Phân tích cái tôi trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông (Dàn ý + 4 Mẫu) | Văn mẫu 11 Chân trời sáng tạo

Cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài Ai đã đặt tên cho dòng sông bao gồm gợi ý cách viết chi tiết kèm theo 4 bài văn mẫu khác nhau cực hay. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều tài liệu học tập củng cố kỹ năng làm văn hay.

Dàn ý cái tôi tr tình ca Hoàng Ph Ngọc Tường
I. M bài
- Gii thiu v Hoàng Ph Ngọc Tường "Ai đã đặt tên cho dòng sông", gii thiu
cái tôi tr tình ca tác gi trong tác phm
II. Thân bài
a. Gii thích cái tôi tr tình và khái quát cái tôi tr tình của nhà văn
- Cái tôi tr tình mt thut ng thuộc lĩnh vực luận Văn hc, ch m trng, cm
xúc, cm nhn ca tác gi, tâm hn ca riêng tác gi trưc hin thc khách quan.
Qua cái tôi tr tình, người đọc th cm nhận được những suy nghĩ, ng
quan nim...ca tác gi trưc cuc đi.
- Cái tôi tr tình ca Hoàng Ph Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông" là
cái tôi đắm, tài hoa, uyên bác tình yêu say đắm quê ơng, xứ sở, đặc bit
vi Huế và Hương giang.
b. Cái tôi mê đm và tài hoa
- Miêu t v đẹp của dòng sông Hương t góc nhìn địa lý
Cn trọng công đúc kết tng câu tng ch tinh tế ngập tràn ưu ái, miêu
t dòng chy của Hương giang từ thưng ngun đến khi v đồng bng
Dn chng: "bản trường ca ca rng già", "cô gái Di-gan phóng khoáng man
dại", "người m phù sa ca một vùng văn hóa xứ sở", "người gái đẹp nm
ng màng giữa cánh đồng Châu Hóa đy hoa dại được người tình mong đợi
đến đánh thức", "điệu slow tình cm dành riêng cho Huế"...
=> Tt c nhng câu văn miêu tả sông Hương đều đẹp đến l lùng.
- Góc nhìn lch s v dòng sông.
Trong cái nhìn của n văn, sông ơng "dòng sông ca thi gian ngân
vang, ca s thi viết gia màu c lá xanh biếc".
Vi Hoàng Ph Ngọc ờng, sông Hương không ch mt dòng chy địa
ca thiên nhiên, t lâu đã tr thành mt sinh th tâm trng, biết yêu nưc
trong nhng tháng ngày gian kh hào hùng ca dân tc.
- Cái tôi tài hoa, đm ca ông cm nhận đưc không ch mt v thun nht ca
dòng sông còn rt nhiu v đẹp phong phú khác. Mi v đẹp lại đem đến mt cm
nhận riêng cho người đọc.
- Tài hoa trong vic s dng ngôn ng và các bin pháp ngh thut.
Đoạn văn miêu tả sông Hương thượng lưu : "rm r gia những ng cây đại
ngàn, mãnh lit qua nhng ghnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào
những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó tr nên dịu dàng và say đắm gia nhng
dm dài chói lọi màu đỏ ca hoa đ quyên rng".
Li hành văn uyn chuyn vi ngôn t đa dạng và hình nh phong phú.
Đặc bit, s dng thành công ngh thut nhân hóa, so sánh, gi hình nh dòng
sông sinh động như con ngưi, lúc "rm r" "mãnh lit", lúc "du dàng"
"say đắm"; khi lại "vui tươi hẳn lên".
=> Trí tưởng ng phong phú cùng nhng liên ng o bạo đã giúp tác gi nêu bt
nhng cm nhận đa dạng v sông Hương. Cuộc hành trình tìm kiếm câu tr li cho câu
hi "Ai đã đt tên cho dòng sông" tr nên đầy say mê và hào hng.
c. Cái tôi uyên bác và giàu vn hiu biết
- Miêu t sông ơng, nhà văn dường như thông thuc từng bước đi, ngã r, dòng
chy. Không ch biết ch nào cun xoáy, ch nào yên ...
- Ông thm chí phát hiện được những điều ngay c ngưi Huế cũng không nghĩ
đến: sông Hương giống như "người m phù sa ca một vùng văn hóa xứ s".
- Cái tôi uyên bác của nhà văn đã khám phá và phát hin những đặc điểm văn hóa thú
v của sông Hương.
V trm mặc như triết lí, như c thi ca con sông khi chy bên những lăng tm
đền đài của các đời vua chúa triu Nguyn... Hay còn dòng sông thi ca, ci
ngun cm hng cho biết bao ngh sĩ.
Giai thoi tuyệt đẹp v ngun gc tên gi của sông Hương: "Tôi thích nhất mt
huyn thoi k rằng yêu qcon sông xinh đp của quê hương, con ngưi
hai b đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho
mãi mãi".
=> Hoàng Ph Ngọc Tường nh đó đã mang đến cho người đc nhiu tri thc v sông
Hương nói riêng và Huế nói chung.
d. Cái tôi yêu tha thiết quê hương, xứ s, Huế và sông Hương
- Nếu ch cảm c rung động nht thời trước v đẹp ca con sông, ca x Huế,
Hoàng Ph Ngọc Tưng s không th viết lên đưc những trang văn mê đm và rt đi
tài hoa như thế.
- Yêu Huế, yêu Hương giang, nhà văn mới có được nhng rung cm mãnh lit
- Tình cm đặc bit y hóa thành nhng dòng chy trong tâm hồn nhà văn để ri to
nên c cái tôi mê đắm, tài hoa và uyên bác.
- Tình yêu Hoàng Ph Ngọc Tường dành cho Hương giang thc ra chính tình yêu
tha thiết, mãnh liệt dành cho đất nưc.
III. Kết bài
- Đánh giá li cái tôi tr tình và phong cách tác gi, giá tr tác phm
Phân tích cái tôi tr tình ca Hoàng Ph Ngọc Tường - Mu 1
Ai đã đặt tên cho dòng sông ? mt trong nhng thiên tùy bút xut sc nht ca
Hoàng Ph Ngọc Tường nói riêng ca th loi bút kí, y bút trong nền văn học
nước ta nói chung. Chng phi ngu nhiên tác gi ca từng được nhà văn
Nguyên Ngọc đánh giá“một trong mấy nhà văn viết hay nht ca văn học ta hin
nay”. Bởi như chúng ta đã biết, th loi bút kí, sc hp dn ca tác phm không ch
ph thuc vào nhng ghi chép ca tác gi với lượng tri thc phong phú, thông tin mi
m còn tùy thuộc vào “duyên ngầm” của cái “tôi” nhà n. Trong bút Ai đã đt
tên cho dòng sông?, Hoàng Ph Ngọc Tường đã không chỉ bc l mình như một người
ngh có năng lực kho cu ca nhà khoa hc, là mt nhà khoa hc mang trong mình
ct cách của người ngh sĩ tài hoa mà còn thể hiện mình như một nhà thơ viết văn xuôi,
một nhà văn tâm hồn thi sĩ. Chính sự đan cài, “hai trong một” của các yếu t ấy đã
làm nên một hình tượng cái “tôi” đầy hp dn, có sc mi gi bạn đọc, góp phn quan
trng vào thành công ca tác phm.
Ai đã đặt tên cho dòng sông ? bài đc sc v con sông Hương ca x Huế. Đọc
bài kí, ai cũng dễ dàng nhn thy : tác gi ca nhà văn Hoàng Ph Ngọc ng
đã dành hết m sc tình cm ca mình, thm cc tinh hoa tinh huyết ca mt
đời văn để say sưa khám phá miêu t v đẹp của Hương giang. Ch nói riêng v
thy trình ca dòng ng t thượng nguồn đổ v xuôi rồi đi ra biển, ta th thy nhà
văn đã say sưa công “đúc câu luyện chữ” để dành tng cho dòng sông mình
yêu dấu như thế nào : thưng nguồn, sông Hương là “bản trường ca ca rừng già”,
“cô gái Di-gan phóng khoáng và man di”, “người m phù sa ca một vùng văn hóa
x sở”. Khi rời vùng núi để v đồng bng, con sông hin lên giống như “người gái đp
nm ng màng giữa cánh đồng Châu Hóa đy hoa dại được người tình mong đợi
đến đánh thức”. Chảy gia lòng thành ph yêu thương sông Hương “điệu slow tình
cm dành riêng cho Huế”, “người tài n đánh đàn lúc đêm khuya”, đ rồi trước khi
chia tay “người tình mà nó mong đợi” “th trấn Bao Vinh xưa cổ” sông Hương ging
như nàng Kiều tr v tìm Kim Trọng để nói mt li th trước khi đi xa... ờng như
nhà văn đã dành những câu ch đẹp nht trong vn liếng ngôn ng của mình để gi
tên sông Hương, để định danh nhng v đẹp cùng phong phú, đa dạng độc đáo
ca nó. Nhng lời hay ý đẹp y đâu phi d thường ngay đưc. hn phi
kết tinh của tình yêu sâu đậm, ca nhng hiu biết tường tn v dòng sông ca mt
lối tư duy sắc bén đã được tưới tm trong nim xúc cm say mê, để rồi thăng hoa trong
cm hng ngh thut.
Tuy nhiên, đó mới ch góc nhìn đa lý. T góc nhìn lch s, con sông ca x Huế
cũng hiện lên trong cm hng say mê ngi ca của nhà văn. Sông Hương là “dòng sông
ca thi gian ngân vang, ca s thi viết gia màu c xanh biếc”. Trong chiến tranh,
“biết cách t hiến đời mình m mt chiến công”. Nhưng khi tr v đời thưng,
li lng lẽ, khiêm nhường làm một “người con gái du dàng của đất nước”. Thì ra, vi
Hoàng Ph Ngc Tưng, t lâu sông Hương đã không còn đơn thuần là mt dòng chy
địa lý mà nó giống như sinh th tâm trng, nó là một người dân Việt Nam yêu nước
trong những năm tháng gian khổ hào hùng ca dân tộc. Cũng như những dòng
sông khác trên đất nước Việt Nam, như con ngưi Vit Nam, mang trong mình v
đẹp truyn thống đã làm thành bản sắc văn hóa Việt :
Đạp quân thù xung đất đen
Súng gươm vứt b li hiền như xưa
(Nguyễn Đình Thi)
Sng vng trãi bn nghìn năm sừng sng
Lưng đeo gươm tay mềm mi bút hoa
Trong và thc sáng hai b suy tưng
Sng hiên ngang mà nhân ái chan hòa
(Huy Cn)
th nói, bằng tình yêu tài năng của mình, Hoàng Ph Ngọc ờng đã m kiếm,
phát hin khẳng định nhng v đẹp khác nhau của sông Hương. Hành trình ch
nghĩa y v con sông x Huế không ch nói lên tình cm yêu mến, s say đến độ
đắm đuối của nhà văn trước nhng v đẹp độc đáo, đa dạng của ơng giang còn
cho thy s tài hoa, cht lãng mn bay bng ca tác gi.
Nói đến s tài hoa ca Hoàng Ph Ngọc Tường, thiết nghĩ trước hết phải nói đến cách
nhìn nhn phát hin của nhà văn v v đẹp ca dòng sông. đây, sông Hương
không hin lên vi mt v đẹp thun nht mà hin ra trong nhng v đẹp khác nhau và
hết sc phong phú. Mi v đẹp lại đem đến mt cm nhn riêng thú v cho độc gi.
Ch riêng vic hình dung v đẹp của sông Hương như v đẹp của người thiếu nữ, ta đã
thy ít nhất năm lần trong đoạn trích này sông Hương mang những nét quyến rũ riêng :
“cô gái Di gan phóng khoáng man di”; “người gái đẹp nm ng màng giữa
cánh đồng Châu Hóa đy hoa dại”; “người tài n đánh đàn lúc đêm khuya”; “ging
như nàng Kiều trong đêm tình tự”; “người con gái du dàng của đất nước”. Ngoài
những “mệnh đề” đã được khái quát như th ch dành riêng cho sông Hương, các đoạn
miêu t dòng chy uốn lượn của con sông đều đem đến cm nhn v v đẹp gi m,
đáng yêu của người thiếu n. Khi thì giống như những đưng cong trên thân th người
con gái : “sông Hương đã chuyn dòng liên tc, vòng gia nhng khúc quanh đột ngt,
un mình theo những đường cong tht mềm”; khi thì như tấm la mm mại “dòng
sông mềm như tấm lụa”; lúc lại ging cái dáng v yêu kiu tiếng nói d thương
ca người gái đẹp : “sông Hương uốn mt cánh cung rt nh sang đến Cn Hến, đường
cong y làm cho dòng sông mm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình
yêu”…
Có th thy, trí tưởng tượng phong phú và những liên tưởng mnh m đã cung cp cho
tác gi nhng cách nhìn khác nhau v sông Hương. Không những thế, nó còn cung cp
nguyên liu cho nhng suy cm ca cái tôi tr tình v con sông yêu du. Trong nhng
suy cm y, không ít suy cảm sao mà đẹp, mà đầy chất thơ và độc đáo, cuốn hút đến l
thưng. Chng hạn như khi cái tôi tác gi hình dung sông Hương thượng nguồn n
“cô gái Di-gan phóng khoáng man dại”. Ai cũng biết nhng gái Di-gan hay Bô-
hê-miêng những người thích sng lang thang, t do yêu ca hát. H mang trong
mình v đẹp nguyên sơ, bản năng, tự nhiên đầy quyến rũ. sông ơng như những
gái Di-gan, Hoàng Ph Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người đọc mt ấn tượng
mnh v v đẹp hoang dã nhưng cũng rt tình t ca con sông x Huế. Đặc bit, trong
cách nhìn cách nghĩ v Hương giang, nhà văn rất hay liên tưởng sông Hương với
nhng trang Kiu ca Nguyn Du. Chng hạn, ông đã nhìn thấy s ơng đồng gia
nhng bc tranh phong cnh trong truyn Kiu vi khung cnh thiên nhiên hu tình
ca Huế, của dòng sông Hương thơ mộng : “dòng sông đáy c tin tri ni c
thơm, nắng vàng khói biếc, ni u hoài của dương liễu sắc đẹp nng nàn ca hoa trà
mi, nhng mùa thu quan san, nhng vầng trăng thắm thiết”. Ông đã thấy “sông Hương
thành ph của nó” như hình ảnh “của cặp tình nhân ng ca truyn Kiều”, như
đôi tài tử giai nhân Thúy Kiu Kim Trọng “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê,
thi ca âm nhạc”. Điều y, thm chí, còn được lp li mt ln nữa khi nhà văn
ởng tượng ch r ca dòng sông đ gp li thành ph ln cui góc th trn Bao
Vinh xưa cổ với “nỗi vương vấn” của nàng Kiều “chí tình” trở li tìm Kim Trọng “để
nói mt li th trưc khi v bin cả”. Vậy đó, đa thế của con sông, khúc đi chiu ca
dòng nước đã được nhà văn hình dung như ni nim, tâm s của con người, ca Thúy
Kiu trong trang sách ca Nguyễn Du…
Cái tôi tr tình ca Hoàng Ph Ngc ng - Mu 2
Mt chiều thu xưa cũ, tôi ngồi nghe li khúc “Diễm xưa” của Trịnh Công Sơn:
“Xin hãy cho mưa qua miền đất rng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”.
Đã mấy thp k trôi qua, nhc Trnh vn khiến ngưi ta si nhiều đến thế. Vy
điều đã thc s làm nên giá tr ca mt tác phm ngh thut? Tôi thiết nghĩ đó
trái tim, là tài năng và là cái “tôi” của một ngưi ngh sĩ. Không có Trịnh, s chng
một “Diễm xưa”, sẽ chng nhng lời ca gieo vào lòng ngưi biết bao nhiêu thn
thc. Trịnh, hay chính tài năng ca Trịnh, cái “tôi” ca Trịnh đã tạo nên th ngh thut
thoát li ra khi mọi định luật ng hoi ca thi gian y. Chng riêng âm nhc, câu
chuyn sáng to ngh thut câu chuyn của muôn đời, muôn thời, muôn người ngh
sĩ. Phải lăn ln vi ngh nhiều năm, phải thc s gnvi kiếp sng của đời ngh
“ung mn nồng nhưng chỉ thy chua cay”, phải đau đn thay cho nhng thân kiếp
sống trên đời, phải thương yêu vạn vt tt thy, phi xót xa cho những đã mất,
hoài tiếc cho nhng thời đã qua, người ngh mới đủ tri nghiệm, đủ dạn để
chp nên nhng áng văn chương bất hủ. Đi nhiều, nghĩ nhiều, ngm nhiu, sng nhiu,
người ngh mới th phát kiến ra đưa vào trong những trang sách cái “tôi” của
riêng mình. Hoàng Ph Ngọc Tường vi tuyệt bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
đã tỏ cho hu thế hôm nay mai sau cái tôi” của một đời văn nhân trào dâng nơi
đầu ngn bút.
Sáng to ngh thut biu hin rc r ca các phm trù: cái ch quan, cái bit, cái
đặc thù, cái không lp lại trong tài năng của ngh sĩ. tính sáng to biu hin cái
nhìn ngh thuật độc đáo, cách cảm nghĩ của nhà văn khả năng đề xut nhng
nguyên tc, bin pháp ngh thut mi m, to thành mt ngôn ng ngh thut mi
trong vic biu hin nhng ni dung mi ca đời sng ng. Nếu tính sáng
to của nhà văn mờ nht, không tạo ra đưc mt tiếng nói riêng, mt giọng điệu riêng
thì đó chính sự t sát trong văn hc. Bi l “t t đối với ngưi ngh không phải
phát súng hay y thng khi ngi vào bàn viết anh ta không viết được điều
mi mẻ”. Vậy nên các nhà văn, nhà thơ đều ý thức đưc việc “làm người thì không
nên có cái tôi nhưng làm thơ thì không th không có cái tôi”. Cái “tôi” được hiu là nét
riêng, đim khác bit ca mỗi nhân. Trong lĩnh vực ngh thuật, cái “tôi” không ch
th hiện con ngưi còn th hin phong ch ngh thut ca tác gi. Chính nh cái
tôi đó người ngh kia mới th to ra cho mình mt du trin riêng trên bến
văn đàn, đ mi tác phm ngh thut ca mình mang hình hài mt chiếc lá, th mình
vào dòng chy niên vin ca thi gian.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” một trong nhng thiên y bút ca Hoàng Ph Ngc
ng nói riêng ca th loi bút kí, y bút trong nền văn học nước ta nói chung.
Chng phi ngu nhiên Hoài nhn t: “Hoàng Phủ Ngọc ng trm c tâm
hn trong khuôn mt cuộc đời cùng với đất trời, sông c ca Huế”. Ông đã lng
nghe rất kĩ, ghi tạc rt sâu nhng khonh khc tưởng đâu chừng đã quá đi dung d ,
quá đỗi đời thường ca dòng ơng giang y, đ khi nhng dt rung cm tế vi, mến
thương y ngập tràn trong đôi mắt; tâm thc ông, ngòi bút ông s viết, thật đẹp tht
hay. Tài liu ca trang thayhieu.net. Ông viết v sông Hương như viết đôi ba dòng thư
tình dành tặng người con gái mình yêu, ban sơ bình dị. chắc cũng cái lẽ đó
mà th còn li sau mt lời “phu chữ” của ông chính những áng văn chương v sông
Hương được chp nên t cái “tôi” tài hoa, uyên bác và nng lòng với quê hương xứ s.
Tuy nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” phn nhiu nghiêng v tùy bút, tc là thiên
v cht trnh và s phóng khoáng nhưngi hn ct ca không thế mất đi.
Bn cht của ghi chép ngưi viết chính “thư trung thành ca thời đại”.
Hoàng Ph Ngọc Tường một người thư như thế thm chí một “thư kí” xuất
sc của dòng Hương giang. Ông am ng v sông Hương trên mọi bình din lch s,
văn hóa, địa lí. góc độ địa lí, Hoàng Ph Ngọc Tưng tìm hiểu sông Hương trực tiếp
thưng nguồn để phát hin nhiu v đẹp khác nhau của dòng sông. Đâydòng sông
mi quan h mt thiết với dãy Trường Sơn. lẽ thế mang trong mình
dáng dp ca mt bản trường ca rng già vi tiết tu hùng tráng, d di. Vi dòng
Hương giang, ông không ch thân thuc từng cái “chuyển dòng”, từng khúc “uốn
mình” “vòng giữa”, từng đưng cong, tng nr; không ch nm bt tng ch cun
xoáy, tng ch yên , phng lặng… của con sông trong từng không gian địa còn
c mt chiều dài bốn nghìn m đất nước”, từ thu “nó còn mt dòng biên thùy
xa xôi của đất nước các vua Hùng”. Trong cái nhìn về địa lch s, ông không ch
am tường v nhng kiến thc đã trong các liệu còn c nhng kiến thc
không my người biết đến nghĩ đến, ông cũng đều thu t tận ng. y vai trò
ca dòng sông “ngưi m psa của vùng văn hóa xứ sở”. Bấy lâu nay khi viết v
sông Hương, bất kì ngưi ngh nào cũng đm chìm trong v đẹp “phóng khoáng
man dại” của “cô gái Di-gan” sắc nước nghiêng thành. Hoàng Ph Ngọc Tường, con
người dành trn mt hành trình sng của mình đ yêu và thương sông Hương, đã thoát
ra khi kiểu đồng phục ởng để chm khc nên dòng sông trên con đường độc đạo
của riêng mình. i ngòi bút của ông, Hương giang mang trong mình v đẹp du
dàng, toàn bích và đầy trí tuệ, nuôi dưỡng những đứa con x Huế, bồi đắp nên nền văn
hóa hai bên b sông cho c đô bằng dòng psa ngt ngào, ấm nóng. Đã mấy mươi
thế k trôi qua, tri qua bao b dâu ca cuộc đời, bao hưng phế ca thời đại, sông
Hương vẫn thế, vn lng l, vn âm thm cng hiến, bồi đắp phù sa để hình thành nên
nền văn hóa rực r, giống như một người m hiền lúc nào cũng thầm lng hi sinh, chu
đựng, tt c những đứa con thương yêu, chẳng mưu cầu đáp tr, ch mong sao mai
này con ta ln lên/ con s mang đất nước đi xa/ đến những tháng ngày mơ mộng”.
Nhưng thú vị nht vn nhng khám phá, phát hin miêu t ca nhà văn v sông
Hương dưới góc độ văn hóa. Dấu tích văn hóa c trên hai bên b sông. Đó “vẻ
đẹp trm mặc như triết lí, như cổ thi” của “người con gái du dàng của đất nước” khi
chảy qua lăng tm ca nhng vua chúa triu Nguyn; là cái nôi ca nn âm nhc c đô.
Đó còn dòng ng thi ca nơi đã khơi nguồn cm hng cho biết bao thế h văn
ngh i chung các nhà thơ nói riêng. Như Cao Quát đã tng nhìn sông
Hương thốt lên rằng: “Trường Giang như kiếm lập thanh thiên”. Như Hàn Mc T
đứng trưc dòng sông trc n, bi hồi: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / ch
trăng về kp tối nay”. Tài liu của trang thayhieu.net. Như Thu Bồn đã từng nhìn điệu
chy lng l của Hương giang băn khoăn “Con sông dùng dng, con sông không
chy/ Sông chy vào lòng nên Huế rất sâu”. Hay như một con ng Hương cứ mãi
quan hoài trong ni su vn c ca Bà Huyn Thanh Quan, có sc mnh phc sinh tâm
hồn trong thơ ca T Hu. Qu không ngoa khi nói sông Hương là mảnh đất hin thc
màu m, luôn nghiêng mình hiến dâng th mc trân quý nhất, để mỗi nhà văn khi đến
nơi đây đều th chm bút vào nghiên chưng cất nên “nhng trang sách suốt đời
đi vẫn nhớ/ như đám mây ngũ sắc ng trên đầu”.
th nói bng nhng hiu biết phong phú, nhà văn đã cung cấp cho người đọc mt
ng thông tin ln v địa lí, lch sử, văn hóa Huế nói chung và sông Hương nói riêng.
Vn kiến thc sâu rộng đó hẳn phi kết qu ca nhiu chuyến du lãm du kho
trên dm dài mảnh đất c đô. Nhưng cái chính vẫn là nhng trang văn về Hương giang
đã đuộc tưi tm trong vô vàn nhng cung bc cm xúc ca tác giả, đã thăng hoa trong
cảm giác mê đắm ca mt đời văn nhân.
Cái “tôi” ca tác gi còn một cái “tôi nặng lòng với quê hương, x s. Chc rng
Hoàng Ph Ngọc Tường phi yêu, phi thương cái mảnh đất y lm mi th lt t
dòng sông qhương một cách xut sắc đến vậy. Ông đã dành toàn b tâm huyết ca
mình để theo dõi toàn b thy trình vi vn hiu biết sâu rng v các kiến thc liên
quan. Chính vì thế, những áng văn của ông luôn là nhng gì trong veo, ban sơ nhất ca
dòng sông ơng tự bui hng hoang. th tình cm nồng đượm đối vi nhng
điều dung dị, đời thường nht của dòng sông Hương như thế n con ch ông chính
th còn li ca mt thời đại, một đời văn nhân yêu mến những điu nh bé, nhng v
đẹp mong manh hồ ta mnh trời xanh như muốn v ra dưới hiên nhà mt chiu
nng nht. Chính con sông đã khiến trái tim y, m hn y, con người y phi ngân
rung lên nhng nhịp yêu thương với nhiu cung bậc khác nhau: khi thì băn khoăn, trăn
tr, e ngại con người; khi li khc khoải đến nao lòng một nét sông Hương với điệu
chy lng l ông gọi “điệu slow tình cm dành riêng cho Huế; có khi “thất vng
khi nghe nhc Huế gia ban ngày” bi “toàn bộ nn âm nhc c đin Huế đã được sinh
thành trên mặt nước của dòng sông y”… Những cm xúc y ch mt trong s rt
nhiu nhng biu hin ca tình cm gắn yêu thương đi với ng ơng nhà
văn đã trc tiếp nói ra kín đáo thể hin. nh cm đối với sông Hương của Hoàng
Ph Ngọc Tường, xét cho đến cùng, là tình cảm đối với đất nước, là tm lòng yêu mến
quê hương x s đến đ nng cháy của nhà văn. Tài liệu ca trang thayhieu.net. Tôi t
hi nếu không phi xut phát t cái nh chân thành, nồng cháy đó tm sao ông
th viết, làm sao con ch ca ông có th chạm được đến nhng khoái cm thẩm mĩ của
biết bao thế h? Con ch i ngòi bút ông được ướp đắp trong men say ca cái tình
thun khiết y, ca cái tình chân thành dung d nht, d y thương nhớ nht.
thế, văn của con ngưi y bao gi cũng ẩn mình dưới lp ngôn t du nh, mt vùng
ánh sáng lp lánh ch ai trân quý cái đẹp, trân quý dòng Hương giang trân quý
quê hương, xứ s mi có th t ng.
cái “tôi” tinh tế, lãng mn với trí tưởng tượng phong phú, bay bổng chính điu
cui cùng giúp Hoàng Ph Ngọc ờng đặt du trin của mình vào văn đàn Việt Nam
hiện đại. Ngh thut chính hình nh ch quan ca thế gii khách quan. Hin thc
cuc sống chính kho đề tài tận để ngưi ngh khám phá, phát hiện. Nhưng đi
vi mi cây bút, nó lại được chiếu rọi dưới mt th ánh sáng riêng. Ngh sĩ chân chính
ngưi biết khai thác nhng ấn tượng riêng, ch quan ca mình biết làm cho n
ng y hình thc riêng biệt, độc đáo. Ý thức được s lp li t nht chính cái
chết ca ngh thut, Hoàng Ph Ngọc ờng đã m cho mình “mt ging nói riêng
không th tìm thy bt cung hng nào khác”. Ông viết v sông Hương như viết
v một ngưi tình vi mối lương duyên tự ngàn xưa. Sông Hương dưới ngòi bút ca
ông hin lên vi những nét tính cách độc đáo và vẻ đẹp phong phú. Khi sng gia lòng
Trường Sơn, sông ơng mang trong mình dòng máu ca một “cô gái Di-gan phóng
khoáng man dại”. Nhưng khi vừa đặt chân ra khi cánh rừng đi ngàn, chuyn
mình, mang nét đẹp dịu dàng, đắm say để bắt đầu mt cuc m kiếm có ý thc, tìm
kiếm ngưi tình trong mng. Tài liu ca trang thayhieu.net. Thế nên đoạn chy y
được tác gi so sánh nmột cuc tìm kiếm đuổi bắt, đầy hào hoa đam mê. Nét
dịu dàng, đắm say y thoáng chc tan biến để nhường ch cho cái v “trm mặc”, “cổ
thi” khi “ngưi con gái y” uốn mình qua nhng lăng tm, to cm giác như dòng sông
Hương đang chiêm nghiệm, đang thành kính nghĩ suy về mt thi quá kh vàng son
dựng nướcgi ớc. Nhưng cũng rất nhanh thôi, sông Hương li tìm v vi cái sc
sng vn có ca nó, bng sáng và tr trung khi nghe thy âm thanh ca thành ph; e p
thn thùng khi nm trong vòng tay ca kinh thành Huế như người con gái cun
mình trong cái ôm ca tình nhân. Ri khi ri khi kinh thành Huế, sông Hương lại tìm
v vi v đẹp màng, ảo khi đi qua những nương dâu, lũy trúc nhng hàng
cau thôn Vĩ Dạ. Và khi nó “đt ngt chuyển dòng như sực nh ra một điều gì chưa kịp
nói”, tác gi li gọi đấy ni vương vấn, c mt chút lẳng kín đáo trong tình yêu.
Đặc biệt hơn cả, trong sut hi trình của mình, sông Hương luôn được hình dung như
một “người gái đẹp” với nhiu dáng v, nhiu cung bc cm xúc khác nhau. Sáng to
ngh thut chính xác mt hình thc “tự r mình vào cửa khó” nhưng nhà văn ca
chúng ta đã không ngần ngại “vật ln vi con ch của đời” để viết nên nhng áng
văn chương “không trn lẫn”. Thử hi đưc my ai dám cầm bút mà đặt vào so
sánh gia cái c th dòng sông Hương cái trừu tượng v đẹp “như triết lí, như
c thi”? Thử hỏi được mấy ai ngđến ng sông ơng như một “cô gái Di-gan
phóng khoáng man dại”? Thử hỏi được mấy ai m đt dòng sông x s mình
lên bàn cân so sánh vi con sông Nê-va tr danh thế giới? Không, không ai làm đưc
điều đó, ngoại tr ông, Hoàng Ph Ngọc Tường cùng cái “tôi” tinh tế và lãng mn mi
đủ dạn chp bút viết nên mt thiên tùy bút lặng đọng trong lòng người đọc bao
thế h.
Vi Hoàng Ph Ngọc ờng, sông Hương dương như đã hóa thành máu tht ông, tâm
hn ông, th xác ông. Bi thế trong nhng trang văn, dấu chân l hành của ông đã
lang thang qua sông Seine của Pháp hay ng Volga ớc Nga; đi sut nhng dòng
sông Vit t sông Hng, sông Đuống, sông đến dòng Hiền Lương, Thạch Hãn quê
nhà hay yêu đến tn ty dòng Thu Bn x Quảng, ng Côn đất võ, nhng dòng sông
phương Nam đ nặng phù sa… thì cuối cùng, còn li vi Hoàng Ph Ngọc Tường vn
nhng nhịp yêu thương dành dụm, góp nhặt dành cho sông ơng trào dâng qua
đầu ngn bút. th văn chương của ông c ra t chính nhng tình cm p iu,
nồng đượm đó nên cái “tôi” ca ông trên tng con ch không h khiên ng l
thay li rt t nhiên, ban đến nghẹn ngào. Cái “tôi” của Hoàng Ph Ngọc ng
s hi t i tài, cái tâm ca một đời cầm bút. Đó cái “tôi” nặng lòng vi sông
Hương, với x Huế, với quê hương đất nước mình. Đó cũng cái “tôi” uyên bác, tài
hoa trong ngh thut th hin ca th bút kí.
Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã làm cái “tôi” của Hoàng Ph Ngọc Tường
như một li khẳng định tên ông trên bến văn đàn. Bi l m một nhà văn không
phi chuyn d dàng h không ch hi t v nhân cách bn cht thẩm mĩ cuộc
sng, của con người h còn phi nm bắt được trn vn những phong phú, đa dạng
chuyn biến trong tng khonh khc. thế cho nên h luôn phi sống sâu đ
cm nhận được hết những “phong phú đa dạng y”. Bên cạnh đó, họ còn phi
một “con ngưi lớn” và rành rt mi chuyện “bếp núc” của văn chương: Đó chính
cái “tôi” lớn ca một đời lăn lộn vi ch nghĩa bởi cũng chính một trong
nhng nhân t quyết định cho “hơi thở”, cho sức sng ca mt tác phẩm đại, mt
nhà văn vĩ đại!
Phân tích cái tôi tr tình ca Hoàng Ph Ngọc Tường - Mu 3
Tác phm là nơi th hiện con người và cá tính sáng tác độc đáo của các tác gi, vy cái
tôi ca Hoàng Ph Ngọc Tường trong Ai đã đặt tên cho dòng sông đã thể hiện đặc sc
như thế nào, các em cùng phân tích cái tôi tác gi để hiểu n về phong cách văn
chương của nhà văn tài hoa này.
Một người trí thc yêu c vừa bước ra t trong khói la chiến tranh,va bng bng
khí thế chng gic ngoi xâm, va hào hng ngi ca ch nghĩa anh hùng,một thế t
do, t tin t hào để nhìn vào mi quan h dòng chy ca lch s dân tộc để
khẳng định sc sng, sc mnh ca nó.
Một ngưi ngh s giàu rung đng rt lãng mn khi chn cho mình một điểm nhìn
thật đặc bit v con sông.Cht lãng mn, ngh thể hin s la chn thi gian mùa
thu và không gian khu vưn c sm ut, một khu vườn mùa nào cũng có hoa nở và trái
chín mà vn th hin mt "thần thái yên tĩnh và khoáng đạt giống như một s t do ni
tâm"- mt không gian va c kính, va thm tươi, vừa phóng khoáng. Trong không
gian y, m thế của nhà văn trở nên thư thái, s t do nội tâm đ cm nhn mt
cách tinh tế chiu sâu v đối tượng. S thư thái biu hin trong nhng hoạt động
c th: va ăn trái hồng ngọt thanh đ cm nhận hương vị thc, vừa đọc Kiều để
đắm mình trong thế giới tưởng ng của thơ ca. Đi giữa cõi thc cõi thơ, sống
trong s giao thoa ca những rung động vi khung cnh thiên nhiên nhng rung
động trước mt mi tình say đắm trong nhng trang Kiu để t đó nhà văn có một phát
hiện độc đáo về mi liên h gia nhng câu Kiu với âm hưởng sâu thm ca Huế:
"dòng sông đáy c in tri nhng ni c thơm, nắng vàng khói biếc, ni u hoài
của dương liu sắc đẹp nng nàn ca hoa trà mi, nhng mùa thu quan san, nhng
vầng trăng thắm thiết..." quan trng nht nhn ra rằng sông ơng thành ph
của như một vang bóng trong thời gian hình ng cặp tình nhân tưởng ca
Truyn Kiu "tìm kiếm đui bt, hào hoa đam mê, thi ca âm nhạc". th
thấy đó là một tư thế và tâm thế rt thích hp vi vic bc l những rung động ca tình
yêu - mt th tình yêu rt sâu và rất đắm say ca nhà văn vi con sông x Huế.
Niềm say sưa m kiếm khẳng định v đẹp riêng, sc cun hút, quyến riêng của
con sông x Huế các phương diện không gian thi gian, lch s văn hoá. Cả
bài tu bút ờng như cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khc khoải "Ai đã
đặt tên cho dòng sông" cuc tìm kiếm, lý gii cái tên ca dòng sông đã trở thành
cuc m kiếm đầy hào hng say không ch v đẹp ca din mo hình hài
còn độ lng sâu ca tâm hồn rung động. Con sông x Huế hin lên trong cuc
tim kiếm ca Hoàng Ph Ngọc Tường đã không ch con sông địa mt sinh
th, một con người "sông Hương quả thc là Kiu, rt Kiu" vừa xinh đẹp, va tài hoa,
vừa thăng trầm chìm ni cùng lch s li vừa đằm thm lng sâu vi nền văn hoá riêng
ca nó.
cùng phong phú. khi đưc bc l trc tiếp vi các trng thái ni tâm: va
thích thú, vừa đãng , miên man trong vẻ đẹp của dòng sông đang đi sc không
ngng, nh da diết điệu chy lng l ca con sông khi ngang qua thành phố, cái điệu
chảy như một điệu slow tình cm dành riêng cho Huế trong trăm nghìn ánh hoa đăng;
tht vng khi nghe nhc Huế gia ban ngày hoc trên sân khu bi hiu sâu sc rng
nn âm nhc Huế được sinh thành trên mt nước sông Hương, là linh hn ca con sông
nên ch chính vang lên trong đêm gia tiếng rơi bán âm của c t nhng mái
chèo khuya. khi cm xúc yêu thương da diết vi x Huế lại được bc l gián tiếp
trong cuc hành trình lng l vi rt nhiu nhng m kiếm phát hin: Cái "tôi" tác
gi khi thì chng kiến mt ngh nhân già sau na thế k chơi nhạc đã chợt nhn ra
khúc nhc Huế trong nhng trang Kiều "Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng
sui mi sa na vi", khi bt ng ng ngàng nhận ra điểm tương đng gia con
sông con người "nỗi vương vấn chút lẳng kín đáo của tình yêu"; khi li
cũng vì yêu Huế đọc văn kiện ca Liên Hip quc v Huế bng s rung động thm
m ca tâm hồn để "thy hin bóng khuôn mt quyến ơi tr ca dòng sông
thành ph gia lòng thế gii hiện đại"; đng thời cũng hoài niệm đến khc khoi khi
phát hin ra mt sắc màu xưa của chiếc áo cưới Huế ngày xưa, rất xưa "màu áo
lục điều vi loi vi... bên trong, to thành mt màu tím n hiện" đ t cái sc màu
văn hoá y liên ng mt cách rt ngu hng ti "màu của sương khói
trên sông Hương giống như tấm voan huyn o ca t nhiên, sau đó n giu khuôn mt
thc ca dòng sông". Rõ ràng Hoàng Ph Ngc Tường đã đem tình yêu đằm thm lng
sâu và nhng cm xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang viết để ri mỗi dòng văn như mt
nt nhc trong bản đàn lòng để tôn vinh v đẹp của sông Hương.
Phong phú chiu sâu. th nói trong bài bút pha tu bút y, Hoàng Ph
Ngọc Tường đã huy động vn kiến thc tng hp nhiu mt v con sông Hương từ địa
lý, lch sử, văn hoá, văn chương đi sng, t nhiên kho c, cái hin sinh
nhng gì thuc v xa xưa...Đọc bài viết th thy công phu nghiên cu, tìm hiu ca
nhà văn thật đáng nể: vừa quan sát đ thy đưc tng nét din mo ca con sông trong
tng khong không gian c th, va nghiên cu để thy mi liên h giữa đặc điểm địa
lý với đặc điểm dòng chy ca con sông, va tìm hiu con sông trong tng thi k lch
s, va thâm nhp thc tế để nhn biết mt cách c th nhng nếp sinh hot, nhng
cách thức lao động, những hương v riêng ca c y, hoa trái, đất đai, vừa đọc tư liu,
sách v để hình dung ra quá kh mt thi vang bóng trong nhng du tích còn li ca
thành quách, đình đền. Trong khối ng kiến thức được huy động, đáng kể nht
kiến thức địa lý, lch s và văn hoá. Các mặt kiến thc này không tách ri nhau, không
độc lp tn ti hoà quyn, h tr nhau to thành một điểm ta vng chc cho ngòi
bút nhà văn khi miêu t con sông ca x Huế.
C bài tu bút cuc hành trình hào hng cn trọng, say sưa rất nghiêm túc để
tìm kiếm câu tr li cho câu hi "Ai đã đặt tên cho dòng sông". Đây là câu hỏi ng như
bâng quơ ca một nhà thơ nào đó khi đến vi Huế song cũng là mt câu hỏi đầy ng ý
ca chính Hoàng Ph Ngọc Tường. Hỏi như một cách đ xác lp mi quan h gia
dòng sông với con người, gia cái tên ca dòng sông với cách nhìn, cách nghĩ
nhng cm nhn của con ngưi v nó. ý thc v điều y nên trong khi m hiu v
sông nhà văn cũng rt công phu tìm hiu v cuc sống và con người bên dòng sông y.
Nghĩa con sông đã được đặt trong mi quan h gn mt thiết với con người.
Trong mi liên h y, sông đã được soi ngm t nhiều góc độ, thi gian và không gian,
văn hoá và lịch s, sinh hot và phong tục, đời sng sinh hot và thế gii tinh thn...Và
trong quá trình tìm hiểu "Ai đặt n cho dòng sông", Hoàng Ph Ngọc Tường đã
bc l mình không chmt cái tôi giàu hiu biết, ham tìm hiu mà còn là mt cái tôi
rt mực tinh tường cùng sâu sc trong nhng khám phá, tìm hiu nhng chiu
sâu văn hoá tinh thn, tâm hn của sông Hương cũng là của con người x Huế.
Phân tích cái tôi ca Hoàng Ph Ngc Tường - Mu 4
Văn chương là hành trình đi từ trái tim đến nhng trái tim qua ngòi bút của người sáng
tác. Khi nhng trang văn khép lại, i còn đng lại trong lòng người đọc chính cái
tôi tr nh ca tác gi. Nhắc đến cái tôi tr tình trong văn học Vit Nam không th
không nhc Hoàng Ph Ngọc Tường với bút ký "Ai đã đặt tên cho ng sông". Cái tôi
tr tình của ông trong bài cái tôi đm lãng mn, tài hoa, uyên bác yêu say
đắm quê hương, xứ Huế, ghi li nhiu ấn tượng sâu sc.
Cái tôi tr tình mt thut ng thuộc lĩnh vực luận Văn học, ch tâm trng, cm
xúc, cm nhn ca tác gi. Hay thc cht thế gii ni tâm, m hn ca riêng tác
gi trưc hin thc khách quan. Qua cái tôi tr tình, người đc th cm nhận đưc
những suy nghĩ, tưởng quan nim...ca tác gi trưc cuộc đời. Cái tôi tr tình t
đó chính là yếu t quan trng góp phn hình thành phong cách ngh thut ca riêng tác
gi.
Hoàng Ph Ngọc Tường là cây bút ni tiếng trong nền văn học Vit Nam hin đại, đặc
bit th kí. Ai đã đặt tên cho dòng sông tác phm tiêu biu nht cho phong cách
ngh thut ca Hoàng Ph Ngọc ng nói chung, cho cái tôi tr tình ca ông nói
riêng. Qua bài ký, tác gi khéo léo th hin cái tôi mê đắm, tài hoa, uyên bác và có tình
yêu say đắm quê hương, x sở, đặc bit vi Huế và dòng Hương giang.
Đến với "Ai đã đặt n cho dòng sông", trưc tiên y ấn tượng mnh m với độc gi
là cái tôi Hoàng Ph tài hoa và mê đắm, tinh tế và vô cùng lãng mn. Hoàng Ph Ngc
ờng đã dành hết tâm sc, tình cm nhit huyết văn chương để say sưa khám phá
miêu t v đẹp của dòng sông Hương từ góc nhìn địa lý. Ngay t những câu văn
đầu miêu t thy trình của dòng sông, nhà văn đã cẩn trọng công đúc kết tng
câu tng ch tinh tế ngập tràn ưu ái. thưng nguồn, sông Hương hin lên "bn
trưng ca ca rng già", "cô gái Di-gan phóng khoáng man dại", "người m
phù sa ca một vùng văn hóa xứ s". Khi ri núi rng để v vi đng bng, nó li hin
lên giống như "người gái đẹp nm ng màng giữa nh đồng Châu Hóa đầy hoa
dại được người tình mong đợi đến đánh thức". Lúc chy gia lòng thành ph thân
thương, sông ơng lại "điệu slow tình cm nh riêng cho Huế", "người tài n
đánh đàn lúc đêm khuya", để rồi trước khi chia tay "người tình mà nó mong đợi" "th
trấn Bao Vinh xưa cổ" sông Hương giống như nàng Kiều tr v tìm Kim Trọng để nói
mt li th trước khi đi xa... Tất c những câu văn miêu tả sông Hương đều đẹp đến l
lùng. không ch miêu t đưc v đẹp độc đáo của dòng sông còn th hiện được
lối duy sắc bén được nuôi dưỡng trong ng cảm xúc đam cm hng ngh
thut.
Cái tôi đắm tài hoa ca tác gi còn được th hin nét qua góc nhìn lch s v
dòng sông. Trong cái nhìn ca Hoàng Ph Ngọc Tường, sông Hương "dòng sông
ca thi gian ngân vang, ca s thi viết gia màu c xanh biếc". Những m tháng
chiến tranh ác lit, "biết cách t hiến đời mình làm mt chiến công". Khi tr v đời
thưng, li lng l, khiêm nhường làm "ngưi con gái du dàng của đất c". Vi
Hoàng Ph Ngọc ờng, sông Hương không chỉ mt dòng chy địa ca thiên
nhiên, t lâu đã trở thành mt sinh th tâm trng, biết yêu nước trong nhng
tháng ngày gian kh hào hùng ca dân tc.
Hoàng Ph Ngọc ờng đã tinh tế phát hin ra nhng v đẹp cùng độc đáo ca
dòng sông ơng. Cái tôi tài hoa, đắm ca ông cm nhận được không ch mt v
thun nht ca ng sông còn rt nhiu v đẹp phong phú khác. Mi v đẹp li
đem đến mt cm nhn riêng cho người đc. Ch riêng vic miêu t sông Hương đẹp
như vẻ đẹp người con gái, tác gi đã sử dng nhiu cách diễn đạt khác bit. Khi thì
"cô gái Di - gan phóng khoáng man dại" khi "người tài n đánh đàn lúc đêm
khuya"; khúc khác li "giống như nàng Kiều trong đêm tình tự"; "ngưi con gái du
dàng ca đất nước"...
Tài hoa tinh tế trong cách cm nhn v đẹp sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn
cùng tài hoa trong vic s dng ngôn ng các bin pháp ngh thut. Trong bài
ký, bao nhiêu góc nhìn v ng Hương thì by nhiêu kiu ch nghĩa được s
dng. Tiêu biểu như đoạn văn miêu tả sông ơng thượng lưu : "rm r gia nhng
bóng cây đại ngàn, mãnh lit qua nhng ghnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào
những đáy vực n, cũng lúc trở nên dịu dàng say đắm gia nhng dm
dài chói lọi màu đ của hoa đỗ quyên rừng". Hay "qua điện Hòn Chén, vp Ngc Trn,
chuyển hướng sang y bc, vòng qua thm đất bãi Nguyt Biều, ơng Quán rồi
đột ngt v mt hình cung tht tròn v phía đông bắc, ôm ly chân đồi Thiên M xuôi
dn v Huế...".
Chúng ta th thy được lối hành văn uyển chuyn vi ngôn t đa dạng hình nh
phong phú. Tng t tng ch đều mang đậm hơi thở i hoa của người ngh sĩ. Đặc
bit, tác gi còn s dng thành công ngh thut nhân hóa, so sánh, gi hình nh dòng
sông sinh động như con người, lúc "rm r" "mãnh lit", lúc "du dàng" "say
đắm"; khi lại "vui tươi hẳn lên". Hình ảnh so sánh "đưng cong y làm cho dòng sông
mm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra ca tình yêu" hay "chiếc cu trng ca
thành ph in ngn trên nn tri, nh nhắn như những vành trăng non" cùng n
ng gi cm. Trí ởng ng phong phú cùng những liên ng táo bạo đã giúp
tác gi nêu bt nhng cm nhận đa dạng v sông Hương. Cuc hành trình tìm kiếm câu
tr li cho câu hỏi "Ai đã đặt tên cho dòng sông" tr n đầy say mê và hào hng.
Bên cạnh cái tôi đắm tài hoa, người đc còn cm nhận được i tôi uyên bác
giàu tri thc v lch sử, địa lý, văn hóa Huế. Miêu t sông Hương, nvăn ờng như
thông thuc tng ớc đi, ngã rẽ, dòng chy. Không ch biết ch o cun xoáy, ch
nào yên ... Hoàng Ph Ngọc Tường còn tưng tn c lch s ca dòng sông. Ngoài tri
thức địa lý, lch s đã ghi li, ông thm chí phát hiện đưc những điều mà ngay c
người Huế cũng không nghĩ đến. Đó vai trò quan trọng của Hương giang - "ngưi
m phù sa ca một ng văn hóa xứ sở". Người ta l ch nhìn sông ơng qua vẻ
bên ngoài ca không biết được khi ngun ca c mt không gian đa
và văn hóa Huế. Nhưng Hoàng Phủ Ngc Tưng li hiu rõ.
Cái tôi uyên bác của nhà văn đã khám phá và phát hin những đặc điểm văn hóa thú vị
của sông Hương. Đó cái v trm mặc như triết lí, như c thi ca con sông khi chy
bên những lăng tm đền đài của các đi vua chúa triu Nguyn; nn âm nhc c
điển đã đưc sinh thành trên mt nước ca dòng sông này. Hayn là dòng sông thi ca,
ci ngun cm hng cho biết bao ngh sĩ. Đặc bit là giai thoi tuyệt đẹp v ngun gc
tên gi ca sông Hương: "Tôi thích nht mt huyn thoi k rng yêu quý con sông
xinh đp của quê hương, con ngưi hai b đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xung
dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi". Nếu không Hoàng Ph Ngọc Tường,
nhiều ngưi chc chn s không bao gi biết đến giai thoi y. vy, tr thành
thông tin vô cùng hp dn trong tác phm, nhn mnh cái tôi uyên bác của nn.
Hoàng Ph Ngọc Tường nh đó đã mang đến cho người đọc nhiu tri thc v sông
Hương nói riêng và Huế nói chung.
Ai đã đặt tên cho dòng sông ngoài ra còn th hin cái tôi tr tình ca nhà văn với nh
yêu say đắm và s gn bó sâu sc với quê hương, xứ s, vi Huế Hương giang. Nếu
ch là cm xúc rung động nht thời trước v đẹp ca con sông, ca x Huế, Hoàng Ph
Ngc Tưng s không th viết lên đưc những trang văn mê đm và rt đỗi tài hoa như
thế. Yêu Huế, yêu Hương giang, nhà văn mới có được nhng rung cm mãnh lit, sông
Hương không đơn thuần cảnh đẹp còn chiếm trn tâm hn ông. Chính con sông
đã khiến trái tim ông chy xuôi vàn cung bc cảm xúc. Khi thì băn khoăn, trăn tr,
khi li nh đến nao lòng...
Tình cảm đặc bit y hóa thành nhng dòng chy trong tâm hồn nhà văn đ ri to nên
c cái tôi đắm, tài hoa uyên bác. Bởi vì yêu n say sưa trong v đẹp ca dòng
sông, c gng m hiu tinh thông tri thc, dành hết tài hoa để miêu t thành hình
trn vn v đẹp của nó. Hương giang một phn ca Huế, cũng một dòng chy
trong rt nhiu dòng chy ca non sông. Tình yêu Hoàng Ph Ngọc Tường dành cho
Hương giang thc ra chính là tình yêu tha thiết, mãnh lit dành cho đt nưc.
Xuyên suốt bài "Ai đã đặt tên cho ng ng", Hoàng Ph Ngọc ờng đã dẫn dt
người đọc theo dòng cm chy ấn tượng. Cái tôi mê đm, tài hoa, cái tôi uyên bác, tinh
tế cùng cái tôi yêu sâu sắc qhương x s hòa quyn vào nhau kết hp cùng ngh
thut ngôn t các th pháp ngh thuật đặc sc. T đó không ch v lên bc tranh
tuyệt đẹp v dòng sông Hương ng x Huế mộng còn th hin phong cách
ngh thut ca riêng Hoàng Ph Ngọc Tường. Nhà văn cùng "Ai đã đặt tên cho dòng
sông" bi vy đã để li mt du n sâu đm trong lch s n học n tộc. Để ri thi
gian trôi đi, tác gi và tác phm vn lng l chy mãi trong tâm hồn độc gi, giống như
dòng chảy Hương giang không bao gi ngng li.
| 1/20

Preview text:


Dàn ý cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường I. Mở bài
- Giới thiệu về Hoàng Phủ Ngọc Tường và "Ai đã đặt tên cho dòng sông", giới thiệu
cái tôi trữ tình của tác giả trong tác phẩm II. Thân bài
a. Giải thích cái tôi trữ tình và khái quát cái tôi trữ tình của nhà văn
- Cái tôi trữ tình là một thuật ngữ thuộc lĩnh vực Lý luận Văn học, chỉ tâm trạng, cảm
xúc, cảm nhận của tác giả, là tâm hồn của riêng tác giả trước hiện thực khách quan.
Qua cái tôi trữ tình, người đọc có thể cảm nhận được những suy nghĩ, tư tưởng và
quan niệm...của tác giả trước cuộc đời.
- Cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông" là
cái tôi mê đắm, tài hoa, uyên bác và có tình yêu say đắm quê hương, xứ sở, đặc biệt
với Huế và Hương giang.
b. Cái tôi mê đắm và tài hoa
- Miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương từ góc nhìn địa lý
 Cẩn trọng và kì công đúc kết từng câu từng chữ tinh tế và ngập tràn ưu ái, miêu
tả dòng chảy của Hương giang từ thượng nguồn đến khi về đồng bằng
 Dẫn chứng: "bản trường ca của rừng già", "cô gái Di-gan phóng khoáng và man
dại", là "người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở", "người gái đẹp nằm
ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi
đến đánh thức", "điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế"...
=> Tất cả những câu văn miêu tả sông Hương đều đẹp đến lạ lùng.
- Góc nhìn lịch sử về dòng sông.
 Trong cái nhìn của nhà văn, sông Hương là "dòng sông của thời gian ngân
vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc".
 Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một dòng chảy địa lý
của thiên nhiên, nó từ lâu đã trở thành một sinh thể có tâm trạng, biết yêu nước
trong những tháng ngày gian khổ hào hùng của dân tộc.
- Cái tôi tài hoa, mê đắm của ông cảm nhận được không chỉ một vẻ thuần nhất của
dòng sông mà còn rất nhiều vẻ đẹp phong phú khác. Mỗi vẻ đẹp lại đem đến một cảm
nhận riêng cho người đọc.
- Tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ và các biện pháp nghệ thuật.
 Đoạn văn miêu tả sông Hương ở thượng lưu : "rầm rộ giữa những bóng cây đại
ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào
những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những
dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng".
 Lối hành văn uyển chuyển với ngôn từ đa dạng và hình ảnh phong phú.
 Đặc biệt, sử dụng thành công nghệ thuật nhân hóa, so sánh, gợi hình ảnh dòng
sông sinh động như con người, lúc "rầm rộ" và "mãnh liệt", lúc "dịu dàng" và
"say đắm"; khi lại "vui tươi hẳn lên".
=> Trí tưởng tượng phong phú cùng những liên tưởng táo bạo đã giúp tác giả nêu bật
những cảm nhận đa dạng về sông Hương. Cuộc hành trình tìm kiếm câu trả lời cho câu
hỏi "Ai đã đặt tên cho dòng sông" trở nên đầy say mê và hào hứng.
c. Cái tôi uyên bác và giàu vốn hiểu biết
- Miêu tả sông Hương, nhà văn dường như thông thuộc từng bước đi, ngã rẽ, dòng
chảy. Không chỉ biết chỗ nào cuộn xoáy, chỗ nào yên ả...
- Ông thậm chí phát hiện được những điều mà ngay cả người Huế cũng không nghĩ
đến: sông Hương giống như "người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở".
- Cái tôi uyên bác của nhà văn đã khám phá và phát hiện những đặc điểm văn hóa thú vị của sông Hương.
 Vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi của con sông khi chảy bên những lăng tẩm
đền đài của các đời vua chúa triều Nguyễn... Hay còn là dòng sông thi ca, cội
nguồn cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ.
 Giai thoại tuyệt đẹp về nguồn gốc tên gọi của sông Hương: "Tôi thích nhất một
huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở
hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi".
=> Hoàng Phủ Ngọc Tường nhờ đó đã mang đến cho người đọc nhiều tri thức về sông
Hương nói riêng và Huế nói chung.
d. Cái tôi yêu tha thiết quê hương, xứ sở, Huế và sông Hương
- Nếu chỉ là cảm xúc rung động nhất thời trước vẻ đẹp của con sông, của xứ Huế,
Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ không thể viết lên được những trang văn mê đắm và rất đỗi tài hoa như thế.
- Yêu Huế, yêu Hương giang, nhà văn mới có được những rung cảm mãnh liệt
- Tình cảm đặc biệt ấy hóa thành những dòng chảy trong tâm hồn nhà văn để rồi tạo
nên cả cái tôi mê đắm, tài hoa và uyên bác.
- Tình yêu Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho Hương giang thực ra chính là tình yêu
tha thiết, mãnh liệt dành cho đất nước. III. Kết bài
- Đánh giá lại cái tôi trữ tình và phong cách tác giả, giá trị tác phẩm
Phân tích cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường - Mẫu 1
Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là một trong những thiên tùy bút xuất sắc nhất của
Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng và của thể loại bút kí, tùy bút trong nền văn học
nước ta nói chung. Chẳng phải ngẫu nhiên mà tác giả của nó từng được nhà văn
Nguyên Ngọc đánh giá là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện
nay”. Bởi như chúng ta đã biết, ở thể loại bút kí, sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ
phụ thuộc vào những ghi chép của tác giả với lượng tri thức phong phú, thông tin mới
mẻ mà còn tùy thuộc vào “duyên ngầm” của cái “tôi” nhà văn. Trong bút kí Ai đã đặt
tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ bộc lộ mình như một người
nghệ sĩ có năng lực khảo cứu của nhà khoa học, là một nhà khoa học mang trong mình
cốt cách của người nghệ sĩ tài hoa mà còn thể hiện mình như một nhà thơ viết văn xuôi,
một nhà văn có tâm hồn thi sĩ. Chính sự đan cài, “hai trong một” của các yếu tố ấy đã
làm nên một hình tượng cái “tôi” đầy hấp dẫn, có sức mời gọi bạn đọc, góp phần quan
trọng vào thành công của tác phẩm.
Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là bài kí đặc sắc về con sông Hương của xứ Huế. Đọc
bài kí, ai cũng dễ dàng nhận thấy : tác giả của nó – nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã dành hết tâm sức và tình cảm của mình, thậm chí cả tinh hoa và tinh huyết của một
đời văn để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của Hương giang. Chỉ nói riêng về
thủy trình của dòng sông từ thượng nguồn đổ về xuôi rồi đi ra biển, ta có thể thấy nhà
văn đã say sưa và kì công “đúc câu luyện chữ” để dành tặng cho dòng sông mà mình
yêu dấu như thế nào : ở thượng nguồn, sông Hương là “bản trường ca của rừng già”, là
“cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa
xứ sở”. Khi rời vùng núi để về đồng bằng, con sông hiện lên giống như “người gái đẹp
nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi
đến đánh thức”. Chảy giữa lòng thành phố yêu thương sông Hương là “điệu slow tình
cảm dành riêng cho Huế”, là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, để rồi trước khi
chia tay “người tình mà nó mong đợi” ở “thị trấn Bao Vinh xưa cổ” sông Hương giống
như nàng Kiều trở về tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa... Dường như
nhà văn đã dành những câu chữ đẹp nhất trong vốn liếng ngôn ngữ của mình để gọi
tên sông Hương, để định danh những vẻ đẹp vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo
của nó. Những lời hay ý đẹp ấy đâu phải dễ thường mà có ngay được. Nó hẳn phải là
kết tinh của tình yêu sâu đậm, của những hiểu biết tường tận về dòng sông và của một
lối tư duy sắc bén đã được tưới tắm trong niềm xúc cảm say mê, để rồi thăng hoa trong cảm hứng nghệ thuật.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là góc nhìn địa lý. Từ góc nhìn lịch sử, con sông của xứ Huế
cũng hiện lên trong cảm hứng say mê ngợi ca của nhà văn. Sông Hương là “dòng sông
của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Trong chiến tranh,
nó “biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công”. Nhưng khi trở về đời thường, nó
lại lặng lẽ, khiêm nhường làm một “người con gái dịu dàng của đất nước”. Thì ra, với
Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ lâu sông Hương đã không còn đơn thuần là một dòng chảy
địa lý mà nó giống như sinh thể có tâm trạng, nó là một người dân Việt Nam yêu nước
trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng của dân tộc. Cũng như những dòng
sông khác trên đất nước Việt Nam, như con người Việt Nam, nó mang trong mình vẻ
đẹp truyền thống đã làm thành bản sắc văn hóa Việt :
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa (Nguyễn Đình Thi)
Sống vững trãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa (Huy Cận)
Có thể nói, bằng tình yêu và tài năng của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm kiếm,
phát hiện và khẳng định những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương. Hành trình chữ
nghĩa ấy về con sông xứ Huế không chỉ nói lên tình cảm yêu mến, sự say mê đến độ
đắm đuối của nhà văn trước những vẻ đẹp độc đáo, đa dạng của Hương giang mà còn
cho thấy sự tài hoa, chất lãng mạn bay bổng của tác giả.
Nói đến sự tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thiết nghĩ trước hết phải nói đến cách
nhìn nhận và phát hiện của nhà văn về vẻ đẹp của dòng sông. Ở đây, sông Hương
không hiện lên với một vẻ đẹp thuần nhất mà hiện ra trong những vẻ đẹp khác nhau và
hết sức phong phú. Mỗi vẻ đẹp lại đem đến một cảm nhận riêng thú vị cho độc giả.
Chỉ riêng việc hình dung vẻ đẹp của sông Hương như vẻ đẹp của người thiếu nữ, ta đã
thấy ít nhất năm lần trong đoạn trích này sông Hương mang những nét quyến rũ riêng :
“cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”; “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa
cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”; “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”; “giống
như nàng Kiều trong đêm tình tự”; “người con gái dịu dàng của đất nước”. Ngoài
những “mệnh đề” đã được khái quát như thể chỉ dành riêng cho sông Hương, các đoạn
miêu tả dòng chảy uốn lượn của con sông đều đem đến cảm nhận về vẻ đẹp gợi cám,
đáng yêu của người thiếu nữ. Khi thì giống như những đường cong trên thân thể người
con gái : “sông Hương đã chuyển dòng liên tục, vòng giữa những khúc quanh đột ngột,
uốn mình theo những đường cong thật mềm”; khi thì như tấm lụa mềm mại “dòng
sông mềm như tấm lụa”; có lúc lại giống cái dáng vẻ yêu kiều và tiếng nói dễ thương
của người gái đẹp : “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến, đường
cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”…
Có thể thấy, trí tưởng tượng phong phú và những liên tưởng mạnh mẽ đã cung cấp cho
tác giả những cách nhìn khác nhau về sông Hương. Không những thế, nó còn cung cấp
nguyên liệu cho những suy cảm của cái tôi trữ tình về con sông yêu dấu. Trong những
suy cảm ấy, không ít suy cảm sao mà đẹp, mà đầy chất thơ và độc đáo, cuốn hút đến lạ
thường. Chẳng hạn như khi cái tôi tác giả hình dung sông Hương ở thượng nguồn như
“cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Ai cũng biết những cô gái Di-gan hay Bô-
hê-miêng là những người thích sống lang thang, tự do và yêu ca hát. Họ mang trong
mình vẻ đẹp nguyên sơ, bản năng, tự nhiên đầy quyến rũ. Ví sông Hương như những
cô gái Di-gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng
mạnh về vẻ đẹp hoang dã nhưng cũng rất tình tứ của con sông xứ Huế. Đặc biệt, trong
cách nhìn và cách nghĩ về Hương giang, nhà văn rất hay liên tưởng sông Hương với
những trang Kiều của Nguyễn Du. Chẳng hạn, ông đã nhìn thấy sự tương đồng giữa
những bức tranh phong cảnh trong truyện Kiều với khung cảnh thiên nhiên hữu tình
của Huế, của dòng sông Hương thơ mộng : “dòng sông đáy nước tin trời và nội cỏ
thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà
mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết”. Ông đã thấy “sông Hương
và thành phố của nó” như hình ảnh “của cặp tình nhân lý tưởng của truyện Kiều”, như
đôi tài tử giai nhân Thúy Kiều – Kim Trọng “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê,
thi ca và âm nhạc”. Điều này, thậm chí, còn được lặp lại một lần nữa khi nhà văn
tưởng tượng chỗ rẽ của dòng sông để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao
Vinh xưa cổ với “nỗi vương vấn” của nàng Kiều “chí tình” trở lại tìm Kim Trọng “để
nói một lời thề trước khi về biển cả”. Vậy đó, địa thế của con sông, khúc đổi chiều của
dòng nước đã được nhà văn hình dung như nỗi niềm, tâm sự của con người, của Thúy
Kiều trong trang sách của Nguyễn Du…
Cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường - Mẫu 2
Một chiều thu xưa cũ, tôi ngồi nghe lại khúc “Diễm xưa” của Trịnh Công Sơn:
“Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”.
Đã mấy thập kỷ trôi qua, mà nhạc Trịnh vẫn khiến người ta si mê nhiều đến thế. Vậy
điều gì đã thực sự làm nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật? Tôi thiết nghĩ đó là
trái tim, là tài năng và là cái “tôi” của một người nghệ sĩ. Không có Trịnh, sẽ chẳng có
một “Diễm xưa”, sẽ chẳng có những lời ca gieo vào lòng người biết bao nhiêu là thổn
thức. Trịnh, hay chính tài năng của Trịnh, cái “tôi” của Trịnh đã tạo nên thứ nghệ thuật
thoát li ra khỏi mọi định luật băng hoại của thời gian ấy. Chẳng riêng gì âm nhạc, câu
chuyện sáng tạo nghệ thuật là câu chuyện của muôn đời, muôn thời, muôn người nghệ
sĩ. Phải lăn lộn với nghề nhiều năm, phải thực sự gắn bó với kiếp sống của đời nghệ sĩ
“uống mặn nồng nhưng chỉ thấy chua cay”, phải đau đớn thay cho những thân kiếp
sống trên đời, phải thương yêu vạn vật tất thảy, phải xót xa cho những gì đã mất, và
hoài tiếc cho những thời đã qua, người nghệ sĩ mới có đủ trải nghiệm, đủ dạn dĩ để
chắp nên những áng văn chương bất hủ. Đi nhiều, nghĩ nhiều, ngẫm nhiều, sống nhiều,
người nghệ sĩ mới có thể phát kiến ra và đưa vào trong những trang sách cái “tôi” của
riêng mình. Và Hoàng Phủ Ngọc Tường với tuyệt bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
đã tỏ rõ cho hậu thế hôm nay và mai sau cái “tôi” của một đời văn nhân trào dâng nơi đầu ngọn bút.
Sáng tạo nghệ thuật là biểu hiện rực rỡ của các phạm trù: cái chủ quan, cái cá biệt, cái
đặc thù, cái không lặp lại trong tài năng của nghệ sĩ. Cá tính sáng tạo biểu hiện ở cái
nhìn nghệ thuật độc đáo, ở cách cảm nghĩ của nhà văn có khả năng đề xuất những
nguyên tắc, biện pháp nghệ thuật mới mẻ, tạo thành một ngôn ngữ nghệ thuật mới
trong việc biểu hiện những nội dung mới của đời sống và tư tưởng. Nếu cá tính sáng
tạo của nhà văn mờ nhạt, không tạo ra được một tiếng nói riêng, một giọng điệu riêng
thì đó chính là sự tự sát trong văn học. Bởi lẽ “tự tử đối với người nghệ sĩ không phải
phát súng hay dây thừng mà là khi ngồi vào bàn viết anh ta không viết được điều gì
mới mẻ”. Vậy nên các nhà văn, nhà thơ đều ý thức được việc “làm người thì không
nên có cái tôi nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Cái “tôi” được hiểu là nét
riêng, điểm khác biệt của mỗi cá nhân. Trong lĩnh vực nghệ thuật, cái “tôi” không chỉ
thể hiện con người mà còn thể hiện phong cách nghệ thuật của tác giả. Chính nhờ cái
tôi đó mà người nghệ sĩ kia mới có thể tạo ra cho mình một dấu triện riêng trên bến
văn đàn, để mỗi tác phẩm nghệ thuật của mình mang hình hài một chiếc lá, thả mình
vào dòng chảy niên viễn của thời gian.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong những thiên tùy bút của Hoàng Phủ Ngọc
Tường nói riêng và của thể loại bút kí, tùy bút trong nền văn học nước ta nói chung.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà Tô Hoài nhận xét: “Hoàng Phủ Ngọc Tường trầm cả tâm
hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước của Huế”. Ông đã lắng
nghe rất kĩ, ghi tạc rất sâu những khoảnh khắc tưởng đâu chừng đã quá đỗi dung dị ,
quá đỗi đời thường của dòng Hương giang ấy, để khi những dệt rung cảm tế vi, mến
thương ấy ngập tràn trong đôi mắt; tâm thức ông, ngòi bút ông sẽ viết, thật đẹp và thật
hay. Tài liệu của trang thayhieu.net. Ông viết về sông Hương như viết đôi ba dòng thư
tình dành tặng người con gái mình yêu, ban sơ và bình dị. Và chắc cũng vì cái lẽ đó
mà thứ còn lại sau một lời “phu chữ” của ông chính là những áng văn chương về sông
Hương được chắp nên từ cái “tôi” tài hoa, uyên bác và nặng lòng với quê hương xứ sở.
Tuy nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” có phần nhiều nghiêng về tùy bút, tức là thiên
về chất trữ tình và sự phóng khoáng nhưng cái hồn cốt của nó không vì thế mà mất đi.
Bản chất của kí là ghi chép và người viết chính là “thư kí trung thành của thời đại”.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người thư ký như thế và thậm chí là một “thư kí” xuất
sắc của dòng Hương giang. Ông am tường về sông Hương trên mọi bình diện lịch sử,
văn hóa, địa lí. Ở góc độ địa lí, Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm hiểu sông Hương trực tiếp
ở thượng nguồn để phát hiện nhiều vẻ đẹp khác nhau của dòng sông. Đây là dòng sông
có mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn. Có lẽ vì thế mà nó mang trong mình
dáng dấp của một bản trường ca rừng già với tiết tấu hùng tráng, dữ dội. Với dòng
Hương giang, ông không chỉ thân thuộc từng cái “chuyển dòng”, từng khúc “uốn
mình” “vòng giữa”, từng đường cong, từng ngã rẽ; không chỉ nắm bắt từng chỗ cuộn
xoáy, từng chỗ yên ả, phẳng lặng… của con sông trong từng không gian địa lí mà còn
là cả một chiều dài “bốn nghìn năm đất nước”, từ thuở “nó còn là một dòng biên thùy
xa xôi của đất nước các vua Hùng”. Trong cái nhìn về địa ví và lịch sử, ông không chỉ
am tường về những kiến thức đã có trong các tư liệu mà còn là cả những kiến thức
không mấy người biết đến và nghĩ đến, ông cũng đều thấu tỏ tận tường. Ấy là vai trò
của dòng sông – “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”. Bấy lâu nay khi viết về
sông Hương, bất kì người nghệ sĩ nào cũng đắm chìm trong vẻ đẹp “phóng khoáng và
man dại” của “cô gái Di-gan” sắc nước nghiêng thành. Hoàng Phủ Ngọc Tường, con
người dành trọn một hành trình sống của mình để yêu và thương sông Hương, đã thoát
ra khỏi kiểu đồng phục tư tưởng để chạm khắc nên dòng sông trên con đường độc đạo
của riêng mình. Dưới ngòi bút của ông, Hương giang mang trong mình vẻ đẹp dịu
dàng, toàn bích và đầy trí tuệ, nuôi dưỡng những đứa con xứ Huế, bồi đắp nên nền văn
hóa hai bên bờ sông cho cố đô bằng dòng phù sa ngọt ngào, ấm nóng. Đã mấy mươi
thế kỉ trôi qua, trải qua bao bể dâu của cuộc đời, bao hưng phế của thời đại, sông
Hương vẫn thế, vẫn lặng lẽ, vẫn âm thầm cống hiến, bồi đắp phù sa để hình thành nên
nền văn hóa rực rỡ, giống như một người mẹ hiền lúc nào cũng thầm lặng hi sinh, chịu
đựng, tất cả vì những đứa con thương yêu, chẳng mưu cầu đáp trả, chỉ mong sao “mai
này con ta lớn lên/ con sẽ mang đất nước đi xa/ đến những tháng ngày mơ mộng”.
Nhưng thú vị nhất vẫn là những khám phá, phát hiện và miêu tả của nhà văn về sông
Hương dưới góc độ văn hóa. Dấu tích văn hóa ở cả trên và hai bên bờ sông. Đó là “vẻ
đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi” của “người con gái dịu dàng của đất nước” khi
chảy qua lăng tẩm của những vua chúa triều Nguyễn; là cái nôi của nền âm nhạc cố đô.
Đó còn là dòng sông thi ca – nơi đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ văn
nghệ sĩ nói chung và các nhà thơ nói riêng. Như Cao Bá Quát đã từng nhìn sông
Hương mà thốt lên rằng: “Trường Giang như kiếm lập thanh thiên”. Như Hàn Mặc Tử
đứng trước dòng sông mà trắc ẩn, bồi hồi: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở
trăng về kịp tối nay”. Tài liệu của trang thayhieu.net. Như Thu Bồn đã từng nhìn điệu
chảy lững lờ của Hương giang mà băn khoăn “Con sông dùng dằng, con sông không
chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Hay như một con sông Hương cứ mãi
quan hoài trong nỗi sầu vạn cổ của Bà Huyện Thanh Quan, có sức mạnh phục sinh tâm
hồn trong thơ của Tố Hữu. Quả không ngoa khi nói sông Hương là mảnh đất hiện thực
màu mỡ, luôn nghiêng mình hiến dâng thứ mực trân quý nhất, để mỗi nhà văn khi đến
nơi đây đều có thể chấm bút vào nghiên mà chưng cất nên “những trang sách suốt đời
đi vẫn nhớ/ như đám mây ngũ sắc ngủ trên đầu”.
Có thể nói bằng những hiểu biết phong phú, nhà văn đã cung cấp cho người đọc một
lượng thông tin lớn về địa lí, lịch sử, văn hóa Huế nói chung và sông Hương nói riêng.
Vốn kiến thức sâu rộng đó hẳn phải là kết quả của nhiều chuyến du lãm và du khảo
trên dặm dài mảnh đất cố đô. Nhưng cái chính vẫn là những trang văn về Hương giang
đã đuộc tưới tắm trong vô vàn những cung bậc cảm xúc của tác giả, đã thăng hoa trong
cảm giác mê đắm của một đời văn nhân.
Cái “tôi” của tác giả còn là một cái “tôi nặng lòng với quê hương, xứ sở. Chắc rằng
Hoàng Phủ Ngọc Tường phải yêu, phải thương cái mảnh đất này lắm mới có thể lột tả
dòng sông quê hương một cách xuất sắc đến vậy. Ông đã dành toàn bộ tâm huyết của
mình để theo dõi toàn bộ thủy trình với vốn hiểu biết sâu rộng về các kiến thức liên
quan. Chính vì thế, những áng văn của ông luôn là những gì trong veo, ban sơ nhất của
dòng sông Hương tự buổi hồng hoang. Và vì thứ tình cảm nồng đượm đối với những
điều dung dị, đời thường nhất của dòng sông Hương như thế nên con chữ ông chính là
thứ còn lại của một thời đại, một đời văn nhân yêu mến những điều nhỏ bé, những vẻ
đẹp mong manh cơ hồ tựa mảnh trời xanh như muốn vỡ ra dưới hiên nhà một chiều
nắng nhạt. Chính con sông đã khiến trái tim ấy, tâm hồn ấy, con người ấy phải ngân
rung lên những nhịp yêu thương với nhiều cung bậc khác nhau: khi thì băn khoăn, trăn
trở, e ngại con người; khi lại khắc khoải đến nao lòng một nét sông Hương với điệu
chảy lững lờ mà ông gọi là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế; có khi “thất vọng
khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày” bởi “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh
thành trên mặt nước của dòng sông này”… Những cảm xúc ấy chỉ là một trong số rất
nhiều những biểu hiện của tình cảm gắn bó yêu thương đối với sông Hương mà nhà
văn đã trực tiếp nói ra và kín đáo thể hiện. Tình cảm đối với sông Hương của Hoàng
Phủ Ngọc Tường, xét cho đến cùng, là tình cảm đối với đất nước, là tấm lòng yêu mến
quê hương xứ sở đến độ nồng cháy của nhà văn. Tài liệu của trang thayhieu.net. Tôi tự
hỏi nếu không phải xuất phát từ cái tình chân thành, nồng cháy đó thì làm sao ông có
thể viết, làm sao con chữ của ông có thể chạm được đến những khoái cảm thẩm mĩ của
biết bao thế hệ? Con chữ dưới ngòi bút ông được ướp đắp trong men say của cái tình
thuần khiết ấy, của cái tình chân thành và dung dị nhất, dễ gây thương nhớ nhất. Và vì
thế, văn của con người ấy bao giờ cũng ẩn mình dưới lớp ngôn từ dịu nhẹ, một vùng
ánh sáng lấp lánh mà chỉ ai trân quý cái đẹp, trân quý dòng Hương giang và trân quý
quê hương, xứ sở mới có thể tỏ tường.
Và cái “tôi” tinh tế, lãng mạn với trí tưởng tượng phong phú, bay bổng chính là điều
cuối cùng giúp Hoàng Phủ Ngọc Tường đặt dấu triện của mình vào văn đàn Việt Nam
hiện đại. Nghệ thuật chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Hiện thực
cuộc sống chính là kho đề tài vô tận để người nghệ sĩ khám phá, phát hiện. Nhưng đối
với mỗi cây bút, nó lại được chiếu rọi dưới một thứ ánh sáng riêng. Nghệ sĩ chân chính
là người biết khai thác những ấn tượng riêng, chủ quan của mình và biết làm cho ấn
tượng ấy có hình thức riêng biệt, độc đáo. Ý thức được sự lặp lại tẻ nhạt chính là cái
chết của nghệ thuật, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm cho mình “một giọng nói riêng
không thể tìm thấy ở bất kì cuống họng nào khác”. Ông viết về sông Hương như viết
về một người tình với mối lương duyên tự ngàn xưa. Sông Hương dưới ngòi bút của
ông hiện lên với những nét tính cách độc đáo và vẻ đẹp phong phú. Khi sống giữa lòng
Trường Sơn, sông Hương mang trong mình dòng máu của một “cô gái Di-gan phóng
khoáng và man dại”. Nhưng khi vừa đặt chân ra khỏi cánh rừng đại ngàn, nó chuyển
mình, mang nét đẹp dịu dàng, đắm say để bắt đầu một cuộc tìm kiếm có ý thức, tìm
kiếm người tình trong mộng. Tài liệu của trang thayhieu.net. Thế nên đoạn chảy này
được tác giả so sánh như một cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, đầy hào hoa và đam mê. Nét
dịu dàng, đắm say ấy thoáng chốc tan biến để nhường chỗ cho cái vẻ “trầm mặc”, “cổ
thi” khi “người con gái ấy” uốn mình qua những lăng tẩm, tạo cảm giác như dòng sông
Hương đang chiêm nghiệm, đang thành kính nghĩ suy về một thời quá khứ vàng son
dựng nước và giữ nước. Nhưng cũng rất nhanh thôi, sông Hương lại tìm về với cái sức
sống vốn có của nó, bừng sáng và trẻ trung khi nghe thấy âm thanh của thành phố; e ấp
và thẹn thùng khi nằm trong vòng tay của kinh thành Huế như người con gái cuộn
mình trong cái ôm của tình nhân. Rồi khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương lại tìm
về với vẻ đẹp mơ màng, hư ảo khi đi qua những nương dâu, lũy trúc và những hàng
cau thôn Vĩ Dạ. Và khi nó “đột ngột chuyển dòng như sực nhớ ra một điều gì chưa kịp
nói”, tác giả lại gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo trong tình yêu.
Đặc biệt hơn cả, trong suốt hải trình của mình, sông Hương luôn được hình dung như
một “người gái đẹp” với nhiều dáng vẻ, nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Sáng tạo
nghệ thuật chính xác là một hình thức “tự rủ mình vào cửa khó” nhưng nhà văn của
chúng ta đã không ngần ngại mà “vật lộn với con chữ của đời” để viết nên những áng
văn chương “không trộn lẫn”. Thử hỏi có được mấy ai dám cầm bút mà đặt vào so
sánh giữa cái cụ thể là dòng sông Hương và cái trừu tượng là vẻ đẹp “như triết lí, như
cổ thi”? Thử hỏi có được mấy ai nghĩ đến dòng sông Hương như một “cô gái Di-gan
phóng khoáng và man dại”? Thử hỏi có được mấy ai dám đặt dòng sông xứ sở mình
lên bàn cân so sánh với con sông Nê-va trứ danh thế giới? Không, không ai làm được
điều đó, ngoại trừ ông, Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng cái “tôi” tinh tế và lãng mạn mới
đủ dạn dĩ mà chắp bút viết nên một thiên tùy bút lặng đọng trong lòng người đọc bao thế hệ.
Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương dương như đã hóa thành máu thịt ông, tâm
hồn ông, thể xác ông. Bởi thế dù trong những trang văn, dấu chân lữ hành của ông đã
lang thang qua sông Seine của Pháp hay dòng Volga nước Nga; đi suốt những dòng
sông Việt từ sông Hồng, sông Đuống, sông Lô đến dòng Hiền Lương, Thạch Hãn quê
nhà hay yêu đến tận tụy dòng Thu Bồn xứ Quảng, sông Côn đất võ, những dòng sông
phương Nam đỏ nặng phù sa… thì cuối cùng, còn lại với Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn
là những nhịp yêu thương dành dụm, góp nhặt dành cho sông Hương trào dâng qua
đầu ngọn bút. Và vì thứ văn chương của ông bước ra từ chính những tình cảm ấp iu,
nồng đượm đó nên cái “tôi” của ông trên từng con chữ không hề khiên cưỡng mà lạ
thay lại rất tự nhiên, ban sơ đến nghẹn ngào. Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường là
sự hội tụ cái tài, cái tâm của một đời cầm bút. Đó là cái “tôi” nặng lòng với sông
Hương, với xứ Huế, với quê hương đất nước mình. Đó cũng là cái “tôi” uyên bác, tài
hoa trong nghệ thuật thể hiện của thể bút kí.
Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã làm rõ cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường
và như một lời khẳng định tên ông trên bến văn đàn. Bởi lẽ làm một nhà văn không
phải chuyện dễ dàng vì ở họ không chỉ hội tụ về nhân cách bản chất thẩm mĩ cuộc
sống, của con người mà họ còn phải nắm bắt được trọn vẹn những phong phú, đa dạng
và chuyển biến trong từng khoảnh khắc. Và vì thế cho nên họ luôn phải sống sâu để
cảm nhận được hết những “phong phú và đa dạng ấy”. Bên cạnh đó, họ còn phải là
một “con người lớn” và rành rọt mọi chuyện “bếp núc” của văn chương: Đó chính là
cái “tôi” lớn của một đời lăn lộn với chữ nghĩa – bởi vì nó cũng chính là một trong
những nhân tố quyết định cho “hơi thở”, cho sức sống của một tác phẩm vĩ đại, một nhà văn vĩ đại!
Phân tích cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường - Mẫu 3
Tác phẩm là nơi thể hiện con người và cá tính sáng tác độc đáo của các tác giả, vậy cái
tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Ai đã đặt tên cho dòng sông đã thể hiện đặc sắc
như thế nào, các em cùng phân tích cái tôi tác giả để hiểu hơn về phong cách văn
chương của nhà văn tài hoa này.
Một người trí thức yêu nước vừa bước ra từ trong khói lửa chiến tranh,vừa bừng bừng
khí thế chống giặc ngoại xâm, vừa hào hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng,một tư thế tự
do, tự tin và tự hào để mà nhìn vào mối quan hệ và dòng chảy của lịch sử dân tộc để
khẳng định sức sống, sức mạnh của nó.
Một người nghệ sỹ giàu rung động và rất lãng mạn khi chọn cho mình một điểm nhìn
thật đặc biệt về con sông.Chất lãng mạn, nghệ sĩ thể hiện ở sự lựa chọn thời gian mùa
thu và không gian khu vườn cổ sầm uất, một khu vườn mùa nào cũng có hoa nở và trái
chín mà vẫn thể hiện một "thần thái yên tĩnh và khoáng đạt giống như một sự tự do nội
tâm"- một không gian vừa cổ kính, vừa thắm tươi, vừa phóng khoáng. Trong không
gian ấy, tâm thế của nhà văn trở nên thư thái, có sự tự do nội tâm để cảm nhận một
cách tinh tế và có chiều sâu về đối tượng. Sự thư thái biểu hiện trong những hoạt động
cụ thể: vừa ăn trái hồng ngọt và thanh để cảm nhận hương vị thực, vừa đọc Kiều để
đắm mình trong thế giới tưởng tượng của thơ ca. Đi giữa cõi thực và cõi thơ, sống
trong sự giao thoa của những rung động với khung cảnh thiên nhiên và những rung
động trước một mối tình say đắm trong những trang Kiều để từ đó nhà văn có một phát
hiện độc đáo về mối liên hệ giữa những câu Kiều với âm hưởng sâu thẳm của Huế:
"dòng sông đáy nước in trời và những nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài
của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những
vầng trăng thắm thiết..." và quan trọng nhất là nhận ra rằng sông Hương và thành phố
của nó như một vang bóng trong thời gian hình tượng cặp tình nhân lý tưởng của
Truyện Kiều "tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc". Có thể
thấy đó là một tư thế và tâm thế rất thích hợp với việc bộc lộ những rung động của tình
yêu - một thứ tình yêu rất sâu và rất đắm say của nhà văn với con sông xứ Huế.
Niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút, quyến rũ riêng của
con sông xứ Huế ở các phương diện không gian và thời gian, lịch sử và văn hoá. Cả
bài tuỳ bút dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải "Ai đã
đặt tên cho dòng sông" Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dòng sông đã trở thành
cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo hình hài mà
còn là độ lắng sâu của tâm hồn và rung động. Con sông xứ Huế hiện lên trong cuộc
tim kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ là con sông địa lý mà là một sinh
thể, một con người "sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều" vừa xinh đẹp, vừa tài hoa,
vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm lắng sâu với nền văn hoá riêng của nó.
Vô cùng phong phú. Có khi nó được bộc lộ trực tiếp với các trạng thái nội tâm: vừa
thích thú, vừa lơ đãng , miên man trong vẻ đẹp của dòng sông đang đổi sắc không
ngừng, nhớ da diết điệu chảy lặng lờ của con sông khi ngang qua thành phố, cái điệu
chảy như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế trong trăm nghìn ánh hoa đăng;
thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu bởi hiểu sâu sắc rằng
nền âm nhạc Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương, là linh hồn của con sông
nên chỉ là chính nó vang lên trong đêm giữa tiếng rơi bán âm của nước từ những mái
chèo khuya. Có khi cảm xúc yêu thương da diết với xứ Huế lại được bộc lộ gián tiếp
trong cuộc hành trình lặng lẽ với rất nhiều những tìm kiếm và phát hiện: Cái "tôi" tác
giả khi thì chứng kiến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi nhạc đã chợt nhận ra
khúc nhạc Huế trong những trang Kiều "Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng
suối mới sa nửa vời", khi bất ngờ và ngỡ ngàng nhận ra điểm tương đồng giữa con
sông và con người ở "nỗi vương vấn và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu"; có khi lại
cũng vì yêu Huế mà đọc văn kiện của Liên Hiệp quốc về Huế bằng sự rung động thẩm
mỹ của tâm hồn để "thấy hiện bóng khuôn mặt quyến rũ và tươi trẻ của dòng sông
thành phố giữa lòng thế giới hiện đại"; đồng thời cũng hoài niệm đến khắc khoải khi
phát hiện ra một sắc màu xưa cũ của chiếc áo cưới ở Huế ngày xưa, rất xưa "màu áo
lục điều với loại vải...ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện" để từ cái sắc màu
văn hoá ấy mà liên tưởng một cách rất ngẫu hứng mà có lí tới "màu của sương khói
trên sông Hương giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt
thực của dòng sông". Rõ ràng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng
sâu và những cảm xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang viết để rồi mỗi dòng văn như một
nốt nhạc trong bản đàn lòng để tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương.
Phong phú và có chiều sâu. Có thể nói trong bài bút ký pha tuỳ bút này, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã huy động vốn kiến thức tổng hợp nhiều mặt về con sông Hương từ địa
lý, lịch sử, văn hoá, văn chương và đời sống, tự nhiên và khảo cổ, cái hiện sinh và
những gì thuộc về xa xưa...Đọc bài viết có thể thấy công phu nghiên cứu, tìm hiểu của
nhà văn thật đáng nể: vừa quan sát để thấy được từng nét diện mạo của con sông trong
từng khoảng không gian cụ thể, vừa nghiên cứu để thấy mối liên hệ giữa đặc điểm địa
lý với đặc điểm dòng chảy của con sông, vừa tìm hiểu con sông trong từng thời kỳ lịch
sử, vừa thâm nhập thực tế để nhận biết một cách cụ thể những nếp sinh hoạt, những
cách thức lao động, những hương vị riêng của cỏ cây, hoa trái, đất đai, vừa đọc tư liệu,
sách vở để hình dung ra quá khứ một thời vang bóng trong những dấu tích còn lại của
thành quách, đình đền. Trong khối lượng kiến thức được huy động, đáng kể nhất là
kiến thức địa lý, lịch sử và văn hoá. Các mặt kiến thức này không tách rời nhau, không
độc lập tồn tại mà hoà quyện, hỗ trợ nhau tạo thành một điểm tựa vững chắc cho ngòi
bút nhà văn khi miêu tả con sông của xứ Huế.
Cả bài tuỳ bút là cuộc hành trình hào hứng và cẩn trọng, say sưa và rất nghiêm túc để
tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi "Ai đã đặt tên cho dòng sông". Đây là câu hỏi ngỡ như
bâng quơ của một nhà thơ nào đó khi đến với Huế song cũng là một câu hỏi đầy ngụ ý
của chính Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hỏi như một cách để xác lập mối quan hệ giữa
dòng sông với con người, giữa cái tên của dòng sông với cách nhìn, cách nghĩ và
những cảm nhận của con người về nó. ý thức về điều này nên trong khi tìm hiểu về
sông nhà văn cũng rất công phu tìm hiểu về cuộc sống và con người bên dòng sông ấy.
Nghĩa là con sông đã được đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với con người.
Trong mối liên hệ ấy, sông đã được soi ngắm từ nhiều góc độ, thời gian và không gian,
văn hoá và lịch sử, sinh hoạt và phong tục, đời sống sinh hoạt và thế giới tinh thần...Và
trong quá trình tìm hiểu "Ai dó đặt tên cho dòng sông", Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
bộc lộ mình không chỉ là một cái tôi giàu hiểu biết, ham tìm hiểu mà còn là một cái tôi
rất mực tinh tường và vô cùng sâu sắc trong những khám phá, tìm hiểu những chiều
sâu văn hoá tinh thần, tâm hồn của sông Hương cũng là của con người xứ Huế.
Phân tích cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường - Mẫu 4
Văn chương là hành trình đi từ trái tim đến những trái tim qua ngòi bút của người sáng
tác. Khi những trang văn khép lại, cái còn đọng lại trong lòng người đọc chính là cái
tôi trữ tình của tác giả. Nhắc đến cái tôi trữ tình trong văn học Việt Nam không thể
không nhắc Hoàng Phủ Ngọc Tường với bút ký "Ai đã đặt tên cho dòng sông". Cái tôi
trữ tình của ông trong bài ký là cái tôi mê đắm lãng mạn, tài hoa, uyên bác và yêu say
đắm quê hương, xứ Huế, ghi lại nhiều ấn tượng sâu sắc.
Cái tôi trữ tình là một thuật ngữ thuộc lĩnh vực Lý luận Văn học, chỉ tâm trạng, cảm
xúc, cảm nhận của tác giả. Hay thực chất là thế giới nội tâm, là tâm hồn của riêng tác
giả trước hiện thực khách quan. Qua cái tôi trữ tình, người đọc có thể cảm nhận được
những suy nghĩ, tư tưởng và quan niệm...của tác giả trước cuộc đời. Cái tôi trữ tình từ
đó chính là yếu tố quan trọng góp phần hình thành phong cách nghệ thuật của riêng tác giả.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là cây bút nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc
biệt ở thể kí. Ai đã đặt tên cho dòng sông là tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách
nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói chung, cho cái tôi trữ tình của ông nói
riêng. Qua bài ký, tác giả khéo léo thể hiện cái tôi mê đắm, tài hoa, uyên bác và có tình
yêu say đắm quê hương, xứ sở, đặc biệt với Huế và dòng Hương giang.
Đến với "Ai đã đặt tên cho dòng sông", trước tiên gây ấn tượng mạnh mẽ với độc giả
là cái tôi Hoàng Phủ tài hoa và mê đắm, tinh tế và vô cùng lãng mạn. Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã dành hết tâm sức, tình cảm và nhiệt huyết văn chương để say sưa khám phá
và miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương từ góc nhìn địa lý. Ngay từ những câu văn
đầu miêu tả thủy trình của dòng sông, nhà văn đã cẩn trọng và kì công đúc kết từng
câu từng chữ tinh tế và ngập tràn ưu ái. Ở thượng nguồn, sông Hương hiện lên là "bản
trường ca của rừng già", là "cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại", là "người mẹ
phù sa của một vùng văn hóa xứ sở". Khi rời núi rừng để về với đồng bằng, nó lại hiện
lên giống như "người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa
dại được người tình mong đợi đến đánh thức". Lúc chảy giữa lòng thành phố thân
thương, sông Hương lại là "điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế", là "người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya", để rồi trước khi chia tay "người tình mà nó mong đợi" ở "thị
trấn Bao Vinh xưa cổ" sông Hương giống như nàng Kiều trở về tìm Kim Trọng để nói
một lời thề trước khi đi xa... Tất cả những câu văn miêu tả sông Hương đều đẹp đến lạ
lùng. Nó không chỉ miêu tả được vẻ đẹp độc đáo của dòng sông mà còn thể hiện được
lối tư duy sắc bén được nuôi dưỡng trong dòng cảm xúc đam mê và cảm hứng nghệ thuật.
Cái tôi mê đắm tài hoa của tác giả còn được thể hiện rõ nét qua góc nhìn lịch sử về
dòng sông. Trong cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương là "dòng sông
của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc". Những năm tháng
chiến tranh ác liệt, nó "biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công". Khi trở về đời
thường, nó lại lặng lẽ, khiêm nhường làm "người con gái dịu dàng của đất nước". Với
Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một dòng chảy địa lý của thiên
nhiên, nó từ lâu đã trở thành một sinh thể có tâm trạng, biết yêu nước trong những
tháng ngày gian khổ hào hùng của dân tộc.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tinh tế phát hiện ra những vẻ đẹp vô cùng độc đáo của
dòng sông Hương. Cái tôi tài hoa, mê đắm của ông cảm nhận được không chỉ một vẻ
thuần nhất của dòng sông mà còn rất nhiều vẻ đẹp phong phú khác. Mỗi vẻ đẹp lại
đem đến một cảm nhận riêng cho người đọc. Chỉ riêng việc miêu tả sông Hương đẹp
như vẻ đẹp người con gái, tác giả đã sử dụng nhiều cách diễn đạt khác biệt. Khi thì là
"cô gái Di - gan phóng khoáng và man dại" khi là "người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya"; ở khúc khác lại "giống như nàng Kiều trong đêm tình tự"; "người con gái dịu
dàng của đất nước"...
Tài hoa tinh tế trong cách cảm nhận vẻ đẹp sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn
vô cùng tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ và các biện pháp nghệ thuật. Trong bài
ký, có bao nhiêu góc nhìn về sông Hương thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được sử
dụng. Tiêu biểu như đoạn văn miêu tả sông Hương ở thượng lưu : "rầm rộ giữa những
bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào
những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm
dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Hay "qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản,
nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi
đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế...".
Chúng ta có thể thấy được lối hành văn uyển chuyển với ngôn từ đa dạng và hình ảnh
phong phú. Từng từ từng chữ đều mang đậm hơi thở tài hoa của người nghệ sĩ. Đặc
biệt, tác giả còn sử dụng thành công nghệ thuật nhân hóa, so sánh, gợi hình ảnh dòng
sông sinh động như con người, lúc "rầm rộ" và "mãnh liệt", lúc "dịu dàng" và "say
đắm"; khi lại "vui tươi hẳn lên". Hình ảnh so sánh "đường cong ấy làm cho dòng sông
mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu" hay "chiếc cầu trắng của
thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non" vô cùng ấn
tượng và gợi cảm. Trí tưởng tượng phong phú cùng những liên tưởng táo bạo đã giúp
tác giả nêu bật những cảm nhận đa dạng về sông Hương. Cuộc hành trình tìm kiếm câu
trả lời cho câu hỏi "Ai đã đặt tên cho dòng sông" trở nên đầy say mê và hào hứng.
Bên cạnh cái tôi mê đắm tài hoa, người đọc còn cảm nhận được cái tôi uyên bác và
giàu tri thức về lịch sử, địa lý, văn hóa Huế. Miêu tả sông Hương, nhà văn dường như
thông thuộc từng bước đi, ngã rẽ, dòng chảy. Không chỉ biết chỗ nào cuộn xoáy, chỗ
nào yên ả... Hoàng Phủ Ngọc Tường còn tường tận cả lịch sử của dòng sông. Ngoài tri
thức địa lý, lịch sử đã ghi lại, ông thậm chí phát hiện được những điều mà ngay cả
người Huế cũng không nghĩ đến. Đó là vai trò quan trọng của Hương giang - "người
mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở". Người ta có lẽ chỉ nhìn sông Hương qua vẻ
bên ngoài của nó mà không biết được nó là khởi nguồn của cả một không gian địa lý
và văn hóa Huế. Nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường lại hiểu rõ.
Cái tôi uyên bác của nhà văn đã khám phá và phát hiện những đặc điểm văn hóa thú vị
của sông Hương. Đó là cái vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi của con sông khi chảy
bên những lăng tẩm đền đài của các đời vua chúa triều Nguyễn; là nền âm nhạc cổ
điển đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này. Hay còn là dòng sông thi ca,
cội nguồn cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ. Đặc biệt là giai thoại tuyệt đẹp về nguồn gốc
tên gọi của sông Hương: "Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông
xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống
dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi". Nếu không có Hoàng Phủ Ngọc Tường,
nhiều người chắc chắn sẽ không bao giờ biết đến giai thoại này. Vì vậy, nó trở thành
thông tin vô cùng hấp dẫn trong tác phẩm, nhấn mạnh cái tôi uyên bác của nhà văn.
Hoàng Phủ Ngọc Tường nhờ đó đã mang đến cho người đọc nhiều tri thức về sông
Hương nói riêng và Huế nói chung.
Ai đã đặt tên cho dòng sông ngoài ra còn thể hiện cái tôi trữ tình của nhà văn với tình
yêu say đắm và sự gắn bó sâu sắc với quê hương, xứ sở, với Huế và Hương giang. Nếu
chỉ là cảm xúc rung động nhất thời trước vẻ đẹp của con sông, của xứ Huế, Hoàng Phủ
Ngọc Tường sẽ không thể viết lên được những trang văn mê đắm và rất đỗi tài hoa như
thế. Yêu Huế, yêu Hương giang, nhà văn mới có được những rung cảm mãnh liệt, sông
Hương không đơn thuần là cảnh đẹp mà còn chiếm trọn tâm hồn ông. Chính con sông
đã khiến trái tim ông chảy xuôi vô vàn cung bậc cảm xúc. Khi thì băn khoăn, trăn trở,
khi lại nhớ đến nao lòng...
Tình cảm đặc biệt ấy hóa thành những dòng chảy trong tâm hồn nhà văn để rồi tạo nên
cả cái tôi mê đắm, tài hoa và uyên bác. Bởi vì yêu nên say sưa trong vẻ đẹp của dòng
sông, cố gắng tìm hiểu và tinh thông tri thức, dành hết tài hoa để miêu tả thành hình
trọn vẹn vẻ đẹp của nó. Hương giang là một phần của Huế, cũng là một dòng chảy
trong rất nhiều dòng chảy của non sông. Tình yêu Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho
Hương giang thực ra chính là tình yêu tha thiết, mãnh liệt dành cho đất nước.
Xuyên suốt bài kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông", Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn dắt
người đọc theo dòng cảm chảy ấn tượng. Cái tôi mê đắm, tài hoa, cái tôi uyên bác, tinh
tế cùng cái tôi yêu sâu sắc quê hương xứ sở hòa quyện vào nhau kết hợp cùng nghệ
thuật ngôn từ và các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Từ đó không chỉ vẽ lên bức tranh
tuyệt đẹp về dòng sông Hương cùng xứ Huế mộng mơ mà còn thể hiện phong cách
nghệ thuật của riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhà văn cùng "Ai đã đặt tên cho dòng
sông" bởi vậy đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong lịch sử văn học dân tộc. Để rồi thời
gian trôi đi, tác giả và tác phẩm vẫn lặng lẽ chảy mãi trong tâm hồn độc giả, giống như
dòng chảy Hương giang không bao giờ ngừng lại.