Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Nhớ đồng | Ngữ văn 11

Nhớ đồng là bài thơ của tác giả Tố Hữu nằm trong phần Xiềng xích của tập Từ ấy chính thức vào tháng 7/1939. Nhớ đồng được Tố Hữu sáng tác trong thời gian bị bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ. Bài thơ là nỗi nhớ da diết của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù. Trong bài viết này xin chia sẻ mẫu dàn ý phân tích cấu tứ bài thơ Nhớ đồng giúp các bạn nắm được cách làm bài văn phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Nhớ đồng.

Chủ đề:

Văn mẫu 11 295 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 11 1.1 K tài liệu

Thông tin:
5 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Nhớ đồng | Ngữ văn 11

Nhớ đồng là bài thơ của tác giả Tố Hữu nằm trong phần Xiềng xích của tập Từ ấy chính thức vào tháng 7/1939. Nhớ đồng được Tố Hữu sáng tác trong thời gian bị bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ. Bài thơ là nỗi nhớ da diết của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù. Trong bài viết này xin chia sẻ mẫu dàn ý phân tích cấu tứ bài thơ Nhớ đồng giúp các bạn nắm được cách làm bài văn phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Nhớ đồng.

23 12 lượt tải Tải xuống
Cấu tứ bài thơ Nhớ đồng
1. Dàn ý phân tích cấu tứ bài Nhớ đồng
I. Mở bài: giới thiệu chủ đề bài viết: phân tích cấu tứ bài thơ 'Nhớ đồng' của Tố Hữu
II. Thân bài:
Giới thiệu tác giả + tác phẩm.
Tóm tắt nội dung bài thơ.
Kết cấu:
Thể thơ: Thơ bảy chữ.
Phương thức biểu đạt: Biểu cảm.
Bố cục: 3 phần
Phần 1 (Từ đầu đến thiệt thà): Nỗi nhớ da diết cuộc sống bên ngoài nhà
tù.
Phần 2 (Tiếp theo đến ngát trời): Nỗi nhớ về chính mình trong những
ngày chưa bị giam cầm.
Phần 3 (Còn lại): Trở lại thực tại trại giam cầm lòng trĩu nặng với nỗi nhớ
triền miên.
- Phân tích cấu tứ: Nỗi nhớ của người tù cộng sản xuyên suốt bài thơ
=> nhận xét chung về nỗi nhớ của người tù cộng sản
a. Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù
- Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ tiếng hò
+ Tiếng hò được lặp lại nhiều lần
+ Tiếng lẻ loi đơn độc giữa trời trưa => nhân vật trữ tình cảm nhận được sự hiu
quạnh.
+ Tiếng hò đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh
* Tiếng than khắc khoải, da diết -> diễn tả cõi lòng hoang vắng vì bị cách biệt với thế
giới bên ngoài
* Sự lặp lại => nhấn mạnh liền ý liên kết nhiều nội dung khác nhau tô đậm cảm xúc
+ Đồng quê thể hiện lên đậm đà nỗi nhớ của tác giả: cồn thơm, ruộng tre mát, ô mạ
xanh mơn mởn, chiều sương phủ bãi đồng….
+ Con người gần gũi thân thuộc thân thương
+ Nỗi nhớ chân thật đậm tình thương mến
+ Nhớ đến bản thân mình
b. Nỗi nhớ biểu hiện tâm trạng nhà thơ:
+ Từ tiếng gợi nỗi nhớ đồng quê tha thiết: Hình ảnh đồng quê hiện lên đâm đà
với: cồn thơ, ruộng tre mát, mạ xanh mơn mởn, khoai sắn ngọt bùi, chiều sương
phủ bãi đồng…
+ Nỗi nhớ bao con người thân thuộc: từ cảnh sắc bóng dáng con người -> người mẹ
già nua -> nhớ chính mình
+ Nỗi nhớ dan trải từ hiện tại về quá khứ-> hiện tại
=> Nhớ tràn ngập xót thương -> không chi buồn đằng sau nỗi phẫn uất, bất bình
với thực tại => niềm da diết nhớ thương, yêu cuộc sống, khao khát tự do.
III. Kết bài: tóm tắt ý toàn bài.
2. Phân tích bài thơ Nhớ đồng
Tố Hữu một nhà thơ lớn, xuất sắc trong nền văn thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy
tập thơ đồ sộ, thơ ông được coi là biên niên sử bằng thơ. Đối với Tố Hữu, ông quan
niệm con đường thơ ca cũng giống với con đường cách mạng. Vậy nên thơ ông
thường song hành cùng con đường cách mạng qua đó đã phản ánh những sự kiện
lịch sử quan trọng của dân tộc ta. Qua bài thơ Nhớ đồng, người cộng sản trẻ tuổi
bày tỏ nỗi niềm thương nhớ đồng quê, thương nhớ cảnh vật con người, đồng đội
đồng bào của mình trong những tháng ngày bị giam giữa nhà lao Thừa Thiên
Huế.
Tháng 7 năm 1939 trong khi hoạt động cách mạng, Tố Hữu đã bị thực dân Pháp bắt
nhốt giam tại nhà Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm lẻ loi trong ngục tối
tăm nhưng chính hoàn cảnh sống ấy đã gợi cho ông nguồn cảm hứng dạt dào để
làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh ấy và được rút từ
tập thơ “Từ ấy” trong phần xiềng xích của tác phẩm. Đây là một trong những bài thơ
tiêu biểu nhất của tập thơ Từ ấy.
“Cô đơn thay là cảnh thân tù
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..”
Đó chính cái cảm giác đơn, lẻ loi, đơn độc khi Tố Hữu bị bắt giảm, sống cách
biệt với thế giớ bên ngoài. Vì vậy chỉ là một âm thanh hay một tiếng động nhỏ nào từ
bên ngoài dội vào thôi cũng đủ để gợi cho nhà thơ một nỗi nhớ tha thiết, khôn nguôi.
Chẳng phải là tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng bao la khắc khoải gọi hè về như
trong tác phẩm “Khi con tu hú”, mà đây chỉ là tiếng hò quen thuộc của nơi đồng quê:
“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!”
Bài thơ được gợi cảm hứng từ tiếng thân quen đã trở thành điệp khúc lặp đi lặp
lại về nỗi thương nhớ, nỗi cô đơn, hiu quạnh, lạnh lẽo của người tù.
Tiếng đã gợi ra biết bao nỗi nhớ, kí ức về hình ảnh quen thuộc nơi đồng quê hiện
về trong tâm trí tác giả:
“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng che mát thở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?”
Âm thanh tiếng hò- một âm thanh gần gũi, quen thuộc nơi quê nhà của tác giả.
Trong sự xa cách ấy, nỗi nhớ của nhà thơ dường như càng mãnh liệt và da diết hơn
biết bao. Giờ đây, hình ảnh, mùi vị, màu săc, âm thanh của quê hương càng trở nên
thật thân thương, gần gũi đến lạ thường.
Không chỉ nhớ về đồng quê, Tố Hữu còn nhớ tới hình ảnh con người lao động
những người dân nơi thôn quê cần cù, giản dị chất phác, họ đã quen với việc
“dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:
“Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hy vọng nức hương ngây
Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai?”
Đó những người nông dân, chăm chỉ, chịu khó quanh năm lao động cật lực, họ
bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Người nông dân cùng luống cày gian nan, vất
vả, theo thời gian, theo năm tháng lưng của họ càn còng dần. Thế nhưng dù cho có
phải trong bùn đen lấm lem bụi bẩn, ở họ vẫn toát lên một vẻ đẹp nhân hậu, sáng
ngời của phẩm chất trong sáng. Chính những người lao động giản gị, mộc mạc,
chân chất thôn quê ấy lại những người sẽ gieo thêm những tia hi vọng vào một
tương lai sáng ngời.
Nhà thơ tiếp tục bày tỏ nỗi nhớ thương da diết của mình qua các chi tiết, hình ảnh:
giọng hò, sương, lúa, tiếng xe lùa nước,…. Tất cả đều mang một sự thân quen
của nơi quê hương xa xôi, cách trở. nhà thơ nhớ da diết tới những âm thanh,
hình ảnh ấy. Từ đó, theo dòng hồi tửng, Tố Hữu lại nghĩ bản thân về cảnh đày,
đến đây tác giả như chút chạnh lòng chợt len lỏi vào trong tâm khảm của người
chiến sĩ cách mạng:
“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”
Tất cả những điều quen thuộc và thân thương nhất, nhưng vào khoảnh khắc này,
nhà thơ lại chẳng thấy “đâu cả rồi“. Câu hỏi ấy vang lên nhưng chẳn một lời
đáp, điều đó như một nhát dao đâm sâu vào trong lòng người tù, khiến cho người
thi trở nên đau đớn, xót xa, tủi nhục hơn bao giờ hết. Giờ đây, khi ở trong nhà lao
tăm tối này, mọi thứ trở nên cách biệt xa xôi biết nhường nào. trong nỗi nhớ
thương da diết ấy, hình ảnh người mẹ già yêu dấu đã hiện lên trong tâm trí tác giả.
Mẹ- chính là người mà tác giả nhớ nhất, thương nhất trong nỗi nhớ của mình.
sau những thoáng tủi hổ, buồn thương ấy, người chiến sĩ lại thiết tha với tình yêu
cuộc sống, anh ấy lại dũng cảm kiên trì, đấu tranh với những phút giây yếu mềm để
vượt qua nó. Và thế là khát khao được tự do, được giả thoát lại sôi sục trong trái tim
cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng:
“Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say hương đồng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời”
Hình ảnh chú chim sơn ca như là một biểu tượng đại diện cho khát khao được tự do
sải rộng cánh bay trên bầu trời trong xanh và rộng lớn kia. Đây có lẽ là tâm trạng vui
tươi nhất của người chiến sĩ khi bị giam cầm trong tù.
Nỗi nhớ thương của tác giả được đánh thức bởi “tiếng đưa hố não nùng“. Tiếng
ấy đã gợi dậy về một thế giới khác bên ngoài nhà giam cùng những cảnh sắc và
những hình dáng quen thuộc. Để rồi nhớ về quá khứ, những ngày còn được tự cống
hiến bản thân cho cách mạng, cuối cùng khi trở về với thực tại đau thương, một
lần nữa khao khát được tự do, được dâng hiến mình cho đảng lại sôi sục trong lòng
người chiến sĩ.
| 1/5

Preview text:

Cấu tứ bài thơ Nhớ đồng
1. Dàn ý phân tích cấu tứ bài Nhớ đồng
I. Mở bài: giới thiệu chủ đề bài viết: phân tích cấu tứ bài thơ 'Nhớ đồng' của Tố Hữu II. Thân bài:
Giới thiệu tác giả + tác phẩm.
Tóm tắt nội dung bài thơ. Kết cấu:
● Thể thơ: Thơ bảy chữ.
● Phương thức biểu đạt: Biểu cảm. Bố cục: 3 phần
● Phần 1 (Từ đầu đến thiệt thà): Nỗi nhớ da diết cuộc sống bên ngoài nhà tù.
● Phần 2 (Tiếp theo đến ngát trời): Nỗi nhớ về chính mình trong những ngày chưa bị giam cầm.
● Phần 3 (Còn lại): Trở lại thực tại trại giam cầm lòng trĩu nặng với nỗi nhớ triền miên.
- Phân tích cấu tứ: Nỗi nhớ của người tù cộng sản xuyên suốt bài thơ
=> nhận xét chung về nỗi nhớ của người tù cộng sản
a. Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù
- Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ tiếng hò
+ Tiếng hò được lặp lại nhiều lần
+ Tiếng hò lẻ loi đơn độc giữa trời trưa => nhân vật trữ tình cảm nhận được sự hiu quạnh.
+ Tiếng hò đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh
* Tiếng than khắc khoải, da diết -> diễn tả cõi lòng hoang vắng vì bị cách biệt với thế giới bên ngoài
* Sự lặp lại => nhấn mạnh liền ý liên kết nhiều nội dung khác nhau tô đậm cảm xúc
+ Đồng quê thể hiện lên đậm đà nỗi nhớ của tác giả: cồn thơm, ruộng tre mát, ô mạ
xanh mơn mởn, chiều sương phủ bãi đồng….
+ Con người gần gũi thân thuộc thân thương
+ Nỗi nhớ chân thật đậm tình thương mến
+ Nhớ đến bản thân mình
b. Nỗi nhớ biểu hiện tâm trạng nhà thơ:
+ Từ tiếng hò gợi nỗi nhớ đồng quê tha thiết: Hình ảnh đồng quê hiện lên đâm đà
với: cồn thơ, ruộng tre mát, mạ xanh mơn mởn, khoai sắn ngọt bùi, chiều sương phủ bãi đồng…
+ Nỗi nhớ bao con người thân thuộc: từ cảnh sắc bóng dáng con người -> người mẹ
già nua -> nhớ chính mình
+ Nỗi nhớ dan trải từ hiện tại về quá khứ-> hiện tại
=> Nhớ tràn ngập xót thương -> không chi buồn đằng sau là nỗi phẫn uất, bất bình
với thực tại => niềm da diết nhớ thương, yêu cuộc sống, khao khát tự do.
III. Kết bài: tóm tắt ý toàn bài.
2. Phân tích bài thơ Nhớ đồng
Tố Hữu là một nhà thơ lớn, xuất sắc trong nền văn thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy
tập thơ đồ sộ, thơ ông được coi là biên niên sử bằng thơ. Đối với Tố Hữu, ông quan
niệm con đường thơ ca cũng giống với con đường cách mạng. Vậy nên thơ ông
thường song hành cùng con đường cách mạng qua đó đã phản ánh những sự kiện
lịch sử quan trọng của dân tộc ta. Qua bài thơ Nhớ đồng, người cộng sản trẻ tuổi
bày tỏ nỗi niềm thương nhớ đồng quê, thương nhớ cảnh vật con người, đồng đội
đồng bào của mình trong những tháng ngày bị giam giữa ở nhà lao Thừa Thiên Huế.
Tháng 7 năm 1939 trong khi hoạt động cách mạng, Tố Hữu đã bị thực dân Pháp bắt
và nhốt giam tại nhà tù ở Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm lẻ loi trong tù ngục tối
tăm nhưng chính hoàn cảnh sống ấy đã gợi cho ông nguồn cảm hứng dạt dào để
làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh ấy và được rút từ
tập thơ “Từ ấy” trong phần xiềng xích của tác phẩm. Đây là một trong những bài thơ
tiêu biểu nhất của tập thơ Từ ấy.
“Cô đơn thay là cảnh thân tù
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..”
Đó chính là cái cảm giác cô đơn, lẻ loi, đơn độc khi Tố Hữu bị bắt giảm, sống cách
biệt với thế giớ bên ngoài. Vì vậy chỉ là một âm thanh hay một tiếng động nhỏ nào từ
bên ngoài dội vào thôi cũng đủ để gợi cho nhà thơ một nỗi nhớ tha thiết, khôn nguôi.
Chẳng phải là tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng bao la khắc khoải gọi hè về như
trong tác phẩm “Khi con tu hú”, mà đây chỉ là tiếng hò quen thuộc của nơi đồng quê:
“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!”
Bài thơ được gợi cảm hứng từ tiếng hò thân quen đã trở thành điệp khúc lặp đi lặp
lại về nỗi thương nhớ, nỗi cô đơn, hiu quạnh, lạnh lẽo của người tù.
Tiếng hò đã gợi ra biết bao nỗi nhớ, kí ức về hình ảnh quen thuộc nơi đồng quê hiện
về trong tâm trí tác giả:
“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng che mát thở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?”
Âm thanh tiếng hò- một âm thanh gần gũi, quen thuộc nơi quê nhà của tác giả.
Trong sự xa cách ấy, nỗi nhớ của nhà thơ dường như càng mãnh liệt và da diết hơn
biết bao. Giờ đây, hình ảnh, mùi vị, màu săc, âm thanh của quê hương càng trở nên
thật thân thương, gần gũi đến lạ thường.
Không chỉ nhớ về đồng quê, Tố Hữu còn nhớ tới hình ảnh con người lao động –
những người dân nơi thôn quê cần cù, giản dị mà chất phác, họ đã quen với việc
“dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:
“Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hy vọng nức hương ngây
Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai?”
Đó là những người nông dân, chăm chỉ, chịu khó quanh năm lao động cật lực, họ
bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Người nông dân cùng luống cày gian nan, vất
vả, theo thời gian, theo năm tháng lưng của họ càn còng dần. Thế nhưng dù cho có
phải ở trong bùn đen lấm lem bụi bẩn, ở họ vẫn toát lên một vẻ đẹp nhân hậu, sáng
ngời của phẩm chất trong sáng. Chính những người lao động giản gị, mộc mạc,
chân chất thôn quê ấy lại là những người sẽ gieo thêm những tia hi vọng vào một tương lai sáng ngời.
Nhà thơ tiếp tục bày tỏ nỗi nhớ thương da diết của mình qua các chi tiết, hình ảnh:
giọng hò, sương, lúa, tiếng xe lùa nước,…. Tất cả đều là mang một sự thân quen
của nơi quê hương xa xôi, cách trở. Và nhà thơ nhớ da diết tới những âm thanh,
hình ảnh ấy. Từ đó, theo dòng hồi tửng, Tố Hữu lại nghĩ bản thân về cảnh tù đày,
đến đây tác giả như có chút chạnh lòng chợt len lỏi vào trong tâm khảm của người chiến sĩ cách mạng:
“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”
Tất cả những điều là quen thuộc và thân thương nhất, nhưng vào khoảnh khắc này,
nhà thơ lại chẳng thấy gì “đâu cả rồi“. Câu hỏi ấy vang lên nhưng chẳn có một lời
đáp, điều đó như là một nhát dao đâm sâu vào trong lòng người tù, khiến cho người
thi sĩ trở nên đau đớn, xót xa, tủi nhục hơn bao giờ hết. Giờ đây, khi ở trong nhà lao
tăm tối này, mọi thứ trở nên cách biệt và xa xôi biết nhường nào. Và trong nỗi nhớ
thương da diết ấy, hình ảnh người mẹ già yêu dấu đã hiện lên trong tâm trí tác giả.
Mẹ- chính là người mà tác giả nhớ nhất, thương nhất trong nỗi nhớ của mình.
Và sau những thoáng tủi hổ, buồn thương ấy, người chiến sĩ lại thiết tha với tình yêu
cuộc sống, anh ấy lại dũng cảm kiên trì, đấu tranh với những phút giây yếu mềm để
vượt qua nó. Và thế là khát khao được tự do, được giả thoát lại sôi sục trong trái tim
cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng:
“Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say hương đồng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời”
Hình ảnh chú chim sơn ca như là một biểu tượng đại diện cho khát khao được tự do
sải rộng cánh bay trên bầu trời trong xanh và rộng lớn kia. Đây có lẽ là tâm trạng vui
tươi nhất của người chiến sĩ khi bị giam cầm trong tù.
Nỗi nhớ thương của tác giả được đánh thức bởi “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng
hò ấy đã gợi dậy về một thế giới khác bên ngoài nhà giam cùng những cảnh sắc và
những hình dáng quen thuộc. Để rồi nhớ về quá khứ, những ngày còn được tự cống
hiến bản thân cho cách mạng, và cuối cùng khi trở về với thực tại đau thương, một
lần nữa khao khát được tự do, được dâng hiến mình cho đảng lại sôi sục trong lòng người chiến sĩ.
Document Outline

  • Cấu tứ bài thơ Nhớ đồng
  • 1. Dàn ý phân tích cấu tứ bài Nhớ đồng
  • 2. Phân tích bài thơ Nhớ đồng