Phân tích “Cải ơi!” - Nguyễn Ngọc Tư | Văn mẫu 11 Kết nối tri thức
Phân tích “Cải ơi!” - Nguyễn Ngọc Tư là bài văn mẫu hay, mới nhất do biên soạn nhằm giúp các bạn học sinh có thêm tư liệu để học tốt Ngữ văn lớp 11. Mời các bạn tham khảo!
Chủ đề: Văn mẫu 11
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
I. Dàn ý Phân tích “Cải ơi!” - Nguyễn Ngọc Tư
A. Mở bài: Dẫn dắt và giới thiệu tác phẩm B. Thân bài:
1. Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm:
a. Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư:
- Sinh năm 1976, quê ở Cà Mau.
- Thường viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn.
- Là nhà văn nữ tiêu biểu của văn học đương đại.
- Một số tác phẩm nổi tiếng: “Cánh đồng bất tận”, “Gáy người thì lạnh” b. Tác phẩm:
- “Cải ơi” là truyện ngắn nằm trong tập truyện “Cánh đồng bất tận” (2005). - Bố cục:
+ Đoạn 1: Từ đầu cho đến “…dứt khoát tìm được con Cải về”.
+ Đoạn 2: Tiếp theo cho đến “…rủ đi ăn hủ tiếu”.
+ Đoạn 3: Tiếp cho đến “…Chết lặng”. + Đoạn 4: Còn lại. 2. Phân tích tác phẩm:
a. Nhân vật ông Năm Nhỏ:
- Xuất thân là người nông dân ở làng Cỏ Cháy.
- Hoàn cảnh đưa đẩy ông đến ngã ba Sương là sự ra đi của Cải.
- Số phận lưu lạc, đau khổ cùng phẩm chất được thể hiện qua hành trình tìm kiếm con:
+ Ròng rã tìm kiếm con mười hai năm, rơi vào những tình huống ngặt nghèo.
+ Giàu tình yêu thương con, giàu lòng tự trọng, không từ bỏ mọi cơ hội để tìm con.
+ Có lòng bao dung, vị tha, thương yêu những người đồng cảnh ngộ. b. Nhân vật Thàn: - Có ước mơ, hoài bão
- Có tình thương như ruột thịt, đồng cảm với ông Năm và tình yêu chân thành với Diễm Thương.
- Cuộc sống lưu lạc vì không thực hiện được ước mơ.
c. Nhân vật Diễm Thương:
- Có quá khứ đau buồn, bị cha mẹ bỏ rơi.
- Ngoại hình và tính cách lạnh lùng, vô cảm.
- Khao khát yêu thương vô bờ. 3. Tổng kết: - Nội dung:
+ Đồng cảm, xót thương cho số phận đáng thương của những con người lưu lạc.
+ Ca ngợi những vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn của con người.
+ Đề ra những trăn trở, suy ngẫm về cách ứng xử của con người trong đời sống. - Nghệ thuật:
+ Trật tự sự kiện trong truyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại.
+ Ngôi kể thứ ba – người kể chuyện toàn tri.
+ Hệ thống điểm nhìn linh hoạt, sự hòa quyện giữa lời người kể và lời nhân vật.
+ Nghệ thuật xây dựng và miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế.
+ Ngôn ngữ đậm chất khẩu ngữ miền Nam. C. Kết bài.
II. Văn mẫu Phân tích “Cải ơi!” - Nguyễn Ngọc Tư
1. Phân tích Cải ơi mẫu 1
Khi bàn về “Nỗi sợ đối với nhà văn”, Nguyễn Ngọc Tư đã bộc bạch:
“Riêng tôi tin vào duyên...Không phải cứ tích lũy mày mò tháng ngày mà
thành, văn chương không tùy thuộc vào sự thuần thục, cũng như ta biết
không phải viết nhiều, đều đặn thì là nhà văn”. Đúng vậy,giữa tác phẩm
văn học với người đọc bao giờ cũng tồn tại thứ duyên ngầm khó ước đoán,
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà văn. “Cải ơi” chính là một
tác phẩm có cái duyên ngầm ấy. Vẫn lối viết giản dị, chân xác, bộc trực
của con người phương Nam, Nguyễn Ngọc Tư đã đem đến cho người đọc
những day dứt khôn nguôi về số phận của những con người lưu lạc.
Truyện ngắn “Cải ơi!” còn có tên là “Ơi Cải về đâu”, nằm trong tập truyện
ngắn “Cánh đồng bất tận” sáng tác năm 2005. Tác phẩm kể về cuộc hành
trình tìm con ròng rã của ông Năm Nhỏ. Cải - đứa con riêng của vợ với
người chồng cũ, bỏ nhà ra đi vì làm mất cặp trâu, sợ bị đòn. Từ ngày ấy,
cuộc sống của ông Năm gặp vô vàn bất hạnh. Ông hứng chịu sự dòm ngó
và khinh miệt từ làng xóm cùng sự lạnh lùng, hắt hủi từ người vợ. Ông
quyết định rời quê hương, ra đi tìm con. Theo chân chuyến hành trình
khắc khoải của người cha ấy, ta còn bắt gặp những con người có thân phận
lưu lạc khác như Thàn, Diễm Thương.
Tác phẩm có thể được chia thành bốn phần. Trong đó, phần một kéo dài
từ đầu cho đến “tìm được con Cải về”, phần hai từ tiếp theo cho đến “rủ
đi ăn hủ tiếu”. Phần ba nối tiếp cho đến “Chết lặng” và phần bốn là toàn
bộ nội dung còn lại. Nhan đề tác phẩm, bao gồm cả nhan đề cũ và mới
đều bao gồm tiếng “Ơi” như một lời gọi. “Cải ơi” là tiếng gọi vừa yêu
thương, nhung nhớ cũng vừa đau đớn, vô vọng của ông Năm Nhỏ suốt
mười hai năm trời ròng rã tìm con. Nhan đề ấy đã góp phần thể hiện sâu
sắc nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Mở đầu tác phẩm là hoàn cảnh éo le “Đoàn ca múa nhạc giải tán, thằng
Quách Phú Thàn dẫn ông già Năm Nhỏ về ngã ba Sương, Thàn có nhỏ bồ
mới quen bán quán ở đó. Con nhỏ tên Diễm Thương”. Các nhân vật hiện
lên trong hoàn cảnh khá đặc biệt. Người đọc sẽ tự hỏi tại sao một ông già
lại cùng tham gia vào đoàn ca múa nhạc với một chàng trai trẻ? Điều gì
đã khiến Thàn quyết định dẫn theo ông Năm Nhỏ về ngã ba Sương?
Dường như, cuộc đời của mỗi con người đều chứa đựng nhiều uẩn khúc
và những câu chuyện khuất lấp đó, nay lại tiếp tục ở nơi ở mới này.
Nguyễn Ngọc Tư luôn đặt cho nhân vật những cái tên giản dị, đậm màu
sắc Tây Nam Bộ. Sáu Đèo, Út Vũ, Dậu, Sáo, Năm Nhỏ - tất cả đều là
những cái tên gợi lên số phận đáng thương, nhỏ nhoi, cơ cực. Nhân vật
Thàn có cái tên đặc biệt, gần giống với tài tử Hong Kong mà khuyết mất
một chữ “h”, dường như đây là dấu hiệu cho thấy Thàn có một niềm đam
mê nghệ thuật mãnh liệt nhưng vì “thiếu” chút gì đó mà không thể thành
danh. Sau này, chính Thàn cũng ngậm ngùi số phận “lẹt đẹt bên hông Chợ
Lớn” của mình. Diễm Thương thì khác, cô có cái tên thật đẹp, vừa yêu
kiều lại vừa trìu mến. Thế nhưng, trái ngược với cái tên, Diễm Thương lại
có khuôn mặt “không đẹp nhưng bình thản, lạnh trơ, không ra vui, buồn,
đố ai biết nó nghĩ gì, mái tóc nhuộm vàng hoe chơm chởm như rễ tre”.
Tên các địa danh như làng Cỏ Cháy, ngã ba Sương gợi liên tưởng đến
những miền quê quanh năm nắng cháy, những con phố mịt mờ như vô
định không biết đâu là điểm dừng.
Ba con người, ba mảnh đời héo hon ấy đã gặp gỡ, cùng nhau trải qua
những tháng ngày mưu sinh và cũng là mưu cầu hạnh phúc. Cuộc đời và
chính con người họ, không ai là “lành lặn”. Với lối kể giản dị, ngôi kể thứ
ba cùng hệ thống điểm nhìn thay đổi linh hoạt, Nguyễn Ngọc Tư đã diễn
tả những đau đớn tột cùng, những những khát khao bình dị của những con người nhỏ bé.
Nhân vật chính trong truyện là ông Năm Nhỏ. Ông có tình yêu thương
con vô bờ, tấm lòng nhân hậu hết mực,lòng tự trọng đáng quý và số phận
bất hạnh, phải lưu lạc suốt mười hai năm. Để làm nổi bật những đặc điểm
ấy ở ông Năm, tác giả đã đảo lộn trật tự các sự kiện trong truyện kể, lồng
ghép giữa quá khứ và hiện tại, Ngay ở phần đầu là khung cảnh ông Năm
sống với Thàn và Diễm Thương. Tối hôm ấy, Thàn đi chơi về, thấy ông
Năm vẫn ngồi khọm rọm ngoài vách mùng hút thuốc. Thàn hồn nhiên
nghĩ rằng ông Năm nhớ đoàn quá nên ngủ không được. Ông già lắc đầu,
thở dài, cái tiếng thở dài “nghe buồn xa xắc như lá rụng hoa rơi”. Hóa ra,
ông bần thần vì không biết làm thế nào để tìm ra con Cải. Quá khứ của
ông lúc này hiện về trong dòng hồi tưởng. “Lúc Cải mười ba tuổi, một
bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà. Cả nhà tong tả đi tìm
nhưng mãi con nhỏ không quay lại”. Ngày Cải đi, vợ ông ôm cái áo con
Cải khóc, bà cho rằng ông ngược đãi, hà khắc với nó vì Cải là con với
chồng trước. Ngày ngày, bà nhìn ông bằng con mắt chứa đầy hoài nghi,
thù ghét. Không chỉ gia đình mà bà con làng xóm cũng quay lưng với ông.
Người ta xầm xì, chỉ trỏ. Có ai quan tâm đến thực hư con nhỏ đã đi đâu
hay đồng cảm với nỗi đau đứt ruột của người cha? Thói đời là thế, người
ta nhảy bổ vào xâu xé kẻ “có tội” như con thiêu thân lao đến ánh đèn. Để
thỏa mãn sự hiếu kì nhân danh lòng đức độ, có người còn dập dìu thuê đò
dọc lại nhà ngó nghiêng. Cũng có người “thẳng thắn”, “thông minh” hơn,
biết tận dụng vụ việc mà bưng bánh dừa, trà đá đến bán. Thậm chí, có kẻ
giàu tưởng tượng và giàu luôn cả sự nhẫn tâm còn đồn đãi ông giết con
nhỏ rồi lấp ở một chỗ đất nào. Người kể chuyện thể hiện thái độ thương
xót, đồng cảm với ông Năm trước tình cảnh đau đớn, để ông bộc lộ cảm
xúc của mình: “Ông đau mà không nói được một lời, ông đã nâng niu nó
khi mới thôi nôi, đã vui khi có người bảo con nhỏ giống ông in hệt (dù
biết họ khen khơi khơi, khen bổng trên trời)”. Khi con Cải đi rồi, ông đã
ứa nước mắt khi đi qua chiếc giường trước kia nó ngủ. Có bữa, ông hì hụi
ém mùng như thể Cải vẫn còn ở nhà. Mất con, người cha hành động như
một kẻ mất hồn. Lúc nào lòng ông cũng đau đáu vì nhớ con, lo lắng con
lưu lạc nay đây mai đó, không biết sống chết ra sao. Những câu: “Như thế
mà ông không thương nó sao ? Như thế mà là không thương à?” như lời
tự giãi bày, thanh minh của ông Năm Nhỏ. Ông nói với chính mình, nói
với những người nghi oan cho ông và hơn hết, ông cũng muốn nhắn nhủ
với Cải rằng ba nó thương nó lắm, hãy về nhà với ba má nó đi. Vì thế, ông
quyết định khăn gói bỏ xứ ra đi, “bụng dạ đinh ninh dứt khoát tìm được
con Cải về”. Ông Năm không chỉ là một người cha yêu thương con hết
mực mà còn rất giàu lòng tự trọng. Đọc những sáng tác của Nguyễn Ngọc
Tư, không hiếm khi ta bắt gặp kiểu nhân vật lưu lạc như thế này. Ông
Năm tha hương không phải vì mưu sinh mà như một sự tự lưu đày, trốn
chạy và quên đi niềm đau dù nỗi đau ấy chẳng lúc nào nguôi ngoai.
Dòng hồi tưởng cứ thế tiếp tục. Sau những tháng ngày lênh đênh, ông xin
làm sai vặt trong đoàn ca múa nhạc. Ông chọn công việc ấy bởi lí do hết
sức đáng thương. Ông thường mượn cái micro nói vài câu trước giờ diễn:
“Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con...”, hi vọng đứa con bé bỏng của ông có
thể xuất hiện trong đám khách hoặc nếu có người biết tin thì báo cho ông.
Người làm cha chẳng từ bỏ một chút hi vọng nào, dù là nhỏ nhoi nhất, để
tìm lại được con. Về sau, ông còn dồn hết tiền mua một cái nhà lụp xụp
và xe kẹo kéo. Xe kẹo kéo có mục “nhắn tìm con” của ông nổi tiếng khắp
các chợ cá, quán nhậu, ngã ba. Sự nỗ lực, kiên trì, tình yêu thương của
ông thật đáng khâm phục. Ròng rã suốt chừng ấy thời gian, người cha này
chưa lúc nào nguôi ngoai đi tội lỗi và niềm đau mất con. Sự trở về của Cải
là điều duy nhất có khả năng giải thoát ông khỏi sự dày vò. Lạc lõng, nổi
trôi thì đớn đau, khổ sở vô cùng nhưng nếu ông không đi khỏi Cỏ Cháy,
chính niềm ân hận, tuyệt vọng cùng thái độ của những người xung quanh
sẽ giết chết ông. “tiếng “Cải ơi !!!…” nghe ngắc ngoải như tiếng chim kêu
giữa lưng trời”. Ông Năm chính là một cánh chim cô đơn đến tội nghiệp!
Sau khi hé lộ quá khứ của ông Năm và nguyên do khiến ông trụ lại ngã
ba Sương, người kể chuyện lại quay trở về thực tại, tiếp tục hành trình tìm
con của nhân vật này. Cải, đối với ông, trở thành niềm hạnh phúc xa xăm
trong quá khứ, sự khao khát tuyệt vọng của hiện tại. Ông níu lấy những hi
vọng mong manh về con bé như một người sắp rơi xuống vực tìm kiếm
sợi dây. Chìm trong nỗi đau quá lâu, ông Năm như mất trí. Có lẽ, chỉ
những người xung quanh là thảng hoặc nhận ra điều ấy. Diễm Thương đã
lợi dụng sự “thèm” con của ông Năm để lấy tiền cá cược. Giây phút nghe
thấy con nhỏ thảng thốt gọi “Ba !”, ông “đứng im sững, ngơ ngác giây
lát”. Niềm hạnh phúc ập đến quá nhanh khiến đôi môi ông runrun, lập bập
hỏi: “Cải phải hôn con?”. Nguyễn Ngọc Tư vẫn giữ nguyên những từ ngữ
địa phương để diễn tả chân xác từng sắc thái cảm xúc của nhân vật. Người
kể chuyện chú ý đến từng cử chỉ, biểu cảm của ông Năm: “Ông già nắn
đầu, nắn vai nó với một nỗi vui chảy tràn, trời đất, ba nhìn không ra, bây
lớn dữ dằn vầy”, “Ông đi vài bước, ông day lại nhìn Diễm Thương (cho
chắc là nó đang đứng đây, và có thiệt trên đời), ngước về phía trời sao, rồi
ngó thằng Thàn, ông cười, để miệng muốn méo sao thì méo, “Tía kiếm có
con Cải rồi, dễ ợt hà mầy ơi”. Những suy nghĩ thầm kín, khát khao bên
trong của nhân vật cũng được người kể chuyện phơi bày: “Nghe giọng là
cuộc hành trình ròng rãi mười hai năm của ông (và những oan khuất, buồn
đau ) khép lại ở đây rồi. Ngày mai ông dẫn Diễm Thương về Cỏ Cháy,
ngay trên chuyến tàu đầu. Chắc vợ ông ra cửa che tay khum khum trên
trán, hỏi ai vậy cà, ông sẽ nói con Cải chớ ai, bà sẽ mừng hết lớn, phải còn
trẻ thể nào bà cũng nhảy cà tưng. Ông sẽ đưa nó đi dài xóm, khoe “Con
Cải tui về đây nè, bà con coi, nó lớn quá chừng hen”, vẻ mặt không giấu
được hả hê (vậy mà mấy người nói tui giết nó)”. Vẫn là ngôi kể thứ ba
nhưng điểm nhìn đôi khi được thay đổi linh hoạt để nhân vật bày tỏ tâm
trạng một cách chân thực. Và thế là, giọt nước mắt của ông lăn dài trên
má. Nguyễn Ngọc Tư từng chia sẻ: “Tôi nghĩ, nếu vẽ một biểu tượng của
nghề viết mà tôi đang đeo đuổi, tôi sẽ vẽ hình ảnh của giọt nước mắt, hay
gần giống như thế… Khi viết về thân phận, nỗi đau, sự bối rối thường trực
của con người trước những biến cố của cuộc đời, tôi luôn ao ước những
trang viết của mình có được sự rung cảm như những giọt nước mắt”. Ở
đây, giọt nước mắt của ông Năm đã cho thấy niềm hạnh phúc đến nghẹn
ngào, vỡ bung ra bởi bị kìm nén quá lâu. Giọt nước mắt đã gom hết biết
bao tình cảm, nỗi đau, sự rối bời từ quá khứ đến hiện tại. Ông gặp nhỏ
Diễm Thương hằng ngày kia mà? Cớ nào lại không biết mặt nhỏ? Có lẽ,
chỉ cần nghe thấy tiếng “Ba!” là tâm trí ông bị lu mờ, chỉ còn biết nghĩ
đến viễn cảnh đưa con về Cỏ Cháy.
Chi tiết ông muốn lên tivi để con thấy mình đã chứng tỏ ông Năm không
ngại làm bất cứ việc gì để tìm con. Trật tự kể chuyện lại được đan xen
giữa quá khứ và hiện tại để làm nổi bật tình yêu con. Ông già lặng người
đi, hồi tưởng lại những kỉ niệm dắt Cải đi hái xoài chín trong vườn
hoang,chặt chuối làm bè dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều rồi cõng nó đi
tắt mấy vạt đồng đến chỗ ông bác sỹ già. Ông nhớ từ cây kẹp nhỏ, mớ dây
thun khoanh, đến mấy cục kẹo dừa. Ông tự nhủ: “Tất cả những thứ đó,
ông nhớ mồn một thì nhỏ Cải chắc chưa quên”. Thậm chí, có lần ông đậu
xe kẹo đầu chợ, thấy người ta làm phim, ông còn sướng rơn lăng xăng
chạy lại ló mặt vào mấp máy câu “Cải ơi...”. Vẫn là hai tiếng “Cải ơi…”
ấy, ông đã gọi không biết bao nhiêu lần trong suốt mười hai năm lưu lạc
mà vẫn chẳng có một tin tức gì.
Không chỉ hết lòng vì con gái, ông Năm Nhỏ còn là một người giàu lòng
nhân hậu, đức hi sinh, biết yêu thương. Những tháng ngày sống ở căn nhà
lụp xụp, kéo xe kẹo kéo đi khăp nơi, giữa ông và Thàn đã nảy sinh tình
cảm nồng ấm như tình cha con ruột thịt. Họ đồng cảm, bảo bọc, chở che
nhau. Thàn gọi ông Năm là “tía”, tối tối chui vào giường ông ngủ và ôm
ông như ôm lấy người cha. Ông Năm cũng dành cho Thàn và Diễm
Thương sự bao dung vô bờ. Ông chẳng trách cứ, mắng mỏ trò đùa ác ý
của Diễm Thương. Thậm chí khi biết tin Thàn sẽ dẫn Diễm Thương về
quê, ông còn muốn làm đại diện họ nhà gái. Có lẽ, thấm thía nỗi đau của
những người không nhà, không có nơi để về nên ông Năm đã thương cảm
cho Thàn, Diễm Thương và coi họ như những đứa con của mình. Ông vẫn
vui cho niềm vui của đôi trẻ mà không để nỗi đau của mình ảnh hưởng
đến những người xung quanh.
Với tất cả những điều trên, người đọc luôn hi vọng ông Năm Nhỏ sẽ tìm
lại được đứa con của mình, chấm dứt chuỗi ngày tha hương. Thế nhưng,
câu chuyện lại có một cái kết vô cùng ám ảnh. Ông quyết định trở thành
một tên trộm, mà ông lại trộm đôi trâu - thứ mà con gái ông đã làm mất.
Dường như ông muốn chứng minh cho Cải thấy rằng đôi trâu ấy chẳng sá
gì đâu! Khi bị đưa lên xã, ông chỉ chực chờ có đài truyền hình xuống quay
hình “để dân người ta cảnh giác”. Người ta gọi ông là “Đạo tặc đãng trí”,
nhiệt tình phỏng vấn các bên đương sự. Chỉ duy có câu nói của ông: “Cải
ơi, ba là Năm Nhỏ nè, nhà mình ở Cỏ Cháy đó, nhớ không ? Về nhà đi
con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng, chứ đôi trâu cộ nhằm
nhò gì… Về nghen con, ơi Cải…” là bị cắt bỏ. Câu chuyện lưng chừng ở
đó, liệu ông Năm có tìm được Cải hay tiếng gọi ấy vẫn lại vang vọng hoài
trên ngã ba Sương (hay một con đường nào khác)?
Ngoài ông Năm Nhỏ thì Thàn và Diễm Thương cũng là những thân phận
lưu lạc, bơ vơ đến đáng thương nhưng mang trong mình những phẩm chất
tốt đẹp. Thàn là một chàng trai có ước mơ, có đam mê và quyết sống trọn
với đam mê ấy. Anh từng hi vọng sẽ trở thành ca sĩ nổi tiếng để khiến cha
tự hào. Thàn cũng dành cho Diễm Thương một tình yêu chân thành, sự
trân trọng và cảm thông đặc biệt. Dù tính tình Diễm Thương lạnh lùng,
không cảm xúc, vì mưu sinh và những tổn thương quá khứ mà trở nên gai
góc nhưng Thàn vẫn thương cô thật lòng. Với ông Năm Nhỏ, Thàn coi
ông như người cha. Ngày đoàn hát giải tán, Thàn dẫn theo ông về chỗ
Diễm Thương. Khi Diễm Thương lấy nỗi đau của ông Năm để cá cược,
“Thàn ứa lòng nhìn ông Năm già đi khủng khiếp nó giận muốn bóp cổ
nhận nước Diễm Thương cho rồi, khi con nhỏ nhơn nhơn trở qua, giơ nắm
tiền, rủ đi ăn hủ tiếu”. Cuối cùng, Diễm Thương không phải là nhân vật
chính, hiện lên với những lời thoại thô lỗ, cộc cằn nhưng cũng để lại trong
lòng người đọc những trăn trở. Vẻ ngoài lạnh lùng của cô được tạo nên
bởi tuổi thơ cơ cực. Thái độ gay gắt, có phần khó ưa của Diễm Thương
khi thấy ông Năm tìm con xuất phát từ sự tủi thân. Không giống như ông
Năm, Diễm Thương không khóc mà chua xót nói: “Sao tui thù con nhỏ
đó quá trời, có nhà mà bỏ, có cha có mẹ mà không thèm... Cái thứ người
đó, cho nó chết bờ chết bụi cũng đáng”, “Còn tui, người ta đã quăng ở đây
mười tám năm, tui chờ hoài mà có ai tìm đâu…” Cô cũng “lên tivi” như
ông Năm để ba mẹ thấy mình. Nhưng định kiến, sự cô đơn đã vùi dập cô
gái ấy quá nhiều, dường như cô quá quen chăng? Ngày bị gia đình Thàn
phản đối, cô chỉ chào rồi bỏ về. Ẩn sau sự lạnh lùng, không ai hay biết cô
đang nghĩ gì là một trái tim khao khát yêu thương đến vô cùng. Với các
nhân vật phụ, tác giả cũng sử dụng lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và
hiện tại khi hồi tưởng lại những ngày Thàn ở nhà với người cha ruột, kết
hợp nhuần nhuyễn giữa lời của nhân vật với lời người kể chuyện và khắc
họa tâm lí nhân vật sâu sắc thông qua lời nói, cử chỉ, suy nghĩ.
Nhà văn đã sắp xếp trật tự sự kiện trong truyện đan xen giữa quá khứ và
hiện tại, ngôi kể thứ ba – người kể chuyện toàn tri cùng hệ thống điểm
nhìn linh hoạt, sự hòa quyện giữa lời người kể và lời nhân vật để miêu tả
chính xác, khách quan diễn biến hành động và nội tâm của từng nhân vật.
Từ đó, truyện khắc họa sâu sắc số phận cô đơn, nhỏ bé, đáng thương của
những con người phải lưu lạc và bày tỏ niềm đồng cảm, trân trọng trước
những vẻ đẹp tâm hồn của họ. Hơn hết, tác phẩm còn đề ra cho ta một day
dứt, trăn trở về cách đối nhân xử thế, về lòng bao dung trong cuộc đời.
Với “Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Ngọc Tư thực sự “không còn là cô gái
Việt Nam viết về Việt Nam, mà là một nhà văn viết về thân phận con người”.
2. Phân tích Cải ơi mẫu 2
Trong tác phẩm Cải ơi của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta được đưa
vào một thế giới đau buồn và đầy lòng nhân ái, nơi những con người lưu
lạc tìm kiếm sự thương yêu và ý nghĩa cuộc sống. Tác phẩm này được viết
bởi một trong những nhà văn nữ tiêu biểu của văn học đương đại – Nguyễn
Ngọc Tư, nữ thi hào sinh năm 1976 ở Cà Mau. Với việc sử dụng truyện
ngắn, tiểu thuyết và tản văn, tác giả đã tạo ra một tập truyện đa dạng, trong
đó Cải ơi được coi là một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất.
Qua câu chuyện, người đọc thấy nhân vật chính là ông Năm Nhỏ, một
người nông dân xuất thân từ làng Cỏ Cháy. Số phận của ông được quyết
định bởi việc mất con Cải. Ông đã dành cả cuộc đời để tìm kiếm con, đi
qua những khó khăn và nghèo khổ. Ông có tình yêu thương vô hạn dành
cho con và không từ bỏ bất kỳ cơ hội nào để tìm kiếm con. Ông cũng có
lòng bao dung, sự vị tha và thương yêu những người đồng cảnh ngộ. Trong
truyện “Cải ơi”, tác giả đã sử dụng trật tự kể chuyện đan xen giữa quá khứ
và hiện tại để làm nổi bật tình yêu của ông Năm đối với con. Có một chi
tiết đặc biệt là ông Năm muốn lên truyền hình để con thấy mình đã chứng
tỏ ông không ngại làm bất cứ việc gì để tìm con. Điều này thể hiện rõ
mong muốn và quyết tâm của ông trong việc tìm kiếm con yêu.
Trong những khoảnh khắc lặng người, ông Năm hồi tưởng lại những kỷ
niệm đáng yêu khi còn có Cải bên cạnh. Ông nhớ từ những kỷ niệm nhỏ
như dắt Cải đi hái xoài chín trong vườn hoang, chặt chuối làm bè và dạy
cho nó lội, thả trâu, chơi diều cho Cải. Những hình ảnh này thể hiện tình
yêu và sự quan tâm của ông đối với con trước khi họ bị chia cắt. Có một
lần ông Năm đậu xe kẹo đầu chợ và thấy người ta đang quay phim, ông
còn rất vui mừng và sẵn sàng chạy lại để xuất hiện trước ống kính và gọi
“Cải ơi…”. Đó vẫn là hai tiếng “Cải ơi…” ấy, ông đã gọi không biết bao
nhiêu lần trong suốt mười hai năm lưu lạc mà vẫn chẳng có một tin tức gì
về con. Sự sẵn lòng và sự kiên nhẫn của ông Năm trong việc tìm kiếm con
đáng được ngưỡng mộ.
Nhân vật Thàn, một người có ước mơ và hoài bão, đồng cảm với ông Năm
và có tình yêu chân thành với Diễm Thương. Cuộc sống của Thàn trở nên
lưu lạc vì không thể thực hiện được ước mơ của mình. Nhân vật Diễm
Thương, một nhân vật khác trong truyện, có một quá khứ đau buồn khi bị
cha mẹ bỏ rơi. Cô có ngoại hình và tính cách lạnh lùng, vô cảm. Tuy nhiên,
cô khao khát được yêu thương và có một cuộc sống đáng sống. Ông Năm
cũng dành cho Thàn và Diễm Thương sự bao dung vô bờ. Ông không
trách cứ hay mắng mỏ trò đùa ác ý của Diễm Thương. Thậm chí khi biết
rằng Thàn sẽ dẫn Diễm Thương về quê, ông còn muốn đại diện cho họ
như một người cha. Điều này cho thấy ông Năm đã thấu hiểu nỗi đau của
những người không có gia đình, không có nơi để trở về. Mỗi nhân vật đều
được tác giả xây dựng cụ thể và điểm nhìn linh hoạt cho phép lời người
kể và lời nhân vật hòa quyện với nhau. Tác giả cũng xây dựng và miêu tả
tâm lý nhân vật một cách tinh tế. Ngôn ngữ trong tác phẩm mang chất
khẩu ngữ miền Nam, tạo nên sự chân thực và chặt chẽ với ngữ cảnh của câu chuyện.
Tình yêu và lòng nhân hậu của ông Năm Nhỏ không chỉ dành riêng cho
con gái mình, mà còn lan tỏa đến những người xung quanh. Qua những
câu chuyện và nhân vật trong tác phẩm Cải ơi, chúng ta được mở mang
tầm nhìn và suy ngẫm về cuộc sống và con người.
3. Phân tích Cải ơi mẫu 3
Ở ngã ba Sương, ông Năm Nhỏ, một người cha già, sống trong cảnh cô
đơn và hoang vắng. Trái tim ông chứa đựng một hồi ức đen tối - hình ảnh
con Cải, đứa con riêng mà ông đã mất suốt mười hai năm. Đau đớn đè
nặng trên vai ông, nhưng ông không từ bỏ hy vọng tìm lại đứa con mất
tích của mình. Bức tranh về ông Năm trong tâm trí đọc giả không chỉ là
hình ảnh một người cha bi đạo, mà còn là biểu hiện của sự mạnh mẽ, lòng
trung hiếu và lòng kiên nhẫn không lường trước của con người.
Mỗi nhân vật trong truyện ngắn "Cải ơi!" của Nguyễn Ngọc Tư đều mang
đến một tầm vóc và một quãng đời đầy bi thương. Thàn, người đồng hành
của ông Năm, là một người phụ nữ với quá khứ u tối, nhưng lòng trung
hiếu và lòng nhân ái vẫn còn đọng mãi trong trái tim cô. Thàn dẫn ông
Năm về ngã ba Sương không chỉ là để chứng minh lòng hiếu khách của
mình mà còn là để hỗ trợ ông trong cuộc hành trình tìm con. Điềm
Thương, vợ của Thàn, không phải là một nhân vật chính, nhưng cô lại là
người trung thành và yêu thương Thàn, hiểu rõ lòng trung hiếu của chồng
và lòng nhân ái của mình. Cô ẩn sau vẻ ngoại hình bình thường là một trái
tim tràn đầy tình yêu thương và lòng hy sinh vô điều kiện.
"Cải ơi!" không chỉ là câu chuyện đau lòng về việc mất mát và tìm kiếm,
mà còn là câu chuyện về lòng trung hiếu không biên giới, lòng nhân ái và
lòng hy sinh cho người khác. Bằng cách kể về những người đơn giản,
những người lưu lạc, Nguyễn Ngọc Tư đã khắc sâu vào lòng đọc giả, để
lại những dấu vết sâu sắc về lòng người và nhân quả. Những nhân vật
trong truyện không chỉ là hình ảnh trên giấy, mà là những hồn thức sống,
là biểu hiện của sự mạnh mẽ và lòng trung hiếu đầy ý nghĩa. Đọc truyện
ngắn "Cải ơi!" của Nguyễn Ngọc Tư, đọc giả không chỉ cảm nhận được
sự đắng ngắt trong cuộc sống, mà còn được nâng cao lòng trung hiếu và
lòng nhân ái, để hiểu rõ hơn về ý nghĩa thực sự của gia đình và tình cha con.
Trong ký sự "Cánh đồng bất tận" của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta theo dõi
hành trình đầy đau đớn và tình yêu thương của ông Năm Nhỏ trong việc
tìm kiếm đứa con bị mất. Ông là một người cha đầy tình cảm và nỗ lực
không ngừng để tìm lại con gái mình. Câu chuyện được kể một cách đầy
cảm xúc và chân thực, và nó làm nổi bật tình yêu và lòng kiên nhẫn của
một người cha. Sự mất mát của ông Năm được miêu tả rất cảm động. Ông
không bao giờ từ bỏ hi vọng tìm lại con, và mọi nỗ lực và cống hiến của
ông là để thấy con mình trở về. Ông đã dành cả tình yêu và hy vọng của
mình cho đứa con bé bỏng của mình, và điều này làm cho người đọc cảm
thấy đồng cảm và xúc động.
Câu chuyện cũng đặt ra những vấn đề về sự đau đớn và lòng bao dung.
Ông Năm Nhỏ đã phải trải qua nhiều khó khăn và gian khổ trong cuộc
hành trình tìm con, nhưng anh ta không từ bỏ. Thay vào đó, anh ta đã tìm
cách để vượt qua những khó khăn này và tiếp tục điều tra. Điều này cho
thấy sự kiên nhẫn và lòng bao dung của ông Năm Nhỏ. Tác phẩm của
Nguyễn Ngọc Tư thể hiện sự tinh tế trong việc khắc họa tâm lý và cảm
xúc của các nhân vật. Cô đã sử dụng ngôn ngữ và biểu đạt một cách rất
sâu sắc để đưa ra thông điệp về lòng nhân ái và hy vọng trong cuộc sống.
4. Phân tích Cải ơi mẫu 4
Trong "Cải ơi" của Nguyễn Ngọc Tư, không chỉ là câu chuyện về việc
mất mát và tìm kiếm, mà còn là hình ảnh về lòng nhân ái, lòng hy sinh và
lòng trung hiếu. Nguyễn Ngọc Tư đã chứng minh một lần nữa rằng, qua
những nhân vật giản dị, qua những tình huống đầy cam go, vẫn tồn tại
những giá trị nhân văn sâu sắc và lòng trung hiếu không biên giới trong xã hội.
Nhân vật chính của truyện, ông Năm Nhỏ, là biểu hiện của lòng cha đầy
tình yêu thương và lòng trung hiếu sâu sắc. Trong cuộc hành trình tìm
kiếm con, ông không chỉ trải qua những khó khăn, gian truân về vật chất
mà còn phải đối mặt với sự hiểu lầm và lạnh lùng từ người xung quanh.
Nhưng lòng trung hiếu của ông không bao giờ phai nhạt. Ông không chỉ
tìm kiếm con mình mà còn trở thành bậc thầy cho những người xung
quanh, giúp họ thấu hiểu về lòng cha mẹ và lòng nhân ái. Ông Năm không
chỉ là người cha tuyệt vời trong tâm trí đọc giả, mà còn là biểu tượng của
lòng nhân ái và lòng trung hiếu trong xã hội.
Thàn và Diễm Thương, hai nhân vật phụ trong câu chuyện, cũng là những
hình ảnh đầy ý nghĩa. Thàn, người phụ nữ chung tình và mạnh mẽ, không
chỉ là người đồng hành của ông Năm mà còn là người yêu thương và chia
sẻ gánh nặng cuộc sống với ông. Cô giúp ông vượt qua mọi thử thách và
trở thành nguồn động viên không ngừng cho ông. Diễm Thương, mặc kệ
vẻ ngoại hình lạnh lùng, lại là người phụ nữ nhân hậu, biết quan tâm và
đồng cảm với người khác. Câu chuyện của họ là minh chứng cho việc
lòng nhân ái có thể tồn tại trong mọi hoàn cảnh và với mọi hình dạng.
Nguyễn Ngọc Tư không chỉ kể một câu chuyện mà còn là nguồn động
viên lớn, khuyến khích chúng ta thấu hiểu và chia sẻ lòng trung hiếu với
gia đình, với người xung quanh. Qua "Cải ơi!", chúng ta học được rằng,
trong cuộc sống, tình yêu thương và lòng nhân ái là những giá trị không
bao giờ lỗi thời, và đó chính là điều khiến cuộc sống trở nên ý nghĩa và hạnh phúc.
5. Phân tích Cải ơi mẫu 5
Trong tác phẩm "Cải ơi" của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta được
giới thiệu với nhân vật chính là ông Năm Nhỏ, một nông dân xuất thân từ
làng Cỏ Cháy. Cuộc đời của ông bị định đoạt bởi việc mất con gái duy
nhất, Cải. Từ ngày đó, ông đã dành cả cuộc đời để tìm kiếm con mình và
đi qua một loạt khó khăn, nghèo đói trong hành trình này. Ông Năm có
tình yêu thương vô tận dành cho con và không từ bỏ bất kỳ cơ hội nào để
tìm kiếm con. Ông cũng có lòng bao dung, lòng vị tha và sự thương yêu
đối với những người đồng cảnh ngộ.
Trong tác phẩm, ông Năm Nhỏ muốn lên truyền hình để con thấy rằng
ông đã chứng minh ông không ngại làm bất kỳ việc gì để tìm con. Điều
này thể hiện rõ mong muốn và quyết tâm của ông trong việc tìm kiếm con
yêu. Nhân vật Thàn, một người trẻ tuổi, có ước mơ và hoài bão lớn về sự
nổi tiếng và thành công. Tuy nhiên, cuộc sống của Thàn trở nên lưu lạc vì
không thể thực hiện được ước mơ của mình. Thàn có tình yêu chân thành
và đồng cảm với ông Năm, và anh ta đặc biệt quan tâm và chăm sóc Diễm Thương.
Diễm Thương, một nhân vật khác trong truyện, có một quá khứ đau buồn
khi bị cha mẹ bỏ rơi và cô lớn lên trong một môi trường khắc nghiệt. Cô
có ngoại hình và tính cách lạnh lùng, vô cảm. Tuy nhiên, sau sự lạnh lùng
đó là niềm khao khát tình yêu và cuộc sống đáng sống. Cô cũng thể hiện
lòng đồng cảm và quan tâm đối với ông Năm và Thàn, dù ban đầu có thái độ gay gắt.
Những tình tiết lặng lẽ trong tác phẩm khi ông Năm hồi tưởng về những
kỷ niệm đáng yêu với Cải, như việc dắt Cải đi hái xoài chín, chặt chuối
làm bè, thả trâu, chơi diều, thể hiện tình yêu và quan tâm của ông đối với
con. Đây là những hình ảnh ấm áp và đáng yêu trước khi họ bị chia cắt.
Sự bao dung, lòng vị tha và tình yêu của ông Năm Nhỏ không chỉ dành
cho con gái mình, mà còn lan tỏa đến những người xung quanh, như Thàn
và Diễm Thương. Tác phẩm "Cải ơi" thể hiện lòng nhân ái và hy vọng
trong cuộc sống và mở ra những câu hỏi về cuộc đời và con người.
III. Quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư
- “Tư viết về nhiều thứ lắm, phần vì sự thôi thúc thể hiện những cảm xúc
dồn nén bên trong, phần vì buồn quá không biết nói chuyện cùng ai nên
tìm cách trút vào trang viết chứ chưa dám nghĩ sẽ được đăng mà kiếm cơm bằng nhuận bút”.
- “Tôi hay nghĩ về sức mạnh của những giọt nước mắt. Chúng trong trẻo,
giản dị nhưng lại gây rung cảm sâu sắc. Những tối, trên bản tin truyền
hình, tôi nhìn thấy một em bé, hay một phụ nữ ở xứ sở xa xôi nào đó đang
khóc, vì chiến tranh, vì bạo lực, hay vì thiên tai… và những giọt nước mắt
lay động bất cứ ai nhìn thấy chúng, bất chấp biên giới, màu da, thể chế
chính trị, ngôn ngữ hay những cách biệt văn hóa khác”.
- “Tôi nghĩ, nếu vẽ một biểu tượng của nghề viết mà tôi đang đeo đuổi,
tôi sẽ vẽ hình ảnh của giọt nước mắt, hay gần giống như thế, bởi văn học
vẫn còn rào cản ngôn ngữ”.
- “Khi viết về thân phận, nỗi đau, sự bối rối thường trực của con người
trước những biến cố của cuộc đời, tôi luôn ao ước những trang viết của
mình có được sự rung cảm như những giọt nước mắt. Khi ấy, trong lòng
các bạn, tôi không còn là cô gái Việt Nam viết về Việt Nam, mà là một
nhà văn viết về thân phận con người, như các bạn”.
----------------------------------------