Phân tích bài thơ Tú Uyên gặp Giáng Kiều | Văn mẫu 11 Chân trời sáng tạo

Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tú Uyên gặp Giáng Kiều của Vũ Quốc Trân tuyển chọn dàn ý chi tiết kèm theo 2 mẫu cực hay, giúp cho các em học sinh lớp 11 tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng về văn phân tích đánh giá bài thơ ngày một tốt hơn.

Dàn ý phân tích Tú Uyên gặp Giáng Kiều
a, Mở bài
Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm
b, Thân bài
- Hoàn cảnh của Tú Uyên và giây phút gặp được người trong mộng
- Nỗi nhớ ngày càng da diết, ngày đêm ôm mộng tương tư. Khi gặp bức tranh giống
hệt với người thiếu nữ mình từng gặp, chàng mua về ngày ngày bầu bạn.
- Điều bất thường xảy ra khi chàng đi học về thì đã thấy cơm canh bày sẵn.
- Chàng quyết định rình một phen thì gặp người thiếu nữ bước ra từ trong tranh.
- Cuộc đối thoại giữa chàng với nàng và mối nhân duyên trời định.
- Cuộc sống hạnh phúc viên mãn của chàng và nàng.
c, Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Phân tích bài Tú Uyên gp Giáng Kiu
Nói đến truyện tNôm “Bích Câu ngộ”, nhiều ý kiến cho rng tác phm vn cha
đựng sc hp dn với nhân dân bao đời này bi đây là một truyện thơ Nôm thun Vit.
T những địa danh đến tên người đều đậm cht Vit Nam. Trên bi cnh ca kinh
thành Thăng Long xưa, tác giả đã khắc ha mối tình đp ca Uyên và Giáng Kiu.
Đoạn trích “Tú Uyên gp Giáng Kiều” kể v nỗi tương của chàng thư sinh cuc
gp mt bt ng ca Tú Uyên với ngưi trong mng.
“Bích Câu ngộ” nghĩa “Cuộc gp g l tại Bích Câu”. Cái tên “Bích Câu”
trong nhan đề chính một địa ch văn hóa ni tiếng kinh thành Thăng Long xưa.
Nơi đây thường được các vua chúa ghé thăm, tập trung nhiều văn nhân t. Chàng
thư sinh nghèo Uyên cũng tới Thăng Long đ hc tập. Khi đi chơi hội chùa Ngc
Hồ, Tú Uyên đã tình gặp Giáng Kiều say đắm nàng nhưng chưa kịp ng lim
quen thì gái đẹp đã biến mt. V sau, Uyên gp mt ông lão bán tranh t n,
thy mt bc ha ging hệt người con gái đã gặp dạo trưc nên bèn mua tranh v
nhà treo. Càng ngày Tú Uyên càng nhung nh Giáng Kiu, mi mê ngm bc tranh:
Mưa hoa khép cánh song hồ
Sm khuya vi bc họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mi trưc hoa
M đầu đoạn trích khung cảnh nên t “song hồ- nơi cu hc trò nghèo
Uyên đọc sách và tương tư v người trong mng. Cm t “Sớm khuya” cho thấy vòng
thi gian tun hoàn, liên tc. T khi gp Giáng Kiu, Uyên mong nh không lúc
nào nguôi. Chàng quên hết thi gian không gian xung quanh, ch ngm nhìn bc
ha c ngày lẫn đêm. Nỗi nh da diết mãnh liệt đến mc Uyên cm tưởng như
người con gái trong tranh đang thực s đứng trước mt mình. Niềm ơng tư đưc th
hin hành động c th. Cp s t “mt” - “hai” cùng với các t “chung”, “thêm” cho
thấy thái độ trân trng, nâng niu ca Uyên dành cho bc chân dung Giáng Kiu.
K c khi ăn, chàng cũng ngồi trước bức tranh và tưởng tượng người trong mộng đang
đứng trước mặt nên làm thơ, mời rưu.
ng gn thôi lại nghĩ xa
Có khi hình ảnh cũng là phát phu
Êm tri va tiết trăng thu
Ngàn sương rắc bc, lá khô rng vàng
Chiều thu như gợi tm thương
Lòng ngưi trông xuống sông Tương mờ hình
Cp t đối lập “gần” - “xa” cùng hai đng t “tưởng” “nghĩ” th hin nim thương
nh trào dâng đến bt rt trong cõi lòng. Uyên bu bn vi bc tranh cho khuây
khỏa nhưng ng ngm tranh li càng nh nàng. Bc họa quá đẹp khiến chàng trai đã
ng như ngưi thiếu n đang kề cnh rt gần nhưng thực cht khong cách vn quá xa
xôi. Nhng hình ảnh thiên nhiên như “trăng thu”, “Ngàn sương”, khô” khc ha
nên khung cnh thiên nhiên yên bình, nên thơ. Dưới ánh trăng mùa thu du dàng, màn
sương mỏng giăng giăng khắp li ta như rắc muôn ngàn ánh bc xung nhân gian,
thm vàng ph kín khonh sân. Thiên nhiên hòa hp vi tâm trạng con người.
Trong văn học, bui chiu khong thời gian đi liền vi ni nhớ. Ca dao xưa tng
nhiu ln diễn đạt ni nh nhung rt ý nh, ngt ngào:
Chiu chiu li nh chiu chiu
Nh người quân t khăn điều vt vai
Vi Uyên, chiều thu cũng gợi niềm thương nỗi nhớ. Chàng thư sinh đã gi lòng
mình trôi theo dòng ớc sông Tương, chìm vào cõi mộng mơ vì quá đi say mê bóng
dáng nàng thiếu n. Hình ảnh sông Tương trong câu thơ gắn với điển tích khi Vua
Thun mất, hai người v Nga Hoàng N Anh cùng khóc thm thiết trên sông
Tương. Từ đó, đây trở thành dòng sông biểu trưng cho nỗi nh:
Sông Tương ai gọi rng sâu
Chng bng phân na mch su ca ta
Sông Tương sâu hãy còn có đáy
Bệnh tương tư không by không b
ng v thiên nhiên, thiên nhiên càng khc sâu s thương nhớ, trông mong nên
Uyên li quay v giãi bày vi chính mình và tâm s vi bc tranh:
K bên năn nỉ bày tình
Ni nhà thu trưc, ni mình ngày xưa
T phen giáp mặt đến gi
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn
y ai đim phn tô son
Để ai rut héo, gan mòn vì ai?
Động t “năn nỉ” thể hin s cồn cào, khao khát đưc giãi y tình cm mãnh lit ca
Uyên. Uyên tri lòng v hoàn cnh ca chính mình v tình yêu. Cp t đối
lập “ngày” - “đêm” đi lin vi hai t “tưởng”, “mơ” thể hin ni nh thưng trc,
không lúc nào ngơi ngh luôn cuộn xoáy trong tâm trí chàng trai. “đã chồn” tức
quá mt mi, Uyên nh nhung Giáng Kiều đã trở thành “bệnh tương tư”. Lời thơ
dường như một li than van, trách móc rt tình t. Uyên trách thiếu n sao li
“đim phấn son” đ người quân t “ruột o gan mòn”. Tiếng “ai” được lp li hai
ln, va ch đối phương vừa ch chính mình, đồng nhất hai con người cũng hai
đầu ni nh
Tình yêu luôn chứa đựng sc mnh diu khiến con ngưi th đánh đi tt c để
được nó. Uyên cũng vậy, chàng đã lấy “Nghìn vàng” “cung trăng” để th
hin tình yêu:
Buồng đào nửa bước chng ri
Nghìn vàng đổi đưc trận cười ấy chăng?
Rày xin b khoá cung trăng
Vén mây m mt ch Hng, chút nao!
Uyên nh Giáng Kiều đến mc tách mình vi thế gii bên ngoài, không rời căn
bung nửa ớc. Chàng xin được đổi nghìn vàng để ly n i ca nàng. Ch
“nghìn” ch ni nh đằm sâu, không so sánh được. Câu thơ mt câu hi tu t,
tác dng nhn mnh tình cm ca Uyên dành cho Giáng Kiu. Không ch vy,
chàng còn mun m khóa cung trăng để lại được chiêm ngưng dung mo ca nàng,
vượt qua gii hn ca không gian và thi gian.
Bng những điển tích, hình ảnh thiên nhiên giàu tính ước l, các cp t đối lp, cùng
câu hi tu từ, đoạn thơ đã thể hin ni nh da diết, tình yêu mãnh lit Uyên
dành cho Giáng Kiu. Tình yêu y biểu ng cho khát khao hnh phúc, thoát khi
thc ti bun bã của con người.
Tiếp đến là những câu thơ thuật li s vic khi Tú Uyên và Giáng Kiu gp nhau:
So xem phong v khác thường
Mùi hoa sc nức, mùi hương ngạt ngào
Bếp tri sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy l, lòng nào chng nghi!
Sáng mai c buổi ra đi
Liu chng thot tr li v th coi
Bỗng đâu thấy s l đời
Trong tranh sao có bóng ngưi vào ra?
Nhân nhân mày liu mt hoa
Này người khi trước đâu mà đến đây?
Một m, Uyên đi học, khi tr v đã thấy trong nhà cơm canh y sn. Ba
cơm ấy“phong v khác thường”, tỏa hương thơm như hoa ngt ngào. Tú Uyên thy
l, lòng ny sinh mi nghi ng. Sáng m sau, Uyên v đi ra ngoài bt ng tr
v thì bt gặp người con gái dung mạo cùng xinh đẹp t trong tranh c ra.
Trưc s vic y, Uyên quá hnh phúc khi gặp được người trong mộng nên đã
hành động vội vã: “Vội vàng đánh tiếng ra chào”. Chi tiết “Bên mừng bên lệ” cho
thy cm xúc ri ri, hạnh phúc đến mức rơi l.
Đáp lại li chào hi t Uyên, Giáng Kiều cũng e thẹn gii thiu v mình. S xut
hin ca Giáng Kiu khiến ta liên ởng đến hình nh nhng nàng tiên, Tm trong
truyn c dân gian Vit Nam rt mc hin thc, tm lòng thơm tho. Giáng Kiu
cũng là cô gái như vy. Li nói ca nàng toát lên v đoan trang, dịu dàng:
Nàng rằng: “Bồ liu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiu, Giáng Kiu là tên
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã đnh t xưa
Tơ trăng xe đến bây gi mi thân
Cũng là nh đức tiên quân
Đoá hoa biết mt chúa xuân t rày”
Nàng t nhận thân “bồ liễu” mỏng manh, vốn “khách thanh tiêu” trên tri, có
hiu là Tiên Thù, tên gi là Giáng Kiu. Vì mối “tơ điều” đã gắn kết nàng Tú Uyên
nên “Ba sinh đã nặng duyên”. Qua li nói ca Giáng Kiu th thy mi tình
Uyên - Kiu mi thiên duyên tiền định, được s đồng thun ca trời đất. Lng nghe
li nói ca Giáng Kiều, Uyên cũng y tỏ những m đã chng cht trong lòng
bấy lâu: “ Nhp su gi mun có ngày nào nguôi? ”.
Không ch dung nhan xinh đẹp, li nói ngt ngào, phm cách trang nhã Giáng
Kiều còn người ph n tm lòng thy chung, son st trong tình yêu ý thc
cao đ v danh d ca mình:
Nàng rằng: “Xin quyết gieo cu
Tm son th với trên đầu xanh xanh
Dám đâu hc thói yến oanh
Mặn tình trăng gió, nht tình lửa hương
Gieo thoi trưc đã d dang
Sao nên nát đá phai vàng như chơi
Mái Tây còn để tiếng đời
Treo gương kim cổ cho người soi chung
L gì hoa vi gió đông
Tiếc hương vả cũng n lòng chim xanh
Một mai mưa gió bt tình
Vóc tàn nên đ yến oanh hng h
Nghĩ trong thân phn yếu thơ
Làm chi để tiếng s s li sau!
Tác gi đã vn dụng điển tích kén r của vua Hán Đế cho công chúa ngi trên lu
cao ném qu cu xung, ai bắt được cu thì lấy người y để th hin tm lòng
Giáng Kiu dành cho Uyên. Hai t “quyết” “thề” được đặt hai dòng thơ liền
nhau cho thấy thái đ nghiêm túc, trang trng ca Giáng Kiu khi nói v hôn nhân,
hnh phúc. Nàng khẳng định tm lòng trinh bch ca mình khác xa với “thói yến
oanh” ham vui ngắn ngi. Cp t đối lập “mặn” - “nhạt”, “trăng gió” (hời ht) -
“lửa hương” (mặn nồng) được đặt trong cùng một câu thơ càng khẳng định v đẹp
phm cht ca gái tm lòng chung thy trong tình yêu. Những điển tích điển c
như “Gieo thoi”, “Mái Tây” thể hin ý thc gi gìn tình yêu ca ngưi con gái.
Thưa rằng: “Túc trái tin nhân
Không dưng d xung cõi trn làm chi
Song còn my bạn tương tri
By lâu chưa có chút gì là đâu
Trưc xin t bit cùng nhau
Ch duyên này tr v sau còn dài”
Giáng Kiều đã vận đến “tiền nhân” - duyên n t kiếp trước để nói v do nàng
xung trn. T trong thâm tâm, Giáng Kiều đã thc s coi Tú Uyên là “bạn tương tri”.
Mi quan h tri âm, tri k xưa nay d b phai nht bi khoảng cách nên nàng đã ha
“Chữ duyên y tr v sau còn dài”. Nét đẹp ca Giáng Kiu nm s thông minh,
khéo léo, tế nh và tấm lòng trước sau như mt.
Sau cuc gp gỡ, đối thoi gia Uyên Giáng Kiu khung cnh hnh phúc ca
đôi uyên ương. Giáng Kiều đã “rút chiếc trâm đầu”, hóa phép tiên để thay đổi khung
cnh xung quanh:
Tho am thoắt đã đổi ra lâu đài
ng quang sáng mt góc tri
Nhn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Ngưi yểu điệu, khách thanh to
Mi ngưi mt v, ai nào kém ai
L lơi bên nói bên cười
Bên mng c hu, bên mi tân lang
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha
Ch trong phút chc, lu c đã hóa thành lâu đài. Vầng dương quang bao phủ rc r,
sáng c mt góc tri. K vào người ra tp np, ai nấy cũng thanh tao, lịch m. Các t
láy “Nhởn nhơ”, “Lả lơi”, “Đong đưa” cùng động t “nói, cười”, “đua”, “khoe” đã
din t tâm trạng vui tươi, say trong men u ca quan khách và gia ch.
Như vậy, đon trích bao gm ni nh ca Uyên vi dáng Kiu, cuc gp g ca
đôi uyên ương chính biểu hin cho khát khao hnh phúc la đôi nim hy vng
vào tình yêu mãnh lit. Th thơ lc bát truyn thng ca dân tc, h thng các t láy
giàu tính biểu đạt, các điển tích điển c, nhng hình nh thiên nhiên ước l ng
trưng đã góp phần làm nên thành công cho tác phm.
Phân tích Tú Uyên gặp Giáng Kiều
“Bích Câu ngộ” của Quốc Trân truyện m xuất sắc của nền văn học Việt
Nam. Câu chuyện kể về một chàng thư sinh tên Trần Quyên gặp ng Giáng
Kiều đất Bích Câu cùng nhau se sợi duyên hạnh phúc. Đoạn trích “Tú Uyên
gặp dáng kiều” nói về hoàn cảnh khiến chàng và nàng gặp nhau rồi kết duyên đôi lứa.
u thơ đầu đã cho người đọc cảm nhận được gia cảnh nghèo khó của chàng thư sinh
Trần Tú Uyên.
Mưa hoa khép cánh song hồ
Cuộc đời thật nghiệt nvới chàng khi cha mẹ chàng mất sớm, chàng một mình lủi
thủi với căn nhà giữa hồ Bích Cầu, ngày đêm miệt mài đèn sách. Trong dịp dạo chơi
xuân, tình cờ chàng trông thấy một người con gái xinh đẹp như tiên nữ giáng trần,
chàng luôn dõi theo sau được một quãng thì nàng biến mất không rõ tung tích. Từ đó,
chàng ôm tương tư mà ngày đêm nhung nhớ.
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa
...
Cho hay tình cũng là chung
Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!
Tác giả miêu tả nỗi nhớ của chàng như “sông Tương hình”, sông Tương nơi hai
bà Nga Hoàng và Nữ Anh đã khóc thương chồng, nay đó là nơi trĩu nặng tương tư của
nhân vật. Rồi một ngày, Uyên mua được một bức tranh nàng thiếu nữ với nét đẹp
tựa như người chàng đang thương nhớ, chàng mua về treo trong nhà để “sớm khuya”
ôm mộng. Chàng nghĩ về người thiếu nữy đến nỗi ngỡ người trong tranh “phát phu”,
tưởng tượng người thiếu nữ trong tranh người thật. Chàng ôm nhung nhớ đến
“chồn” cả người, chồn đây có nghĩa ốm yếu, không còn cử động được, chàng nh
nàng đến mất ăn mất ngủ. Đến nỗi chàng n ao ước “bẻ khóa cung trăng” để thấy
được “chị Hằng” chàng ngày êm mộng mị. Có thể thấy nỗi niềm tương tư, tình
cảm của chàng thật sâu nặng giống như xuân Diệu đã từng viết bài thơ “Vấn vương”:
Anh chả hiểu vì sao vấn vương
Năm năm, như mấy chục năm trường
Vẫn là mắt mấy, làn môi ấy
Anh hãy còn thương, chẳng hết thương.
Một quãng thời gian sau, một m Tú Uyên bận công việc trường trở về nhà trời đã
muộn thì thấy cơm ớc được dọn sẵn. Không khỏi thắc mắc, chàng quyết định rình
xem người bấy lâu nay chăm sóc, phục vụ bữa cơm miếng nước cho chàng là ai:
Một khi ra việc trường văn
Trở về đã thấy bát trân sẵn sàng
So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngọt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!
Cơm canh tiếp đón không chỉ cơm canh bình thường đầy đủ, sung túc như bát
trân”. Bát trên là mâm cơm với 6 món ăn quý giá, chàng không tin vào mắt mình, chắc
hẳn chỉ “bếp trời” mới làm được như vậy. Chàng quyết định rình một phen thì thấy
một nàng thiếu nữ từ trong tranh bước ra:
Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
...
Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên
Thỏa nỗi nhmong khi gặp được người trong mộng, mắt chàng rưng rưng “bên mừng
bên lệ” thổ lộ tình cảm bấy lâu nay với thiếu nữ. Người tiên nữ e thẹn, ngại ngùng tự
xưng tiên nữ Giáng Kiều, vốn người i tiên, tiền duyên với chàng nên hạ
phàm xuống đất:
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân
...
Đã rằng: tác hợp duyên trời
Làm chi cho bận lòng người lắm nao!
“Ba sinh” đây chính mối nhân duyên tiền kiếp của chàng nàng. Mối nhân
duyên vợ chồng đến bây giờ mới được “tơ trăng” nhờ ân đức của “tiên quân”, nên
nàng ngỏ ý nguyện một lòng “tấm son” cùng chàng se mối nhân duyên này:
Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu”
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh
Từ đó hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, thấu hiểu nhau. Chim yến oanh bay theo
từng đàn chúc phúc cho đôi trai tài gái sắc, trăng thanh, hoa nở mừng cho mối lương
duyên này. Nàng hoa phép ra lâu đài nguy nga, lộng lẫy đầy đủ kẻ hầu người hạ.
Thiên thời địa lợi nhân hòa chung vui với đôi vợ chồng, “Vũ y”, Nghê thường” hay
chính là quần áo, xiêm y lả lướt, thiết tha.
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha.
Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” mang âm hưởng dân tộc nét, bút pháp nghệ
thuật tài tình trong y dựng hình tượng nhân vật khi kết hợp tả cảnh với tả tình. Tác
phẩm được viết bằng chữ Hán mang nét mộng ởng hoang đường về tình yêu. Ẩn
chứa trong đó tâm nguyện của tác giả về một vấn đề len lỏi trong hội. Đó cái
nhìn phê phán của tác giả về một xã hội loạn lạc, khó khăn, khiến con người ta muốn
thoát ly khỏi thế giới thực tại. Mặt khác, tác phẩm cũng hướng cho con người giải tỏa,
cải cách tâm hồn thoát khỏi Nho giáo, tiến đến Phật giáo và Đạo giáo.
| 1/11

Preview text:


Dàn ý phân tích Tú Uyên gặp Giáng Kiều a, Mở bài
Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm b, Thân bài
- Hoàn cảnh của Tú Uyên và giây phút gặp được người trong mộng
- Nỗi nhớ ngày càng da diết, ngày đêm ôm mộng tương tư. Khi gặp bức tranh giống
hệt với người thiếu nữ mình từng gặp, chàng mua về ngày ngày bầu bạn.
- Điều bất thường xảy ra khi chàng đi học về thì đã thấy cơm canh bày sẵn.
- Chàng quyết định rình một phen thì gặp người thiếu nữ bước ra từ trong tranh.
- Cuộc đối thoại giữa chàng với nàng và mối nhân duyên trời định.
- Cuộc sống hạnh phúc viên mãn của chàng và nàng. c, Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Phân tích bài Tú Uyên gặp Giáng Kiều
Nói đến truyện thơ Nôm “Bích Câu kì ngộ”, nhiều ý kiến cho rằng tác phẩm vẫn chứa
đựng sức hấp dẫn với nhân dân bao đời này bởi đây là một truyện thơ Nôm thuần Việt.
Từ những địa danh đến tên người đều đậm chất Việt Nam. Trên bối cảnh của kinh
thành Thăng Long xưa, tác giả đã khắc họa mối tình đẹp của Tú Uyên và Giáng Kiều.
Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” kể về nỗi tương tư của chàng thư sinh và cuộc
gặp mặt bất ngờ của Tú Uyên với người trong mộng.
“Bích Câu kì ngộ” có nghĩa là “Cuộc gặp gỡ kì lạ tại Bích Câu”. Cái tên “Bích Câu”
trong nhan đề chính là một địa chỉ văn hóa nổi tiếng ở kinh thành Thăng Long xưa.
Nơi đây thường được các vua chúa ghé thăm, tập trung nhiều văn nhân sĩ tử. Chàng
thư sinh nghèo Tú Uyên cũng tới Thăng Long để học tập. Khi đi chơi hội chùa Ngọc
Hồ, Tú Uyên đã vô tình gặp Giáng Kiều và say đắm nàng nhưng chưa kịp ngỏ lời làm
quen thì cô gái đẹp đã biến mất. Về sau, Tú Uyên gặp một ông lão bán tranh tố nữ,
thấy có một bức họa giống hệt người con gái đã gặp dạo trước nên bèn mua tranh về
nhà treo. Càng ngày Tú Uyên càng nhung nhớ Giáng Kiều, mải mê ngắm bức tranh:
Mưa hoa khép cánh song hồ
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa
Mở đầu đoạn trích là khung cảnh nên thơ ở “song hồ” - nơi cậu học trò nghèo Tú
Uyên đọc sách và tương tư về người trong mộng. Cụm từ “Sớm khuya” cho thấy vòng
thời gian tuần hoàn, liên tục. Từ khi gặp Giáng Kiều, Tú Uyên mong nhớ không lúc
nào nguôi. Chàng quên hết thời gian và không gian xung quanh, chỉ ngắm nhìn bức
họa cả ngày lẫn đêm. Nỗi nhớ da diết và mãnh liệt đến mức Tú Uyên cảm tưởng như
người con gái trong tranh đang thực sự đứng trước mặt mình. Niềm tương tư được thể
hiện ở hành động cụ thể. Cặp số từ “một” - “hai” cùng với các từ “chung”, “thêm” cho
thấy thái độ trân trọng, nâng niu của Tú Uyên dành cho bức chân dung Giáng Kiều.
Kể cả khi ăn, chàng cũng ngồi trước bức tranh và tưởng tượng người trong mộng đang
đứng trước mặt nên làm thơ, mời rượu.
Tưởng gần thôi lại nghĩ xa
Có khi hình ảnh cũng là phát phu
Êm trời vừa tiết trăng thu
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng
Chiều thu như gợi tấm thương
Lòng người trông xuống sông Tương mờ hình
Cặp từ đối lập “gần” - “xa” cùng hai động từ “tưởng” và “nghĩ” thể hiện niềm thương
nhớ trào dâng đến bứt rứt trong cõi lòng. Tú Uyên bầu bạn với bức tranh cho khuây
khỏa nhưng càng ngắm tranh lại càng nhớ nàng. Bức họa quá đẹp khiến chàng trai đã
ngỡ như người thiếu nữ đang kề cạnh rất gần nhưng thực chất khoảng cách vẫn quá xa
xôi. Những hình ảnh thiên nhiên như “trăng thu”, “Ngàn sương”, “lá khô” khắc họa
nên khung cảnh thiên nhiên yên bình, nên thơ. Dưới ánh trăng mùa thu dịu dàng, màn
sương mỏng giăng giăng khắp lối tựa như rắc muôn ngàn ánh bạc xuống nhân gian,
thảm lá vàng phủ kín khoảnh sân. Thiên nhiên hòa hợp với tâm trạng con người.
Trong văn học, buổi chiều là khoảng thời gian đi liền với nỗi nhớ. Ca dao xưa từng
nhiều lần diễn đạt nỗi nhớ nhung rất ý nhị, ngọt ngào:
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai
Với Tú Uyên, chiều thu cũng gợi niềm thương nỗi nhớ. Chàng thư sinh đã gửi lòng
mình trôi theo dòng nước sông Tương, chìm vào cõi mộng mơ vì quá đỗi say mê bóng
dáng nàng thiếu nữ. Hình ảnh sông Tương trong câu thơ gắn với điển tích khi Vua
Thuần mất, hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh cùng khóc thảm thiết trên sông
Tương. Từ đó, đây trở thành dòng sông biểu trưng cho nỗi nhớ:
Sông Tương ai gọi rằng sâu
Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta
Sông Tương sâu hãy còn có đáy
Bệnh tương tư không bảy không bờ
Hướng về thiên nhiên, thiên nhiên càng khắc sâu sự thương nhớ, trông mong nên Tú
Uyên lại quay về giãi bày với chính mình và tâm sự với bức tranh:
Kề bên năn nỉ bày tình
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa
Từ phen giáp mặt đến giờ
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn
Ấy ai điểm phấn tô son
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?
Động từ “năn nỉ” thể hiện sự cồn cào, khao khát được giãi bày tình cảm mãnh liệt của
Tú Uyên. Tú Uyên trải lòng về hoàn cảnh của chính mình và về tình yêu. Cặp từ đối
lập “ngày” - “đêm” đi liền với hai từ “tưởng”, “mơ” thể hiện nỗi nhớ thường trực,
không lúc nào ngơi nghỉ mà luôn cuộn xoáy trong tâm trí chàng trai. “đã chồn” tức là
quá mệt mỏi, Tú Uyên nhớ nhung Giáng Kiều đã trở thành “bệnh tương tư”. Lời thơ
dường như một lời than van, trách móc rất tình tứ. Tú Uyên trách thiếu nữ vì sao lại
“điểm phấn tô son” để người quân tử “ruột héo gan mòn”. Tiếng “ai” được lặp lại hai
lần, vừa chỉ đối phương vừa chỉ chính mình, đồng nhất hai con người và cũng là hai đầu nỗi nhớ
Tình yêu luôn chứa đựng sức mạnh diệu kì khiến con người có thể đánh đổi tất cả để
có được nó. Tú Uyên cũng vậy, chàng đã lấy “Nghìn vàng” và “cung trăng” để thể hiện tình yêu:
Buồng đào nửa bước chẳng rời
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!
Tú Uyên nhớ Giáng Kiều đến mức tách mình với thế giới bên ngoài, không rời căn
buồng nửa bước. Chàng xin được đổi nghìn vàng để lấy nụ cười của nàng. Chữ
“nghìn” chỉ nỗi nhớ đằm sâu, không gì so sánh được. Câu thơ là một câu hỏi tu từ, có
tác dụng nhấn mạnh tình cảm của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Không chỉ vậy,
chàng còn muốn mở khóa cung trăng để lại được chiêm ngưỡng dung mạo của nàng,
vượt qua giới hạn của không gian và thời gian.
Bằng những điển tích, hình ảnh thiên nhiên giàu tính ước lệ, các cặp từ đối lập, cùng
câu hỏi tu từ, đoạn thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết, tình yêu mãnh liệt mà Tú Uyên
dành cho Giáng Kiều. Tình yêu ấy là biểu tượng cho khát khao hạnh phúc, thoát khỏi
thực tại buồn bã của con người.
Tiếp đến là những câu thơ thuật lại sự việc khi Tú Uyên và Giáng Kiều gặp nhau:
So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!
Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Bỗng đâu thấy sự lạ đời
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhân nhân mày liễu mặt hoa
Này người khi trước đâu mà đến đây?
Một hôm, Tú Uyên đi học, khi trở về đã thấy trong nhà có cơm canh bày sẵn. Bữa
cơm ấy có “phong vị khác thường”, tỏa hương thơm như hoa ngọt ngào. Tú Uyên thấy
lạ, lòng nảy sinh mối nghi ngờ. Sáng hôm sau, Tú Uyên vờ đi ra ngoài và bất ngờ trở
về thì bắt gặp người con gái có dung mạo vô cùng xinh đẹp từ trong tranh bước ra.
Trước sự việc ấy, Tú Uyên quá hạnh phúc khi gặp được người trong mộng nên đã
hành động vội vã: “Vội vàng đánh tiếng ra chào”. Chi tiết “Bên mừng bên lệ” cho
thấy cảm xúc rối rời, hạnh phúc đến mức rơi lệ.
Đáp lại lời chào hỏi từ Tú Uyên, Giáng Kiều cũng e thẹn giới thiệu về mình. Sự xuất
hiện của Giáng Kiều khiến ta liên tưởng đến hình ảnh những nàng tiên, cô Tấm trong
truyện cổ dân gian Việt Nam rất mực hiền thục, có tấm lòng thơm thảo. Giáng Kiều
cũng là cô gái như vậy. Lời nói của nàng toát lên vẻ đoan trang, dịu dàng:
Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân
Cũng là nhờ đức tiên quân
Đoá hoa biết mặt chúa xuân từ rày”
Nàng tự nhận là thân “bồ liễu” mỏng manh, vốn là “khách thanh tiêu” trên trời, có
hiệu là Tiên Thù, tên gọi là Giáng Kiều. Vì mối “tơ điều” đã gắn kết nàng và Tú Uyên
nên “Ba sinh đã nặng vì duyên”. Qua lời nói của Giáng Kiều có thể thấy mối tình
Uyên - Kiều là mối thiên duyên tiền định, được sự đồng thuận của trời đất. Lắng nghe
lời nói của Giáng Kiều, Tú Uyên cũng bày tỏ những tâm tư đã chồng chất trong lòng
bấy lâu: “ Nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi? ”.
Không chỉ có dung nhan xinh đẹp, lời nói ngọt ngào, phẩm cách trang nhã mà Giáng
Kiều còn là người phụ nữ có tấm lòng thủy chung, son sắt trong tình yêu và có ý thức
cao độ về danh dự của mình:
Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh
Dám đâu học thói yến oanh
Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương
Gieo thoi trước đã dở dang
Sao nên nát đá phai vàng như chơi
Mái Tây còn để tiếng đời
Treo gương kim cổ cho người soi chung
Lạ gì hoa với gió đông
Tiếc hương vả cũng nể lòng chim xanh
Một mai mưa gió bất tình
Vóc tàn nên để yến oanh hững hờ
Nghĩ trong thân phận yếu thơ
Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau!
Tác giả đã vận dụng điển tích kén rể của vua Hán Vũ Đế cho công chúa ngồi trên lầu
cao ném quả cầu xuống, ai bắt được cầu thì lấy người ấy để thể hiện tấm lòng mà
Giáng Kiều dành cho Tú Uyên. Hai từ “quyết” và “thề” được đặt ở hai dòng thơ liền
nhau cho thấy thái độ nghiêm túc, trang trọng của Giáng Kiều khi nói về hôn nhân,
hạnh phúc. Nàng khẳng định tấm lòng trinh bạch của mình khác xa với “thói yến
oanh” ham vui và ngắn ngủi. Cặp từ đối lập “mặn” - “nhạt”, “trăng gió” (hời hợt) -
“lửa hương” (mặn nồng) được đặt trong cùng một câu thơ càng khẳng định vẻ đẹp
phẩm chất của cô gái và tấm lòng chung thủy trong tình yêu. Những điển tích điển cố
như “Gieo thoi”, “Mái Tây” thể hiện ý thức giữ gìn tình yêu của người con gái.
Thưa rằng: “Túc trái tiền nhân
Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi
Song còn mấy bạn tương tri
Bấy lâu chưa có chút gì là đâu
Trước xin từ biệt cùng nhau
Chữ duyên này trở về sau còn dài”
Giáng Kiều đã vận đến “tiền nhân” - duyên nợ từ kiếp trước để nói về lí do nàng
xuống trần. Từ trong thâm tâm, Giáng Kiều đã thực sự coi Tú Uyên là “bạn tương tri”.
Mối quan hệ tri âm, tri kỉ xưa nay dễ gì bị phai nhạt bởi khoảng cách nên nàng đã hứa
“Chữ duyên này trở về sau còn dài”. Nét đẹp của Giáng Kiều nằm ở sự thông minh,
khéo léo, tế nhị và tấm lòng trước sau như một.
Sau cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa Tú Uyên và Giáng Kiều là khung cảnh hạnh phúc của
đôi uyên ương. Giáng Kiều đã “rút chiếc trâm đầu”, hóa phép tiên để thay đổi khung cảnh xung quanh:
Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài
Tường quang sáng một góc trời
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Người yểu điệu, khách thanh tạo
Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai
Lả lơi bên nói bên cười
Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha
Chỉ trong phút chốc, lều cỏ đã hóa thành lâu đài. Vầng dương quang bao phủ rực rỡ,
sáng cả một góc trời. Kẻ vào người ra tấp nập, ai nấy cũng thanh tao, lịch lãm. Các từ
láy “Nhởn nhơ”, “Lả lơi”, “Đong đưa” cùng động từ “nói, cười”, “đua”, “khoe” đã
diễn tả tâm trạng vui tươi, say trong men rượu của quan khách và gia chủ.
Như vậy, đoạn trích bao gồm nỗi nhớ của Tú Uyên với dáng Kiều, cuộc gặp gỡ của
đôi uyên ương chính là biểu hiện cho khát khao hạnh phúc lứa đôi và niềm hy vọng
vào tình yêu mãnh liệt. Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, hệ thống các từ láy
giàu tính biểu đạt, các điển tích điển cố, những hình ảnh thiên nhiên ước lệ tượng
trưng đã góp phần làm nên thành công cho tác phẩm.
Phân tích Tú Uyên gặp Giáng Kiều
“Bích Câu kì ngộ” của Vũ Quốc Trân là truyện Nôm xuất sắc của nền văn học Việt
Nam. Câu chuyện kể về một chàng thư sinh tên là Trần tú Quyên gặp nàng Giáng
Kiều ở đất Bích Câu và cùng nhau se sợi tơ duyên hạnh phúc. Đoạn trích “Tú Uyên
gặp dáng kiều” nói về hoàn cảnh khiến chàng và nàng gặp nhau rồi kết duyên đôi lứa.
Câu thơ đầu đã cho người đọc cảm nhận được gia cảnh nghèo khó của chàng thư sinh Trần Tú Uyên.
Mưa hoa khép cánh song hồ
Cuộc đời thật nghiệt ngã với chàng khi cha mẹ chàng mất sớm, chàng một mình lủi
thủi với căn nhà giữa hồ Bích Cầu, ngày đêm miệt mài đèn sách. Trong dịp dạo chơi
xuân, tình cờ chàng trông thấy một người con gái xinh đẹp như tiên nữ giáng trần,
chàng luôn dõi theo sau được một quãng thì nàng biến mất không rõ tung tích. Từ đó,
chàng ôm tương tư mà ngày đêm nhung nhớ.
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa ...
Cho hay tình cũng là chung
Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!
Tác giả miêu tả nỗi nhớ của chàng như “sông Tương mơ hình”, sông Tương là nơi hai
bà Nga Hoàng và Nữ Anh đã khóc thương chồng, nay đó là nơi trĩu nặng tương tư của
nhân vật. Rồi một ngày, Tú Uyên mua được một bức tranh nàng thiếu nữ với nét đẹp
tựa như người chàng đang thương nhớ, chàng mua về treo trong nhà để “sớm khuya”
ôm mộng. Chàng nghĩ về người thiếu nữ ấy đến nỗi ngỡ người trong tranh “phát phu”,
tưởng tượng người thiếu nữ trong tranh là người thật. Chàng ôm nhung nhớ đến
“chồn” cả người, chồn ở đây có nghĩa là ốm yếu, không còn cử động được, chàng nhớ
nàng đến mất ăn mất ngủ. Đến nỗi chàng còn ao ước “bẻ khóa cung trăng” để thấy
được “chị Hằng” mà chàng ngày êm mộng mị. Có thể thấy nỗi niềm tương tư, tình
cảm của chàng thật sâu nặng giống như xuân Diệu đã từng viết bài thơ “Vấn vương”:
Anh chả hiểu vì sao vấn vương
Năm năm, như mấy chục năm trường
Vẫn là mắt mấy, làn môi ấy
Anh hãy còn thương, chẳng hết thương.
Một quãng thời gian sau, một hôm Tú Uyên bận công việc ở trường trở về nhà trời đã
muộn thì thấy cơm nước được dọn sẵn. Không khỏi thắc mắc, chàng quyết định rình
xem người bấy lâu nay chăm sóc, phục vụ bữa cơm miếng nước cho chàng là ai:
Một khi ra việc trường văn
Trở về đã thấy bát trân sẵn sàng
So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngọt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!
Cơm canh tiếp đón không chỉ là cơm canh bình thường mà đầy đủ, sung túc như “bát
trân”. Bát trên là mâm cơm với 6 món ăn quý giá, chàng không tin vào mắt mình, chắc
hẳn chỉ có “bếp trời” mới làm được như vậy. Chàng quyết định rình một phen thì thấy
một nàng thiếu nữ từ trong tranh bước ra:
Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Trong tranh sao có bóng người vào ra? ...
Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên
Thỏa nỗi nhớ mong khi gặp được người trong mộng, mắt chàng rưng rưng “bên mừng
bên lệ” thổ lộ tình cảm bấy lâu nay với thiếu nữ. Người tiên nữ e thẹn, ngại ngùng tự
xưng là tiên nữ Giáng Kiều, vốn là người cõi tiên, vì có tiền duyên với chàng nên hạ phàm xuống đất:
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân ...
Đã rằng: tác hợp duyên trời
Làm chi cho bận lòng người lắm nao!
“Ba sinh” ở đây chính là mối nhân duyên tiền kiếp của chàng và nàng. Mối nhân
duyên vợ chồng đến bây giờ mới được “tơ trăng” nhờ ân đức của “tiên quân”, nên
nàng ngỏ ý nguyện một lòng “tấm son” cùng chàng se mối nhân duyên này:
Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu”
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh
Từ đó hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, thấu hiểu nhau. Chim yến oanh bay theo
từng đàn chúc phúc cho đôi trai tài gái sắc, trăng thanh, hoa nở mừng cho mối lương
duyên này. Nàng hoa phép ra lâu đài nguy nga, lộng lẫy có đầy đủ kẻ hầu người hạ.
Thiên thời địa lợi nhân hòa chung vui với đôi vợ chồng, “Vũ y”, Nghê thường” hay
chính là quần áo, xiêm y lả lướt, thiết tha.
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha.
Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” mang âm hưởng dân tộc rõ nét, bút pháp nghệ
thuật tài tình trong xây dựng hình tượng nhân vật khi kết hợp tả cảnh với tả tình. Tác
phẩm được viết bằng chữ Hán mang nét mộng tưởng hoang đường về tình yêu. Ẩn
chứa trong đó là tâm nguyện của tác giả về một vấn đề len lỏi trong xã hội. Đó là cái
nhìn phê phán của tác giả về một xã hội loạn lạc, khó khăn, khiến con người ta muốn
thoát ly khỏi thế giới thực tại. Mặt khác, tác phẩm cũng hướng cho con người giải tỏa,
cải cách tâm hồn thoát khỏi Nho giáo, tiến đến Phật giáo và Đạo giáo.