-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích “Chân quê” - Nguyễn Bính | Văn mẫu lớp 11 Chân trời sáng tạo
2. Thân bài – Tâm trạng mong đợi và bồn chồn của chàng trai: + Miêu tả khung cảnh làng quê và tâm trạng mong đợi của chàng trai khi người yêu đi tỉnh về. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Văn mẫu 11
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Chân trời sáng tạo
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Phân tích “Chân quê” - Nguyễn Bính | Văn mẫu lớp 11
Chân trời sáng tạo
I. Dàn ý phân tích Chân quê 1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Bính và tác phẩm “Chân Quê.”
– Trình bày hoàn cảnh và bối cảnh sáng tác của bài thơ. 2. Thân bài
– Tâm trạng mong đợi và bồn chồn của chàng trai:
+ Miêu tả khung cảnh làng quê và tâm trạng mong đợi của chàng trai khi người yêu đi tỉnh về.
+ Sự kỳ vọng và sự hào hứng của chàng trai trong việc đón người yêu về quê hương.
– Hình ảnh chàng trai trước bi kịch và tình yêu với quê hương:
+ Mô tả tâm trạng của chàng trai khi thấy người yêu thay đổi về cách ăn mặc và lối sống phương Tây.
+ Sự ám ảnh và bất lực của chàng trai trước sự thay đổi của người yêu.
+ Sự tự hào và tình yêu của chàng trai đối với quê hương và truyền thống làng quê.
– Thái độ và cách cư xử của chàng trai:
+ Phản ứng ban đầu của chàng trai khi thấy người yêu thay đổi.
+ Sự thấu hiểu và lời nhắc nhở của chàng trai đối với người yêu.
– Lời nhắc nhở và khuyên nhủ về việc giữ gìn truyền thống:
+ Những cung bậc tình cảm của chàng trai từ trách móc đến van xin.
+ Ý nghĩa của việc giữ gìn truyền thống tốt đẹp của quê hương. 3. Kết bài
– Khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
– Trình bày cảm nhận cá nhân về bài thơ và bài học rút ra từ tác phẩm.
II. Phân tích bài Chân quê
1. Phân tích Chân quê mẫu 1
Nguyễn Bính được nhà phê bình văn học Hoài Thanh nhận xét là nhà thơ “quê mùa”
bởi dù sống ở thời đại của những hồn thơ mới nhưng sáng tác của Nguyễn Bính
luôn hướng về cảnh, người nhà quê. Bài thơ “Chân quê” được xem như tuyên ngôn
về nghệ thuật của ông, cho thấy đặc trưng phong cách và cái tình sâu nặng mà
Nguyễn Bính dành cho những giá trị văn hóa truyền thống.
“Chân quê” được sáng tác năm 1936, là một trong những sáng tác nổi bật nhất của
Nguyễn Bính. Mở đầu là khung cảnh thân quen của làng quê Việt:
Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!
Những bài thơ có điệu nói, kể về một câu chuyện (thường là những đổ vỡ, đợi chờ,
ngóng trông) là một đặc trưng của thơ Nguyễn Bính. Ta đã từng đắm mình trong cơn
mưa xuân có “Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”, nhìn theo màu xanh của giàn trầu,
cau cho thỏa nỗi “Tương tư”. Đến với “Chân quê”, ta lại lắng nghe tiếng nói của
chàng trai với người con gái. Câu chuyện bắt nguồn từ việc “em đi tỉnh về”. Dường
như trong những ngày tháng xa nhau, chàng trai đã chất chứa trong lòng biết bao
nhớ thương, chờ đợi. Đến ngày cô gái trở về, anh đứng đợi cô nơi con đê đầu làng
rất lâu. Hình ảnh những bờ sông, con đê, bến bãi,…luôn gắn liền với những cuộc ra
đi hoặc trở về trong ca dao, dân ca. Đó là biểu tượng cho nghĩa tình làng quê,
truyền thống quê hương vẫn mãi tồn tại bất biến dù con người có đi xa tới phương
nào. Bốn tiếng cuối câu thơ thứ hai “con đê đầu làng” đều là thanh bằng khiến câu
thơ như kéo dài ra theo niềm thương nỗi nhớ. Thế rồi, cô gái xuất hiện với một diện
mạo mới: “Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng/Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!”. Sự
thay đổi của cô gái đã làm biến đổi dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình. Từ láy “rộn
ràng” ở cuối dòng thơ thứ ba cho thấy sự vui tươi, rạng rỡ của cô, đối lập với trạng
thái khổ đau, tan vỡ của chàng trai. Khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuya bấm đều là
những món đồ tân thời, khác hẳn với trang phục giản dị ở thôn quê. Chính điều ấy
đã làm chàng trai phải thốt lên: “em làm khổ tôi!”. Câu thơ có âm điệu tự nhiên như
lời ăn tiếng nói hằng ngày với cách xưng hô “em” - “tôi” tình cảm, duyên dáng.
Từ chỗ bộc lộ cảm xúc buồn bã, thất vọng, chàng trai bắt đầu đặt ra những câu hỏi cho cô gái:
Nào đâu cái yếm lụa sồi
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Điệp ngữ “Nào đâu” được lặp lại hai lần, đặt ở đầu mỗi dòng thơ diễn tả tâm trạng
ngỡ ngàng, tiếc nuối đến độ đau xót của nhân vật trữ tình. Cả khổ thơ là những câu
hỏi tu từ cho thấy thái độ phản đối sự thay đổi ở người con gái. Biện pháp liệt kê “cái
yếm lụa sồi”, “cái dây lưng đũi”, “cái áo tứ thân”, “cái khăn mỏ quạ”, “cái quần nái
đen” đã thể hiện sự trân trọng của nhà thơ dành cho trang phục truyền thống. Yêu
thương, gìn giữ trang phục ấy cũng chính là bảo vệ những giá trị văn hóa lâu đời
của dân tộc. Trong thời buổi mà luồng văn hóa mới đang du nhập vào nước ta,
nhiều người chạy theo thị hiếu. Cô gái trong bài thơ mới chỉ “đi tỉnh về” một vài ngày
nhưng đã thay đổi cung cách ăn mặc. Đây thực sự trở thành cú sốc trong tâm hồn
chàng trai. Nguyễn Bính đã từng thể hiện sự yêu mến hình ảnh những người con
gái truyền thống gắn với khung cảnh thanh bình của làng quê trong nhiều bài thơ khác:
Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già.
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng,
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.
Khổ thơ thứ ba là lời giãi bày trực tiếp của chàng trai:
Nói ra sợ mất lòng em,
Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa.
Như hôm em đi lễ chùa,
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh.
Câu thơ “Nói ra sợ mất lòng em” cho thấy sự ngại ngùng của nhân vật trữ tình.
Chàng trai sợ rằng sẽ khiến người mình yêu buồn bã nhưng anh hi vọng rằng cô
vẫn giữ cho mình vẻ đẹp và cốt cách truyền thống thanh cao giống như hôm đi lễ
chùa. Đây không phải là biểu hiện cho sự ích kỉ hay lạc hậu mà là khát khao bảo vệ
những giá trị truyền thống nhân văn cao đẹp.
Bài thơ khép lại với hương thơm và sắc trắng nồng nàn của hoa chanh:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê.
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
Hình ảnh bông hoa chanh trong sáng, trắng ngần, ngát hương thơm là ẩn dụ cho
con người Việt Nam giản dị, mộc mạc mà không kém phần cao quý. Hoa chanh nở
giữa vườn chanh cũng như con người cần ý thức được về cội nguồn của mình, hòa
hợp bản thân với môi trường xung quanh. Thầy u, quê hương chính là nơi mà chúng
ta thuộc về và luôn luôn gắn bó. Nơi phố thị xa hoa đã làm bay đi ở em phần nào
“Hương đồng gió nội”…
Bài thơ sử dụng thể thơ lục bát truyền thống, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh thơ gần gũi
cùng các biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, ẩn dụ. Qua đó, nhà thơ Nguyễn Bính gửi
gắm cho ta bài học hãy biết gìn giữ truyền thống dân tộc trước những đổi thay của thời đại.
2. Phân tích Chân quê mẫu 2
Nguуễn Bính là người con của vùng đất Vụ Bản, Nam Định. Đâу là một vùng quê
Bắc bộ nổi tiếng với truуền thống khoa bảng, văn chương. Nơi đâу cũng là quê
hương của Trạng Lường Lương Thế Vinh, haу Trạng Nguуên Nguуễn Hiền. Vùng
đất nàу còn được biết đến với những làn điệu chèo giao duуên của các liền anh liền
chị. Chính vì ѕinh ra và lớn lên trên mảnh đất đậm chất văn hóa đó mà Nguуễn Bính
có những ѕáng tác thơ ca vô cùng độc đáo và khác biệt. Trong khi các thi ѕĩ cùng
thời chọn phong cách thơ tự do phong khoáng, ảnh hương của Tâу phương thì ông
lại đi con đường riêng. Người ta ví ông như tiếng đàn bầu dân tộc giữa giàn hợp
хướng dương cầm. Ông ѕử dụng chất liệu truуền thống để viết lên những vân thơ
laу động lòng người. Tác phẩm Chân quê là một trong những bài thơ gắn liền với
tên tuổi của ông. Bài thơ đã được phổ nhạc ᴠà rất được nhiều khan giả mến mộ.
Theo từ điển tiếng Việt, cách hiểu nôm na nhất ở đâу, “chân quê” chính là những cái
gốc gác của quê hương. Đó là những cái móng rễ, của quên hương mà mỗi người
ѕinh ra trên đời đều được thừa hưởng.
Nhưng lí giải văn vẻ và ѕâu ѕắc hơn thì “chân quê” chính là vẻ đẹp mộc mạc, bình dị
của vùng thôn quê, của những người con quê. Đó là ѕự chân thật trong lối ѕống bình
dị, giản đơn của người dân quê. Đó là ѕự chân chất, thật thà, thẳng thắn, hồn nhiền,
trong ѕáng, không chút vụ lợi, tối tăm của người dân quê. Đó là vẻ đẹp уên bình,
thanh bần nhuốm màu lên khung cảnh, cuộc ѕống ở quê. Tất cả những điều đó,
người ta khái quát lại thành hai tiếng “chân quê”. Có lẽ rất уêu mến và mong muốn
gìn giữ cái vẻ đẹp “chân quê” ấу nên tác giả đã không ngần ngại đặt tên cho tác
phẩm của mình. Ông muốn khẳng định, mỗi người đều cần phải giữ “chân quê”.
Bài thơ “Chân quê” thực chất là một câu chuуện tình уêu giữa chàng trai và cô gái
thôn quê. Chính thế nên ngaу từ câu thơ đầu tiên, tác giả đã cho nhân vật “em” хuất
hiện. Tuу nhiên, cô gái ấу хuất hiện trong hoàn cảnh mới “đi tỉnh về”. Ngàу хưa, nói
đến lên tỉnh là đến một nơi rất хa. Bởi ngàу хưa, cuộc ѕống thường chỉ phía ѕau lũу
tre làng, хoaу quanh bến nước, gốc đa ѕân đình. Vì thế, ѕự kiện ai đó đi tỉnh được
coi là cực kỳ trọng đại và mới lạ. Nếu như các chàng trai cô gái уêu nhau, khi người
con gái đi хa như vậу, các chàng ѕẽ vô cùng lo lắng. Bởi ở chốn thị thành náo nhiệt,
ѕẽ làm thaу đổi con người, tâm hồn cô gái. Vì thế mà: “Hôm qua em đi tỉnh về/Đợi
em ở mãi con đê đầu làng”. Cụm từ “đợi mãi” cho thấу ѕự ѕốt ruột, đứng ngồi không
уên của chàng trai khi đón cô gái đi tỉnh về. Mà không phải đợi trong làng mà ra tận
đê đầu làng. Như vậу càng chứng tỏ, chàng trai vô cùng lo lắng, bồn chồn, tự hỏi
không biết cô gái của mình đi tỉnh về ѕẽ như thế nào.
Bao nhiêu nhớ nhung mong ngóng, bỗng trở thành nỗi хót хa, đau đơn khi thấу cô
gái хuất hiện trước mắt với hình ảnh không thể bất ngờ hơn.
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuу bấm, em làm khổ tôi!
Những trang phục như khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuу bấm là những trang phục
của người thành thị, với lối ѕống хa hoa đua đòi. Nó dành cho các cô gái lẳng lơ,
ѕuốt ngàу rong chơi đàn đúm. Ấу thế mà giờ, nó lại vận vào người em. Nhìn em rộn
rang trong trang phục đó mà khiến lòng “tôi” thêm khổ thêm ѕầu.
Phân tích bài thơ Chân quê của Nguуễn Bính đến đâу mới thấу, môi trường хã hội
có ѕự ảnh hưởng mạnh mẽ tới con người như thế nào. Hôm qua em mới đi tỉnh về
thôi mà dường như mọi thứ ở con người em đã thaу đổi. Thaу đổi từ bộ trang phục
cho tới lối đi đứng. Mà con gái, dù là thôn quê haу thành thị, thì cái quần, cái áo
cũng thể hiện rõ phần nào tính cách. Và cũng luôn được chú trọng. Bởi thế em đi về
và những điều “chân quê” trong em đã không còn. Không còn áo уếm lụa ѕồi, chẳng
còn cái dâу lưng đũi mà hai người mới nhuộm hồi ѕang хuân. Cả cái khăn mỏ quả,
cả cái quần nái đen… Tất cả những trang phục truуền thống, những vẻ đẹp tiêu biểu
của thôn quê đã biến đi đâu mất.
Nào đâu cái уếm lụa ѕồi?
Cái dâу lưng đũi nhuộm hồi ѕang хuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Liên tục là những câu hỏi dồn dập tác giả đưa ra như để cứu vớt lại những gì còn
ѕót của “chân quê”. Những trang phục ấу không đơn giản chỉ là trang phục của
người con gái của chàng trai уêu mà đó còn là những kỷ niệm đẹp đẽ giữa hai
người. Làm ѕao chàng trai biết cô gái ѕở hữu những trang phục đó. Chỉ có thể là
mỗi lần gặp gỡ trò chuуện với nhau, cô gái lại ᴠận những trang phục ấу. Nhiều đến
nỗi, đẹp đến nỗi đã để lại ấn tượng ѕâu ѕắc trong trí nhớ của chàng trai. Chàng trai
đau đớn хót хa không chỉ vì vẻ thôn nữ trong trắng của người уêu đang bị mai một
mà dự cảm nhận ra một ѕự đổi thaу trong tình cảm của hai người.
Đoạn thơ nói về quê nhưng cũng chính là nói về nỗi lòng của chàng trai dành cho cô
gái. Chàng trai muốn khẳng định vẻ đẹp thành thị kia không hợp với cô gái chút nào.
Cô gái hãу trở lại như хưa, hãу trân trọng những nét đẹp thôn dã mà không phải ai cũng có được ấу.
ở những câu thơ tiếp theo, chúng ta ѕẽ hiểu hơn tình cảnh của chàng trai ᴠà cô gái.
Chàng хót хa trước cảnh tượng ấу. Chàng biết rằng nếu nói ra người con gái ѕẽ mất
lòng, ѕẽ tự ái. Vì có thể, cô gái muốn thaу đổi để đẹp hơn trong mắt chàng trai. Để
được chàng уêu thương hơn. Nhưng khổ nỗi nó lại không như ý muốn. Chàng trai
càng nhìn cô gái càng cảm thấу bi ai. Thế nên, dù kết quả ra ѕao, chàng vẫn quуết định:
“Nói ra ѕợ mất lòng em
Van em em hãу giữ nguуên quê mùa”
Không phải là “хin” mà tác giả ѕử dụng từ “van” trong van nài. Van nài ở đâу mang
hàm nghĩa là chàng trai đã thấu hiểu tấm lòng của cô gái. Nhưng chàng mong cô gái
hãу ѕuу nghĩ lại. Chàng trai tha thiết, хuống nước nhờ cô gái “hãу giữ nguуên quê
mùa”. Không phải là хin хỏ cô gái điều gì đó chàng làm ѕai mà là vừa nhờ vả vừa
cầu khẩn cô gái. Đúng là một cách dùng từ hoàn hảo và không thể thaу thế. Chàng
thẳng thắn chấp nhận ѕự “quê mùa” chữ không thể chấp nhận lối thành thị nửa mùa.
Đến hai câu tiếp theo, chàng trai kể ra chi tiết “quê mùa” mà cô gái đã từ bỏ đó là
giống “Như hôm em đi lễ chùa/ Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh!”. Khá khen thaу
cho tài năng khôn khéo của chàng trai mà cũng chính là tác giả. Chàng đã không ví
dụ cách ăn mặc của cô gái trong trường hợp khác mà chính là hôm đi lễ chùa. Mà đi
lễ chùa bao giờ cũng thể hiện ѕự thành kính, tôn trọng của người tham quan. Do đó,
chàng muốn nhận được ѕự thành kính, tôn trọng như trong lần đi đó. Bởi chàng
muốn nàng hiểu, nếu cô mặc như thế không chỉ riêng chàng trai vừa lòng mà hết
thảу thần linh, đất trời cũng ưng mắt.
Để lý lẽ của mình thêm thuуết phục cô gái, chàng trai tiếp tục đưa ra những dẫn
chứng chính хác giúp cô gái nhận ra điều mình đang làm là ѕai. Nhà thơ haу chàng trai khẳng định:
“Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầу u mình với chúng mình chân quê”
Đúng vậу, hoa chanh đã nở ra ở giữa vườn chanh thì ѕẽ mãi là hoa chanh chứ
không thể là hoa đồng tiền, haу hoa tuу luýp. Không chỉ thế, thầу u mình, tổ tiên
mình cũng đều là “chân quê” thì có ѕao mình phải thành thị nửa mùa. Mình gìn giữ
chân quê không chỉ riêng mình mà đó là cả một thế hệ, cả một dòng tộc. Em giữ
chân quê, quê mùa không chỉ riêng cho anh, mà còn cho chính em, cho thầу u, cho
хóm làng, cho quê hương đất nước. Thật là những lí lẽ hết thức хác thực.
Nhà thơ đi từ việc kể về những chi tiết thaу đổi. Sau đó, bàу tỏ хúc cảm và ѕuу nghĩ
của mình trước ѕự thaу đổi đó. Rồi tới việc khẳng định lại vẻ đẹp của cô gái khi thật
ѕự là mình như thế nào rồi nâng tầm quan trọng của ѕự gìn giữ đó lên thành cái
chung của cả một dân tộc. Từng đó luận điểm thôi cũng đủ khiến cô gái kia phải nghĩ ngợi lại.
Thê nhưng dù ѕao đi nữa, dù cô gái có trở về “chân quê” хưa thì chàng trai haу
chính tác giả vẫn man mác buồn. Bởi: “Hôm qua em đi tỉnh về/ Hương đồng gió nội
baу đi ít nhiều”. Dù em đã trở về là cô gái thôn quê như ngàу хưa, nhưng ít nhiều
hương phố хa hoa đã vấn vương trên người, trong tâm hồn cô gái ấу. Chúng thaу
thế cho hương đồng gió nội, cho những ѕự trong ѕáng thanh khiết của cô gái.
Có thể nói, phân tích bài thơ Chân quê của Nguуễn Bính, người đọc càng nhận rõ
hơn tình уêu quê hương đất nước của tác giả. Không những thế, ông còn đau đáu
trước những thaу đổi của хã hội khi mà rất nhiều cô gái thôn quê ra thành thị đã trở
nên hư hỏng và biến chất. Bài thơ là một câu chuyện tình yêu tha thiết và chân thực.
Ý nghĩa và thông điệp của câu chuyện thơ ấy đến ngày nay vẫn luôn đúng, luôn sâu sắc.
3. Phân tích Chân quê mẫu 3
Bài thơ “Chân Quê” của tác giả Nguyễn Bính là một tác phẩm thơ đặc sắc trong
phong trào thơ mới thập kỷ 1930 – 1945. Tác giả Nguyễn Bính nổi tiếng với sự kết
hợp độc đáo giữa thơ hiện đại và thơ truyền thống, tạo nên sự độc đáo và cuốn hút đối với độc giả.
Bài thơ “Chân Quê” bắt đầu bằng việc giới thiệu tác giả Nguyễn Bính và tác phẩm.
Bài thơ này ra đời trong bối cảnh lúc đất nước đang chịu nhiều biến động lớn về
chính trị và văn hóa. Đây cũng là thời điểm mà sự hiện đại và phương Tây hóa đang
thâm nhập vào xã hội Việt Nam.
Trong phần thân bài, chúng ta thấy tâm trạng của chàng trai chờ đợi và bồn chồn
nhớ về người yêu của mình. Chàng trai mong ngóng sự trở về của người yêu với sự
hào hứng, tình cảm thiết tha. Tuy nhiên, khi người yêu trở về, chàng trai lại bất ngờ
trước sự thay đổi lớn trong cách ăn mặc và lối sống của cô gái, thể hiện bằng việc
mô tả những chi tiết nhỏ như “khăn nhung quần lĩnh” và “áo cài khuy bấm.”
Tác giả sử dụng hình ảnh chàng trai đứng trước bi kịch và muốn bảo tồn vẻ đẹp
chân quê ở người yêu đi tỉnh về. Chàng trai tỏ ra bất lực trước việc người yêu đã bị
ảnh hưởng bởi lối sống phương Tây và không còn giữ được những giá trị truyền thống của quê hương.
Thái độ và cách cư xử của chàng trai trong bài thơ thể hiện sự thấu hiểu và lời nhắc
nhở người yêu hãy giữ lấy những truyền thống tốt đẹp của quê hương. Chàng trai
không chỉ trách móc mà còn tự hào và tình yêu thiết tha đối với quê hương và truyền thống làng quê.
Cuối cùng, bài thơ khép lại với sự chua xót và đau khổ của chàng trai, với lời nhắn
gửi về giá trị của việc giữ gìn truyền thống tốt đẹp. Tác phẩm này không chỉ mang
giá trị nội dung về tình yêu và sự thay đổi trong cuộc sống mà còn mang giá trị nghệ
thuật với cách diễn đạt tinh tế và sử dụng ngôn ngữ hình ảnh sâu sắc.
Bài thơ “Chân Quê” của Nguyễn Bính là một tác phẩm thơ đậm chất quê hương, nó
khắc họa một cách sâu sắc và chân thực về tình yêu và sự thay đổi trong xã hội Việt
Nam vào thời kỳ đổi mới. Qua tác phẩm này, chúng ta cảm nhận được tình yêu và
tương quan phức tạp giữa con người và quê hương, đồng thời rút ra bài học quý
báu về việc bảo tồn và truyền dạy những giá trị truyền thống của dân tộc.
4. Phân tích Chân quê mẫu 4
Bài thơ Chân quê là một trong những sáng tác tiêu biểu cho hồn quê của Nguyễn
Bính. Ở đây ta cảm nhận được nỗi bi kịch của một người muốn níu giữ những giá trị
văn hóa quê hương xưa. Tuy nhiên lại không làm được, điều này đã làm con người ta ám ảnh khôn nguôi.
Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ đợi chờ. Đó là một biểu hiện của tình yêu trai
gái quê đầy giản dị và gắn bó. Đó cũng chính là từ lời ăn tiếng nói tới cách ăn mặc
của người quê. Khi người yêu đi tỉnh về chàng trai không khỏi trông ngóng bồn chồn
và còn ra tận con đê đầu làng để đón người yêu. Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi
Con đê chính là một biểu hiện của làng quê xưa. Đó cũng chính là cái để bảo vệ
xóm làng trước bão lũ, cũng là ranh giới giữa các địa phương. Đây là một hình ảnh
vô cùng thân thuộc ở các làng quê. Tâm trạng của chàn trai lúc này là bồi hồi chờ
đợi và có cả nhớ mong, trong khung cảnh làng quê ta càng cảm nhận được sâu sắc điều đó.
Qua bài thơ Chân quê Nguyễn Bính đã khắc họa sự thay đổi của người con gái ở
thôn quê. Đó là khi chờ đợi chàng trai hết sức ngỡ ngàng về sự thay đổi trong cách
ăn mặc của cô gái. Trước mắt chàng trai, người yêu của mình như trở thành một
người xa lạ. Bởi khi này cô gái khoác lên chiêc khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuy
bấm… Đó đều là những thứ xa lạ ở thôn quê. Chính nó là các sản phẩm của thị
thành được sản xuất tiêu biểu dành cho lớp người ở đây. Và giữa khung cảnh làng
quê thanh bình ấy thì hình ành này không mấy phù hợp và trở nên kệch cỡm.
Nào đâu cái уếm lụa ѕồi?
Cái dâу lưng đũi nhuộm hồi ѕang хuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Tuy nhiên đó cũng chỉ là những sự thay đổi bên ngoài. Cái đáng nói ở đây chính là
sự thay đổi trong nội tâm của cô gái. Chỉ với từ rộn ràng nhà thơ đã thể hiện được
sâu csw điều đó. Rộn ràng không chỉ thể hiện ở tiếng của những loại quần áo này
mà còn là sự thay đổi tinh thần của các cô gái. Nó cho ta cảm giác các cô gái đang
thích thú, hí hởn với trang phục mới của mình.
Và sự thay đổi của cô gái này làm chàng trai đau đớn. Tuy nhiên chàng vẫn cố nén
lòng mình và trách yêu nhẹ nhàng “Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi”. Đoạn đầu bài
thơ chàng trai đang vui vẻ xưng em nhưng đến phần này lại xưng tôi. Đó cũng chính
là một cách để thể hiện thái độ trách móc đối với người mình yêu. Sự trách móc ấy
cũng chính là nỗi xót xa và tiếc nuối bởi các giá trị của thôn quê đã bị mai một.
Với đoạn này chàng trai đã dùng các loại vật dụng quen thuộc của thôn quê như
yếm lụa sồi, áo tứ thân, khăn mỏ quạ.. để đổi lại hình ảnh những trang phục biểu
trưng của thành thị này. Tuy nhiên chàng trai cũng hiểu rằng đó là điều không thể
nào được. Vốn các vật dụng ấy không đáng trách tuy nhiên đặt trong hoàn cảnh này
nó không phù hợp. Đó cũng chính là giá trị mà bài thơ Chân quê muốn gửi
gắm.Nhận thức rõ điều đó từ xưng tôi chàng đã sửa lại thành xưng anh. Điều đó thể
hiện sự xuống thang của chàng trai này. Việc sử dụng các thanh bằng trắc đã thể
hiện được giá trị mà bài thơ muốn chuyển tải. Đây cũng chính là một sự kết hợp tài
tình giữa thơ mới và thơ cũ như là một sự phá cách. Nói ra sợ mất lòng em
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh
Qua đoạn này ta cảm nhận được một sự dè dặt thận trọng khi bày tỏ tình yêu của
mình. Chính cách nói này rất gần gũi với ca dao. Chàng trai đã van xin người mình
yêu và cũng nhắc nhở cô gái hãy giữ lại những giá trị văn hóa tuyền thống lâu đời.
Bởi nó chính là bản sắc và cũng chính là cái gốc nhân bản mà cha ông ta thường
tạo dựng nên. Đó cũng chính là lý do mà cuối bài chàng trai viết nên các câu thơ
tâm sự trùng trùng. Là sự day dứt và cũng là những dự cảm đáng sợ về những thay đổi ở thôn quê.
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê. Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
Bài thơ Chân quê đã thổi hồn vào những người con trên mảnh đất quê mình. Đó là
hình ảnh chàng trai muốn níu giữ nét chân chất thật thà khi người yêu đi tỉnh về. Bởi
ở đó cô đã bị nhiễm lối sống phương Tây xa lạ. Tuy nhiên đó là điều không được.
Đó cũng chính là ly do đọc bài thơ Chân quê ta cảm nhận được sự ám ảnh khôn nguôi.
5. Phân tích Chân quê mẫu 5
Vùng quê chiêm trũng của châu thổ sông Hồng đã làm nên hồn thơ Nguyễn Bính,
một nhà thơ “chân quê” của phong trào Thơ Mới; để rồi mỗi lần đọc thi phẩm Chân
quê của ông, cứ thấy một chàng trai khăn xếp đợi ai đầu làng, thấy như lời tỏ tình
cứ e ấp mãi, cứ thấy như đau đáu ánh mắt trách móc cô gái nào lỡ bỏ cái Chân quê
để làm khổ ai… Những vần thơ giản dị, mộc mạc mà thấm đượm cả hồn quê và tình
quê thắm thiết. Nguyễn Bính đã cất lời của đồng ruộng, của hoa nhài hoa ngâu, của
“mưa xuân phơi phới bay”, của “hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”, của giậu mùng tơi
với cánh bướm ngập ngừng… Nguyễn Bính đã hát khúc hát của thôn quê bằng một
tình yêu chân thật, nguyên khôi, đằm lắng…
Cái tình quê, hồn quê đã trở thành bản sắc của chất thơ Nguyễn Bính, khiến cái tôi
trong Chân quê là hình tượng biểu đạt rõ nét chân dung tác giả. Cả bài thơ Chân
quê được làm theo thể lục bát, tưởng như đó là những lời nói chân tình của một
chàng trai nơi thôn dã nói với “em”- nhân vật trữ tình trong bài thơ. Cứ thủ thỉ, tâm
tình, lời thơ chất chứa bao tâm sự của chàng trai với người con gái anh yêu: Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng.
Biết bao hồi hộp của chàng trai khi đợi người yêu. Nhớ thương, mong đợi khi xa
nhau, được gặp lại em là một niềm hạnh phúc, nhưng nào ngờ, em đã đổi thay:
Khăn nhung, quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi.
Sự thay đổi của “em” chính là tình huống chính trong bài thơ, làm biến đổi dòng cảm
xúc của “tôi” từ mong chờ khắc khoải đến buồn, thất vọng. Chiếc áo cài khuy bấm,
khăn nhung, quần lĩnh… là dấu ấn của thị thành. “Em” thay đổi và không còn là “em”
của thôn quê nữa. Người con gái chốn quê hương từng đẹp trong yếm lụa sồi, áo tứ
thân, nay đã không còn nữa. Phải chăng “em” đã đánh rơi hồn quê chân thật dịu
dàng? Nỗi buồn dường như dâng ngập trong đôi mắt của “tôi”, khiến câu chữ như
cứ quặn lòng thương những điều thay đổi: Nào đâu cái yếm lụa sồi Cái dây lưng đũi
nhuộm hồi sang xuân? Nào đâu cái áo tứ thân Cái khăn mỏ quạ cái quần nái đen?
Em đổi thay khiến “tôi” phải cuống quýt, thảng thốt tự hỏi một cách ngẩn ngơ, nuối
tiếc. Nhìn thấy ở “em” những điều làm “tôi” xót xa, nhà thơ hốt hoảng lo âu mà cất
lên những lời van xin thống thiết: Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa. Chất quê
mùa là nét đẹp của “em”, là cái làm cho anh yêu, anh thương nhớ. Chỉ cần em giữ
lại chút quê đó thôi là đã đủ làm anh ấm lòng, yên dạ: Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh.
Anh chỉ cảm thấy vừa lòng khi thấy em là em của ngày xưa với áo tứ thân giản dị.
Thi sĩ đã đưa ra những lý lẽ giản đơn mà rất đỗi chân quê để thuyết phục người yêu:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh Thầy u mình với chúng mình chân quê Hôm qua
em đi tỉnh về Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều… Tác giả nhấn mạnh đến xuất thân
của “chúng mình” là “chân quê” hay cũng là cách nhắc nhở “em” giữ lấy vẻ đẹp của
chính con người nơi quê hương thanh đạm. Nhắc nhở “em” hay cũng chính là khẳng
định sự không thay đổi ở “anh”: Trước sau, dù thế nào đi chăng nữa, tác giả vẫn là
người thôn quê hồn hậu. Chân quê không chỉ là tác phẩm khắc họa “cái tôi” Nguyễn
Bính thắm đượm trong hồn quê, tình quê sâu nặng mà còn là tuyên ngôn nghệ thuật
của chính cá nhân tác giả. Đọc Chân quê, ta không thấy cái nồng nàn, tha thiết, rạo
rực và băn khoăn như Xuân Diệu, không phải là những dòng thơ có cách tân mới lạ,
thơ Nguyễn Bính chỉ đơn giản là những câu thơ tưởng đã đọc từ xa xưa, trong lời ru
của bà, của mẹ. Những câu thơ đọc lên mang âm điệu của những câu ca dao đã đi
vào lòng bao thế hệ từ những ngày còn thơ ấu. Nó rất gần với đời sống tâm hồn của
người thôn quê. Đi tìm cái mới, Thế Lữ đã rời bỏ trần thế để thoát lên tiên, Lưu
Trọng Lư đã chối bỏ thực tại để mơ màng trong quá khứ xa xôi. Những nẻo phù hoa
ấy không thấy dấu chân Nguyễn Bính. Ông gói hồn mình nơi làng quê Việt Nam
xanh xanh bờ tre, xanh lúa đồng nàng, đồng anh, tím rặng mồng tơi, trong hồn hậu
những con người quê chất phác, thật thà, trong mối tình với cô thôn nữ “chân quê”
Trước làn sóng của văn minh thành thị, Nguyễn Bính đã dũng cảm lựa chọn “giữ
nguyên quê mùa” như bông hoa chanh nở giữa vườn chanh, giữ mãi sắc hương
bình dị, mộc, mạc, trắng trong, tinh khiết của mình. Quan niệm nghệ thuật muốn giữ
lại nét chân quê ấy đã khiến thế giới nghệ thuật trong Chân quê hiện lên thật gần gũi
và mãi mãi là vấn đề thời sự. Nhất là trong thời kỳ hội nhập và phát triển hiện nay,
thế giới nghệ thuật của “Chân quê” vẫn vẹn nguyên giá trị.
6. Phân tích Chân quê mẫu 6
Trong phong trào thơ mới 1930 – 1945, Nguyễn Bính có một vị trí riêng. Thơ ông
vừa hiện đại, vừa truyền thống, mà thơ hiện đại rất hay, nhưng thơ truyền thống vẫn
là nổi trội. Cùng viết về đồng quê, nhưng Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ…
thiên về mô tả các bức tranh quê chân thực, còn Nguyễn Bính lại đi sâu diễn tả cái
tình quê thấm đẫm hồn quê.
Chân quê là một bài thơ tiêu biểu về cái hồn quê của Nguyễn Bính. Có thể coi Chân
quê là một tuyên ngôn sống, tuyên ngôn nghệ thuật của ông. Xuyên suốt quá trình
sáng tác của mình, ông đã trung thành với tuyên ngôn đó.
Đọc bài thơ, hình ảnh chàng trai đứng trước bi kịch muốn níu giữ vẻ đẹp chân quê ở
người yêu đi tỉnh về bị ảnh hưởng của lối sống phương Tây xa lạ mà không được,
cứ ám ảnh người đọc khôn nguôi.
Tình yêu của trai gái quê vốn giản dị, gắn bó với những truyền thống thôn quê, từ lời
ăn tiếng nói đến cách ăn mặc, lối sống của người quê. Người yêu đi tỉnh chơi, chàng
trai bồn chồn mong đợi, chàng ra tận con đê đầu làng đón người yêu.
Con đê là vật bảo vệ xóm làng, cũng là nơi diễn ra các sinh hoạt của dân quê, là
hình ảnh quen thuộc của thôn quê. Tâm trạng mong đợi, bồn chồn của chàng trai
trong khung cảnh làng quê được nhấn mạnh ở từ “Đợi” và mãi: Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Nhưng chàng bất ngờ, ngỡ ngàng về sự thay đổi trong cách ăn mặc của cô gái.
Trước mắt chàng, người yêu trở thành như người xa lạ:
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi
Khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuy bấm là những thứ xa lạ với thôn quê. Những
sản phẩm của thành thị, đặc biệt cái khuy bấm bé nhỏ được sản xuất bằng máy móc
tiêu biểu cho cách trang phục - lối sống thị thành, giữa khung cảnh làng quê bỗng
trở nên xa lạ, kệch cỡm trước mắt chàng trai.
Tuy vậy, đó cũng mới chỉ là sự thay đổi bên ngoài, cái đáng sợ hơn là sự thay đổi
bên trong tâm hồn cô gái quê. Chỉ với từ rộn ràng, Nguyễn Bính đã thể hiện hết sức
rõ ràng sự thay đổi không chỉ ở tiếng sột soạt của “khăn nhung, quần lĩnh” mà còn là
sự thay đổi về mặt tinh thần của cô gái. Từ rộn ràng gợi cho người đọc hình ảnh cô
gái đang sung sướng, hí hởn, thích thú với trang phục mới lạ của mình.
Chính cái sự thay đổi bên trong của người yêu làm chàng trai đau khổ. Cố nén lòng
mình, chàng vẫn không thể dấu được thái độ trách móc người yêu, dù là trách móc
nhẹ nhàng. “áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi” là lời than của chàng trai, cũng có thể
hiểu là lời trách nhẹ nhàng đối với người yêu. Thường những người yêu nhau tự
xưng với nhau là “em” và “anh”.
Chàng trai dùng đại từ nhân xưng “tôi” với người yêu đã thể hiện rõ ý trách móc của
mình. Chàng trai còn thể hiện sự trách móc, xót xa, đau khổ trước sự thay đổi của
người yêu và sự nuối tiếc những nét đẹp thôn quê qua một loạt câu hỏi “Nào đâu”:
Nào đâu cái yếm lụa sồi?
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Chàng trai đã dùng yếm lụa sồi, dây lưng đũi, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, quần nái
đen là những sản phẩm quen thuộc đặc trưng cho thôn quê để đối trọng lại những
khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuy bấm là những trang phục biểu trưng của thành thị.
Chàng trai cố níu giữ nét quê dù biết không thể được. Cái khuy bấm, cái khăn
nhung, cái quần lĩnh nào có tội tình gì. Cái đáng trách là người dùng nó không phù
hợp với hoàn cảnh. Một cô “tân thời” giữa những người dân quê dản dị không
những không hoà đồng mà còn trở nên xa lạ, khó chấp nhận trước mắt dân quê,
nhất là khi cô “tân thời” đó vốn là cô gái chân quê.
Nhận thức rõ được điều đó, chàng bèn thay đổi thái độ, ứng xử phù hợp với thực tế.
Từ xưng “tôi”, chàng trở lại xưng “anh” với người yêu. Điều đó đã thể hiện rõ quá
trình “xuống thang” của chàng trai: Nói ra sợ mất lòng em
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh
Câu “Như hôm em đi lễ chùa” dùng nhiều thanh bằng, đặc biệt từ “đi” - từ thứ tư câu
lục thường là thanh trắc thì tác giả lại dùng thanh bằng, làm sắc thái tình cảm thay
đổi rõ rệt, từ trách móc xuống van xin. Theo luật thơ lục bát, từ thứ tư câu lục và từ
thứ tư câu bát luôn phải là thanh trắc và phải niêm với nhau. ở câu thơ này Nguyễn
Bính lại dùng thanh bằng (chính xác là “thanh ngang”), nhưng khi đọc ta thấy nó rất tự nhiên và thú vị.
Bằng bốn “thanh ngang”, một thanh bằng và một thanh trắc, Nguyễn Bính đã giữ
cho câu thơ đảm bảo luật cân bằng thanh một cách tài tình, đem đến cho bạn đọc
cảm xúc thẩm mỹ rõ rệt. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa thể thơ truyền thống và thơ
mới, một sự phá cách – biến thể có hiệu quả cao
Cách nói của chàng trai qua đoạn thơ này thật nhẹ nhàng, dè dặt, ý tứ, tế nhị, bộc lộ
tình yêu tha thiết đến tội nghiệp, chân thành mộc mạc mà thấm thía của mình đối với
người yêu. Cách nói ấy rất gần gũi với cách nói của ca dao.
Không dừng lại ở van xin người yêu hãy chiều mình, chàng trai còn nhắc nhở,
khuyên nhủ người yêu hãy giữ lấy những truyền thống tốt đẹp, giữ lấy cái gốc nhân
bản của quê hương mà cha ông đã tạo dựng lên:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê.
Truyền thống tốt đẹp lâu đời, đạo lý dân tộc mà chàng trai viện dẫn để khuyên nhủ
người yêu thật có sức thuyết phục đối với người xứ quê. “Hoa chanh nở giữa vườn
chanh” là cách nói ẩn dụ, nhưng cũng thể hiện một quy luật tự nhiên khẳng định
“Thày u mình với chúng mình chân quê”. Lối nói ấy gửi gắm thông điệp hãy biết quý
trọng và gìn giữ truyền thống của cha ông, đừng để bị cám dỗ bởi lối sống xa lạ với dân tộc.
Bài thơ khép lại bằng hai câu: Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
“Hôm qua” được láy lại nhấn mạnh chuyện đổi thay của cô gái đã là chuyện quá
khứ, nhưng quá khứ ấy chưa xa, sự đổi thay đó diễn ra chỉ một lần đi tỉnh về càng
làm chàng trai chua xót, đau khổ. “Hôm qua” ở đầu bài thơ là tâm trạng phấn khởi,
háo hức, phấp phỏng mong đợi người yêu với tình cảm thiết tha, êm ấm. “Hôm qua”
ở cuối bài lại là sự chua xót, đau khổ, nuối tiếc “Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”
ở người yêu. Hình ảnh ẩn dụ “Hương đồng gió nội” thể hiện cái tình quê, hồn quê
khá sắc nét, là một cảm xúc tiêu biểu trong hồn thơ Nguyễn Bính.
Bài thơ chất chứa niềm lo âu, băn khoăn, day dứt và dự cảm về những đổi thay
nhanh chóng đến đáng sợ của những gì vốn mang đậm bản sắc quê hương, dân
tộc. Cả bài thơ được cấu tạo theo nhịp đi 2/2 đều đều, nhịp nhàng, dàn trải thể hiện
các cung bậc tình cảm khác nhau mà thuỷ chung, thì câu “Thầy u mình với chúng
mình chân quê” bỗng đổi nhịp 3/3/2 giống như một sự “đảo phách” đã tạo lên hiệu
quả có sức nặng khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân quê. Hãy giữ gìn những
truyền thống tốt đẹp của cha ông, dân tộc là lời nhắn gửi của tác giả qua bài Chân
quê, đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
7. Phân tích Chân quê mẫu 7
Bài thơ "Chân quê" của Nguyễn Bính đồng hành cùng hồn quê, là một tác phẩm tiêu
biểu thể hiện nỗi bi kịch của người muốn giữ gìn giá trị văn hóa quê hương trước sự
biến đổi không ngừng. Tác phẩm bắt đầu với sự đợi chờ, hiện hóa tình yêu giản dị
và gắn bó giữa nam nữ quê mình. Thể hiện qua lời nói, cách ăn mặc, người quê đón
chờ người yêu trở về như là một sự kiện trọng đại.
Con đê, biểu tượng của làng quê xưa, là ranh giới bảo vệ xóm làng khỏi bão lũ,
cũng là nơi chàng trai đợi người yêu. Sự trông chờ, lo sợ, và nhớ mong của chàng
trai được tăng cường bởi khung cảnh làng quê yên bình. Qua bài thơ, hình ảnh thôn
quê được tái hiện sâu sắc, tăng cường tâm trạng và cảm xúc của độc giả.
Nguyễn Bính mô tả sự thay đổi của cô gái quê khi trở về, đặc biệt là trong cách ăn
mặc, khiến chàng trai ngỡ ngàng và đau đớn. Sự chuyển biến này không chỉ là về
trang phục mà còn phản ánh sự thay đổi tâm hồn của người con gái, điều mà chàng
trai khó chấp nhận. Mặc dù người yêu đã trở về, hương phố thành vẫn còn đọng lại,
làm mất đi sự thuần khiết của "chân quê".
Chàng trai thể hiện sự buồn bã khi nhận ra rằng thay đổi không chỉ là về trang phục
mà còn ảnh hưởng đến tâm hồn và tình cảm của cô gái. Bài thơ không chỉ là sự
than phiền về sự mất mát mà còn là lời nhắc nhở về giữ gìn giá trị văn hóa, truyền thống của quê hương.
Những câu hỏi về những trang phục truyền thống như "áo tứ thân, khăn mỏ quạ,
quần nái đen" đặt ra như là một cố gắng giữ gìn giá trị quê hương. Chàng trai không
chỉ đơn thuần "xin" mà còn "van em, em hãy giữ nguyên quê mùa". Từ "van" không
chỉ là sự yêu cầu mà còn là lời cầu khẩn, là sự thể hiện tình cảm chân thành từ trái tim chàng trai.
Bài thơ tiếp tục với sự mô tả về những kỷ niệm đẹp đẽ giữa chàng trai và cô gái,
nhưng đồng thời là lời nhắc nhở về tình cảm với quê hương. Chàng trai tỏ ra quyết
tâm và mong muốn cô gái giữ nguyên vẻ đẹp "chân quê" thay vì mô phỏng lối sống
thành thị. Chàng trai không chỉ đơn thuần "xin" mà còn "van em, em hãy giữ nguyên
quê mùa". Từ "van" không chỉ là sự yêu cầu mà còn là lời cầu khẩn, là sự thể hiện
tình cảm chân thành từ trái tim chàng trai.
Bằng cách sử dụng các hình ảnh như hoa chanh, thầy u, tác giả nhấn mạnh tới
những giá trị truyền thống và những người giữ gìn chúng. Việc thể hiện sự buồn bã
và lo lắng cho sự mất mát của quê hương làm cho bài thơ trở nên sống động và
cảm động. Nguyễn Bính đã tạo ra một tác phẩm thơ đầy tâm huyết, giữ lại và truyền
những giá trị văn hóa quê hương, một thông điệp vẫn có tính ứng dụng và ý nghĩa trong xã hội hiện đại.
8. Phân tích Chân quê mẫu 8
Nguyễn Bính, một tài năng sáng tác thuộc vùng đất Vụ Bản, Nam Định, một nơi nổi
tiếng với truyền thống văn hóa và văn chương. Quê hương này cũng là nơi sinh
sống của những danh nhân văn hóa như Trạng Lường Lương Thế Vinh và Trạng
Nguyên Nguyễn Hiền. Với bản sắc đặc trưng, Vụ Bản không chỉ nổi tiếng với văn
hóa mà còn với những bài chèo giao duyên của những người trẻ. Nguyễn Bính, sinh
ra và lớn lên trong môi trường đậm chất văn hóa ấy, đã tạo ra những tác phẩm thơ độc đáo và khác biệt.
Trong khi nhiều nhà thơ cùng thời chọn phong cách tự do ảnh hưởng của Tây
phương, Nguyễn Bính lại đi con đường riêng của mình. Ông được ví như tiếng đàn
bầu dân tộc trong làn hợp âm dương cầm. Sử dụng chất liệu truyền thống, ông tạo
ra những bức tranh thơ đẹp, làm xao lạc lòng người. Bài thơ "Chân quê" là một
trong những tác phẩm nổi tiếng của ông, được phổ nhạc và đánh giá cao từ khán giả.
"Chân quê" không chỉ đơn thuần là những gốc gác của quê hương, mà còn là vẻ
đẹp mộc mạc, bình dị của thôn quê và những người con của nó. Đó là sự chân thật,
giản đơn, chân chất của cuộc sống bình dị, thẳng thắn, trong sáng của những người
dân quê. Nó là vẻ đẹp yên bình, thanh bần làm nổi bật hình ảnh quê hương trong
tác phẩm. Tác giả muốn khẳng định rằng mỗi người cần giữ "chân quê" để bảo tồn
và truyền承 những giá trị truyền thống.
Bài thơ "Chân quê" không chỉ là câu chuyện tình yêu giữa chàng trai và cô gái thôn
quê mà còn là lời nhắc nhở về giữ gìn bản sắc văn hóa quê hương. Chàng trai,
ngay từ câu đầu tiên, đã mong đợi cô gái "đi tỉnh về" và lo lắng về sự thay đổi của cô
trong môi trường thành thị. Cô gái xuất hiện trong bối cảnh mới, và những chi tiết
như trang phục đã trở thành dấu hiệu cho sự thay đổi đó.
Tác giả diễn đạt sự đau đớn và bất ngờ khi nhìn thấy cô gái trong những bộ trang
phục của thành thị, như khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuỷ bấm. Những yếu tố này
không chỉ là biểu hiện của sự thay đổi về trang phục mà còn là biểu tượng của sự
biến đổi tâm hồn và giá trị của cô gái. Chàng trai như muốn nói với cô gái rằng vẻ
đẹp bình dị và chân chất của quê hương mới là điều quý giá và cần được giữ gìn.
Câu chuyện tiếp tục với những câu hỏi về những trang phục truyền thống như "áo tứ
thân, khăn mỏ quạ, quần nái đen" mà chàng trai nhớ nhung và mong muốn. Câu hỏi
liên tục được đặt ra như một cố gắng của tác giả để giữ nguyên những giá trị truyền
thống, "chân quê", và cũng như là một lời nhắc nhở cho cô gái về những đẹp đẽ của quê hương mình.
"Bao nhiêu nhớ nhung mong ngóng, bỗng trở thành nỗi đau đơn khi thấy cô gái xuất
hiện trước mắt với hình ảnh không ngờ. "Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng, áo cài
khuỷ bấm, em làm khổ tôi!" như một lời than phiền của chàng trai trước sự thay đổi
không lường trước được của cô gái. Những trang phục thành thị không chỉ là biểu
tượng của sự thay đổi mà còn là nguyên nhân gây đau đớn cho chàng trai, người
mong đợi sự giữ gìn và trân trọng những giá trị truyền thống.
Câu chuyện tiếp tục với việc chàng trai mô tả cảnh quê hương và bày tỏ sự buồn bã
khi nhận ra rằng "Hôm qua em đi tỉnh về, hương đồng gió nội bay đi ít nhiều." Dù cô
gái đã trở lại nhưng hương phố thành vẫn còn đọng lại, làm mất đi sự thuần khiết,
trong sáng của "chân quê". Chàng trai tỏ ra buồn bã khi nhận ra rằng sự thay đổi
không chỉ ở trang phục mà còn ảnh hưởng đến tâm hồn và tình cảm của cô gái.
Bài thơ tiếp tục bằng sự mô tả về những kỷ niệm đẹp đẽ giữa chàng trai và cô gái,
nhưng đồng thời là lời nhắc nhở về tình cảm với quê hương. Chàng trai tỏ ra quyết
tâm và mong muốn cô gái giữ nguyên vẻ đẹp "chân quê" thay vì mô phỏng lối sống
thành thị. Chàng trai không chỉ đơn thuần "xin" mà còn "van em, em hãy giữ nguyên
quê mùa". Từ "van" không chỉ là sự yêu cầu mà còn là sự cầu khẩn, là lời nhắc nhở
chân thành từ trái tim chàng trai.
Tác giả tiếp tục trình bày các lý do và chứng cứ để thuyết phục cô gái quay trở lại
với giá trị "chân quê". Việc đề cập đến những truyền thống và giá trị của "nhà thơ"
và "thầy ư mình" trong bài thơ không chỉ là để thể hiện sự đau đớn của chàng trai
mà còn là để làm nổi bật sự quan trọng của việc giữ gìn "chân quê" đối với cả cộng đồng và dòng họ.
Bài thơ "Chân quê" của Nguyễn Bính không chỉ là một câu chuyện tình yêu giữa hai
người mà còn là một thông điệp sâu sắc về giữ gìn và trân trọng giá trị văn hóa,
truyền thống quê hương. Đây là một tác phẩm thơ đẹp, giàu ý nghĩa, và vẫn có tính
ứng dụng cho xã hội ngày nay, khi mà sự hiện đại hóa đang ngày càng làm mất đi
những giá trị truyền thống.
9. Phân tích Chân quê mẫu 9
Vùng quê chiêm trũng của châu thổ sông Hồng đã làm nên hồn thơ của Nguyễn
Bính, một nhà thơ "chân quê" đặc trưng của phong trào Thơ Mới. Mỗi khi đọc bài
thơ Chân quê của ông, ta như được chứng kiến một cảnh tượng đẹp của chàng trai
khăn xếp đợi ai đầu làng, trong đó lời tỏ tình e ấp và ánh mắt trách móc cô gái nào
lỡ bỏ cái Chân quê để làm khổ ai. Với những vần thơ giản dị, mộc mạc, Nguyễn
Bính đã thấm đượm cả hồn quê và tình quê thắm thiết. Ông đã chuyển đổi từng
đoạn thơ thành những hình ảnh hữu tình về ruộng đồng, hoa nhài, mưa xuân, hoa
xoan, giậu mùng tơi, tạo nên một bức tranh sống động của cuộc sống quê hương.
Cảm xúc và tình cảm của Nguyễn Bính đối với quê hương đã trở thành nét đặc sắc
trong thơ ông. Chân quê không chỉ là tác phẩm mà còn là tác phẩm biểu hiện rõ nét
cái tôi của tác giả. Bài thơ được viết theo thể lục bát, tạo nên hình ảnh của một
chàng trai nơi thôn dã thổ lộ tâm tình với "em", nhân vật trữ tình trong bài thơ. Tình
cảm, tâm trạng và lời thơ chứa đựng đầy tâm sự của chàng trai, đặc biệt là sự hồi
hộp khi đợi người yêu trở về.
Nguyễn Bính mô tả sự thay đổi của cô gái quê khi trở về, đặc biệt là trong cách ăn
mặc, tạo ra một bức tranh biến đổi tâm lý của chàng trai. Sự thay đổi này không chỉ
là về trang phục mà còn thể hiện sự thay đổi tâm hồn, khiến chàng trai khó chấp
nhận. Câu chuyện xoay quanh việc "em" đánh mất cái chân quê, đánh mất vẻ dịu
dàng và truyền thống. Nguyễn Bính sử dụng hình ảnh như yếm lụa sồi, áo tứ thân,
khăn mỏ quạ để thể hiện sự khác biệt giữa thôn quê và thành thị.
Trong bài thơ, chàng trai đưa ra lời van xin thống thiết, nhấn mạnh đến giữ gìn giá trị
quê mùa. Sự thay đổi của "em" làm cho "tôi" cảm thấy buồn bã, thất vọng. Nguyễn
Bính sử dụng hình ảnh hoa chanh, thầy u, hương đồng để đưa ra lời nhắc nhở về
giữ gìn giá trị truyền thống, làn sóng văn minh không làm thay đổi "anh".
Bài thơ cuối cùng là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Bính, một nghệ sĩ kiên
trì giữ lại bản sắc quê hương. Trong thế giới nghệ thuật hiện đại, Chân quê vẫn giữ
nguyên giá trị của mình. Nguyễn Bính đã chọn giữ lại "nguyên quê mùa" giữa làn
sóng của thế giới hiện đại, và điều này khiến tác phẩm trở nên gần gũi và mãi mãi.
10. Phân tích Chân quê mẫu 10
Nguyễn Bính (1918 -1966) sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho nghèo ở
Nam Định. Nguyễn Bính bắt đầu làm thơ từ năm mười ba tuổi và để lại cho đời một
sự nghiệp thơ với nhiều tác phẩm hay, nhất là về tình yêu, mùa xuân và hồn quê.
Hoài Thanh đã nhận xét rằng: “Thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn
ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau, bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta
và những tỉnh tình đơn giản của dân quê là những tỉnh tình căn bản của ta. Bài thơ
“Chân quê” là một “tuyên ngôn thơ” của Nguyễn Bính chống lại xu hướng thơ hoài
cổ, bảo thủ hay chạy theo những lối mơi lòe loẹt.
Thơ chính là ước nguyện, là khát vọng của con người Nguyễn Bính. Giữa lúc biết
bao nhà Thơ mới đi tìm thi hứng ở động tiên, trường tình… thì Nguyễn Bính lại đi
theo một lối riêng, trở về với, tình quê, hồn quê của dân tộc mả vẫn tươi mới, hiện
đại. “Chân quê ” hai tiếng thôi mà nói được bao điều, hai tiếng thôi mà thắt chặt bao
tình. “Chân quê” gợi bao tình nghĩa và cảnh vật. “Chân quê”, hai từ ấy không bút
sách nào tả hết ý nghĩa sâu xa của nó.
Trên thế giới này có biết bao nhiêu ngôn ngữ nhưng có thứ ngôn ngữ nào diễn tả
được hai từ “Chân quê” đầy ý nghĩa của Nguyễn Bính. “Chân quê” là chất của người
dân Đất Việt, là hồn Việt Nam chân chất mộc mạc, giản dị mà thanh tao, là tình
người gắn liền với làng quê yêu dấu. “Chân quê” là những thuần phong mĩ tục ý vị
đầy tính nhân văn siêu việt.
“Chân quê” là một phạm trù rộng lớn về tình cảm, về cái đẹp tâm hồn, nhân cách, lối
sống của con người Việt Nam. Mở đầu bài thơ là hình ảnh chờ đợi cho một cuộc
gặp gỡ: “Hôm qua em đi tỉnh về/ Đợi em ở mãi con đê đầu làng”. Hai câu thơ đầu là
nét vẻ, rất duyên và tình yêu của đôi trai thanh gái tú nơi làng quê Việt. Ở đó người
đọc nhận thấy thấp thoáng một điều gì đó đã đổi mới, ẩn bên trong là tình cảm sâu
sắc của chẳng trai dành cho cô gái “đợi em ở mãi”.
Và “Khăn nhung ảo lĩnh rộn ràng/ Ao cài khuy bấm em làm khổ tôi”. Có lẽ rằng em đi
tỉnh về và em đã khác. Những trang phục tân thời “khăn nhung áo lĩnh ”, “áo cài
khuy bấm” được em khoác lên người ngay sau khi đi tỉnh về. Lúc này trong xã hội
đang có xu hướng đổi thay nhiều trong sinh hoạt. Cuộc sống ở làng quê còn ít giao
lưu, tiếp xúc với lối sống thành thị nên cũng ngỡ ngàng, xa lạ với các hiện tượng này:
“Hỡi anh áo trắng cầm ô mây
Có phải nhân tình chớ vội qua ”
Hình thức ăn mặc quen thuộc ở làng quê là giản dị và kín đáo “mớ ba mớ bảy, áo
trong áo ngoài ” rồi áo cài kín cổ, khăn thắt ngang lưng. Chiếc khuy bấm tự nó cũng
chẳng có tội tình gì, nhưng ở thời điểm ấy lại gây những ái ngại cho chàng trai: em
làm khổ tôi” giọng thơ nghe sao mà chua chát, xót xa quá! Một sự thay đổi quá
nhanh chóng, đột ngột, bất ngờ, khó mà thích nghi được.
Nhà thơ ngược dòng thời gian, hồi tưởng lại hình ảnh cô gái với những trang phục
giản dị, mộc mạc, hết sức “chân quê ” và tự hỏi:
“Nào đâu cải yếm lụa sồi?
Cải dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Nguyễn Bính đã sử dụng bốn câu hỏi tu từ làm nổi bật cái khổ tâm của người trọng
cuộc, các câu hỏi nhẹ nhàng mà thấm thía, sâu lắng mà xót xa xoáy sâu vào lòng
người đọc và vào cả chính cô gái, những nguồn cơn khó mà diễn đạt hết thành lời.
Rõ ràng, thi sĩ “Chân quê” Nguyễn Bính chịu ảnh hưởng của các hình ảnh địa
phương nên đã đưa chúng vào thật thân quen, thoảng mùi hương đồng cỏ nội quê
nhà, đầy chất Bắc: “yếm lụa sồi”, “dây lưng đũi”, “áo tứ thân”. Chỉ riêng “cái yếm lụa
sồi” đã gợi nhiều phong vị của cách ăn mặc giản dị mà thi vị của “gái quê”: “Năm
thương cô yếm đeo bùa/ Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng”. Nhưng đó chỉ
là hình ảnh đẹp của em trong quá khứ, giờ đây, chúng đã “thành truyện cổ tích đi
vào trong tranh”, Em của quá khứ, đâu rồi? Em của hiện tại… khác rồi ư?
Tâm sự của chàng trai thực sự rất buồn. Người yêu thay đổi chỉ sau một lần lên tỉnh:
nhanh chóng… bất ngờ… hẫng hụt… xót xa. Chàng không muốn làm mất lòng
người yêu nhưng thực sự vô cùng cay đắng trong lòng. Người con trai hiểu rằng
mình chưa có quyền gì để thay đổi mạnh mẽ người yêu. Vì thế trong ngôn ngữ đối
thoại ở đây, nhân vật nam đã dùng những từ ngữ mềm mỏng như ở thế cầu mong,
đề nghị, van nài “sợ mất lòng em”, “van em”, “cho vừa lòng anh”. Mong sao người
yêu mãi “giữ nguyên quê mùa”, mãi mãi giữ cái nét mộc mạc, giản dị, “Chân qụê”
của ngày xưa. Chỉ cần em như xưa, cần em vẫn là em, mang nét đẹp giản dị của cô
gái Việt, thế đã là vừa lòng anh. Thế nhưng, “vừa lòng anh” thì lại “mất lòng em”. Oái
oăm thay! Trớ trêu thày ! Thời gian, không gian, cuộc sống thay đổi thì quan niệm về
cái đẹp cũng dần thay đổi ở một số người.
Còn đối với chàng trai: cái đẹp không ở sự hiện đại, tân thời mà chính ở những giá
trị đơn giản, mộc mạc, “Chân quê” và hơn nữa là phù hợp với bản thân và mọi
người: “hoa chanh nở giữa vườn chanh ” thì mớị đúng thực chất, mới là cái đẹp
thực sự. Có một số ý kiến cho rằng bài thơ “Chân quê” của Nguyễn Bính mang tính
bảo thủ quá nặng, Nguyễn Bính cứ khư khư ôm lấy hoài cổ, quá khứ, không nhìn
nhận vào hiện thực, tương lai, cứ cho quá khứ là nhất. Thế nhưng, nào đâu phải vậy.
Nguyễn Bính chỉ muốn mọi người giữ gìn, trân trọng những nét đặc trưng dân dã
của làng quê và quá khứ, không thể phủ nhận, chối bỏ nó. Cái đẹp tân thời, hiện đại,
kiểu cách thì không phù hợp với làng quê vất vả, nghèo khổ. Người con gái sau khi
lên tỉnh một lần trong một thời gian ngắn đã thay đổi như vậy thì không biết nếu
nàng ở tỉnh trong một thời gian dài thì nét “Chân quê” còn đâu? Chắc là sẽ bị lãng
quên, chối bỏ. Có một câu nóị nổi tiếng của Abutalip rằng: “Nếu bạn bắn vào quá
khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn trả bạn bằng đại bác”.
Bài thơ nói rõ một tâm sự, thủ thỉ nhẹ nhàng, sâu lắng, đầy sức lay động, giọng thơ
trong sáng, nhẹ nhàng của một nhà thơ được xem là “lạ nhất trước 1945” cùng
những câu hỏi tu từ và những từ ngữ, hình ảnh thân quen, dân dã gây cho người
đọc nhiều dư vị và cảm xúc.
Bài thơ của Nguyễn Bính là một thông điệp cảnh tỉnh rất nhẹ nhàng nhưng sâu sắc
cho những những cô gái quê đang tự đánh mất nét đẹp chân quê của mình. Bài thơ
là lời trách móc nhẹ nhàng nhưng xót xa của chàng trai quê về sự đổi thay từ hình
thức đến tâm hồn của người yêu, đó là một sự mất mát lớn: “Đời thơ thôi thế dở
dang/ cố nhân ơi, bước sang ngang lỡ rồi”. Nhưng nhà thơ đã kịp để lại cho đời
“Chân quê” vô cùng đắt giá, đó là bản sắc văn hóa dân tộc được chắt lọc, cô đọng
“có một không hai” cho người Việt Nam. Bài thơ “Chân quê” đã được phổ nhạc
thành một bài hát được rất nhiều người yêu thích; nó sẽ còn mãi, còn mãi và in một
dấu ấn không nhỏ trong lòng những người yêu hồn quê Việt.
11. Phân tích Chân quê mẫu 11
Bài thơ “Chân Quê – Mẫu 1” của Nguyễn Bính là một tác phẩm thơ đặc sắc thuộc
phong trào thơ mới 1930-1945. Tác phẩm này đặc biệt nổi bật bởi sự kết hợp tinh tế
giữa yếu tố hiện đại và truyền thống trong thể loại thơ lục bát. Dưới đây là một phân
tích chi tiết về bài thơ:
“Chân Quê – Mẫu 1” thể hiện sự kết hợp độc đáo giữa các yếu tố hiện đại và truyền
thống. Tác giả sử dụng hình ảnh và ngôn ngữ đặc trưng của cuộc sống nông thôn
để thể hiện tình cảm và bản sắc dân tộc. Đồng thời, bài thơ cũng đặt ra câu hỏi về
sự thay đổi trong xã hội hiện đại và ảnh hưởng của nó đối với tình yêu và lòng tự hào về quê hương.
Bài thơ chứa những mô tả hình ảnh tươi đẹp về quê hương, như “Hoa chanh nở
giữa vườn chanh,” “Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.” Những hình ảnh này giúp
tạo ra bức tranh sống động và đẹp đẽ về quê hương và cuộc sống nông thôn.
Tác giả truyền đạt tình cảm chân thành và tâm trạng của người chàng trai trong bài
thơ một cách rất chân thành. Anh yêu thương và tự hào về quê hương và truyền
thống của mình, và anh lo lắng khi thấy người yêu thay đổi về cả vật lẫn tinh thần.
Bài thơ không tuân theo luật cân bằng thanh trong thể thơ lục bát, thay vào đó, tác
giả sử dụng nhiều thanh bằng (thanh ngang) và thanh trắc (thanh nằm) để tạo nên
một âm điệu riêng, tạo sự phá cách trong cấu trúc thơ.
Bài thơ không chỉ đơn thuần là một tình yêu dành cho quê hương, mà còn thể hiện
tầm nhìn xa hơn của tác giả về xã hội và con người trong bối cảnh hiện đại. Tác giả
đặt ra câu hỏi về việc làm thế nào để bảo tồn và phát triển các giá trị truyền thống
trong môi trường đang thay đổi nhanh chóng.
Tóm lại, bài thơ “Chân Quê” của Nguyễn Bính là một tác phẩm xuất sắc kết hợp
giữa hiện đại và truyền thống, thể hiện tình yêu và tự hào về quê hương, đồng thời
đặt ra những câu hỏi quan trọng về sự thay đổi trong xã hội và vai trò của truyền
thống trong cuộc sống hiện đại. Bài thơ này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn.