





Preview text:
Phân tích bài Thuật hứng 24 của Nguyễn Trãi chọn lọc hay nhất
1. Phân tích bài Thuật hứng 24 của Nguyễn Trãi chọn lọc hay nhất - Mẫu số 1
Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà văn, nhà thơ lớn mà còn là một
nhà chính trị tài ba, kiệt xuất. Trong cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn, nhờ những mưu
kế tài tình của ông mà quân đội dưới sự chỉ huy của vua Lê Lợi đã giành được những chiến
thắng hiển hách trước quân Minh. Sau khi đất nước giành được độc lập, ông trở thành một vị
quan liêm khiết, với lối sống thanh bạch. Tuy nhiên, chính sự liêm khiết và thẳng thắn đó đã
khiến Nguyễn Trãi thường xuyên bị bọn nịnh thần ghen ghét, đố kị và tìm cách hãm hại. Sau
khi trải qua nhiều biến cố trong cuộc đời, Nguyễn Trãi đã quyết định từ bỏ chốn quan trường
để lui về ở ẩn. Và trong thời gian ở ẩn tại núi Côn Sơn, Chí Linh, ông đã sáng tác nhiều tác
phẩm giá trị, trong đó có bài thơ “Thuật hứng”.
Từ khi về ở ẩn, Nguyễn Trãi đã trải nghiệm một cuộc sống vô cùng bình dị, gần gũi với
thiên nhiên và vạn vật. Ở đây, ông cảm nhận được nhịp sống yên bình, cảnh sắc tươi đẹp của
vùng quê, và ông tận hưởng cuộc sống giản dị, thanh khiết, không vướng bụi trần, giống như
nhiều nhà nho ẩn dật khác. Ngay phần mở đầu của bài thơ, Nguyễn Trãi đã thể hiện tâm hồn
thanh thản khi đã bỏ lại sau lưng những phiền muộn của cuộc sống chốn quan trường và những
hư danh của chức tước.
“Công danh đã được hợp về nhàn
Lành dữ âu chi thế nghị khen”
Công danh là đích đến và niềm mơ ước của bao nhà Nho xưa, những người học tập chăm
chỉ với hy vọng có ngày được cống hiến tài năng cho đất nước. Nói về công danh, nhà thơ
Nguyễn Công Trứ đã từng khẳng định: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với
núi sông”. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi lại thể hiện sự nhẹ nhõm, thanh nhàn khi từ bỏ được gánh
nặng của công danh. "Hợp" ở đây có nghĩa là nên, tức là công danh nên được gác lại để lui về
sống cuộc sống dân dã, lấy thiên nhiên làm thú vui.
Trong cuộc sống thanh nhàn, không còn cái ồn ào, ghen tị của bọn tiểu nhân chốn quan
trường, Nguyễn Trãi không còn phải bận tâm đến những lời khen chê, nịnh nọt hay những âm
mưu hãm hại nữa. “Lành dữ âu chi thế nghị khen”. Làm quan trong triều đình thường gặp nhiều
cám dỗ, nếu xuôi theo bọn nịnh thần thì sẽ có cuộc sống phú quý, nhưng lại đánh mất phẩm
chất của mình. Còn nếu sống trong sạch, liêm khiết thì sẽ chống lại cả một tập đoàn gian thần,
và khi không cùng phe với chúng, ông sẽ bị vu oan, hãm hại. Nguyễn Trãi là một vị quan liêm
chính, có lối sống trong sạch và quyết không chịu cúi đầu trước cái xấu xa, vì vậy mà ông là
đối tượng mà bọn gian thần muốn diệt trừ.
Nay, ông đã từ bỏ hết hư danh để về với cuộc sống bình dị, ông sống như một ẩn sĩ thực
sự, vui với những thú vui giản dị:
“Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen”
Là một vị quan tài giỏi nhưng khi đã về ở ẩn, cuộc sống của Nguyễn Trãi giản dị, mộc
mạc như bao người Nho sĩ khác, sống bầu bạn với thiên nhiên, làm những công việc dung dị.
“Vớt bèo” để cấy muống, những loài thực vật trong tự nhiên trở thành nguồn thức ăn hàng
ngày. Cuộc sống nơi hoang dã không có sơn hào hải vị, chỉ có “muống”, “ương sen”, nhưng
cũng đủ làm ông mãn nguyện, bởi ông có được sự thanh thản trong tâm hồn, sống trong môi
trường trong sạch, không vướng bụi trần.
“Kho thu phong nguyệt chở đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vậy then”
Những câu thơ này thể hiện lối sống thanh bạch của Nguyễn Trãi khi lấy “phong”,
“nguyệt” làm bạn, cảm nhận nhịp sống dân dã, tâm hồn thanh bạch của con người vĩ đại này
tỏa rạng. Tuy đã lui về ở ẩn, nhưng với lòng yêu nước, ông vẫn mang nặng nỗi lòng về vận
mệnh của đất nước: “Bui có một lòng trung lẫn hiếu”. Lòng trung hiếu của ông không bao giờ
vơi cạn, và ông cũng cảm thấy hối tiếc khi không thể đem tài năng của mình ra cống hiến: “Mài
chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.
Như vậy, bài thơ “Thuật hứng” cho ta thấy hình ảnh đẹp của một ẩn sĩ khi từ bỏ chốn
quan trường để sống hòa mình với thiên nhiên, sống thanh bạch, liêm khiết. Tuy đã lui về ở ẩn,
lòng ông vẫn không thôi trăn trở về dân, về nước. Đây chính là biểu hiện của lòng nhân nghĩa
của một bậc hiền tài.
2. Phân tích bài Thuật hứng 24 của Nguyễn Trãi chọn lọc hay nhất - Mẫu số 2
Nguyễn Trãi (1380-1442) là ngôi sao Khuê sáng rực trên bầu trời Đại Việt trong thế kỷ
15. “Quốc âm thi tập” và “Ức Trai thi tập” là hai kiệt tác không thể thiếu trong nền thơ ca Việt
Nam. Đặc biệt, "Quốc âm thi tập" – tập thơ chữ Nôm sớm nhất mà chúng ta còn giữ được với
254 bài thơ – là ánh hào quang rực rỡ của ngôi sao Khuê, xuyên suốt hành trình thiên niên kỷ của dân tộc.
"Quốc âm thi tập" chủ yếu không có tên riêng cho mỗi bài thơ. Nguyễn Trãi đã nhóm các
bài thơ thành nhiều chùm với những đề tài như: Ngôn chí, Mạn thuật, Trần tình, Thuật hứng,
Tự thán, Tức sự, Bảo kính cảnh giới, v.v. Đây là bài thơ thứ 24 trong chùm thơ "Thuật hứng" gồm 25 bài:
"Công danh đã được hợp về nhàn, ......
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen."
Trong câu thơ đầu, "hợp" có nghĩa là "nên", là "đáng”; “âu chi” nghĩa là "lo chi". Nguyễn
Trãi, cháu ngoại của tướng công Trần Nguyên Đán, đã từng đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ), và trở
thành mưu sĩ tài giỏi của Lê Lợi trong 10 năm kháng chiến chống giặc Minh. Ông viết thư thảo
hịch tài giỏi hơn hết mọi thời, từng làm chánh chủ khảo khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của triều Lê.
Là một anh hùng dân tộc văn võ song toàn, Nguyễn Trãi đúng là người đã "công danh đã được”.
Về sau, ông bị bọn nịnh thần chèn ép, nên ông tự giã từ công danh, tìm về Côn Sơn ở ẩn, sống
cuộc đời thanh nhàn chan hòa với thiên nhiên. Câu thơ thứ hai thể hiện thái độ ung dung trước
mọi thị phi "lành dữ", không còn để tâm đến những lời khen chê. Ông tin rằng lịch sử sẽ đánh
giá công bằng, không cần bận lòng suy nghĩ. Đó là thái độ cao quý của một kẻ sĩ khi đã thoát
vòng danh lợi, lui về sống ẩn dật. Trong bài thơ "Cuối xuân tức sự", Nguyễn Trãi viết:
"Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn,
Khách tục không ai bên mảng gần".
Giọng thơ đủng đỉnh, khoan thai phản ánh cuộc sống ung dung, tự tại. Hai câu thơ tiếp
theo miêu tả nhịp điệu cuộc sống của ông khi đã "về nhàn":
"Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Đìa thanh phát cỏ ương sen."
Cấu trúc câu thơ cân xứng, phép đối được vận dụng tài tình. "Ao cạn" và "đìa thanh",
"vớt bèo cấy muống" và "phát cỏ ương sen" đối nhau chặt chẽ, vẽ lên một cuộc đời cần mẫn,
thanh bạch. Cuộc sống không cao sang, chỉ có "muống", "sen", nhưng đầy thanh cao. Dù ở
triều đình, chức trọng quyền cao, Nguyễn Trãi vẫn giữ mình thanh liêm:
"Một tấm lòng son ngời cửa luyện
Mười năm thanh chức ngọc hồ băng.” (Mạn hứng – 2)
Nhiều bài thơ của Nguyễn Trãi nói về cuộc sống đạm bạc, giản dị của ông: “Đọc sách
mười năm mà kiết xác – Ăn trầu rau muống chẳng chiên ngồi" (Gửi bạn). Cuộc đời một ông
quan, một kẻ sĩ chẳng khác nào cuộc đời người dân quê:
"Cơm ăn chẳng quản dưa muối – Áo mặc nài chi gấm thêu …" (Thuật hứng – 22).
Hai câu tiếp theo trong phần "luận" mở rộng ý thơ, làm rõ vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn
Trãi. Thi liệu cổ điển đậm chất ước lệ và thi vị:
"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then".
Nguyễn Trãi lấy "phong, nguyệt" làm bạn, "yên, hà" làm nguồn vui, cuộc sống tinh thần
phong phú và thanh cao. Phép đối và biện pháp tu từ thậm xưng diễn tả chiều sâu tâm hồn, cái
cao sang của một nếp sống đẹp. Cả mùa thu với Nguyễn Trãi là một kho chứa đầy gió trăng,
con thuyền thi nhân chỉ chở khó ráng nhưng cũng làm oằn những chiếc then thuyền. Những
thứ chỉ có thể cảm nhận được, qua hình ảnh "kho thu", "thuyền chở" và các từ ngữ "đầy”,
“nặng” – Nguyễn Trãi đã "khối lượng hóa" thiên nhiên một cách tài tình. Chữ dùng chính xác,
chọn lọc và hình tượng. Chỉ một chữ "đầy” mà ta liên tưởng đến bao câu thơ đẹp khác: “Gió,
trăng chứa một thuyền đầy - của kho vô hạn biết ngày nào vơi" (Nguyễn Công Trứ); "Dạ bán
quy lai nguyệt mãn thuyền" (Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền) - Hồ Chí Minh. Hai
câu thơ trong phần "luận" là hai câu thơ hay nhất, thể hiện hồn thơ thanh cao, cuộc sống tinh
thần giàu đẹp, ung dung, hồn nhiên, tự tại của Nguyễn Trãi.
Hai câu kết là lời tự bạch, bộc lộ tấc lòng trung hiếu của Nguyễn Trãi:
"Bui có một lòng trung lẫn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen."
"Bui" là tiếng cổ, nghĩa là "chỉ"; "bui có" là chỉ có. Một cách nói khiêm tốn mà khẳng
định, biểu lộ niềm tự hào về lòng trung hiếu của mình đối với nước, với vua và với cha mẹ.
Tấm lòng trung hiếu của Nguyễn Trãi vô cùng bền vững, son sắt, thủy chung, dù có mài đi
cũng chẳng khuyết, có nhuộm đi cũng chẳng đen. Câu thơ lục ngôn khép lại bài thơ vang lên
đĩnh đạc như một lời thề:
"Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen”
Cuộc đời của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, thủy chung, sáng ngời trung hiếu. Trong thơ văn của
Nguyễn Trãi, hai tiếng "trung hiếu" và "ưu ái" (ưu quốc, ái dân: lo nước, yêu dân) vang vọng
cùng sông núi, trường tồn cùng năm tháng. Các thế hệ con cháu mỗi lần đọc lên biết bao xúc động tự hào:
"Bui có một niềm trung hiếu cũ,
Chẳng nằm thức dậy nẻo ba canh".
(Bảo kính cảnh giới – 1)
"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”. (Thuật hứng – 5)
Niềm trung hiếu, lòng ưu ái của Ức Trai mãnh liệt như nước thủy triều cuồn cuộn chảy
suốt đêm ngày ngoài biển đông.
"Thuật hứng" có nghĩa là bày tỏ sự hứng thú riêng của mình. Học giả Đào Duy Anh trong
cuốn "Nguyễn Trãi toàn tập" cho biết chùm thơ "Thuật hứng" được viết trong thời kỳ Nguyễn
Trãi về sống ở Côn Sơn. Bài thơ "Thuật hứng – 24" này được viết theo thể thơ thất ngôn xen
lục ngôn bát cú; các câu 3, 4, 8 chỉ có 6 từ. Giọng thơ nhẹ nhàng, khoan thai, giọng điệu tâm
tình, cởi mở. Các thi liệu như ao, bèo, muống, đĩa, cỏ, sen, kho, thu, phong, nguyệt, thuyền,
yên, hà tạo nên cốt cách bài thơ vừa dân dã, mộc mạc vừa cổ điển thanh cao. “Thuật hứng” thể
hiện sâu sắc tư tưởng và tình cảm cao đẹp của Nguyễn Trãi: coi thường danh lợi, yêu thích
cuộc sống nhàn nhã, thanh bạch, luôn giữ trọng lòng trung hiếu son sắt, thủy chung. Đọc bài
thơ, chúng ta cảm phục và kính yêu Nguyễn Trãi - một nhân cách kẻ sĩ cao đẹp như vua Lê
Thánh Tông đã ngợi ca: "Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo".
3. Phân tích bài Thuật hứng 24 của Nguyễn Trãi chọn lọc hay nhất - Mẫu số 3
Danh sĩ Nguyễn Mộng Tuân từng thốt lên những lời cảm phục về Nguyễn Trãi: “Gió thổi
hây hây mái tóc vàng, người là ông tiên trong tòa ngọc, cái tài làm hay, làm đẹp cho nước từ
xưa chưa có bao giờ”. Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự lỗi lạc, mà còn là một nhà
văn tài hoa. Nếu thơ chữ Hán của ông là ngọn lửa cháy bỏng lòng yêu nước, thì thơ “Quốc
Âm” lại dịu dàng, sâu lắng, thể hiện tình cảm trìu mến đối với thiên nhiên. Trong đó, bài “Thuật
Hứng – số 24” là một tác phẩm tiêu biểu, phác họa chân dung cuộc sống làng quê bình dị, từ
đó bộc lộ tấm lòng “ưu dân ái quốc” của nhà thơ. Bài thơ không chỉ có giá trị về nội dung mà
còn đặc sắc về nghệ thuật.
“Công danh đã được hợp về nhàn, Lành dữ âu chi thế nghị khen. Ao cạn vớt bèo cấy
muống, Đìa thanh phát cỏ ương sen. Kho thu phong nguyệt, đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà
nặng vạy then. Bui có một lòng trung lẫn hiếu, Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.”
Nhan đề “Thuật hứng” có nghĩa là bày tỏ sự hứng thú của riêng mình, cho thấy chủ đề
của tác phẩm: cuộc sống và sinh hoạt ở nơi thôn ấp, nơi nhà thơ hòa mình với thiên nhiên. Qua
đó, tác giả bộc lộ lòng trung thành với nước, tình yêu thương với dân. Bài thơ có thể chia làm
hai phần: sáu câu đầu miêu tả cuộc sống ung dung, giản dị của nhà thơ, hai câu cuối là nỗi lòng
sâu kín của nhân vật trữ tình. Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ việc kể lại cuộc sống đến tâm
trạng của thi nhân, thể hiện tư tưởng và tình cảm cao đẹp của Ức Trai: coi thường danh lợi,
sống thanh bạch, luôn giữ lòng trung hiếu với dân với nước.
Nếu như thần của âm nhạc là giai điệu, của hội họa là màu sắc, thì cái thần của tác phẩm
văn học chính là hình tượng. Hình tượng chính trong “Thuật hứng 24” là nhân vật trữ tình được
Nguyễn Trãi khắc họa chân thực qua vẻ đẹp cuộc sống.
“Công danh đã được hợp về nhàn, Lành dữ âu chi thế nghị khen.”
“Công danh” là mục tiêu mà các nhà nho xưa luôn hướng tới. Nguyễn Công Trứ từng
khẳng định: “Đã có tiếng nói trong trời đất, phải có danh gì với núi sông.” Tuy nhiên, Nguyễn
Trãi đã trút bỏ gánh nặng công danh, từ bỏ những ganh ghét trong triều đình để tìm về cuộc
sống thanh sơ, an nhàn. Câu thơ “Lành dữ âu chi thế nghị khen” thể hiện thái độ không quan
tâm đến thị phi, khen chê, chỉ cần sống đúng với lòng mình. Giọng điệu khoan thai vẽ nên một
cuộc đời ung dung tự tại, hòa mình vào làng quê:
“Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ ương sen.”
Hai câu thơ này khắc họa một Nguyễn Trãi giản dị, mộc mạc, biến mình thành một lão
nông tri điền. Cuộc sống không cao sang, chỉ đơn giản là “muống” và “sen”, nhưng đầy vẻ
thanh cao. Tâm hồn trong sáng, thanh bạch của ông cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên:
“Kho thu phong nguyệt, đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà nặng vạy then.”
Bút pháp phóng đại và phép đối hài hòa tạo nên vẻ đẹp huyền ảo của làng quê. Nguyễn
Trãi “khối lượng hóa” hình ảnh kho thu bằng từ “đầy”, con thuyền chở “gió”, “trăng” mà cũng
“nặng” làm “vạy” then. Hai câu thơ này không chỉ tả cảnh mà còn làm đẹp thêm cuộc sống của
nhà thơ. Chúng ta chợt nhớ đến những vần thơ đầy xúc cảm của Nguyễn Công Trứ: “Kho thu
chứa một thuyền đầy, của kho vô hạn biết ngày nào rơi.”
Từ vẻ đẹp cuộc sống thôn quê thuần hậu, hình tượng nhân vật trữ tình được thể hiện rõ
nét qua hai câu thơ cuối:
“Bui có một lòng trung lẫn hiếu, Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.”
Ức Trai vẫn giữ trọn lòng trung hiếu với giang sơn, một tấm lòng cao cả và vĩnh hằng.
Câu thơ cuối khẳng định lòng trung hiếu, dù mài hay nhuộm, tấm lòng ấy vẫn không thay đổi.
Đó là nét đẹp đặc trưng trong thơ Ức Trai.
“Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương.” (Cảnh ngày hè)
Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú đan xen câu lục ngôn, ngôn ngữ giản dị, hàm
súc, giàu sức gợi. Hình ảnh chân thực, dân dã mang lại cảm giác quen thuộc, đặc trưng của
làng quê Việt Nam. Các biện pháp nghệ thuật như đối, liệt kê, phóng đại diễn tả chân dung đời
sống và tâm hồn của thi nhân, làm đẹp thêm khung cảnh làng quê. Những đặc sắc nghệ thuật
này khắc họa chân dung cuộc sống của Nguyễn Trãi, đồng thời khẳng định tấm lòng trung hiếu với dân, với nước.
Trên nẻo đường văn học, ta gặp lối sống “nhàn” không chỉ ở Nguyễn Trãi mà còn ở các
nhà thơ trung đại như Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Dữ. Bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh
Khiêm nâng lối sống ấy thành triết lý, lựa chọn riêng, tìm về cuộc sống thanh thản trong tâm
hồn. Nhưng “nhàn” trong thơ Nguyễn Trãi lại khác, ông chỉ nhàn thân chứ không nhàn tâm,
luôn nghĩ về nước nhà. Đó là nét đặc trưng khác biệt trong thơ ông.
“Thuật hứng 24” là bài thơ hay về cảm xúc, đẹp về ngôn từ, tiêu biểu cho sự nghiệp sáng
tác của Nguyễn Trãi. Ông đã bộc lộ những nỗi niềm sâu xa, lòng yêu dân yêu nước, để rồi tình
cảm thiêng liêng ấy nở hoa dưới ngòi bút tài tình của ông. Tác phẩm này giúp chúng ta ý thức
về tình yêu quê hương đất nước, bồi dưỡng lối sống hòa hợp với thiên nhiên và trân trọng công lao của cha ông.