
thơ được trích từ tập Lửa thiêng, được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn
cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô
định. Bài thơ mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại,
đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. Tràng giang là một cách nói
chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con
sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển
trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh
hằng, dòng sông của tâm tưởng.
Thế rồi bài thơ mở đầu với lời đề từ giản dị nhưng giàu cảm xúc: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông
dài". Không phải bất cứ tác phẩm nào cũng có lời đề từ, khi đề từ xuất hiện nó thường là một gợi dẫn có ý
nghĩa bao quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Chỉ với vỏn vẹn bảy chữ, lời đề từ đã gợi ra không gian vũ trụ
rộng lớn, bát ngát mở ra cả chiều rộng và chiều cao. Trước không gian ấy con người cảm thấy bơ vơ, lạc
lòng, đây cũng là cảm xúc của biết bao thế hệ thi nhân xưa nay. Câu thơ đề từ đã khơi mạch cảm xúc
chung của bài thơ.
Thực vậy, bao phủ lên Tràng giang là nỗi buồn không sao tả xiết. Ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt
gặp những con sóng dâng nỗi sầu man mác:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng đầy tinh tế đã gợi ra một
không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết.
Những con sóng gợn nhẹ nơi dòng sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của
dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm
cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng thể nào dứt. Tưởng chừng như nhẹ
nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài
rộng, mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước, mặc
nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy,
chảy trôi. Sức gợi tả của câu thơ thực sự đầy ám ảnh, môt con sông dài, một con sông mang nét đẹp u
buồn, trầm tĩnh càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Vốn dĩ thuyền và nước là hai thứ không thể
tách rời nhau nhưng trong câu thơ tác giả viết “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, liệu rằng có uẩn khúc gì
chăng, hay là sự chia lìa không báo trước, nghe xót xa và nghe quạnh lòng hiu hắt. Một nỗi buồn đến tận
cùng, mênh mang cùng sông nước dập dềnh. Cũng trong khổ thơ này, Huy Cận đem đến cho người đọc vẻ
đẹp cổ kính cùng bút pháp tả cảnh ngụ tình khéo léo, gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn
vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở
các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở
cách nói “Củi một cành khô” thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm
trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.
Nỗi lòng ấy được tác giả khắc họa rõ nét hơn ở không gian vắng lặng, lạnh lẽo trong khổ thơ sau:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh
vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, bé nhỏ “đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh “cồn nhỏ”, gió thì
“đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên “Đâu
tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi,
không rõ rệt, có thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự
hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, chung
quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Một lần nữa, bút pháp tả
cảnh ngụ tình lại được Huy Cận vận dụng hiệu quả. Còn nhớ, Nguyễn Du đã từng than thở trong Truyện
Kiểu rằng:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Thực vậy, nỗi buồn trong lòng thi nhân lan ra, khiến cảnh vật đã đìu hiu nay càng thêm buồn, thêm quạnh
quẽ. Người thấy không gian dường như mở rộng hơn, mà càng rộng lại càng vắng lặng, càng sầu thảm:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời
mà lại tách bạch khỏi nhau. “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một
nét đẹp hiện đại. Cách sáng tạo từ sâu chót vót đã giúp tác giả miêu tả được khoảng cách giữa trời với
sông vừa có độ cao vừa có độ sâu, khiến không gian như mở ra ba chiều, khuếch tán rộng hết mức ở toàn
vũ trụ. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả
không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với “sông dài, trời rộng”, còn những gì
thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: “bến cô liêu”. Lúc này thi nhân không còn đối diện với
dòng sông như ở khổ trên nữa mà hoàn toàn bị choáng ngợp, quá nhỏ bé trước không gian vũ trụ bao la.
Thế nhưng, không bỏ cuộc, Huy Cận vẫn tiếp tục kiếm tìm. Có lẽ đó là sự giãy dụa của thi nhân trong nỗi cô
đơn tột cùng giữa bao la sông nước. Nhưng đáp lại người chỉ có:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Đến đây, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc, gần gũi. Hình ảnh những cánh bèo gợi sự tan tác chia ly,
những cánh bèo trôi vô định không biết trôi dạt về nơi đâu. Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là
hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định
giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”. Bèo
trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn.
Trước hình ảnh tan tác chia ly ấy, thi nhân càng khắc sâu thêm vào lòng người đọc nỗi buồn với cấu trúc
phủ định "không - không", phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây
không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên
nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường
như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào. Tất cả khung cảnh lẫn mọi sự kết nối đều bị phủ định,
trước mắt thi nhân như hiện ra những cuộc chia ly đau đớn, để rồi cuối cùng chỉ còn lại "lặng lẽ bờ xanh tiếp
bãi vàng".
Đến khổ thơ cuối, những cảm xúc của thi nhân được đẩy lên tột đỉnh cùng bút pháp chấm phá thăng hoa tại
nên một tứ thơ tuyệt diệu:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vờn con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."
Nét chấm phá trong hình ảnh “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng khắc sâu sự cô đơn,
buồn phiền. Bút pháp chấm phá với “mây cao đùn núi bạc” thành “lớp lớp” đã khiến người đọc tưởng tượng
ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng
chiều sa” là sự hữu hình hóa cái vô hình của tác giả. Bóng chiều làm sao có thể nhìn thấy được nhưng qua
ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã hình dung ra được trời chiều đang dần buông xuống. Mây ở đây
chất chồng lên nhau, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung
cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như
càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa đất trời bao la, như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa
cuộc đời chông chênh vậy.
Trước khung cảnh cô đơn ấy, người ta thường mong nhớ về những gì thân thuộc, những nơi ấm áp đã chở
che mình suốt bao năm tháng. Thực vậy, Huy Cận nhớ nhà. Nỗi nhớ nhà được bộc lộ trực tiếp, thẳng thắn,
nhưng đượm buồn. Từ láy "dợn dợn" gợi nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng
của một chiều khi hoàng hôn buông xuống. Câu thơ muốn nói lên nỗi nhớ quê hương da diết của thi
nhân khi đứng trước sông nước rợn ngợp. “Không khói hoàng hôn” nghĩa là không một yếu tố ngoại cảnh
nào tác động trực tiếp nhưng cảnh vật vẫn gợi trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ quê cha đất tổ. Nỗi nhớ ấy
thường trực, khắc sâu trong trái tim Huy Cận, cũng như trong trái tim mỗi người con đất Việt. Câu thơ cuối
như bộc lộ tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ muốn gửi gắm xuyên suốt bài thơ. Lúc nào trong lòng Huy Cận
cũng mang một cái tình quê sâu đậm, một nỗi nhớ quê da diết khôn nguôi.
Cả bài thơ Tràng giang là một tác phẩm kiến trúc ngôn từ đồ sộ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét
hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng
từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim,... Và trên hết là
cách vận dụng các câu thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường. Vẻ đẹp
hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như “sâu chót vót”, dấu hai chấm thần tình.
Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm
trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì
được.
Tràng giang xứng đáng là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong phong trào Thơ mới. Huy Cận đã
mang tới cho người đọc những phút chới với trong cảnh sắc của thiên nhiên với vẻ buồn bã cô độc, mọi thứ
trải dài theo chiều sâu và chiều rộng nhưng càng làm cho sự mênh mang thêm sâu sắc. Cảnh khiến lòng
xao động, cảnh khiến người ngậm ngùi và cũng chính là lúc khiến con người nhận ra bản thân mình nghĩ gì.
Có lẽ vì thế Huy Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn."
| 1/6

Preview text:

Phân tích bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận hay nhất
1. Tác giả, tác phẩm 1.1. Tác giả
Huy Cận, tên khai sinh là Cù Huy Cận, sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919, trong một gia đình nhà nho nghèo
gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà, bên bờ sông Ngàn Sâu (thượng nguồn sông La) ở làng Ân Phú,
huyện Hương Sơn sau đó thuộc huyện Đức Thọ (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Ông
là một chính khách, từng giữ nhiều chức vụ lãnh đạo cao cấp trong chính phủ Việt Nam như Bộ trưởng Bộ
Canh nông (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Thứ trưởng Bộ Văn hóa Nghệ thuật, Bộ trưởng
Bộ Văn hóa Giáo dục, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ Kinh tế, Bộ trưởng Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ), ngoài ra ông còn là một nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng
Dân chủ Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời cũng là một trong những thi sĩ xuất sắc
nhất của phong trào Thơ mới. Ông từng là Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới và Chủ tịch Ủy ban Liên hiệp
các Hiệp hội Văn học Việt Nam giai đoạn 1984 - 1995.
Mỗi bài thơ của Huy Cận đều mang một phong cách đặc biệt và có một điểm chung là hàm súc, triết lý. Ông
là một đại biểu xuất sắc cho phong trào Thơ mới với hồn thơ ảo não. Huy Cận là một người yêu thích thơ ca
Việt Nam, thơ Đường và chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp. Có thể chia sự nghiệp sáng tác của ông
thành hai giai đoạn chính:
Giai đoạn đầu là giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám mang nét sầu não, buồn thương. Huy Cận có thơ
đăng báo từ 1936, cho in tập thơ đầu Lửa thiêng năm 1940 (gồm những bài đã đăng báo, khoảng 1936 -
1940) và trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ mới lúc bấy giờ. Bao trùm Lửa
Thiêng là một nỗi buồn mênh mang da diết. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng
thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình nhưng xét đến cùng, chủ yếu là buồn thương về
cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ "ảo não", bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và
mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời. Trong Kinh cầu tự (1942, văn xuôi triết lý) và Vũ trụ ca (thơ
đăng báo 1940-1942), Huy Cận đã tìm đến ca ngợi niềm vui, sự sống trong vũ trụ vô biên song vẫn chưa thoát khỏi bế tắc.
Giai đoạn thứ sai, sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ Huy Cận mang nét tươi vui hơn. Trong giai đoạn
này, các sáng tác của ông hướng tới cuộc sống lao động, chiến đấu của quân và dân ta, mang hy vọng và
những niềm vui mới. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông trong thời kì này có thể kể đến như: Trời mỗi ngày
lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Hai bàn tay em, Phù Đổng Thiên Vương, Những năm sáu mươi, Cô
gái Mèo, Chiến trường gần đến chiến trường xa, Họp mặt thiếu niên anh hùng, Những người mẹ những
người vợ, Ngày hằng sống ngày hằng thơ, Sơn Tinh Thủy Tinh, Ngôi nhà giữa nắng,... 1.2. Tác phẩm
Tràng Giang là một trong những tác phẩm xuất sắc và nổi tiếng, làm nên tên tuổi Huy Cận. Bài thơ được
viết vào mùa thu năm 1939, sau đó được in trên báo và rồi được xuất bản trong tập Lửa thiêng. Bài thơ
mang một vẻ đẹp cổ điển, song được xây dựng bằng bút pháp hiện đại. Qua việc miêu tả bức tranh thiên
nhiên sông nước mênh mông, nhà thơ bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn,
trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha.
Bao trùm toàn bộ Tràng giang là nỗi buồn. Bài thơ gồm bốn khổ thơ tựa như bốn bài tứ tuyệt Đuờng thi, mỗi
khổ thơ là một nỗi buồn sầu góp vào mối buồn chung vô tận. Tuy mỗi khổ thơ cảnh vật và tâm trạng con
người được thể hiện khác nhau song toàn bộ bài thơ vẫn có một chỉnh thể chung hoàn chỉnh là cảnh
sóng nước mênh mang và con người với cái tôi nhỏ bé, mang tâm trạng cô đơn, buồn sầu.
2. Phân tích bài thơ Tràng giang
Hoài Thanh - Hoài Chân, trong "Thi nhân Việt Nam" đã nói về Huy Cận thế này: "Người nói cùng ta nỗi buồn
nơi quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ dừng ngựa trên non,
buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn. Và cũng như người đã làm thơ với những cái hình như không có gì nên thơ,
người tìm ra thơ trong những chốn ta tưởng không còn thơ nữa. Người đã gọi dậy cái hồn buồn của Đông
Á, người đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này." Những lời nhận xét ấy
đã được chứng minh trong Tràng giang. Bài thơ là một kiến trúc ngôn từ đồ sộ, mang vẻ đẹp cổ điển với nỗi
sầu nhân thế, được xây dựng khéo léo với ngôn ngữ thơ ca hiện đại. Với Tràng giang, Huy Cận đã khẳng
định được phong cách thơ ca cũng như tìm thấy vị trí của mình trên thi đàn Việt Nam.
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong
phong trào Thơ mới 1930 - 1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm
2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên
nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Kinh cầu tự. Nhưng sau Cách mạng
tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất
nước của nhân dân lao động: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời,... Vẻ đẹp thiên nhiên
và nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ Tràng
Giang. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài
thơ được trích từ tập Lửa thiêng, được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn
cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô
định. Bài thơ mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại,
đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. Tràng giang là một cách nói
chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con
sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển
trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh
hằng, dòng sông của tâm tưởng.
Thế rồi bài thơ mở đầu với lời đề từ giản dị nhưng giàu cảm xúc: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông
dài". Không phải bất cứ tác phẩm nào cũng có lời đề từ, khi đề từ xuất hiện nó thường là một gợi dẫn có ý
nghĩa bao quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Chỉ với vỏn vẹn bảy chữ, lời đề từ đã gợi ra không gian vũ trụ
rộng lớn, bát ngát mở ra cả chiều rộng và chiều cao. Trước không gian ấy con người cảm thấy bơ vơ, lạc
lòng, đây cũng là cảm xúc của biết bao thế hệ thi nhân xưa nay. Câu thơ đề từ đã khơi mạch cảm xúc chung của bài thơ.
Thực vậy, bao phủ lên Tràng giang là nỗi buồn không sao tả xiết. Ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt
gặp những con sóng dâng nỗi sầu man mác:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng đầy tinh tế đã gợi ra một
không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết.
Những con sóng gợn nhẹ nơi dòng sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của
dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm
cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng thể nào dứt. Tưởng chừng như nhẹ
nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài
rộng, mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước, mặc
nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy,
chảy trôi. Sức gợi tả của câu thơ thực sự đầy ám ảnh, môt con sông dài, một con sông mang nét đẹp u
buồn, trầm tĩnh càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Vốn dĩ thuyền và nước là hai thứ không thể
tách rời nhau nhưng trong câu thơ tác giả viết “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, liệu rằng có uẩn khúc gì
chăng, hay là sự chia lìa không báo trước, nghe xót xa và nghe quạnh lòng hiu hắt. Một nỗi buồn đến tận
cùng, mênh mang cùng sông nước dập dềnh. Cũng trong khổ thơ này, Huy Cận đem đến cho người đọc vẻ
đẹp cổ kính cùng bút pháp tả cảnh ngụ tình khéo léo, gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn
vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở
các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở
cách nói “Củi một cành khô” thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm
trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.
Nỗi lòng ấy được tác giả khắc họa rõ nét hơn ở không gian vắng lặng, lạnh lẽo trong khổ thơ sau:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh
vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, bé nhỏ “đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh “cồn nhỏ”, gió thì
“đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên “Đâu
tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi,
không rõ rệt, có thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự
hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, chung
quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Một lần nữa, bút pháp tả
cảnh ngụ tình lại được Huy Cận vận dụng hiệu quả. Còn nhớ, Nguyễn Du đã từng than thở trong Truyện Kiểu rằng:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Thực vậy, nỗi buồn trong lòng thi nhân lan ra, khiến cảnh vật đã đìu hiu nay càng thêm buồn, thêm quạnh
quẽ. Người thấy không gian dường như mở rộng hơn, mà càng rộng lại càng vắng lặng, càng sầu thảm:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời
mà lại tách bạch khỏi nhau. “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một
nét đẹp hiện đại. Cách sáng tạo từ sâu chót vót đã giúp tác giả miêu tả được khoảng cách giữa trời với
sông vừa có độ cao vừa có độ sâu, khiến không gian như mở ra ba chiều, khuếch tán rộng hết mức ở toàn
vũ trụ. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả
không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với “sông dài, trời rộng”, còn những gì
thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: “bến cô liêu”. Lúc này thi nhân không còn đối diện với
dòng sông như ở khổ trên nữa mà hoàn toàn bị choáng ngợp, quá nhỏ bé trước không gian vũ trụ bao la.
Thế nhưng, không bỏ cuộc, Huy Cận vẫn tiếp tục kiếm tìm. Có lẽ đó là sự giãy dụa của thi nhân trong nỗi cô
đơn tột cùng giữa bao la sông nước. Nhưng đáp lại người chỉ có:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Đến đây, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc, gần gũi. Hình ảnh những cánh bèo gợi sự tan tác chia ly,
những cánh bèo trôi vô định không biết trôi dạt về nơi đâu. Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là
hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định
giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”. Bèo
trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn.
Trước hình ảnh tan tác chia ly ấy, thi nhân càng khắc sâu thêm vào lòng người đọc nỗi buồn với cấu trúc
phủ định "không - không", phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây
không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên
nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường
như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào. Tất cả khung cảnh lẫn mọi sự kết nối đều bị phủ định,
trước mắt thi nhân như hiện ra những cuộc chia ly đau đớn, để rồi cuối cùng chỉ còn lại "lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng".
Đến khổ thơ cuối, những cảm xúc của thi nhân được đẩy lên tột đỉnh cùng bút pháp chấm phá thăng hoa tại
nên một tứ thơ tuyệt diệu:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vờn con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."
Nét chấm phá trong hình ảnh “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng khắc sâu sự cô đơn,
buồn phiền. Bút pháp chấm phá với “mây cao đùn núi bạc” thành “lớp lớp” đã khiến người đọc tưởng tượng
ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng
chiều sa” là sự hữu hình hóa cái vô hình của tác giả. Bóng chiều làm sao có thể nhìn thấy được nhưng qua
ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã hình dung ra được trời chiều đang dần buông xuống. Mây ở đây
chất chồng lên nhau, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung
cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như
càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa đất trời bao la, như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa
cuộc đời chông chênh vậy.
Trước khung cảnh cô đơn ấy, người ta thường mong nhớ về những gì thân thuộc, những nơi ấm áp đã chở
che mình suốt bao năm tháng. Thực vậy, Huy Cận nhớ nhà. Nỗi nhớ nhà được bộc lộ trực tiếp, thẳng thắn,
nhưng đượm buồn. Từ láy "dợn dợn" gợi nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng
của một chiều khi hoàng hôn buông xuống. Câu thơ muốn nói lên nỗi nhớ quê hương da diết của thi
nhân khi đứng trước sông nước rợn ngợp. “Không khói hoàng hôn” nghĩa là không một yếu tố ngoại cảnh
nào tác động trực tiếp nhưng cảnh vật vẫn gợi trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ quê cha đất tổ. Nỗi nhớ ấy
thường trực, khắc sâu trong trái tim Huy Cận, cũng như trong trái tim mỗi người con đất Việt. Câu thơ cuối
như bộc lộ tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ muốn gửi gắm xuyên suốt bài thơ. Lúc nào trong lòng Huy Cận
cũng mang một cái tình quê sâu đậm, một nỗi nhớ quê da diết khôn nguôi.
Cả bài thơ Tràng giang là một tác phẩm kiến trúc ngôn từ đồ sộ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét
hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng
từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim,... Và trên hết là
cách vận dụng các câu thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường. Vẻ đẹp
hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như “sâu chót vót”, dấu hai chấm thần tình.
Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm
trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.
Tràng giang xứng đáng là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong phong trào Thơ mới. Huy Cận đã
mang tới cho người đọc những phút chới với trong cảnh sắc của thiên nhiên với vẻ buồn bã cô độc, mọi thứ
trải dài theo chiều sâu và chiều rộng nhưng càng làm cho sự mênh mang thêm sâu sắc. Cảnh khiến lòng
xao động, cảnh khiến người ngậm ngùi và cũng chính là lúc khiến con người nhận ra bản thân mình nghĩ gì.
Có lẽ vì thế Huy Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn."