



















Preview text:
Phân tích bài Tức cảnh Pác Bó   
Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tháng 2-1941 Bác Hồ trở về 
Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở trong nước. Khi đó, Người sống 
và làm việc trong điều kiện hết sức gian khổ nhưng vẫn vui vẻ lạc quan. Bài thơ Tức 
cảnh Pác Bó là một trong những tác phẩm Người sáng tác trong thời gian này. Bài 
thơ Tức cảnh Pác Bó được viết theo thể thơ tứ tuyệt Đường luật với phương thức 
biểu đạt chính là biểu cảm. Sau đây là mẫu phân tích bài Tức cảnh Pác Bó, mòi các  bạn cùng tham khảo.   
1. Dàn ý phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó  a) Mở bài 
- Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh 
+ Hồ Chí Minh (1890 - 1969) là vị lãnh tụ tài ba vĩ đại, một nhà thơ lớn của dân tộc 
Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. 
- Giới thiệu bài thơ Tức cảnh Pác Bó: 
+ Bài thơ ra đời vào tháng 2/1941 phản ánh cuộc sống sinh hoạt phong phú, sôi nổi, 
phong thái ung dung tự tại và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ vĩ đại 
trong hoàn cảnh bí mật khó khăn gian khổ ở Pác Bó.  b) Thân bài  * Khái quát về bài thơ:  - Hoàn cảnh sáng tác: 
+ Năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật về Pác Bó, Cao Bằng sau nhiều năm bôn 
ba hải ngoại tìm đường cứu nước. 
+ Người sống và hoạt động bí mật trong hang Pác Bó với điều kiện sinh hoạt rất  gian khổ. 
- Giá trị nội dung: Bài thơ cho thấy tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác 
Hồ trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ ở Pác Pó. Với người, làm cách mạng 
và sống hòa hợp với thiên nhiên là một niềm vui lớn. 
* Luận điểm 1: Cảnh sinh hoạt và làm việc của Bác ở núi rừng Pác Bó (3 câu thơ  đầu) 
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang 
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng 
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng"  - Hành động: Ra - vào.  - Thời gian: Sáng - tối. 
-> Phép đối chỉnh thể hiện cuộc sống đều đặn, nhịp nhàng, liên tục quay vòng của  Bác khi ở Pác Pó. 
- Không gian: Suối - hang -> 2 địa điểm làm việc, sinh hoạt chính của Bác 
=> Cuộc sống bí mật nhưng Bác vẫn giữ được nề nếp, quy củ, phong thái ung dung,  chủ động. 
- Ăn uống đạm bạc: "Cháo bẹ, rau măng" (cháo ngô với rau măng) -> Những thức 
ăn luôn có sẵn trong rừng. 
- “vẫn sẵn sàng” -> thức ăn luôn có sẵn trong tự nhiên. 
-> Tâm thế luôn sẵn sàng đương đầu với thử thách, khó khăn của người chiến sĩ  cách mạng. 
- "bàn đá chông chênh" -> Điều kiện làm việc thiếu thốn, không có bàn mà phải dùng 
những tảng đá lớn không bằng phẳng 
- "dịch sử Đảng" -> Bác dịch cuốn "Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô" để làm tài liệu 
học tập cho các cán bộ cách mạng 
=> Dù cuộc sống sinh hoạt nơi núi rừng hoang dã vô cùng khó khăn, thiếu thốn, 
hiểm nguy rình rập, song Bác luôn yêu thiên nhiên, yêu công việc cách mạng và 
luôn làm chủ cuộc sống. 
* Luận điểm 2: Tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, hòa hợp với thiên nhiên của  Bác (câu thơ cuối) 
"Cuộc đời cách mạng thật là sang" 
- Cuộc sống dù có nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng Bác vẫn luôn cảm thấy vui vẻ, 
lạc quan, giữ vững một tinh thần "thép". 
- "sang" : sự sang trọng về vật chất 
-> Ở đây, cái sang của Bác là cái sang của cuộc đời cách mạng, được sống giữa 
thiên nhiên, dưới bầu trời tổ quốc để cống hiến sức mình cho độc lập dân tộc, mang 
lại cuộc sống hòa bình, no ấm cho nhân dân. 
=> Tinh thần yêu nước sâu sắc, phong thái ung dung, lạc quan, yêu đời, hòa hợp  với thiên nhiên. 
* Đặc sắc nghệ thuật: 
- Thể thơ tứ tuyệt ngắn gọn, hàm súc 
- Ngôn ngữ giản dị, chân thật, mộc mạc 
- Giọng thơ hóm hỉnh, vui đùa thể hiện tinh thần lạc quan của Bác 
- Phép đối chỉnh mang lại hiệu quả nghệ thuật cao. 
- Vừa mang đặc điểm cổ điển, truyền thống vừa mới mẻ, hiện đại. 
- Tạo được tứ thơ độc đáo, bất ngờ, thú vị và sâu sắc.  c) Kết bài 
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ 
- Cảm nhận của em về giá trị tinh thần của bài thơ. 
2. Văn nghị luận Tức cảnh Pác Bó lớp 8 
Sau ba mươi năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài trở về, Bác đi dọc theo biên giới 
Việt – Trung để đặt chân tới Cao Bằng, Người đứng sững hồi lâu, rồi ngay sau đó 
rưng rưng nghẹn ngào, bật khóc mà hôn lên hòn đất dưới chân mình vì hạnh phúc 
khi nhìn thấy đất Việt Nam thân thương. Giây phút thiêng liêng đầy xúc động ấy đã 
được Tố Hữu ghi lại trong những câu thơ thật tha thiết:  Ôi sáng xuân nay, Xuân 41 
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ 
Bác về... Im lặng. Con chim hót 
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ... 
Phải chăng chính hạnh phúc bất tận của cảnh vật và con người đó, cùng với quá 
trình hoạt động cách mạng còn đang khó khăn, nhọc nhằn là chất keo kết dính Bác 
với mảnh đất Cao Bằng để nung nấu con đường cứu nước đầy gian khổ. Năm 
tháng ấy, Người cũng không quên góp nhặt riêng mình, tặng cho đời những vần thơ 
yêu thiên nhiên, con người, đất nước thiết tha, một trong số đó phải kể đến “Tức 
cảnh Pác Bó” – vần thơ vang vọng của núi rừng về tinh thần cách mạng sâu sắc. 
Nhắc tới Bác Hồ là nhắc vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu suốt ngàn đời của dân tộc Việt 
Nam, Người biến ngọn lửa đau thương, nước mắt nghẹn ngào, máu chảy lầm than 
trở thành thứ vũ khí sắc bén để đánh bại những kẻ thù tàn bạo trong hai cuộc chiến 
tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ mà đất nước ta đã đi qua. Thế nhưng, để 
đánh đổi lấy sự bình yên quý giá ấy Bác đã hi sinh cả tuổi thanh xuân, gia đình, 
hạnh phúc riêng tư chỉ dành toàn tâm toàn ý cho non sông, bờ cõi nước nhà, sự hi 
sinh này được khắc họa rất rõ trong bức tranh sinh hoạt của Bác tại Pác Bó năm  nào: 
Sáng ra bờ suối tối vào hang 
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng 
Lạ kì thay một dân tộc với hàng triệu dân, một đất nước yêu kính lãnh tụ như người 
cha thân thương của mình, chẳng lẽ họ không thể lo cho bác một căn nhà đơn sơ, 
cuộc sống bình dị hay sao mà Người phải ở “hang” sinh hoạt bên “suối”. Thế nhưng, 
nếu hiểu rõ hơn về Bác ta sẽ thấy hoàn cảnh bấy giờ của dân tộc đang trong giai 
đoạn nước sôi, lửa bỏng, máu lửa, hi sinh khiến Bác phải ẩn mình nơi núi rừng, 
hoang vu và cũng bởi trái tim Người luôn hướng về những điều thật bình dị, đơn sơ 
chẳng chọn cao sang, quyền quý nên Bác sống bên không gian suối mát, ở trong 
hang rộng để lắng nghe thế sự mà nung nấu ý chí diệt giặc, trừ bạo tàn. Văn học 
luôn suốt phát từ sự đồng điệu của con người với thực tại, chọn cái quen để khai 
phá, do đó Bác cũng mang bên mình những hình ảnh gần gũi thân thiết gắn bó, 
chẳng vậy mà, mở đầu bức tranh về thiên nhiên núi rừng Pác Bó ta bắt gặp một con 
người ung dung, hòa nhã, tự tại trong phép đối thật đặc biệt khi thời gian tuần hoàn 
của ánh “sáng” và đến “tối”, lúc hoạt động nhịp nhàng hết “ra” lại “vào”, rồi Bác chọn 
nơi ở bên “bờ suối” cùng “hang” sâu. Chỉ bấy nhiêu thôi nhưng ta thấy dù đối lập 
trong từng từ ngữ, hình ảnh mà sao các tiếng thơ vang lên nhịp nhàng, hài hòa để tô 
đậm sự quy củ, nề nếp của Bác khi sống và làm việc vui vầy bên dòng suối mát 
trong nơi sáng ban mai tinh khôi, dịu dàng, đêm tối Bác lại vào hang ấm áp ẩn mình, 
tránh gió. Thế nên, khi đọc những âm điệu mở đầu bài thơ ta bỗng nhận ra thời 
gian, không gian như ôm trọn lấy Bác, bao bọc, yêu thương bởi chính người cũng 
dành những gì đẹp nhất cho nơi đây. Chẳng vậy mà Bác đặt cho dòng suối mang 
cái tên Lê -Nin kính yêu, lấy dãy núi trước mặt là Các- Mác vĩ đại như nhắc nhở tự 
trái tim mình ghi dấu những con người giúp Bác tìm thấy ánh sáng của cuộc đời vậy. 
Nói đến nơi ở, Bác cũng chẳng ngại ngần kể chuyện đồ ăn, thức uống, song cách 
Người đem đến hơi thở về cuộc sống qua những tiếng thơ lại có phần đặc biệt, Bác 
chọn ăn “cháo bẹ”, lấy “rau măng” trong mỗi bữa cơm, không phải do Bác bị người 
đời lãng quên, bởi đơn giản Người muốn sống cuộc sống giống như đồng bào dân 
tộc nơi đây, tận hưởng món quà nhỏ bé mà thiên nhien đã nuôi sống con người biết 
bao đời nay. Bác cũng muốn nhường miếng cơm nóng, bát rau xanh cho chiến sĩ 
ngoài kia vì họ lao vào vòng địch, cửa sinh tử chống chọi cùng đạn bom với biết bao 
thương đau. Chỉ vậy thôi, mà ta nghẹn ngào, xúc động vỡ ào trong niềm cảm mến, 
trân trọng dành cho người lãnh tụ vĩ đại ấy. Chọn cho mình cuộc sống ăn uống đạm 
bạc với bát cháo ngô, vài cây măng đắng như mà Phạm Tiến Duật đã từng viết: “Hết 
rau rồi em có lấy măng không”, rau đã là thiếu thốn, nhưng măng lại đem đến sự tận 
cùng của khó khăn khi không còn sự lựa chọn thì người ta phải chấp nhận. Thế 
nhưng, ta nghe trong hơi thở âm vang của lời ca Bác viết lại bình yên là vui tươi 
hóm hỉnh đến lạ, đó là tâm thế ung dung, tự tại đón nhận cuộc sống vui với cảnh 
nghèo mà Bác hướng tới được vang lên mạnh mẽ dù đồ ăn đơn sơ nhưng “vẫn 
sẵng sàng”. “Sẵn sàng” vì đó là những thứ quen thuộc nơi núi rừng nên chẳng bao 
giờ thiếu thốn, chẳng sợ no đói trong cảnh nghèo, hay “sẵn sàng” dù kham khổ thì 
Bác luôn cố gắng chiến đấu bảo vệ trọn vẹn độc lập tự do của non sông. Thế nhưng 
nếu hiểu Bác mọi lúc, mọi nơi chỉ đều cứng nhắc lên gân lên cốt thì quả sẽ không 
hợp với suy nghĩ và tâm hồn Bác trong thời điểm hiện tại, bởi xét đến cùng người 
lãnh tụ ấy vẫn hướng cho mình cuộc sống thanh đạm, bình dị như mà bậc hiền triết  xưa vẫn chọn: 
Thu ăn măng trúc đông ăn giá 
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” 
(Nhàn –Nguyễn Bỉnh Khiêm) 
Thơ là đời, thơ như hơi thở của cuộc sống, còn người nghệ sĩ mãi mãi giống một 
thư kí trung thành ghi chép lại mọi khoảnh khắc, nhặt từng niềm vui nhỏ bé ở thế 
gian. Song nếu, thi sĩ xưa chọn lối sống ở ẩn là một trong những chủ đề quen thuộc 
của thơ ca, như Nguyễn Khuyến lui về không màng thế sự, mà lòng vẫn luôn đau 
đáu, buồn bã không thôi trong dáng vẻ : 
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được 
Cá đâu đớp động dưới chân bèo 
Thì Hồ Chí Minh lại khác, thú lâm tuyền của Bác là tràn ngập tình yêu thiên nhiên, 
tinh thần lạc quan, hóm hỉnh, yêu đời và hết mực hiện đại. Ở ẩn đấy mà Người vẫn 
một lòng hướng về dân tộc, đất nước, ánh sáng của cách mạng phía trước con  đường với: 
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng 
Rõ ràng ai trong mỗi chúng ta cũng có quyền lựa chọn cách sống cho riêng mình, 
nhàn hạ hay vất vả, thảnh thơi hoặc dám dấn thân, thế nhưng chắc chắn mỗi người 
đều hiểu được giá trị của hai chữ đánh đổi trong cuộc đời của mình quan trọng ra 
sao? Bạn chọn nhàn hạ, thảnh thơi bạn sẽ mãi chỉ là những cây con nhỏ bé chẳng 
dám vươn mình lên dòng ánh nắng chói chang của mặt trời, còn nếu lựa lối đi vất 
vả, dấn thân bạn sẽ chúng tỏ bản lĩnh cá nhân, hơn thế hành động ấy có thể thay 
đổi được cuộc đời của rất nhiều người. Và Bác Hồ cũng vậy Người sãn sàng lao 
vào chốn hiểm nguy, hi sinh và không ngừng trăn trở về vận mệnh non sông, tổ 
quốc chỉ mong đổi lại tự do cho đất nước Việt Nam thân yêu mà Bác vẫn luôn đem 
theo trong trái tim mình. Chẳng vậy mà, hơn ba mươi năm bôn ba ở nước ngoài trở, 
Bác vẫn ngày ngày trên con đường tìm kiếm ánh sáng cho dân tộc. Trong cái giá 
lạnh của rừng núi, sự thiếu thốn ánh sáng, trên một chiếc “bàn đá chông chênh” 
không mấy vững chắc, Người đang cặm cụi “dịch lịch sử Đảng” Cộng Sản Liên Xô 
thành sách để phục vụ cho quá trình đấu tranh của giang sơn, đất nước. Câu thơ 
cất lên giữa núi rừng Pác Bó tựa mọt tiếng đàn nhẹ nhàng vang vọng vào tim ta hình 
ảnh thật đẹp đẽ về người cha già kính yêu của dân tộc cả một đời không ngủ vì non 
sông. Không chỉ vậy, cái hay ấy lại được bát nhịp từ sự đối ngẫu rất đặc biệt qua 
từng âm điệu các chữ nếu “bàn đá chông chênh” gợi ra tình thế bấp bênh của cách 
mạng Việt Nam đang trong thời kì trứng nước với ba thanh bằng chơi vơi, thì Bác đã 
khéo léo sử dụng ba thanh trắc “Dịch sử Đảng” như kìm lại, tạo thế cân bên công 
việc quan trọng Bác đang thực hiện: mở cánh cửa đưa luồng ánh sáng kiến thức về 
với mỗi người chiến sĩ. Điều này vừa làm nổi rõ những khó khăn về hoàn cảnh cuộc 
sống và công tác của Bác đồng thời thể hiện được trách nhiệm lớn lao mà Người  đang gánh trên vai. 
Mỗi câu thơ mở ra ta như sống trong khung cảnh yên bình giữa núi rừng Pác Bó với 
tiếng nước chảy hiền hòa, chim hót véo von, hoa phô hương sắc nhưng vạn vật đều 
phải nhường lại ánh hào quang rực rỡ cho con người, bởi ở đó có một vị lãnh tụ 
ngồi nghiên cứu con đường cứu nước bên bàn đá chông chênh, với tiếng hát đầy 
say mê, hào sảng vang lên: 
Cuộc đời cách mạng thật là sang 
Cả nguồn sống suốt bao năm tháng Bác gắn liền với cách mạng, bên con đường 
cứu nước, dù cho điều kiện ngoại cảnh, hay kháng chiến có vất vả, gian khổ, khó 
khăn thế nào thì lí tưởng, suy nghĩ cao đẹp của Người cũng khiến cho cuộc đời Bác 
trở nên ý nghĩa và “sang” hơn bất cứ khi nào hết. “Sang” phải chăng vì được sống 
cùng thiên nhiên tươi thắm, mát trong, “sang” hay do đạm bạc nhưng lúc nào cũng 
dư thừa chẳng lo thiếu thốn và quan trong hơn khi tiếng “sang” ấy cất lên ta hiểu 
được con đường Bác đi là con đường cách mạng thật cao quý, vẻ vang trong niềm 
hạnh phúc được sống cho đời. Thế nên, khúc nhạc tâm tình bên Pác Bó kết lại dù 
giản nhị, nhẹ nhàng chỉ bằng một tiếng “sang” nhãn tự của câu thơ mà như bùng 
sáng cảnh rừng hoang vu, thắp lên cả ngọn lửa hi vọng cho tương lai tươi đẹp ở 
phía trước của dân tộc Việt Nam. Có thể nói, trong sự kết hợp giữa cổ điển và hiện 
đại, ngôn từ hàm súc, giàu sức gợi hình, nhân vật trữ tình có phong thái ung dung 
hoà mình vào thiên nhiên, nhưng đề tài của Bác gắn liền với tính thời sự và cách 
mạng, niềm tin, niềm tự hào của Người cũng vì thế mà tỏa sáng cả bài thơ. Để rồi 
đến đây khúc nhạc ấy đã cho ta cách nhìn rõ nét hơn về cuộc đời, con người cũng 
như những khó khăn mà Bác phải trải qua mà thêm yêu thương, ngưỡng mộ Bác và 
trân trọng nền độc lập, tự do ta đang được đón nhận hôm nay, mai sau.  Có nhà thơ từng viết: 
“Người lãnh tụ, nhà nghệ sĩ 
Của mỗi người của cả trăm quê 
Trái tim lớn đập hoài không nghỉ 
Những buồn vui, căm giận, say mê ...” 
Quả thật đúng như thế, “Buồn vui, căm giận, say mê ...” của Bác xuất phát từ lòng 
yêu Tổ quốc, yêu dân tộc nồng nàn, thế nên Bác chọn con đường hoạt động chính 
trị và thắp sáng tâm hồn qua những vần thơ cũng để thể hiện một cách mãnh liệt 
lòng yêu thương cao cả mà người lãnh tụ giản dị ấy luôn dành cho dân, cho nước. 
Do đó, “Tức cảnh Pác Bó” chính là một trong những lời tâm sự hết sức nhẹ nhàng 
được Bác gửi gắm chất trữ tình nồng nàn và tinh thần thép lớn lao, vĩ đại của lòng 
mình cho dân tộc chắc chắn sẽ còn mãi lưu danh thiên cổ cùng non sông muôn đời. 
3. Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó ngắn nhất 
Thú lâm tuyền đã từng xuất hiện trong thơ ca của các nhà nhơ xưa như Nguyễn 
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Và niềm vui thú khi được sống cùng thiên nhiên đó cũng 
xuất hiện trong thơ ca Hồ Chí Minh, tiêu biểu là bài thơ "Tức cảnh Pác Bó": 
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang 
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng 
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng 
Cuộc đời cách mạng thật là sang". 
Bài thơ này được Bác viết vào tháng 2 năm 1941, sau ba mươi năm bôn ba và hoạt 
động cách mạng ở nước ngoài, Bác trở về để lãnh đạo cách mạng Việt Nam một 
cách trực tiếp với mục đích nhanh chóng giành được thắng lợi, giải phóng nhân dân 
khỏi ách áp bức. Bác sống và làm việc trong một hang núi nhỏ sát biên giới Việt - 
Trung, đó là hang Pác Bó. 
Con suối cạnh hang Pác Bó được Bác đặt tên là suối Lê-nin. Ngày ngày, nhịp sinh 
hoạt của Bác cứ diễn ra đều đặn, sáng sớm Bác ra bờ suối làm việc, tối đến Bác 
vào trong hang để nghỉ ngơi. Và khi nhắc đến chỗ ở, khung cảnh sinh hoạt thường 
ngày của mình, Bác đã dùng một giọng điệu thơ hết sức vui tươi xen lẫn sự hóm  hỉnh: 
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang" 
Nhịp thơ 4/3 cùng với phép đối "sáng" - "tối", "ra - vào" đã cho chúng ta thấy được 
nếp sinh hoạt nhịp nhàng, đều đặn của Bác. Không gian sinh hoạt của Người được 
diễn ra ở hai địa điểm: hang và suối. Song song với đó là hai hành động "ra bờ 
suối", "vào hang" cứ tuần hoàn, nối tiếp nhau như sự tuần hoàn của tự nhiên, tạo 
vật. Câu thơ chỉ có 7 tiếng ngắn gọn nhưng đã miêu tả được chi tiết hoàn cảnh sống 
của Bác qua thời gian "sáng" - "tối", hoạt động "ra" - "vào" và địa điểm "bờ suối" - 
"hang". Qua giọng điệu thơ dí dỏm, chúng ta phần nào hình dung được tâm thế chủ 
động, sống hòa hợp với thiên nhiên của Bác. Chính tâm hồn ung dung, thoải mái đã 
giúp Bác chiến thắng mọi hoàn cảnh khắc nghiệt. 
Sống và làm việc trong hoàn cảnh khó khăn như vậy nên bữa ăn của Bác cũng hết  sức đạm bạc, dân dã: 
"Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng" 
Nhắc đến núi rừng Tây Bắc chúng ta không thể không nhắc đến hai sản vật "cháo 
bẹ" và "rau măng". Đây là những món ăn quen thuộc có mặt hàng ngày trong bữa 
ăn của Bác. Cháo ngô, măng rừng đã thay thế cho cơm. "Cháo bẹ", "rau măng" luôn 
được chuẩn bị đầy đủ để phục vụ cho các bữa ăn của Người. Ngoài ra, chúng ta có 
thể nhận thấy rằng Hồ Chí Minh đón nhận những điều đó bằng một tâm thế "sẵn 
sàng" của người chiến sĩ cách mạng không đầu hàng trước mọi hoàn cảnh. Bác 
không những không yêu cầu được chăm sóc, phục vụ tốt hơn hay than vãn, phàn 
nàn về cuộc sống ấy mà ngược lại, Người tỏ ra hoàn toàn vui vẻ và thích ứng với 
hoàn cảnh gian khổ. Trong khi đất nước bị xâm lược, cuộc sống nhân dân điêu 
đứng, lầm than, Bác không thể chỉ nghĩ cho riêng bản thân mình mà Bác nghĩ cho 
toàn thể nhân dân, dân tộc. Sự hi sinh ấy thật đáng trân quý biết nhường nào. 
Không chỉ nơi ở hiểm trở, bữa ăn đạm bạc, dân dã mà ngay cả đến nơi làm việc của 
người đứng đầu lãnh đạo cách mạng Việt Nam cũng "chông chênh": 
"Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng" 
Nếu phiến đá bên bờ suối Lê-nin gợi ra sự không cân bằng, nhấp nhô, khập khiễng 
bao nhiêu thì quyết tâm làm việc của Bác lại cứng rắn, quyết liệt bấy nhiêu. Công 
việc của Bác cần có sự tập trung cao độ. Ta có thể hình dung Bác dịch cuốn "Lịch 
sử Đảng Cộng sản Liên Xô" để làm tài liệu học tập cho các cán bộ cách mạng lúc 
bấy giờ trên bàn làm việc không được cân bằng do từ láy tượng hình "chông chênh"  gợi ra. 
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng không mệt mỏi, Người đã thấy rằng: 
"Cuộc đời cách mạng thật là sang". 
Được mang sức lực của mình phục vụ cho nhân dân, đất nước là một niềm hạnh 
phúc đối với Hồ Chí Minh. Bác không quản ngại khó khăn, gian truân để cống hiến, 
mang lại độc lập, tự do cho dân tộc. Lý tưởng cách mạng đã soi sáng cho con 
đường của người chiến sĩ cộng sản. Từ "sang" đã phần nào bộc lộ phong thái ung 
dung, lạc quan, yêu đời của Bác. Bác không cần một chỗ ở sang trọng, những bữa 
ăn đầy đủ cá thịt hay cần một chiếc bàn làm việc bằng phẳng. Điều Bác cần là được 
đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản, chiến đấu để mang lại cuộc sống hòa bình, no 
ấm cho nhân dân. Chắc có lẽ trên thế giới hiếm có ai "sang" theo kiểu của Bác. 
Bằng tinh thần yêu nước sâu sắc, Bác Hồ đã luôn khắc phục, vượt lên trên hoàn 
cảnh để cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. 
Ba câu đầu của bài thơ thiên về tả cảnh, chỉ đến câu thơ cuối Bác Hồ mới bộc lộ 
tâm trạng nhưng dường như nụ cười vui tươi vẫn thấp thoáng sau mỗi câu thơ của 
Người. Nó đã đẩy lùi đi tất cả những khó khăn, nguy hiểm và tiếp thêm tinh thần cho 
Bác, một tinh thần "thép" giữa hoàn cảnh sống và làm việc thiếu thốn, gian khổ. 
Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt cùng với cách ngắt 
nhịp 4/3 đã tạo nên nhịp điệu thơ nhẹ nhàng, khoan thai. Giọng thơ hài hước, hóm 
hỉnh đã cho thấy tinh thần lạc quan, sự ung dung trong hoàn cảnh đầy khó khăn của 
người chiến sĩ cộng sản. Đối với Bác, không có niềm vui nào lớn hơn là niềm vui 
làm cách mạng, mang lại độc lập cho dân tộc và sống hòa hợp với thiên nhiên.   
4. Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó  Mẫu 1 
Bác Hồ về nước tháng 2/1941, sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm 
đường cứu nước. Khi đó, tình hình thế giới và trong nước có những biến động vô 
cùng to lớn (đại thế chiến thứ hai, Pháp lại khủng bố cách mạng dã man, Nhật vào 
Đông Dương; ở châu Âu, Pháp đầu hàng phát xít Đức...), Bác đã triệu tập Hội nghị 
Trung ương Đảng lần thứ VIII, vạch đường lối cách mạng trong tình hình mới, quyết 
định thành lập Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) đoàn kết rộng rãi 
các tầng lớp nhân dân đánh Pháp đuổi Nhật, tranh thủ thời cơ giành độc lập cho Tổ  quốc. 
Bác sống ở hang Pác Bó (đúng tên là Cấn Bó, nghĩa là đầu nguồn), trong điều kiện 
sinh hoạt hết sức gian khổ. Đồng chí Võ Nguyên Giáp kể lại: “Nơi ở đầu tiên của 
Bác tại Pác Bó tuy ẩm lạnh nhưng vẫn là nơi ở tốt nhất. Địa điểm thứ hai là một hốc 
núi nhỏ ở rất cao và rất sâu trong rừng, bên ngoài chỉ rất ít cành lau. Những khi trời 
mưa to, rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng, Bác thức dậy thấy một con rắn 
rất lớn nằm khoanh tròn ngay cạnh Người (...) Sức khỏe của Bác có phần giảm sút. 
Bác sốt rét luôn. Thuốc men gần như không có gì ngoài ít lá rừng lấy về sắc uống 
theo cách chữa bệnh của đồng bào địa phương. Thức ăn cũng rất thiếu (...). 
Có thời gian, cơ quan chuyển vào vùng núi đá trên khu đồng bào Mán trắng, gạo 
cũng không có, Bác cũng như các anh em khác phải ăn toàn cháo bẹ hàng tháng 
ròng. Ở bất cứ hoàn cảnh nào, tôi cũng thấy Bác thích nghi một cách rất tự nhiên. 
Chẳng hiểu Bác được rèn luyện từ bao giờ, như thế nào mà mọi biến cố đều không 
mảy may lay chuyển được...” 
Mặc dù sống trong điều kiện gian khổ, hiểm nghèo như vậy nhưng Bác Hồ rất vui. 
Bác rất vui vì sau bao năm xa nước nay được sống và trực tiếp lãnh đạo phong trào 
trong nước. Đặc biệt, vì với nhân quan chính trị sắc bén. Người biết rằng thời cơ 
giành độc lập hoàn toàn đang tới, dù cục diện trước mắt còn tất đen tối. “Đối với 
Nguyễn Ái Quốc và các bạn chiến đấu của Người những ngày tháng ở Pác Bó tựa 
như những ngày vui bất tận, rực rỡ sắc màu của cảnh chờ đợi những chuyển biến 
vĩ đại (...) chưa bao giờ Nguyễn Ái Quốc làm việc nhiệt tình như vậy, Người như trẻ 
ra đến hai, ba chục tuổi. 
Bài thơ với bốn câu, có giọng đùa vui hóm hỉnh, đã toát lên một cảm giác vui thích, 
thoải mái. Phân tích bài thơ chính là phân tích tìm hiểu niềm vui thoải mái đó, vì 
đằng sau niềm vui đó là vẻ đẹp của một tâm hồn bình dị mà thanh cao, hồn nhiên 
mà đầy bản lĩnh của Bác Hồ. 
Câu mở đầu bài thơ có giọng điệu phơi phới, thoải mái, đọc lên, ta có cảm tưởng 
Bác Hồ sống thật ung dung hòa hợp nhịp nhàng với núi rừng: 
Sáng ra bờ suối, tối vào hang. 
Câu thơ ngắt nhịp ở giữa, tạo thành hai vế sóng đôi toát lên cảm giác nhịp nhàng, 
nề nếp: sáng ra, tối vào... Câu thứ hai là một nét cười đùa, cho biết thức ăn của con 
người sống ở suối, hang ấy thật đầy đủ, đầy đủ tới dư thừa: 
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. 
Câu thơ này, có thể hiểu là: dù chỉ có cháo bẹ, rau măng nhưng tinh thần cách mạng 
vẫn sẵn sàng. Cách hiểu ấy không sai về mặt ngữ pháp, nhưng e không thích hợp 
lắm với giọng đùa vui thoải mái của cả bài thơ. Có lẽ nên hiểu là: thức ăn (cháo bẹ, 
rau măng) thì lúc nào cũng có sẵn đó. 
Câu thứ nhất nói về ở, câu thứ hai nói về ăn, câu thứ ba nói về làm việc, cả ba câu 
đều là thuật tả sinh hoạt vật chất, chỉ đến câu kết mới phát biểu cảm xúc, ý nghĩ. 
Hiểu như vậy, sẽ phù hợp với mạch thơ, với kết câu chặt chẽ của bài thơ hơn. Ở 
đây ta chú ý cách gieo vần bằng (âm ang), gợi cảm giác mở ra và vang xa, đồng 
thời tạo nên cái thế vững vàng và cảm giác khoáng đạt của bài thơ. Câu thứ ba vần 
trắc làm nổi bật lên hình tượng ở trung tâm bài thơ, được đặc tả bằng những nét bút  đậm, khoẻ, sinh động: 
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng. 
Hai chữ “chông chênh” là lừ láy duy nhất của bài thơ, rất tạo hình; ba chữ “dịch sử 
Đảng” toàn vần trắc, thật khoẻ, gân guốc như cân lại ba câu vần bằng vang xa. Đó 
là hình tượng nhân vật trữ tình được đặt ở trung tâm bài thơ; như vậy con người là 
chủ thể của thiên nhiên chứ không bị lấn át, hòa lẫn trong thiên nhiên. Và thật là thú 
vị, vị “khách lâm tuyền” sống hoà hợp nhịp nhàng với suối, với hang kia, chính là 
người chiến sĩ cách mạng vĩ đại, đang tựa vào thiên nhiên để hoạt động cải tạo xã 
hội. Đằng sau cái dáng tạo hình cụ thể của Bác đang ngồi dịch sử Đảng toát lên tư 
thế lồng lộng của vị lãnh tụ dân tộc, nhà cách mạng vĩ đại - một hình tượng thật đẹp. 
Bác Hồ đang sáng tạo ra lịch sử nơi “đầu nguồn” - trên cái bối cảnh thiên nhiên, có 
suối, có rừng... Cảnh tượng ấy, cuộc sống ấy quả thật là đẹp “thật là sang”! Bài thơ 
kết thúc bằng chữ “sang”, có thể gọi là chữ nhãn tự (chữ mắt) đã kết tinh, bật sáng  tinh thần của toàn bài. 
Thơ Bác Hồ vừa rất mực giản dị, song lại rất hàm súc, gợi lên bao ý nghĩa sâu xa; 
vừa đậm đà màu sắc cổ điển, vừa thể hiện đầy đủ tinh thần thời đại. Bài Tức cảnh 
Pác Bó là điển hình của hồn thơ, phong cách thơ đó.  Mẫu 2 
Ở bất cứ hoàn cảnh nào, dù trong nhà tù của bọn Tưởng Giới Thạch, hay bên Pa-ri; 
đối mặt trực tiếp với gián điệp và thực dân Pháp hay những ngày trở về nước hoạt 
động cách mạng ta đều nhận ra con người hóm hỉnh, bông đùa, lạc quan vượt lên 
trên tất cả những khó khăn của đời sống ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là những nét 
tính cách được tôi luyện trong trường đấu tranh gian khổ. Và tất cả đã đi vào thơ 
Bác với những nét chân thực nhất. Tức cảnh Pác Bó là một trong số những bài thơ  như thế ! 
Sáng ra bờ suối, tối vào hang 
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng 
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng 
Cuộc đời cách mạng thật là sang 
Tháng 2 năm 1941, sau hơn ba mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước 
ngoài tìm đường giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trở về 
nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Pác Bó chính là nơi 
Người sống và hoạt động trong những ngày đầu tiên về nước. Đó là một địa danh 
nằm ở vùng núi Cao Bằng, ở đây đời sống vật chất còn rất khó khăn. Đã ngoài năm 
mươi tuổi rồi vậy mà Người phải sống trong một cái hang rất nhỏ, muốn ra vào phải 
trèo lên, chui xuống, tăm tối và ẩm ướt gọi là hang Cốc Bó, thôn Pác Bó, huyện Hà 
Quảng, tỉnh Cao Bằng. Nhưng những thiếu thốn về vật chất không làm tinh thần 
Người nao núng. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã ra đời trong hoàn cảnh như thế. 
Câu thơ đầu tiên đã mở ra một không gian – thời gian: “Sáng ra bờ suối, tối vào 
hang”. Không gian ở đây là những mảng không gian của vùng sơn cước: suối và 
hang. Thời gian có sự luân chuyển: sáng đến tối. Không gian và thời gian đều có sự 
thay đổi, chuyển hoá. Nhưng thực ra không phải là sự chuyển hoá sang một không 
gian khác, mới hơn mà là sự lặp lại của những miền không gian đã quá quen thuộc: 
suối và hang. Hành động của con người chỉ gói trọn trong hai động từ: ra và vào. 
Câu thơ không dư thừa thông tin. Nó chỉ vừa đủ để thông báo một ngày rất bình 
thường như biết bao ngày khác. Sáng thì ra bờ suối làm việc, tối lại quay về hang. 
Lời thơ cân đối, đều đặn: sáng - tối ; suối - hang, ra - vào. Sự đều đặn đó thể hiện 
một nếp sống, một thói quen trong một hoàn cảnh đặc biệt. 
Câu thơ thứ hai, Người nói đến sinh hoạt cụ thể nơi Pác Bó: “Cháo bẹ rau măng vẫn 
sẵn sàng”. “Cháo bẹ” là cháo ngô, “rau măng” là loại măng rừng được lấy làm thức 
ăn. Đó đều là những món ăn rất dân dã, đạm bạc của người dân vùng sơn cước. Ở 
thì ở trong hang, làm việc bên bờ suối, ăn cháo bẹ rau măng,… một cuộc sống đầy 
những thiếu thốn nhưng ta vẫn bắt gặp một tinh thần lạc quan, một nụ cười hóm 
hỉnh qua cụm từ “vẫn sẵn sàng”. “Vẫn sẵn sàng” có thể hiểu theo hai nghĩa: “cháo 
bẹ rau măng” - những thức ăn quen thuộc của người miền núi lúc nào cũng sẵn có. 
Nghĩa thứ hai bộc lộ rõ tinh thần của nhà thơ: dù cuộc sống thiếu thốn nhưng tinh 
thần cách mạng luôn sẵn sàng. Với nghĩa này, câu thơ toát lên một niềm lạc quan 
vượt lên trên hoàn cảnh sống. Câu thơ gợi nhớ đến vần thơ của Nguyễn Bỉnh 
Khiêm nói về cuộc sống vật chất đơn sơ, giản dị của mình: 
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, 
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. 
Hay ta bắt gặp ở đây nghệ thuật trào lộng khi viết về những thiếu thốn vật chất trong 
đời sống đã có từ thơ ca truyền thống: 
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà, 
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa. 
Ao sâu nước cả, khôn chài cá, 
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà. 
(Nguyễn Khuyến, Bạn đến chơi nhà) 
Đó là nét nhân cách rất đáng trọng của những con người “an bần lạc đạo”. Nghèo 
khổ không hề làm họ mất đi nụ cười. Họ cười hóm hỉnh chính cái nghèo của mình. 
Cuộc sống bi mà không làm họ lụy. Hồ Chí Minh vẫn giữ được những nét truyền 
thống trong cuộc sống của mình. Bác vẫn vui với cái nghèo của cuộc đời cách 
mạng, chấp nhận cuộc sống thiếu thốn về vật chất. Phải là một con người có tinh 
thần và nghị lực cách mạng phi thường mới có thể tạo cho mình một phong thái ung 
dung trong một hoàn cảnh như thế. Dù sống trong cảnh thiếu thốn con người đó vẫn 
sống và hoạt động say mê: 
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng 
Cuộc đời cách mạng thật là sang. 
Đến đây ta nhận ra điều khác biệt giữa Bác Hồ và các vị hiền triết xưa kia. Nếu như 
biết bao người: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến về với chốn thôn 
dã, vui thú điền viên để lánh đời, quên đi thế sự đang xoay vần điên đảo thì Bác Hồ 
về với vùng sơn cước “thâm sơn cùng cốc” để hoạt động do yêu cầu cần giữ bí mật 
của cách mạng. Dù có ở vùng núi nhưng vẫn là dấn thân vào xã hội, vào trường 
hoạt động cách mạng gian khổ. Bác Hồ đâu phải là một ẩn sĩ mà là một chiến sĩ: 
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng 
Câu thơ như muốn vượt qua những gì không ổn định để đi đến một thế vững vàng. 
Bàn đá chông chênh tạo nên một tư thế không vững chãi. Đó là nơi Bác ngồi làm 
việc. Bàn đá của thiên nhiên. Nhưng cụm từ “dịch sử Đảng” như một lời khẳng định 
chắc nịch cho sự vững lòng với công việc của mình. Để đến câu thơ cuối là một lời 
kết thúc vui tươi, hóm hỉnh: 
Cuộc đời cách mạng thật là sang 
Bác vẫn tìm ra một nét đặc biệt đằng sau tất cả những thiếu thốn vật chất của cuộc 
sống đời thường – cũng chính là một phần của cuộc đời cách mạng. Người tìm ra 
nét “sang” trong những gì giản dị, đơn sơ nhất. Từ “sang” vừa có nghĩa là sang 
trọng, giàu có vừa có nghĩa diễn tả một phong thái vượt lên trên tất cả những gì tầm 
thường của vật chất để có một tinh thần lạc quan, tự tại. Câu thơ như một nụ cười 
ngạo nghễ của một con người đã chiến thắng hoàn cảnh bằng chính tinh thần lạc  quan của mình. 
Bài thơ như một nhật kí bằng thơ ghi lại cuộc sống của Người nơi núi rừng Pác Bó. 
Người đọc nhận ra và kính trọng một nhân cách cao đẹp trong một cuộc sống rất đỗi 
đời thường. Đó chính là phong thái đặc biệt khó quên của Hồ Chủ tịch. 
5. Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó học sinh giỏi 
Đây là một bài thơ hay, nhưng có nhiều cách hiểu, từ đó có những cách phân tích 
không giống nhau. Bản thân mỗi cách hiểu và phân tích khó tránh được sự không 
nhất quán trong quá trình lĩnh hội hình tượng thơ. Cách phân tích sau đây cũng là 
một trong những con đường tiếp cận, với hi vọng không mắc lại những thiếu sót  không nên có vừa nêu. 
Chủ đề, tư tưởng của bài thơ rất dễ nắm bắt. Ấy là tinh thần lạc quan, phong thái 
ung dung của Bác Hồ trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ ở Pác Bó. Nhưng 
chủ đề ấy, tư tưởng lớn ấy được thể hiện trong bài thơ như thế nào lại là điều không 
dễ chỉ ra cho thấu đáo, cho hợp lí hợp tình. Nên chăng là khi phân tích bài thơ này  phải đi theo hai bước: 
Ở bước thứ nhất, khai thác khía cạnh gian khổ mà Người đã trải qua trong bước 
đầu "nhóm lửa" ngọn lửa cách mạng từ cái nơi tăm tối, hoang vu. Tập hợp các chi 
tiết một cách hệ thống theo khía cạnh này ta thấy: ở thì ở suối, ở hang ("Sáng ra bờ 
suối, tối vào hang"). Không gian và cả thời gian chật chội, quẩn quanh, đơn điệu. 
Còn gì gò bó cho bằng những ngày, những tối, những tháng, những năm mà con 
người vốn phóng khoáng, tự do phải chịu cảnh nhàm chán không chịu đổi thay với 
hang, với suối quen thuộc đến trơ mòn. Sự tù túng hiện lên ở bài thơ và nhịp thơ. 
Riêng vể nhịp thơ có sự cứng nhắc, uể oải như cần một cái vươn vai mà không thể 
vươn vai. Tiếp đến là điều kiện ăn uống hằng ngày: 
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. 
Về câu thơ này có hai cách hiểu khác nhau. Theo cách hiểu thứ nhất: dù có phải ăn 
cháo bẹ, rau măng rất khổ nhưng tinh thần vẫn sẵn sàng. Còn cách hiểu thứ hai: 
trong hệ thống cả ba câu đầu, câu thứ hai toát lên cảm giác thích thú bằng lòng. Do 
hai cách hiểu này chúng ta buộc phải có cách hiểu thứ ba, vì với hai cách hiểu trên 
tuy khác nhau về nội dung mà giống nhau: nó không dựa trên sự nhất quán về 
phương pháp khi lĩnh hội một hình tượng thơ, rất dễ gây ra hiểu lầm và nhất là hiểu 
không toàn vẹn. Bởi nếu lúc nào dù gian khổ đến đâu Bác cũng sẵn sàng, hơn thế 
còn "thích thú, bằng lòng" thì thử thách mà Người phải vượt qua, phải trải nghiệm là 
ở đâu ? Bởi nói đến ăn, đến ở, so với cái tiêu chí vừa nêu (cũng là mơ ước của 
nhiều người) nó là những đối cực. Vậy hiểu câu thơ thứ hai như thế nào ? Với cách 
hiểu thứ ba - mà khi phân tích câu đầu chúng ta đã nhập cuộc, câu thứ hai, trên ý 
nghĩa là hình tượng nên hiểu là những thiếu thốn điển hình. Thôi thì, trong điều kiện 
nào đó không có đủ thực phẩm cao sang cũng phải có cháo, có rau, nghĩa là chất 
tinh bột của gạo và rau xanh hái ở vườn nhà như câu thơ của Nguyễn Khuyến: 
Cải chửa ra cây, cà mới nụ, 
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa. 
(Bạn đến chơi nhà) 
Nhưng cháo ở đây là cháo bẹ. Bẹ nghĩa là ngô, vốn không phải thức ăn quen thuộc 
đối với người miền xuôi, còn riêng Bác lại vừa về đến nước, có lẽ càng khó ăn hơn. 
Cháo bẹ đã không ngon, không đủ chất, còn không đủ no. Cháo ấy trộn với rau hay 
ăn nó với rau (chỉ một thứ rau măng) thì dù đói đến đâu cũng còn gì hào hứng nữa. 
Vậy thì hai chữ sẵn sàng ở đây, không nên hiểu là quá dư thừa, cần đến có ngay 
chưa một lần thiếu thốn, mà nên hiểu: nói thì nói đùa vui thế thôi, hóm hỉnh thế thôi, 
nhưng thật thì không một cái dạ dày nào có khả năng chấp nhận. 
Thiếu thốn như thế tưởng đã đến mức điển hình, hoá ra không phải. Không những 
hai điều kiện sống là ở và ăn vừa nói, phương tiện làm việc của Bác lại chẳng ra  sao: 
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng, 
Bàn đá, đá ở đây là đá núi, đá tự nhiên đâu phải đá xẻ, đá đã được mài, nó còn thô 
ráp, gồ ghề, lồi lõm. Lấy đá ấy - dù hòn đá nhặt được tốt nhất để làm bàn, không  hiểu Bác viết ra sao ? 
Đặt ba điều ấy vào trong cùng một hệ thống, mới thấy sự nghiệp cách mạng mà 
Người chèo lái gian nan biết chừng nào. Hiểu như vậy mới thấy những hi sinh, từ 
những chuyện nhỏ nhặt nhất trong thời gian dài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi Bác 
cũng là người, trên một phương diện, cũng bình thường như tất cả chúng ta nghĩa 
là biết đói, biết rét, biết thiếu thốn, ấy là chưa kể những chông gai mà Người đã 
vượt qua trên con đường cách mạng. Nhưng kì lạ thay, câu kết bài thơ không đi về  hướng ấy: 
Cuộc đời cách mạng thật là sang. 
Sang ở đây là sang trọng, cao sang, nghĩa là rất đủ đầy, rất cao quý. Con người ở 
vào hoàn cảnh cao sang, nhất là "thật là sang" thì hạnh phúc có thể coi là đã đến 
mức tột độ. Vậy mối liên hộ giữa mạch thơ gian khổ tột cùng kia với câu kết, với chữ 
"sang" như thế nào ? Có lẽ nên hiểu chữ "sang" và ý câu kết nghiêng về phía trí tuệ, 
phía tinh thần được lọc chất ra từ chính chặng đường gian khổ ấy. Sở dĩ Người cảm 
thấy nó "thật là sang" là bởi vì nó là "cuộc đời cách mạng", được cống hiến cho cách 
mạng. Với những người cách mạng, nhất là những người dẫn đường như Bác 
("Người đi trước nghìn sương muôn tuyết - Dắt dìu dân, nước Việt Nam ta" - Tố 
Hữu, Ba mươi năm đời ta có Đảng) thì gian khổ, khó khăn là sự trả giá, nói như 
Nguyễn Trãi: "Khó khăn thì mặc có màng bao". Gian khổ thiếu thốn tột cùng mà bảo 
là "sang" chính vì lẽ đó. Thử so sánh hai hoàn cảnh sống: ở Pác Bó, Việt Nam và 
hơn một năm sau đó, gần 30 nhà ngục ở Quảng Tây, Trung Quốc dưới thời Tưởng 
Giới Thạch, điều kiện tinh thần tuy hoàn toàn khác nhau, nhưng về vật chất, hoàn 
cảnh sống của Người không hơn là mấy. Nói như thế mà thương Bác vô cùng, hiểu 
Bác vô cùng. Trong gian truân, Người đâu nghĩ đến bản thân mình. Nghĩ đến sự 
nghiệp của cách mạng, của đất nước mà Người vui, nhất là tin, tin về thời cơ giành 
độc lập đang tới gần. 
Vậy nhãn tự của bài thơ nên đặt ở chữ sang hay đặt ở cụm từ "cuộc đời cách mạng" 
? Bởi "cuộc đời cách mạng" mới là bản lề khép mở bài thơ. Nó vừa đúc kết, chiêm 
nghiêm vừa là sự sang trang. Cách nói này không phải là cách nói cho vui theo hệ 
thống ý nghĩa được phân tích ở trên mà là những cảm nhận có thực ở Người. Khẩu 
khí này khác hẳn với những câu thơ Người viết hơn một nãm sau đó như "Ăn cơm 
nhà nước ở nhà công" hoặc "Rồng uốn vòng quanh chân với tay", trong Nhật kí 
trong tù. Bởi lẽ cái thiếu thốn đọa đày nơi tù ngục với Người là một thứ cực hình tra 
tấn, còn ở bài thơ đang phân tích, nó lại là một niềm vui, nguồn cảm hứng thi nhân. 
Từ câu thơ thứ tư với ý nghĩa như một chiếc bản lề như đã nói, cần phải nhìn lại bài 
thơ. Đây là bước thứ hai. Cái sang ở đây bước sang một phạm trù khác: cái hùng, 
cái đẹp chuyển sang dạng đùa vui, hài hước, một hình thái thư giãn của cơ thể, của 
tâm hồn. Có những bài thơ sau này Bác làm với một giọng đùa vui như: 
Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay, 
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày. 
(Cánh rừng Việt Bắc) 
Cái ý vị đùa vui xuất hiện trong suốt cả bài thơ tạo ra một ý nghĩa kép cho từng câu 
thơ, có lẽ chính vì vậy đã có không ít người nhầm lẫn. Quả thật thế, hãy trở lại từ  đầu: 
Sáng ra hờ suối, tối vào hang, 
Câu thơ tự vịnh về mình thật ung dung, tự tại: muốn ờ đâu thì ở, muốn đi đâu thì đi, 
kiểu "Non nước dạo chơi tuỳ sở thích" (Nhật kí trong tù) hoặc "Non xanh nước biếc 
tha hổ dạo" (Cảnh rừng Việt Bắc). Câu thơ như động tác co duỗi tự nhiên, thay đổi 
không khí hằng ngày chẳng có gì gò bó cả. Con người trong hoàn cảnh ấy là con 
người tự do. Sẵn sàng chấp nhận, sẵn sàng sống, sẵn sàng vui, cũng như "cảm 
giác thích thú, bằng lòng" là trên ý nghĩa tinh thần ở hệ thống thứ hai của cùng một 
hình tượng, của chủ thể trữ tình. "Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng" thật thoải mái, 
thậm chí thật hồ hởi vì nó rất vô tư: cần ăn là có, như "Khách đến thì mời ngô nếp 
nướng - Săn về thường chén thịt rừng quay" (Cảnh rừng Việt Bắc). Cái khác thường 
thành cái ngày thường, cái bình thường là giọng thơ nói trạng, đùa vui để quên đi 
cái thiếu thốn, cái gian nan mà hằng ngày đối mặt. Con người Hồ Chí Minh là thế: 
trang trọng và vui đùa tùy nơi tùy lúc đã đành, có khi một câu nói của Người mang 
cả hai ý nghĩa ấy. Hiểu như thế khi nói về ăn, ở, sinh hoạt được người nghe dễ dàng 
chấp nhận, đồng tình. Nhưng còn khi làm việc, nhất là khi làm việc lớn như chuyển 
ngữ từ tiếng Nga sang tiếng Việt cuốn sách cẩm nang Lịch sử Đảng Cộng sản Liên 
Xô cho các đồng chí của mình thì sao ? 
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng 
Một công việc với ý nghĩa cực kì lớn lao, quan trọng, cần phải bao nhiêu ý chí, nghị 
lực, tài năng, hoàn toàn đối lập với cái "bàn đá chông chênh" tạm bợ. Không thể làm 
như thế, không ai làm như thế, nhưng Bác vẫn làm như thế, mà có sao đâu ? Công 
việc vẫn hoàn thành, âu cũng là một điều thú vị, thật vui đấy chứ, vui như cái cách 
ăn ở hằng ngày của "cuộc đời cách mạng". Có người cho rằng ở bài thơ này và một 
số bài thơ khác, Hồ Chí Minh có cái thú "lâm tuyền" (thích nơi rừng suối như những 
ẩn sĩ thời xưa). Cách hiểu đó ở đây không hoàn toàn đúng ít nhất trong bài thơ này, 
Bác chỉ là một con người, nhất là một con người cách mạng. Làm gì có chỗ cho sự 
nghỉ ngơi, lánh đời, thưởng ngoạn. Nếu có bằng lòng hay thích thú đi chăng nữa là 
với con người cùng với hai tư cách vừa nêu, và cũng vì hai tư cách vừa nêu mà 
hình tượng thơ mới trở nên lấp lánh, sinh động, tạo nên cảm hứng nghệ thuật dồi 
dào cho người đón nhận nó. 
Nếu cần nói thêm về nghệ thuật thơ Đường thì Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ rất 
đúng niêm luật có lẽ bởi ý nghĩa thứ hai là nói chơi, còn ý nghĩa đầu tiên vẫn là nói 
thật. Tính nghiêm túc của bài thơ phải chăng là sự phản ánh nghiêm túc những đòi 
hỏi có thật của cuộc đời đối với con người cách mạng. Nhưng một khi đã đáp ứng 
được nó, trụ vững trước nó thì ai cấm cái quyền nói chêu của người đã biết tự rèn 
luyện mình và vượt lên tất cả ? 
6. Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh 
Hồ Chủ tịch của chúng ta không chỉ được biết đến là nhà chính trị gia, người anh 
hùng vĩ đại trên mặt trận, luôn anh minh, tài ba, mà còn là một nhà thơ. Trong kho 
tàng văn học Việt Nam thật đồ sộ, trong đó sự đóng góp của Bác cũng không nhỏ, 
các tác phẩm ấy được ghi nhận, là những áng văn hay để đời. Bài thơ Tức cảnh 
Pác Bó là bài ca về tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống, đầy lạc quan trong 
hoàn cảnh khó khăn thể hiện được phong cách sống của người chiến sĩ, thể hiện 
được vẻ đẹp phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh.