Phân tích Chí khí anh hùng HAY CHỌN LỌC | Văn mẫu 11 Kết nối tri thức

Chí khí anh hùng là một đoạn trích hay trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đây cũng là một trong những đề bài được lựa chọn để phân tích. Phân tích đoạn trích "Chí khí anh hùng" trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du.

Phân tích Chí khí anh hùng - Ng văn 10
Dàn ý Phân tích trích đon Chí khí anh hùng
1. M bài:
Tác gi: Đi thi hào Nguyễn Du, là danh nhân văn hóa Vit Nam.
Tác phm: Trích truyn Kiu nói lên tính cách và chí khí anh hùng ca T Hi.
2 .Thân bài:
* Tính cách và chí khí anh hùng ca T Hi:
- Sng vi Kiều đưc na năm thì T Hải đã nghĩ đến nghip ln
- “Đng lòng bốn phương” công vic và chí ln ca ngưi nam nhi
-“ trượng phu” để ch người đàn ông ckhí, bc anh hùng với hàm hàm nghĩa
khâm phc, ca ngi.
- “thot”s mau chóng trong việc thay đổi tâm trng, dáng v ca T Hi.
-> T Hải đã thoát khỏi tình cảm cá nhân nhanh chóng đi làm việc ln ca cuc đi.
- “Mênh mang” càng l ra độ rng cao ca trời đất càng bật lên thế ca chàng
gia vũ tr rng ln.
-“trông vi” cái nhìn rng ln, sáng sut.
-T Hi một mình cưỡi nga lên đưng thng dong, cho thy ý chí quyết tâm và bn
lĩnh ca ngưi anh hùng.
- T Hải ra đi không lưu luyến, bn rn tình cm. Chàng coi Kiều như tâm phúc của
mình nhưng không th để tình cm cá nhân ảnh hưởng đến nghip ln.
* Li ha ca T Hi vi Kiu:
- Chàng ha Kiều khi nào “bao giờ i vạn tinh binh”, “tiếng chuông ngp đất
bóng tinh rợp đường”, “Làm cho rõ mặt phi thường” sự nghip n định s i nàng
cho nàng cuc sng hnh phúc m no.
- S t tin khẳng đnh ca T Hi: một m sau s mang vinh quang v, chàng
rt t tin và chc chn v chiến thng ca mình.
* S dt khoát ca T Hi:
- Chim bng loài chim ca s dũng mãnh, ý chí tác gi vi T Hải, đã đến lúc
chàng tung bay đôi cánh đ tìm khát vng ca bn thân.
- “ Dứt”, “quyết” khẳng định ý chí quyết tâm ca T Hi.
* ngh thut:
- Tính cht ưc l ợng trưng theo lối văn hc c trung đi, lời thơ sâu sc.
3. Kết bài:
Đoạn trích Chí khí anh hùng đoạn trích hay ý nghĩa. Ca ngi clàm trai, c
khí ca bậc đại trượng phu, tưởng v người anh hùng mang lại ánh sáng tươi đp
cho đi và tình cm sâu sc ca T Hi và Kiu, những ưc vọng đẹp cho ơng lai.
Văn mẫu Phân tích Chí khí anh hùng
Phân tích bài Chí khí anh hùng - mu 1
Đon trích Chí khí anh hùng trong Truyn Kiu của đại thi hào Nguyn Du, nói v
T Hi, một hình tượng nhân vật lí tưởng th hiện ước lãng mạn v một ngưi
anh hùng có nhng phm chất, phi thưng.
Đon trích Chí khí anh hùng t câu 2213 đến câu 2230 trong Truyn Kiu của đại
thi hào Nguyn Du, nói v T Hi, một hình tượng nhân vật ng th hiện ước
mơ lãng mạn v mt người anh hùng có nhng phm chất, phi thường.
Rơi vào lầu xanh ln th hai, Thúy Kiu luôn sng trong tâm trạng chán chưng,
tuyt vng:
Biết thân chy chng khi tri,
Cũng liu mt phn cho ri ngày xanh.
Thế ri T Hải đt nhiên xut hin. T Hải tìm đến vi Thúy Kiu như tìm đến vi
tri âm, tri kĩ. Trong vũng ly nhơ nhớp ca chn lu xanh, T Hải đã tinh tường
nhn ra phm cht cao quý ca Thúy Kiu và vi con mắt tinh đời, ngay t cuc gp
g đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định T Hải là ngưi duy nht có th tát cn b oan
cho mình. Nàng khiêm nhường bày t:
Rộng thương cỏ ni hoa hèn,
Chút thân bèo bt dám phin mai sau
Hai ngưi, mt gái giang h, một đang làm “giặc”, đều thuc hạng người b
hi phong kiến khinh r nhất, đã đến với nhau tâm đu ý hp trong mt mi tình tri
k. T Hải đánh giá Kiu rt cao, còn Kiu nhn ra T đấng anh hùng. Nhưng
tình yêu không th gi chân T Hi được lâu. Đã đến lúc T Hải ra đi để tiếp tc
to lp s nghiệp. Đoạn trích y cho thy mt T Hải đầy chí khí anh hùng,
cũng đượm chút cô đơn, trống tri gia đi.
Trước sau đối vi T Hi, Nguyn Du vẫn dành cho chàng thái đ trân trng
kính phc, chàng, nht c nhất động đều th hin chí khí, ct cách anh hùng.
Trên con đường to dng nghip ln, cuc hôn nhân bt ng gia chàng vi Thúy
Kiu chphút chc ngh ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri k cuc hôn nhân
ca h đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. y vy mà, ch mới sáu tháng vui hưởng
hnh phúc bên Ty Kiu, T Hải đã lại đng lòng bốn phương, dứt khoát lên
đường, tiếp tc s nghip lớn lao đang còn dang dở:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trưng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vi tri b mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đưng thng rong.
T Hải được tác gi miêu t con người đa tình, nhưng trưc hết T Hi mt
tráng sĩ, một người chí khí mnh m. Chí mục đích cao c ng ti, khí
ngh lực để đạt ti mục đích, con người y, khát khao đưc vy vùng gia tri
cao đất rộng như đã tr thành mt khát vng bản ng tự nhiên, không th
kim chế ni.
Trưc lúc gp g kết duyên vi Thúy Kiu, T Hải đã một anh hùng ho hán:
Dc ngang o biết trên đầu ai, đã từng: Nghênh ngang mt cõi biên thùy. Cái
chí nguyn lp nên công danh, s nghip chàng rt ln. thế không cn
được bưc chân chàng.
Nguyn Du không nói c th T Hải ra đi làm nhưng nếu theo dõi mch
truyn và nhng câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đc s hiu c
mt s nghiệp vinh quang đang chờ chàng phía trước. T Hi không phi con
người ca những đam thông thường con ngưi ca s nghip anh hùng.
Đang sống trong cnh nồng nàn hương lửa. T chợt động lòng bốn phương, thế
toàn b tâm trí hưng v tri bin mênh mang, và lp tc mt minh với thanh gươm
yên ngựa, lên đưng thng rong. Ch trưng phu trong Truyn Kiu ch xut hin
mt lần dành riêng đã nói về T Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ
Trưng phu với nghĩa Từ Hi người đàn ông chí khí ln. Ch thot th hin
quyết định nhanh chóng, dt khoát ca chàng. Bn ch động lòng bốn phương nói
lên được cái ý T Hải “không phải ngưi ca mt nhà, mt h, mt xóm, mt
làng mà là người ca tri đt, ca bốn phương”. (Hoài Thanh).
Động lòng bốn phương thấy trong lòng náo nc cái chí tung hoành khp bn
phương trời. Con người phi thường như chàng chng th giam hãm mình trong mt
không gian cht hp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định li càng nhanh. Mt thanh
gươm, một con tun mã, chàng hi h lên đường. y là bi khát vng t do luôn sôi
sc trong huyết qun của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình
nh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đy c tri đt”.
Trong cnh tin bit, tác gi t hình nh T Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường
thẳng rong trưc ri mới đế cho T Hi Kiu nói nhng li tin biệt. người
cho rng nếu như vy thì Thúy Kiu còn nói sao được na? l tác gi mun
dng cnh tin bit này khác hn cnh tin bit gia Thúy Kiu - Kim Trng, Thúy
Kiu - Thúc Sinh. T Hải đã thế sẵn sàng lên đưng. Chàng ngi trên yên nga
nói nhng li tin bit vi Thúy Kiu. S tht phi vy không? Không chc,
nhưng cần phi miêu t như thế mi biu hiện được s quyết đoán cốt cách phi
thưng ca T Hi.
Thúy Kiu biết T Hải ra đi sẽ lâm vào tình cnh bn b không nhà, nhưng vẫn
khn thiết xin được cùng đi, ng rng: Phn gái ch tòng, chàng đi thiếp cũng một
lòng xin đi. Ngắn gn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rt cao. Ch tòng đây không
ch nghĩa như trong sách vở thánh hin của đạo Nho: ti gia tòng ph, xut giá
tòng phu..., mà còn ng ý tiếp sc, chia s nhim v, muốn cùng đưc gánh vác vi
chng.
Li T Hi nói trong lúc tin bit càng th hin chí khí anh hùng ca nhân vt
này:
T rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi n nhi thường tình?
Bao gi i vn tinh binh,
Tiếng chiêng dy đt bóng tinh rợp đưng.
Làm cho rõ mặt phi thường,
By gi ta s c nàng nghi gia.
Bng nay bn b không nhà,
Theo càng thêm bn biết là đi đâu?
Đành lòng ch đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiu biết lòng d nhau sâu sc, vy mà
sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói n nhi thường
tình. L ra, nàng phi t ra cng ci đ xng là phu nhân ca mt bc trưng phu.
tưởng anh hùng ca T Hi bc l qua ngôn ng mang đậm khu khí anh hùng.
Khi nói li chia tay vi Thúy Kiu chàng không quyến luyến, bn rn tình chng
v mn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thc s quyến luyến, T Hi s chp
nhn cho Thúy Kiều đi theo.
T Hải con người chí khí, khát khao s nghiệp phi thường nên không th đắm
mình trong chn buồng the. Đang trong cnh hnh phúc ngt ngào, tiếng gi ca
s nghip thôi thúc t bên trong. T Hi quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối
vi chàng là trên hết. Đối vi T Hi, chng nhng ý nghĩa của cuc sng
còn điu kiện để thc hin nhng ước ao người tri k đã gửi gm, trông cy
chàng. Do vy không nhng li than vãn bun lúc chia tay. Thêm na,
trong lời trách Sao chưa thoát khi n nhi thưng tình còn bao m ý khuyên Thúy
Kiều hãy t lên tình cảm thông thường để xứng đáng vợ ca mt anh hùng.
Cho nên sau y trong ni nh ca Kiu: cánh hng bay bng tuyt vời, Đã mòn
con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ s mong ch, còn c hi vng
vào thành công và vinh quang trong s nghip ca T Hi.
T Hải con người rt mc t tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình
anh hùng gia chn trn ai. Gi thì chàng tin rng tt c s nghip như đã nắm chc
trong tay. Dù xut phát ch với thanh ơm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng
mình s có trong tay mười vn tinh binh, s tr v trong hào quang chiến thng
Tiếng chiêng dy đất, bóng tinh rợp đường, đ rõ mặt phi thường vi Thúy Kiều, để
đem lại v vang cho người ph n mà chàng hết lòng yêu mến và trân trng. T Hi
đã khẳng định muộn thì cũng không quá một m, nhất định s tr v vi c một cơ
đồ to ln.
Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dng, quyến luyến như trong các cuộc
chia tay bình thưng khác, T Hải cách chia tay mang đậm du n anh hùng ca
riêng mình. Lời chia tay cũng li ha chắc như đinh đóng cột; nim tin st
đá vào chiến thng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định
thêm quyết tâm y:
Quyết li dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Nguyễn Du mượn hình nh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường
ợng trưng cho khát vng ca những người anh hùng có bản lĩnh phi thưng, mun
làm nên s nghip lớn lao để ch T Hi. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái
độ dt khoát lúc chia tay, nim tin vào thng li... tt c đều bc l chí khí anh hùng
ca T Hải. Đã đến lúc chim bng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dm
trên cao.
Hình nh: gió y bằng đã đến dm khai mượn ý ca Trang T t chim bng
khi cất cánh lên thì như đám y ngang trời mi bay thì chín vn dm mi ngh,
đối lp vi nhng con chim nh ch nhy nhót trên cành cây đã din t nhng giây
phút ngây ngt say men chiến thng của con người phi thường lúc ri khỏi nơi tin
bit.
Hình ợng người anh hùng T Hi mt sáng tạo đặc sc ca Nguyn Du v
phương din cm hng ngh thut miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dng
ngôn ng của nhà thơ trong việc din t chí khí anh hùng cùng khát vng t do ca
nhân vt T Hi.
T Hi là hình nh th hin mnh m cái ước mơ côngvẫn âm trong cnh đời
túng ca hội cũ. Từ Hải ra đi để vy vùng cho ph sc, ph chí, nhưng nếu hiu
k càng còn thêm mt lí do na là vì bất bình trước nhng oan kh của con người b
chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn không căn cứ. Điều chc chn cái
khao khát ca T Hi muốn được tung hoành ! rong bn b để thc hiện ước
công ch không bao gi nhm mục đích thiết lp mt ngai vàng quyn lc tm
thưng.
Nguyễn Du đã thành công trong vic chn la t ng, hình nh bin pháp miêu
t khuynh ớng ởng hóa để biến T Hi thành một hình ợng phi thưng
vi những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đon trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa li rt
ln. góp phần đậm nh cách của ngưi anh hùng T Hi - nhân vt tưởng,
mẫu người đp nht trong kit tác Truyn Kiu ca đi thi hào Nguyn Du.
Phân tích bài thơ Chí khí anh hùng - mu 2
Nếu Kim Trng một người thư sinh đèn sách hiếu hc thì T Hi một người
anh hùng vi khí phách hiên ngang. T Hải là người đã cứu Thúy Kiu thoát khi
cnh sống nhơ nhớp, ô nhục khi nàng rơi vào lu xanh ln th hai. Hai người chung
sng vi nhau rt hạnh phúc nhưng do T Hi muốn được s nghip ln lao nên
đã từ bit Thúy Kiều ra đi. Ý chí, quyết tâm y của chàng đưc th hiện qua đoạn
trích "Chí khí anh hùng" nm trong tác phm "Truyn Kiu" ca Nguyn Du.
Đon trích y nm v trí câu 2213 đến u 2230 th hiện ng v người anh
hùng ca tác gi. Bốn câu thơ đầu của đoạn trích đã thể hin khát vọng lên đưng
s nghip ca T Hi:
"Nửa năm hương lửa đương nồng
Trưng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vi tri b mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thng rong".
Trong lúc tình yêu hnh phúc v chồng đang nồng đượm, yên m, T Hi quyết
chí ra đi, rời xa người v tài sắc để thc hiện tưởng nam nhi ca mình. Nam nhi
trong hội xưa muốn được công nhn thì phi công danh, s nghiệp, đưc
nhng công trng ln lao. Chng vy mà Nguyn Công Tr tng viết:
"Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho ph sc vy vùng trong bn b".
T Hi một đấng nam nhi mun "vy ng" nên đã "động lòng bốn phương".
Chàng người ý chí lp công danh, s nghip lớn. Động t "thot" va th hin
mt trng thái nhanh chóng va th hin s dt khoát, kiên quyết ca T Hi. Tác
gi Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình thế khó x khi mt bên là hnh phúc
v chng chốn khuê phòng như một cám d còn mt bên không gian rng ln
tha sc th hin tráng trí bốn phương. Không m bạn đọc tht vng, bậc trượng
phu ấy đã lựa chọn con đường theo đuổi hoài bão, tưởng cuc đời mình. Nguyn
Du đã thể hin s trân trng nhân vt T Hi khi gọi chàng "trượng phu" - người
nam nhi chí ln, bc anh hùng trong thiên h. cuc sng v chng còn
nhiều u luyến, v đẹp khiến "hoa ghen", "liu hn" của người v Thúy Kiu còn
níu ớc chân người anh hùng nhưng Từ Hi vn quyết lên đường chinh chiến để
thc hin khát vng "vy vùng trong bn b" không mt chút do d, phân vân.
Một con người "Dc ngang nào biết trên đầu có ai" như Từ Hi mun tha sc tung
hoành khp thiên h cũng điều d hiu. Hình nh T Hải ra đi một mch cùng
thanh gươm trên yên ngựa trong cõi "tri b mênh mang" tht oai phong, lm lit.
Nhng hạnh phúc nhân riêng không thể làm chùn bước chân của người anh
hùng. T Hi "không phải ngưi mt nhà, mt h, mt xóm, mt làng,
người ca trời đất, ca bốn phương" (Hoài Thanh). Chàng đối din vi trời đất, vũ
tr bng mt tâm thế đầy ch động.
Cuộc chia ly nào cũng gn vi ni bun, nhng giọt nước mt cuc chia ly ca
Thúy Kiu - Kim Trng cũng không ngoi l:
"Nàng rng: Phn gái ch tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"
Nho giáo đã quy định người ph n phi tuân theo lut "tam tòng": nhà theo cha,
xut giá theo chng, chng chết theo con. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến lut l
ca đạo Nho để xin đi theo chồng. Trong lúc "hương lửa đương nng", nàng không
mun phi chu cnh xa cách, chia lìa vi T Hi - một người chng nhưng đng
thời cũng một người ân nhân cu mng Kiu thoát khi chn lu xanh. Nàng
muốn đưc theo chng, mun nâng khăn sửa túi cùng chng s chia nhng khó
khăn trong cuộc đời. Mong mun ấy vô cùng chính đáng bởi l n nhi ly chng thì
phi theo chng. phi chu nhng vt v, gian nan thì Kiều cũng nguyện mt
lòng bên T Hải. Nhưng với nghĩa kca mt bc quân t, T Hải đã đáp li
rng:
"T rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi n nhi thường tình?
Bao gi i vn tinh binh
Tiếng chiêng dy đt bóng tinh rợp đưng.
Làm cho rõ mặt phi thường
By gi ta s c nàng nghi gia"
Hai người đã hiểu lòng d của nhau đến mc sâu sc vy ti sao Kiu vẫn "chưa
thoát khi n nhi thường tình". Đó lời trách c Thúy Kiu tuy tri âm tri k
ti sao li không thu hiểu cho hành động ca T Hải. Đng thời đó cũng lời
động viên, khuyên nh Thúy Kiu vượt qua nhng trc tr trưc mắt để hướng v
tương lai tốt đẹp sau này mong muốn nàng đừng quá lo lng cho mình. T Hi
thuyết phc, ha hn vi Thúy Kiu bng tình cm chân thành, sâu nng. T Hi ra
đi lập s nghiệp, công danh đến khi tr thành mt con người xuất chúng, phi thường
nm gi trong tay "mười vn tinh binh"thì chàng s quay tr v c Kiu "nghi
gia" bng nhng hình thc l nghi trang trng. V chồng đoàn tụ trong âm thanh
rn ca "tiếng chiêng dy đất" khung cnh ngp tràn bóng c trên các con
đường.
Để t chi khéo léo mong mun ca Thúy Kiu, T Hải đã s dng nhng li l
đầy sc thuyết phc:
"Bng nay bn b không nhà
Theo càng thêm bn biết là đi đâu?
Đành lòng ch đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!"
Chàng t chi mong mun ca Thúy Kiu nàng s làm bn lòng mình hay tht
tâm chàng không muốn ngưi v ca mình phi chu nhng kh cc, vt vả? Đi
với đấng nam nhi, vic coi bn b nhà l thường tình nhưng đối vi phn n
nhi như Thúy Kiều thì việc đó không h d dàng rt khó thích nghi. l
nhng do trên T Hi khuyên Kiều ành lòng" ch đợi ngày chàng thành
công tr v. Một năm chờ đợi không phi thời gian quá dài nhưng nó lại th hin chí
khí,lòng quyết m cao độ của người anh hùng T Hi. Vic y dng s nghip,
công danh không phi chuyn ngày một ngày hai đó còn là chuyện ca c đời
người nhưng Từ Hi li ha vi Thúy Kiu s đạt được công danh sau một năm nữa.
Phải là ngưi quyết tâm cao độ, tin vào kh năng của bn thân thì mi có li ha
như vậy.
Nếu cuc chia tay của đôi vợ chng trong "Chinh ph ngâm" được Đặng Trn Côn
miêu t:
"Nh ri tay li cm tay
c đi mt bưc giây giây li dng"
thì cuc chia tay ca T Hi Thúy Kiều trong đoạn trích "Chí khí anh hùng"
được Nguyn Du miêu t vi s dt khoát:
"Quyết li dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi".
Người xưa câu anh hùng khó qua ải nhân nhưng vi khát vng ln lao ca
con người đầu đội trời chân đạp đất thì ải nhân không làm khó đưc T Hi.
Hành động "dứt áo ra đi" của chàng th hiện thái đ dứt khoát, không chút tơ vương,
vướng bn chuyn cá nhân. Theo truyn ng ngôn trong sách Trang T, "chim bng
ging chim rt lớn, đập cánh làm động c trong ba ngàn dm, cưỡi gió bay
lên chín ngàn dm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng ca
người anh hùng có bản lĩnh phi thưng, khát khao làm nên s nghip lớn". Tư thế ra
đi của T Hải đưc th hin qua hình nh n d chim bng tht oai phong sc
mạnh phi thường. Đó cái nhìn th hin m hn lãng mn ca một nhà thơ trung
đại.
"Chí khí anh hùng" đã miêu t cuc chia ly gia "trai anh hùng" "gái thuyn
quyên" đầy dứt khoát nhưng nổi bật lên trong đoạn trích ckhí của người anh
hùng T Hải. Đó nh cách hiên ngang, ngay thng ca bậc "trượng phu" trong
thiên h. Nhân vật này đưc Nguyn Du xây dng bằng bút pháp ưc l ợng trưng
cùng vi ngôn ng hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng yếu t góp phn
to nên s thành công trong ngh thut khc ha nhân vt ca tác gi. T Hi xng
đáng là bậc nam nhi "vy vùng trong bn bể", không vì "hương lửa đương nồng"
chùn chân, nht chí.
Phân tích tác phm Chí khí anh hùng - mu 3
Đon trích Chí khí anh hùng t câu 2213 đến câu 2230 trong Truyn Kiu của đại
thi hào Nguyn Du, nói v T Hi, một hình tượng nhân vật ng th hiện ước
mơ lãng mạn v mt người anh hùng có nhng phm chất, phi thường.
Rơi vào lầu xanh ln th hai, Thúy Kiu luôn sng trong tâm trạng chán chưng,
tuyt vng:
Biết thân chy chng khi tri,
Cũng liu mt phn cho ri ngày xanh.
Thế ri T Hải đt nhiên xut hin. T Hải tìm đến vi Thúy Kiu như tìm đến vi
tri âm, tri kỉ. Trong vũng lầy nhơ nhớp ca chn lu xanh, T Hải đã tinh tường
nhn ra phm cht cao quý ca Thúy Kiu và vi con mt tinh đi, ngay t cuc gp
g đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định T Hải là ngưi duy nht có th tát cn b oan
cho mình. Nàng khiêm nhường bày t:
Rộng thương cỏ ni hoa hèn,
Chút thân bèo bt dám phin mai sau
Hai người, mt gái giang h, một đang làm "giặc", đều thuc hạng người b
hi phong kiến khinh r nhất, đã đến với nhau tâm đu ý hp trong mt mi tình tri
k. T Hải đánh giá Kiu rt cao, còn Kiu nhn ra T đấng anh hùng. Nhưng
tình yêu không th gi chân T Hi được lâu. Đã đến lúc T Hải ra đi để tiếp tc
to lp s nghiệp. Đoạn trích y cho thy mt T Hải đầy chí khí anh hùng,
cũng đượm chút cô đơn, trống tri gia đi.
Trước sau đối vi T Hi, Nguyn Du vẫn dành cho chàng thái đ trân trng
kính phc, chàng, nht c nhất động đều th hin chí khí, ct cách anh hùng.
Trên con đường to dng nghip ln, cuc hôn nhân bt ng gia chàng vi Thúy
Kiu chphút chc ngh ngơi. Cuộc hôn nhân ca h đang hạnh phúc hơn bao gi
hết. y vy mà, ch mới sáu tháng vui hưởng hnh phúc bên Thúy Kiu, T Hải đã
lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tc s nghip lớn lao đang còn
dang d:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trưng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vi tri b mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đưng thng rong.
T Hải được tác gi miêu t con người đa tình, nhưng trưc hết T Hi mt
tráng sĩ, một người chí khí mnh m. Chí mục đích cao c ng ti, khí
ngh lực để đạt ti mục đích, con người y, khát khao đưc vy vùng gia tri
cao đất rộng như đã tr thành mt khát vng bản ng tự nhiên, không th
kim chế ni.
Trưc lúc gp g kết duyên vi Thúy Kiu, T Hải đã một anh hùng ho hán:
Dc ngang o biết trên đầu ai, đã từng: Nghênh ngang mt cõi biên thùy. Cái
chí nguyn lp nên công danh, s nghip chàng rt ln. thế không cn
được bưc chân chàng.
Nguyn Du không nói c th T Hải ra đi làm nhưng nếu theo dõi mch
truyn và nhng câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc s hiu c
mt s nghiệp vinh quang đang chờ chàng phía trước. T Hi không phi con
người ca những đam thông thường con ngưi ca s nghip anh hùng.
Đang sống trong cnh nồng nàn hương lửa. T chợt động lòng bốn phương, thế
toàn b tâm trí hưng v tri bin mênh mang, và lp tc mt mình với thanh gươm
yên ngựa, lên đưng thng rong. Ch trưng phu trong Truyn Kiu ch xut hin
mt lần dành riêng đã nói về T Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ
trưng phu với nghĩa Từ Hải người đàn ông chí khí lớn. Ch thot th hin
quyết định nhanh chóng, dt khoát ca chàng. Bn ch động lòng bn phương nói
lên được cái ý T Hi "không phải người ca mt nhà, mt h, mt xóm, mt
làng mà là người ca tri đt, ca bốn phương". (Hoài Thanh).
Động lòng bốn phương thấy trong lòng náo nc cái chí tung hoành khp bn
phương trời. Con người phi thường như chàng chng th giam hãm mình trong mt
không gian cht hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định li càng nhanh. Mt thanh
gươm, một con tun mã, chàng hi h lên đường. y là bi khát vng t do luôn sôi
sc trong huyết qun của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình
nh của con người "thanh gươm yên ngựa" tưởng như che đầy c tri đt".
Trong cnh tin bit, tác gi t hình nh T Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường
thẳng rong trưc ri mới để cho T Hi Kiu nói nhng li tin bit. người
cho rng nếu như vy thì Thúy Kiu còn nói sao được na? l tác gi mun
dng cnh tin bit này khác hn cnh tin bit gia Thúy Kiu - Kim Trng, Thúy
Kiu - Thúc Sinh. T Hải đã thế sẵn sàng lên đưng. Chàng ngi trên yên nga
nói nhng li tin bit vi Thúy Kiu. S tht phi vy không? Không chc,
nhưng cần phi miêu t như thế mi biu hiện được s quyết đoán cốt cách phi
thưng ca T Hi.
Thúy Kiu biết T Hải ra đi sẽ lâm vào tình cnh bn b không nhà, nhưng vẫn
khn thiết xin được cùng đi, ng rng: Phn gái ch tòng, chàng đi thiếp cũng một
lòng xin đi. Ngắn gn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rt cao. Ch tòng đây không
ch nghĩa như trong sách vở thánh hin của đạo Nho: ti gia tòng ph, xut giá
tòng phu..., mà còn ng ý tiếp sc, chia s nhim v, muốn cùng đưc gánh vác vi
chng.
Li T Hi nói trong lúc tin bit càng th hin chí khí anh hùng ca nhân vt
này:
T rằng: "Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi n nhi thường tình?
Bao gi i vn tinh binh,
Tiếng chiêng dy đt bóng tinh rợp đưng.
Làm cho rõ mặt phi thường,
By gi ta s c nàng nghi gia.
Bng nay bn b không nhà,
Theo càng thêm bn biết là đi đâu?
Đành lòng ch đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!"
Đã là tâm phúc tương tri nghĩa là hai ta đã hiu biết lòng d nhau sâu sc, vy mà
sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói n nhi thường
tình. L ra, nàng phi t ra cng ci đ xng là phu nhân ca mt bc trưng phu.
tưởng anh hùng ca T Hi bc l qua ngôn ng mang đậm khu khi anh hùng.
Khi nói li chia tay vi Thúy Kiu chàng không quyến luyến, bn rn tình chng
v mn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thc s quyến luyến, T Hi s chp
nhn cho Thúy Kiều đi theo.
T Hải con người chí khí, khát khao s nghiệp phi thường nên không th đắm
mình trong chn buồng the. Đang trong cnh hnh phúc ngt ngào, tiếng gi ca
s nghip thôi thúc t bên trong. T Hi quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối
vi chàng là trên hết. Đối vi T Hi, chng nhng ý nghĩa của cuc sng
còn điu kiện để thc hin những ước ao ngưi tri k đã gi gm, trông cy
chàng. Do vy không nhng li than vãn bun lúc chia tay. Thêm na,
trong lời trách: Sao chưa thoát khỏi n nhi tng tình còn bao hàm ý khuyên Thúy
Kiều hãy t lên tình cảm thông thường để xứng đáng vợ ca mt anh hùng.
Cho nên sau y trong ni nh ca Kiu: cánh hng bay bng tuyt vời, Đã mòn
con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ s mong ch, còn c hi vng
vào thành công và vinh quang trong s nghip ca T Hi.
T Hải con người rt mc t tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình
anh hùng gia chn trn ai. Gi thì chàng tin rng tt c s nghip như đã nắm chc
trong tay. Dù xut phát ch với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng
mình s trong tay mười vn tinh binh, s tr v trong hào quang chiến thng:
Tiếng chiêng dy đất, bóng tinh rợp đường, đ rõ mặt phi thường vi Thúy Kiều, để
đem lại v vang cho người ph n mà chàng hết lòng yêu mến và trân trng. T Hi
đã khẳng định muộn thì cũng không quá một m, nhất định s tr v vi c một cơ
đồ to ln.
Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dng, quyến luyến như trong các cuộc
chia tay bình thưng khác, T Hi cách chia tay mang đậm du n anh hùng ca
riêng mình. Lời chia tay cũng li ha chắc như đinh đóng cột; nim tin st
đá vào chiến thng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định
thêm quyết tâm y:
Quyết li dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Nguyễn Du mượn hình nh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường
ợng trưng cho khát vng ca những người anh hùng có bản lĩnh phi thưng, mun
làm nên s nghip lớn lao để ch T Hi. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái
độ dt khoát lúc chia tay, nim tin vào thng li... tt c đều bc l chí khí anh hùng
ca T Hải. Đã đến lúc chim bng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dm
trên cao.
Hình nh: gió y bằng đã đến dm khai mượn ý ca Trang T t chim bng
khi cất nh lên thì như đám mây ngang tri mi ln bay thì chín vn dm mi
nghỉ, đối lp vi nhng con chim nh ch nhảy nhót trên cành y đã diễn t nhng
giây phút ngây ngt say men chiến thng của con người phi thường lúc ri khỏi nơi
tin bit.
Hình ợng người anh hùng T Hi mt sáng tạo đặc sc ca Nguyn Du v
phương din cm hng ngh thut miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dng
ngôn ng của nhà thơ trong việc din t chí khí anh hùng cùng khát vng t do ca
nhân vt T Hi.
T Hi là hình nh th hin mnh m cái ước mơ côngvẫn âm trong cnh đời
túng ca hội cũ. Từ Hải ra đi để vy vùng cho ph sc, ph chí, nhưng nếu hiu
k càng còn thêm mt lí do na là vì bất bình trước nhng oan kh của con người b
chà đạp nThúy Kiều thì không hẳn không căn cứ. Điều chc chn cái
khao khát ca T Hi muốn đưc tung hoành, thong dong bn b để thc hiện ưc
công ch không bao gi nhm mục đích thiết lp mt ngai vàng quyn lc
tm thưng.
Nguyễn Du đã thành công trong vic chn la t ng, hình nh bin pháp miêu
t khuynh ớng ởng hóa để biến T Hi thành một hình ợng phi thưng
vi những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đon trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa li rt
ln. góp phần đậm nh cách của ngưi anh hùng T Hi - nhân vt tưởng,
mẫu người đp nht trong kit tác Truyn Kiu ca đi thi hào Nguyn Du.
Phân tích đoạn thơ Chí khí anh hùng - mu 4
Nhắc đến đại thi hào dân tc Nguyn Du, ta không th nào không nhắc đến "Truyn
Kiu" mt tác phm chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu sắc, đề cao giá tr con
người và lên tiếng t cáo xã hi phong kiến thi nát.
Đon trích "Chí khí anh hùng" trích trong "Truyn Kiu", Nguyễn Du đã dành
nhng lời thơ của mình để nói v T Hi người anh hùng ng nhng phm
cht cao đẹp, phi thường.
th nói trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã y dựng một hình ng nhân vt
T Hi hoàn toàn mi so với hình tượng nhân vt này trong "Kim Vân Kiu truyn"
ca Thanh m Tài Nhân, "Truyn Kiu" ca Nguyn Du, nh tượng T Hi
giống như một tướng cướp đã bị c bỏ, thay vào đó một hình tượng T Hải như
mt v anh hùng tuyệt đẹp, phi thường. Hình tượng y s hp nht ca hình
ng nhân vật tính ước l ngh thut miêu t nhân vật đặc sc ca Nguyn
Du và hình tượng con người vũ tr với nét vĩ đi, ln lao.
Sau khi b mc by rơi vào chốn lu xanh ln th hai, Kiu luôn sng trong m
trạng đau khổ, giày vò. Gia lúc y, T Hi xut hiện như một v cu tinh giúp Kiu
thoát khi chn lu xanh đầy nhơ nhớp y. Nhưng tình yêu gia Thúy Kiu T
Hi vn không th nào che khuất đi ước gây dựng mt s nghip ln lao con
người y. Đó chính do khi mối tình ca h va chm n đưc "nửa năm"
thì T Hải đã tiếp tục lên đường vi khát khao cháy bng y dng s nghip ca
mình:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trưng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vi tri b mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đưng thng rong
Mc trong thi gian sáu tháng, tình yêu ca h luôn nng nàn, cháy bng nhưng
vi chí ln khát khao công danh nghip ln T Hi thoắt đã ng lòng bn
phương". "Lòng bốn phương" đây hình ảnh tượng trưng, ưc l cho chí nguyn
lp công danh, s nghip ca T Hi. Hình nh "tri b mênh mang" cũng mang ý
nghĩa tương tự như vậy. Chúng nmột s ước l to nên mt tm vóc ln lao, phi
thưng cho T Hi. th nói tình yêu hay bt c một cái cũng không đ sức để
ngăn cản được bước chân ca chàng. Trong c mt tác phm dài, Nguyn Du ch
dành duy nht mt t "trượng phu" cho T Hải như thể khẳng định mt chí khí ln
chàng. Hình ảnh "thanh gươm yên ngựa lên đưng thng rong" din t mt phong
thái ung dung của người "trượng phu" trên con đưng gây dng s nghip y.
Đối vi Thúy Kiu, T Hi không ch như một người chng còn như một v ân
nhân có ơn cùng lớn đã cứu Kiu thoát khi chn lu xanh ô nhc. vy, trưc
quyết tâm ra đi nghiệp ln ca chng mình, Thúy Kiều đã xin đi theo đ người
chăm sóc, nâng khăn sa túi cho chàng:
Nàng rng: Phn gái ch tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi
Nàng xin đi để được làm trn ch "tòng" theo nàng thì "xut giá tòng phu" ly
chng thì phi theo chng, nguyn cùng chng gánh vác mi chuyn.
Nhưng lời T Hải đã quyết, như đểm an lòng Thúy Kiu:
T rng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi n nhi thường tình?
Bao gi i vn tinh binh
Tiếng chiêng dy đt, bóng tinh rợp đưng
Làm cho rõ mặt phi thường
By gi ta s c nàng nghi gia
Trưc lời xin đi theo ca Thúy Kiu, T Hải như trách Kiều: "Sao chưa thoát khi
n nhi thường tình"', đó cũng như một li khuyên Kiều đừng xem nng quá vấn đề
"ly chng phi theo chng", y xem nh chuyn tình cm s nghip ln lao
ca chng. Vi mt quyết tâm, chí khí ln lao, T Hải nói như hứa hn s gây dng
được một đồ to ln, nm chc trong tay "mười vn tinh binh" chàng s tr v
để đón Kiều trong "tiếng chiêng dy đất, bóng tinh rp tri". Lúc thành công quay
tr lại cũng lúc Từ Hi s "rước nàng nghi gia", đem lại địa v danh phn cho
người chàng xem tri âm tri k. Nhng li ca T Hi vào khonh khc tin
bit y càng m "ckhí anh hùng" ca nhân vt y, thay nhng li nói th
hin s bn rn, quyến luyến khi chia tay thì những ước mơ, sự khẳng định nht
định s thành công ca chàng.
T Hi còn th hin ckhí ca mình vic cho rng Thúy Kiều đi theo sẽ "càng
thêm bận" nhưng sâu thẳm bên trong s lo lng cho Kiu khi đi theo s phi chu
cc khổ, nay đây mai đó "bn b không nhà":
Bng ngay bn b không nhà
Theo càng thêm bn, biết là đi đâu
Chàng còn m khẳng định chc chn thi gian mình s quay v đó khoảng
thi gian một năm. Từ Hi khuyên Kiu nhà đi chàng tr v trong s chiến thng
v vang, hin hách:
Đành lòng ch đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì.
ch chia tay ca T Hi rt khác bit ch nhng li chia tay được thay bng
nhng li ha vào mt chiến thng không xa, s quyến luyến được thay bng mt
quyết tâm vào tương lai.
Quyết li dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi
Chàng dt khoát ra đi vi mt quyết tâm sắt đá như cánh chim bằng khi đã ct cánh
tung bay trên bu tri thì phi bay tht xa mi ngh cũng như Từ Hải khi đã chiến
thng, thành công thì mi quay tr v.
Với đoạn trích "Chí khí anh hùng", Nguyễn Du đã xây dựng được mt hình ng
người anh hùng tưởng hoàn toàn mi. th nói Nguyễn Du đã thực s thành
công khi y dựng hình ng nhân vt này chính bằng tài năng ngh thut th hin
s sáng tạo độc đáo và sự đam mê văn chương ca mình.
Phân tích bài thơ Chí khí anh hùng - mu 5
một nhà thơ ngưi Vit Nam không ai không biết đến. mt truyện thơ
mà hơn 200 năm qua không mấy người Vit Nam không thuộc vài câu hay vài đoạn.
Ngưi y, thơ ấy đã từng được T Hu ngi ca:
“ Tiếng thơ ai động đất tri
Nghe như non nước vng li ngàn thu”
Không ai khác đó chính Nguyễn Du kit tác Truyn Kiu. Mi một đoạn, mi
câu thơ đều “lời li châu ngc, hàng hàng gấm thêu” thi gia dy công chp
bút. Đằng sau s phn cuộc đời nhân vật đều đưc gi gm biết bao giá tr nhân đạo
sâu sắc. Đó niềm trân trọng nâng niu ước khát vọng con người. Đó tiếng
nói lên án t cáo nhng thế lc xấu xa đứng đằng đằng sau. Và hơn thế na nó phn
nh chân thc giấc tự do công đoạn trích “Chí khí anh hùngchính tiêu
biu nhất cho điều này.
Sau tháng ngày ân ái bên Thúc Sinh, Kiu li mt ln na sa thân vào chn lu xanh
nhơ nhớp, mt ln na quay tr li với Bà để sng thân phn của người nữ
hèn mn. C ng rng, cuộc đời nàng đã đt mt du chm hết trong tối m và
đầy ry nhng bt hnh. Thế nhưng, giữa cơn phong ba, Từ Hi bỗng dưng “vụt đến
như một ngôi sao l chiếu sáng một đoạn đời nàng” (Hoài Thanh). Chàng chuộc
Kiu ra, tr li cho Kiu s t do xứng đáng. Hai người h đến n nhau vi tm
lòng ca nhng bc tri k giữa “trai anh hùng’“gái thuyền quyên”. Nhưng hnh
phúc chưa được bao lâu, thì cái “thói vy vùng” ca bc giang h lại đưc dp sc
sôi,cái khát khao dng nên nghip ln bng thúc dc mnh m bước chân người anh
hùng. Đoạn trích chính miêu t cnh T Hi t bit Thúy Kiều để ra đi. Khác với
Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thut lại trong đôi ba dòng
ngn ngủi “Từ Hi sm một căn nhà vi Kiều được năm tháng rồi t biệt ra đi” thì
Nguyn Du vi bút xut chúng của mình đã dng nên mt cnh li bit giữa đôi trai
gái để hoàn thin gic mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đấtlớn nht ca
cuc đi mình.
Bốn câu thơ đầu khc ha thật đậm, tht nét hình nh ca T Hải trưc lúc lên
đường:
“Nửa năm hương lửa đương nng
Trưng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vi tri b mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối
lp nhau. Mt bên không gian khuê phòng với “hương lửa đương nngvới tình
cm la đôi đy nhng cám d, th níu o bt một người đàn ông nào. Trái
li, một n không gian trụ bao la sc vy gi mãnh liệt. Đường đường là
đấng “trượng phu” T không mt phút níu kéo ging hay do d khng khái
đưa ra quyết định ca chính mình. Chàng vn sinh ra không phi con ngưi ca
những đam thông thường ngưi ca nhng s nghiệp đại- s nghip
ca bc anh hùng. Hiu thấu được khát khao y, Nguyễn Du đã trân trọng gi nhân
vt ca mình bng hai tiếng “trượng phu” người đàn ông trí ln .Rõ ràng, hai
ch y ch xut hin duy nht mt ln trong truyn Kiu dành riêng cho T.
Th tình cm v chng giản đơn đâu thể nào níu gi bước chân ngưi anh hùng
thêm na. Tiếng gi ca lí trí thúc dc chàng đi theo đuổi thc hin hoài bão ca
cuộc đời. Cái ánh mắt trông vào “trời b mênh mang” ánh nhìn ớng đến mt
khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi bc hào kit tha trí vy vùng vi
những đam mê, ng. Hình nh cuối cùng “Thanh gươm yên ngựa lên đường
thẳng rong” không chỉ tái hin hình ảnh con ngưi mnh mẽ, hào ng đt trên nn
kì vĩ của không gian còn m ra tâm thế nhân vt không h mt chút nào là do
d luôn hành động tht dt khoát, qu quyết. Đến đây, ta cht bt gp những điểm
tương đồng trong thơ Nguyễn Du với các nhà thơ cùng thời. hình nh chinh phu
oai hùng trước bui ra trn:
“Chí làm trai dm nghìn da nga
Gieo thái sơn nh ta hồng mao”
Hay như:
“Chàng tui tr vn dòng hào kit
Xếp bút nghiêng theo vic binh đao
Dã nhà đeo bức chiến hào
Thét roi cm v ào ào gió thu”
(Chinh phu ngâm_ Đoàn Thị Đim)
C Nguyễn Du và Đoàn Th Điểm đều mượn hình nh vn của thiên nhiên vũ tr để
nâng cao tm vóc, kích thưc nhân vt anh hùng ca mình. Thế nhưng, nếu “chí làm
trai” trong những câu tcủa “chinh phụ ngâm” lp nên s nghiệp lưu danh,
lp công vi núi sông thì với “chí anh hùng” lp nên s nghip lại đ yên b gia
tht. th nói đúng như những li nhận định của Hoài Thanh “Từ Hi hin ra
trong bốn câu đu không phi người ca mt nhà, mt h, một làng mà là ngưi ca
trời đất, ca bốn phương…” ch bng ngòi bút xut thn ca thi nhân cùng vi cái
nhìn đầy trân trọng ngưỡng m dành cho nhân vt. Lời thơ tuy ít mà ý thơ thì trải ra
đến vô cùng.
L thưng, cuc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng nhng dùng dng
chng n ca k với người đi. Với T Kiều cũng không phi ngoi l. Nàng
không mun mt thân một mình, giường đơn gối chiếc trong n nhà lạnh lo, nàng
mt mc muốn đưc s chia, được gánh vác s nghip vi T Hi. Li l nghe sao
mà tha thiết thế:
Nàng rằng: “ Phn gái ch tòng
Chàng đi thiếp cùng mt lòng xin đi”
Kiu một lòng xin đi theo âu cũng là hp tình hp lí vi đo Nho truyn thng. Nho
giáo viết đã phận n nhi “tại gia tòng ph, xut giá tòng phu, ph t tòng tử”. Thế
nhưng, trái với nhng mong mi ca nàng, T ngay lp tức đáp lại:
T rằng: “Tam phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi n nhi thường tình”
Mi nghe qua thì c nghĩ một li trách c nhưng đằng sau đó lại lời động viên
người tri k ca mình biết t lên nhng nh cảm thông thường để sánh cùng trí
ln của người anh hùng. vy, sau này khi nói v ni nh nhung da diết ca Ty
Kiu dành cho T Hi, Nguyn Du viết:
“Cánh hng bay bng tuyt vi
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”
Nàng hướng con mt v phương trời xa không ch để m kiếm mt dáng hình thân
thuộc khi xưa, đó còn là s ngóng đợi vào s nghip ln lao T Hải đã dốc lòng
dng xây:
“Bao gi i vn tinh binh
Tiếng chiêng dy đt, bóng cây rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
By gi ta s ớc nàng nghi gia”
Ngày chàng hoàn thành xong nghip ln cũng s chính ngày chàng tr v đón
nàng trong cách một người ch ng ch huy mười vn tinh binh vi chiêng
chng dy đất, c qut dậy đường. Nhng li tht lên t người anh hùng không h
mang tính cht khoa trương đy qu quyết chc chn th hin s t tin tuyệt đối
ca nhân vật vào đ mình to dng. Nim tin mãnh lit ca T truyn sang
cho Kiu và lan ta ra khp tt thy bạn đọc.
Đon trích kết li với hai câu thơ gây ấn tượng sâu đm b hình ảnh ưc l:
“Quyết li dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”
Trong thơ ca trung đại c điển ,hành động “dứt áo ra đi” không phảiquá xa l, nó
mang tính chất lưu luyến bn rn chng n ri xa. Thế nhưng, đặt trong đoạn trích và
đặt trong hình tưng T Hi thì đó li th hin s mnh m, quyết đoán của bc nam
nhi. Phải chăng vì thế Nguyễn Du đã không chút do d nâng nhân vt ca mình
lên, ví hình ảnh chàng lúc lên đưng vi hình nh chim bng ct cánh bay vào muôn
trùng dặm khơi? Hình ảnh đó phần o th hin cái nhìn lãng mn khát vng
thoát khi thời đại mình- một tưởng tiến b vượt bc so vi nhng người đương
thi.
Đoạn trích Chí khí anh hùng” y dựng hình ng T Hi bằng bút pháp ước l
hóa kết hp vi li ngôn ng giàu sc gợi đã khẳng định phm cht ct lõi ca
người anh hùng không để tình cm riêng rng buc chí lớn luôn luôn hành động đề
hướng ti s nghip cao cả, đại. Nh đó nhân vật mt sc sống đậm u
trong lòng bn đọc muôn đời.
Phân tích đon trích Chí khí anh hùng - mu 6
T Hải “khách biên đình” oai phong lẫm lit:
“Râu hùm hàm én mày ngài.
Vai năm tc rộng, thân mười thước cao”.
T Hải đã chuộc Kiu ra khi lầu xanh, đã tái sinh cuộc đi nàng, nâng Kiu thành
mt mnh ph phu nhân:
“Trai anh hùng, gái thuyn quyên,
Ph nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”.
Nhưng chỉ mt thi gian ngắn sau đó. Từ Hải đã giã biệt phu nhân đ n đưng
chinh chiến quyết “rạch đôi sơn hà”:
“Nửa năm hương lửa đương nng,
Trưng phu thoắt đã động lòng bấn phương.
Trông vi tri b mênh mang.
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Bc chân dung T Hi hin lên trong cnh giã bit thật đẹp. Bốn phương trời xa vy
gọi, “thoắt đã động lòng” đấng trượng phu. Cuc sng êm m gối chăn đầy hnh
phúc “hương lửa đương nồng” cũng không th níu gi. Mt cái nhìn vi vi “tri b
mênh mang”. Đó cái nhìn mang tầm trụ ca mt anh hùng chí lớn, như
Nguyn Công Tr tng th l:
“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho ph sc vy vùng trong bn b”.
(Chí anh hùng)
“Thoắt” nghĩa vụt chc, din ra rt nhanh bt ng. Thoắt đã thể hin s chn
động cùng mnh m trong tâm hn đấng trượng phu. T Hải đã ra đi vi khát
vng lp nên s nghip, bng võ công ca bc tài trai:
“Thanh gươm yên nga lên đường thẳng rong”.
Kiều đã coi chữ “tònglàm trọng; tòng phu một trong đạo tam tòng của người
ph n ngày xưa. Đó cũng là một nét đẹp đạo đức Thuý Kiu:
“Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”
T Hải đã i vi Kiu bao lời tình nghĩa. Không th đế cho giọt nước mt. tiếng
th dài của người v đẹp níu gi. T Hi khuyên Kiu hay kh nhắc mình: “Sao
chưa thoát khỏi n nhi thường tình?”. Hứa vi Kiu v mt ngày mai huy hoàng,
mt ngày mai sum vy hnh phúc:
“Bao gi i vn tinh binh,
Tiếng chiêng dy đt bóng tinh rợp đưng.
Làm cho rõ mặt phi thường,
By gi ra s ớc nàng nghi gia”.
Đó lời ha danh d ca một đấng trượng phu phi thưng. tin vào chí khí
sc mạnh “rạch đôi sơn hà” của đáng tài trai “đi trời đạp đất” mới li hứa như
dao chém đá y. Vi T Hi, bốn phương vẫy gi chiến ng đang chờ đón, là
mt ngày mai hin hách mt lực lượng hùng hậu mười vn tinh binh", "huyn
thành đạp đổ năm toà cõi nam”. Thời gian đợi ch T Hi an i Kiều cũng
mt li ha:
“Đành lòng ch đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Hình nh cánh chim bng bay vút muôn dặm khơi là hình ảnh ngưi anh hùng mang
chí ln tung hoành vy vùng trong bn b:
“Quyết li dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.
Đọc “Truyện Kiều”, ta bt gp hình nh T Hải đã tr li Lâm Tri sau mt nam tri
giã bit. Trong cảnh “Om thòm trống trn, rp rình nhạc quân”. T Công hi phu
nhân:
“Nh li nói nhng bao gi hay không?
Anh hùng mi biết anh hùng.
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?”.
Qua đoạn thơ 18 câuy (t câu 2213 - 2230), nhân vt T Hải đã được Nguyn Du
miêu t vi tm lòng quý mến ngi ca v chí khí anh hùng khát vng s nghip
phi thường. T Hi mt nhân vật anh hùng tưởng tuyệt đẹp trong “Truyện
Kiều” của thi hào Nguyn Du.
Phân tích đon trích Chí khí anh hùng - mu 7
Truyn Kiu mt trong nhng kiệt tác đ đời trong nền văn học Vit Nam ca
Nguyn Du. Vi tài và tâm ca mình, Nguyn du vn dng sáng to ngôn ng, ngh
thut s thu hiu cm thông tái hin cuộc đời đầy sóng gca Thúy Kiu
nhng mi tình nàng tri qua với bao đau khổ. Trong đó anh hùng Từ Hải được
khc họa qua đoạn trích Chí Khí Anh Hùng.
Thúy Kiu sng trong cảnh nhơ nhớp lầu xanh, nhưng may mn mm cười vi nàng
khi nàng gp T Hải, được v anh hùng chuc khi chn lu xanh i làm v.
Sau nửa năm lửa đượm hương nồng, T Hi mun to dng cho mình s nghip ln
nên đã từ bit Thúy Kiu hình ảnh người anh hùng lúc lên đường được tái hin
trong bốn câu đầu:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trưng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vi tri b mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đưng thng rong.
Như chúng ta biết “anh hùng” là người trong bng có chí lớn,có mưu cao, có tài bao
trùm c trụ, chí nut c trời đất kia. khi chàng dt khoát ra đi để li tình
riêng “nửa m hương lửa đương nồng”, những hnh phúc v chng gin d, riêng
tư, mang đi trong mình chí hướng bốn phương , quyết hướng đến s nghiệp lí tưng
ln lao cao cả. Dường như ý chí đó tr thành bản năng của người anh hùng không
th ngăn cn nổi. Ngưi anh hùng y với tư thế đối din vi tri b mênh mang, làm
ch mi th, oai phong lm liệt “thanh gươm yên ngựa”, mạnh m dt khoát.
Khi nhìn bóng dáng T Hi ta li nh đến hình ảnh ngưi chinh phu:
Áo chàng đ ta ráng pha
Nga chàng sc trng như là tuyết in
Qu tht T Hi một người anh hùng phi cng bốn phương, chẳng th giam
mình nơi nắng không đến đầu mưa không đến mt, mt không gian cht hp. Mà ch
có th lên đưng mi gii phóng đưc con người anh hùng y.
Trong cnh tin bit T Hi, tác gi ng ý để cho T Hi sn sàng trên yên nga
thanh kiếm bên mình, mới để Kiu T Hi nói li t bit. Biết rng chng mình
tung hoành t phương, sống trong cnh màn tri chiếu đất nhưng Thúy Kiều vn
mt lòng theo cùng, luôn mun chia s ni lo, m trng, gánh vác cùng chàng
nhng mt nhc phn làm thê nên làm. Thúy Kiu thuyết phc T Hi bằng đạo
phu thê xưa cùng với tình cm chân thành th hin s thấu tình đạt lí, trong nghĩa
trọng tình. Nhưng Từ Hi- đấng anh hùng li nh nhàng nói vi Kiu bằng đạo tri
âm:
T rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi n nhi thường tình?
Bao gi i vn tinh binh,
Tiếng chiêng dy đt bóng tinh rợp dưng.
Làm cho rõ mặt phi thường,
By gi ta s c nàng nghi gia.
Bng nay bn b không nhà,
Theo càng thêm bn biết là đi đâu?
Đành lòng ch đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì
Li thuyết phúc ca T Hải “tâm phúc tương tri” th hin s tôn trng Kiu, mong
mun nàng hiu mình khéo léo t chối không để nàng phi chu kh bên mình.
Vi trí tu sáng sut mt trái tim nhân hu tm lòng bao la , T Hi luôn mun
mt chiến công oanh liệt, đem đến nim tin, tình yêu s trân trng cho Thúy
Kiu. Làm nên s nghiệp cũng lúc Từ Hải đạt được hnh phúc chàng luôn
hướng ti, mt hạnh phúc tràn đầy c v s nghip lẫn tình yêu đó hạnh phúc
xứng đáng với một người anh hùng.
T Hải trước đây cũng vậy, bây gimãi v sau vn mang trong mình s t tin s
làm ch được tt c. Ch vn vẹn thanh gươm yên ngựa cùng chí khí ngút tri
nhưng Từ Hi tin rng s trong tay “mười vạn tinh binh” về trong tiếng “chiêng
dậy đất mang lại v vang hạnh phúc cho ngưi con gái chàng hết mực thương
yêu vi li ha chc nịch “năm sau” tạo thêm nim tin vng chc cho Thúy Kiu.
tt c mi th toát ra t T Hải: chí khí, thế, hành động , tài năng đều mang mt
v phi thường. Chính điều đó làm cho tác gi tôn trng, ngưỡng m gi chàng là
“trưng phu, mặt phi thường”, đặt nhân vt anh hùng trong một không gian đất tri
rông ln bao la, hết mc ngi ca.
T Hải trong đoạn trích Chí Khí Anh Hùng th hiện tưởng anh hùng ca Nguyn
Du: phi chiến thng cái bình thường, tầm thường để hướng tới cái phi thưng, phi
có nhng phm chất siêu phàm để tr thành một con người ng, hình mẫu đưc
dựng lên cho ngàn đời sau.
Phân tích đon trích Chí khí anh hùng - mu 8
Nguyễn Du đại thi hào ca dân tc ta, nhc ti thành công ca ông thì không ai
có th không nhc ti tuyt tác Truyn Kiều. Đây là một tác phm chứa đựng giá tr
nhân đạo sâu sc và tr thành đ tài bàn lun, nghiên cu chưa bao gi ngng ngh.
Trong tuyt tác y ngoài nói v nhân vt Thúy Vân, Thúy Kiu thì nhân vt để li
nhiu du ấn cho người đọc mc xut hiện trong đoạn ngắn đó chính nhân vt
T Hi nm đoạn trích Chí Khí Anh Hùng.
Như chúng ta đã biết, Thúy Kiu sau khi b mc by rơi vào chn lu xanh chu
nhiều đau khổ, ti nhc. Khi y T Hải đã cứu nàng ra khi chốn đó nhận ra
phm cht cao quý ca Kiu. Tình yêu gia T Hi vi Thúy Kiều không ngăn
được chí hướng y dng s nghip. Chính thế nửa m sau đó Từ Hải đã tiếp
tc lên đưng gây dựng cơ đồ:
“Nửa năm hương lửa đương nng
Trưng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vi tri b mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đưng thẳng rong
Đưc nửa năm, khi tình yêu cuc sng v chồng đương còn nồng nàn, cháy
bỏng nhưng lại không sao che khuất được bn phương. Từ Hi sm đã “động lòng
bốn phương” điều đó thể hin cho chí lp công danh, s nghip ca T Hi. Bng
hình ảnh ước l “tri b mênh mang” đã cho ta liên tưng ti tm vóc ln lao và phi
thưng, một người tình yêu, gia đình hay bt c th cũng không ngăn cn
được c chân của chàng. Thêm vào đó hình ảnh gươm, ngựa “lên đường thng
rong” cho ta thy được phong thái ung dung ca T Hi.
Cnh tin bit ca Thúy Kiu vi T Hải đưc tác gi miêu t khác hn vi các
cnh tin biệt khác đã trong truyện như vi Kim Trng hay Thúy Kiu vi Thúc
Sinh. Lúc y T Hải đã thế khác hn, trên yên ngựa, gươm đã sẵn sàng. th
một mình ra đi, bốn b nhà, th phiêu bạt nay đây mai đó nhưng vẫn không
h nao núng. Thúy Kiu biết vy nhưng vẫn xin theo đ chăm sóc, nâng khăn sửa
túi cho chng:
“Nàng rng: Phn gái ch tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”
Tam tòng t đức, Thúy kiu không xin hơn chỉ muốn được theo chng, ng
chồng gánh vác. Hơn nữa đây cũng không chỉ xut phát t ch tòng trong “xuất giá
tòng phu” còn đối vi Kiu thì T Hi không ch một người chng còn
mt v ân nhân đã cứu nàng. Tuy nhiên xin mt chuyn thc tế T Hải đã
quyết:
“T rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi n nhi thường tình
Bao gi i vn tinh binh
Tiếng chiêng dy đt, bóng tinh rợp đưng
Làm cho rõ mặt phi thường
By gi ta s ớc nàng nghi gia.”
T Hải trưc li cu xin ca Kiu thì y t li trách móc khi Thúy Kiu mc
phẩm cách hơn người nhưng “chưa thoát khỏi n nhi thường tình”, đồng thời cũng
khuyên nàng không phải quá đặt nng việc “tòng phu”. Li trách ngn ngi sau
đó là lời ha hn vi Kiu rng khi nào xây dng được cơ đồ, có trong tay mười vn
tinh binh thì chàng s đón nàng v dinh, đem lại cho nàng không ch danh phn
còn c địa v.
Có th thy đây là khonh khc th hin sâu sc nht chí khí của người anh hùng T
Hi. Chàng không phải người ly tình, không vướng mc my chuyn n nhi
thưng tình rt quyết đoán cho hành động ca mình. Thay quyến luyến, bn
rn lúc tin bit, thay vì nói lời yêu thương, nhung nhớ thì T Hải đã khẳng định s
thành công của mình trên con đưng công danh. Tuy nhiên mc cng rắn như
vậy nhưng chàng vẫn kín đáo thể hin s quan tâm, lo lng ca mình dành cho Thúy
Kiu:
“Bng nay bn b không nhà
Theo càng thêm bn, biết là đi đâu
Đành lòng ch đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”
Biết trước rng con đường mình đi “bốn b không nhà”, khi màn trời chiếu đất
nhưng chàng vn quyết tâm đi dùng m do để khuyên Kiu nhà. Bi
chàng cho rằng nàng theo thì “càng thêm bận”. Qua đó cũng cho thy s lo lng nếu
Thúy Kiu theo s phi chu kh cc. Sau li l quan tâm y li khẳng định v
thi gian, mt li ha quyết tâm thc hiện đồ trong vòng một năm ca T Hải để
Thúy Kiu yên lòng li s không phi ch đợi quá lâu. Cuối cùng đoạn trích
cũng là là s la chn dt khoái ca T Hi:
“Quyết li dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”
S quyết tâm ca T Hải đã được đẩy n cao nht không th ngăn cản
được. Qua đó ta thấy đưc anh hùng T Hi đưc Nguyn Du miêu t rt sâu sc và
sáng to. T Hi nhân vật để Nguyn Du gi gm m tư, tình cảm, ước công
trong hoàn cnh hội đương n ng. Đoạn trích góp phần đm hình nh,
tính cách ca nhân vt, mt nhân vật ng, mẫu người cao đp trong kit c
Truyn Kiu.
Phân tích đon trích Chí khí anh hùng - mu 9
Nguyn Du một nhà văn, nhà thơ ln ca dân tc Việt Nam, được mnh danh
đại thi hào, trong sut cuộc đời sáng tác ca mình, Nguyễn Du đã đ li nhiu tác
phm hay giá tr, ni bt nht th k đến đó chính đại kit tác Truyn
Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng mt trong những đoạn trích khá tiêu biu,
Nguyễn Du đã miêu tả chân dung cũng như khát vọng làm nên s nghip ln ca
người anh hùng T Hi.
Trong đoạn trích Chí khí anh hùng, tác gi Nguyễn Du đã tập trung miêu t làm
ni bt lên v đẹp ý chíphm cht ca T Hi. So vi nhân vt T Hi trong tiu
thuyết Kim Vân Kiu truyn thì nhân vt T Hi ca Nguyễn Du hoàn toàn khác, đó
không phi một tên ớng cướp như nguyên mẫu một người anh hùng đầu đội
trời, chân đạp đất bản lĩnh ý chí phi thưng. Cm hng ca ngi cùng bút pháp
ước l ợng trưng khiến cho nhân vt T Hi hin lên lớn lao, vĩ, mang đy đ
phm cht ca ngưi những người anh hùng xưa.
Khi Thúy Kiều đang tuyệt vọng, chìm đm trong cuc sống đau kh, ê ch i lu
xanh thì T Hải đã xut hin cu nàng ra khi chn tu sắc đầy th phi y. Nh
T Hi Thúy Kiều được báo ân báo oán, được hưởng hnh phúc v chng
như những người ph n bình thường khác. Tuy cuc sng v chng hnh phúc
nhưng vẫn không th che khuất được khát vng lp thân to ln ca T Hi. vy
không đành ng nhưng T Hi vn phải để Thúy Kiu li còn bn thân
mình thì ra đi thực hin hoài bão:
“Nửa năm hương lửa đương nng
Trưng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vi tri b mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đưng thẳng rong
Thúy Kiu T Hải đã nửa năm bên nhau, cuc sng êm m, hạnh phúc nhưng
vi hoài bão ln của người anh hùng, T Hải đã “động lòng bốn phương”. Cách sử
dng t ng đầy tính ước l đã làm nổi bt n khát vng lp công danh, s nghip
ca T Hải. Dù yêu thương, trân trng tình yêu vi Thúy Kiều nhưng khát vọng anh
hùng đã không cho phép Từ Hải lùi bước, tương lai, sự nghiệp phía trước “mênh
mang” chưa xác định nhưng với bản lĩnh kiên cường, khát vng ln lao y hình nh
ra đi ca T Hải đẹp đẽ như những bc trưng phu xưa.
Đối vi Thúy Kiu nói, T Hi không ch ngưi chồng nàng thương yêu,
trân trọng đó còn người nàng mang ơn, chính Từ Hải đã cu nàng ra khi
chn lầu xanh. Trước quyết định ra đi của T Hi, nàng biết không th ngăn cản
nhưng cũng không đành lòng đ chàng ra đi đơn độc, Thúy Kiều đã y tỏ mong
muốn được đi theo để chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chàng:
“Nàng rng: Phn gái ch tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”
Thúy Kiều đề cao quan niệm “xuất giá tòng phu” của đạo đức Nho giáo xưa, nàng
muốn được đi theo đ tin b chăm sóc cũng như giúp đỡ cho T Hải. Trước yêu
cầu đầy chân thành ca Thúy Kiu, T Hải đã rt cm động nhưng cuối cùng chàng
không đồng ý s Thúy Kiều thân con gái đi theo s phi chu kh. Như để an i
nàng, T Hải đã hứa hn bao gi lp lên s nghip ln s ớc nàng “nghi gia”:
“T rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi n nhi thường tình?
Bao gi i vn tinh binh
Tiếng chiêng dy đt, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
By gi ta s ớc nàng nghi gia”
Theo T Hi, Thúy Kiu chưa thoát khói thói n nhi thường tình đồng thời đó cũng
lời động viên để nàng không phi lo lắng khi mình lên đưng thc hin nghip
ln. một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất, T Hi quyết tâm ra đi y
dng nghip lớn đ th nm trong tay “mưi vạn tinh binh”. Và khi sự nghiệp đã
thành, chàng s tr v để đón Kiều nghi gia trong “tiếng chiêng dy đất, bóng tinh
rp tri”.
Qua nhng lời đối thoi ca T Hi vi Thúy Kiều trước lúc ra đi đã thể hiện được
chí khí ln lao của ngưi anh hùng mang trong mình khát vng ln. Tuy nói Thúy
Kiều đi theo sẽ thêm vướng bận nhưng tht ra nguyên nhân chính T Hi không
mun Thúy Kiều đi theo vì không mun nàng phi chu kh, s nàng không th
thích ứng được vi cuc sng bn b là nhà:
“Bng nay bn b không nhà
Theo càng thêm bn, biết là đi đâu”
Để Thúy Kiu th yên tâm hơn, Từ Hải đã khẳng định thời gian mình ra đi
một m, Từ Hải đã động viên Thúy Kiu v một ơng lai chiến thng, chàng s
tr v trong s hin hách, vinh quang:
“Đành lòng ch đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì.”
Cuc chia tay gia T Hải cũng thật khác lạ, đó không phải nhng li tâm tình n
non li nhng li ha hn v một tương lai tt thắng, qua đó ta th thy
được nhng phm chất trượng phu trong con người ca T Hải, đó con ngưi
dùng hành động để th hin tình cm với người mình yêu.
Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã y dng thành công hình tượng người anh hùng
đầu đội trời chân đạp đất T Hải, đó không chỉ một con người giàu tình cm
còn một ngưi anh hùng khát vng ln cùng ý chí, quyết tâm đầy mnh m,
quyết lit.
Phân tích đon trích Chí khí anh hùng - mu 10
Truyn Kiu mt trong nhng kit tác ca Nguyễn Du nói riêng văn hc Vit
Nam nói chung. Tác phm không ch cho người đọc thy s phận bi thương, gặp
nhiu oan trái ca nàng Kiều. Trong hành trình mười lăm năm lưu lạc Kiều đã gặp
biết bao nhiêu chuyện, bao nhiêu người, nhưng ngưi duy nhất yêu thương bảo
v được nàng chính là T Hi. V đẹp ca nhân vt T Hải đã được kết tinh trong
đoạn trích “Chí khí anh hùng”.
Tri qua nhiu sóng gió, Thúy Kiều đã gặp được T Hi người anh hùng cái thế
“đầu đội trời, chân đạp đất” lúc by gi. Gặp đưc Thúy Kiu, T Hi cùng quý
trọng nàng, đã ngỏ ý vi Kiều: “Một lời đã biết đến ta/ Muôn chung nghìn t
cũng là có nhau/ Ngỏ li nói với văn nhân/ Tiền trăm lại c nguyên ngân phát hoàn”.
Thúy Kiu tr v chung sng cùng T Hi, cuc sống gia đình cùng hạnh phúc,
yên ấm. Nhưng chỉ được nửa m, Từ Hải động lòng bốn phương quyết m lên
đường lp s nghiệp phi thường. Bài thơ mở ra bằng câu thơ:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trưng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Cuc sng hôn nhân ca h mi bắt đầu hình thành, đây đồng thời cũng là giai đoạn
v chồng yêu thương nồng nàn thm thiết nht trong cuc sng hôn nhân. Nếu
như những người bình thường chc chn s tha nguyn, bng lòng trong hoàn cnh
hnh phúc ngập đy như vậy. Nhưng T Hi li là một ngưi hoàn toàn khác, chàng
một người phi thường ngay t v b ngoài: “Râu hùm hàm én mày ngài/ Vai năm
tc rộng, thân mười thước cao”. khác thưng trong c tài trí: “Côn quyền hơn
sức, lược thao gm tài”. Từ Hải hơn hn ni khác c v sc mnh trí tu, bi
vy, chàng không bng lòng vi cuc sng êm đềm hin ti, T Hi quyết tâm ra đi.
Lòng bốn phương đây thể hiu ý chí lp công danh, s nghip ca k m
trai trong hi phong kiến. Trong hi phong kiến, làm trai phi lp nên s
nghip ln để li tiếng thơm muôn đời. Bốn phương nam bắc đông y, còn
nghĩa thiên hạ, thế giới. Đồng thi bốn phương cũng th hin ý chí tung hoành
ngang dc ca k làm trai: “Chí làm trai Nam Bắc Tây Đông/ Cho ph sc vy vùng
trong bn biển”. Nguyễn Du đã sử dng rt tài tình t “thoắt” cho thấy ý chí,
lòng quyết m thc dy nhanh chóng khi lòng quyết tâm đó đã được xác lp thì
ngay lp tc phi thc hiện. Đó nh động mnh m, dt khoát của người k
hùng tâm tráng chí ôm trùm thiên h.
Trông vi tri b mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đưng thng rong
Hành động ca T Hi hết sc dứt khoát, không chút lưu luyến, bn rn: thng rong
đi liền mt mạch. Chàng ra đi trong tâm thế ung dung, t tại, đó khí phách ca
mt người trượng phu. S ra đi dứt khoát còn được th hin trong đoạn đối thoi vi
Thúy Kiu: Nàng rng phn gái ch tòng/ Chàng đi thiếp cũng một ng xin đi.
Trưc quyết tâm ra đi của T Hi, nàng y t ưc nguyện để được đi theo Từ Hi,
đó cùng thc hin trọn đạo tam tòng “xuất giá tòng phu”. Đây nguyện ước
hoàn toàn chính đáng, đi cùng đ đỡ đần cho chồng, để cùng chung vai gánh vác,
chia s những khó khăn. Nhưng ngưc li T Hi trách Thúy Kiều: “T rng: m
phúc tương tri/ Sao chưa thoát khỏi n nhi thường tình”.
T Hi trách Kiu vẫn chưa thoát khi những thói thưng ca n nhi, nhưng trách
ấy cũng lời động viên nàng y vưt lên nhng tình cm y để xng đáng tâm
phúc tương tri của T Hải. Đằng sau câu thơ cho thy s t tin ca T Hải khi đt
mình lên trên thiên h nên yêu cầu người đu gi tay p với mình cũng phải hơn
những người ph n bình thường khác.
Trước khi đi, Từ Hải còn đưa ra lời hẹn ước vi Thúy Kiều: “Bao gi i vn tinh
binh/ Tiếng chiêng dy đt, bóng tinh rợp đưng/ Làm ra mặt phi thường/ By
gi ta s ớc nàng nghi gia”. Câu thơ được T Hi s dng s t ch s ng
nhiều: mười vạn, động t mnh: dy đất, rợp đường. Cho thy tương lai huy hoàng
ch cn sau một năm th làm nên s nghip lớn để c Thúy Kiu v vi cuc
sng vinh hin hnh phúc. Li nói va lời động viên Kiu, va cho thy s bn
lĩnh, tự tin ca T Hi, chàng ý thc sâu sc tài năng, năng lc ca bn thân. Ngoài
ra, T Hi còn an i vợ: “Bằng nay bn bin không nhà/ Theo càng thêm bn biết
đi đâu”. Trong sự an i có s lo lng, giải thích để Thúy Kiu an lòng li.
Quyết li dt áo ra đi/ Gió y bằng đã đến dặm khơi. Không gian mở ra
cùng rộng rãi, khoáng đạt xng vi tầm vóc vĩ đi, vi tráng chí bn phương của T
Hải. Câu thơ đã thể hin hin chí ln ca người anh hùng: khao khát được vy vùng,
tung hoành gia trời đất cao rng giống như lời gii thiu ca Nguyễn Du “Đội tri
đạp đất đời”. Gió mây bằng đã đến dặm khơi: tái hiện hình ảnh ngưi anh hùng
T Hi: chim bằng tượng trưng cho khát vng của người anh hùng to nên s
nghip ln. Chim bng bay lên cùng gió mây chính hình ảnh ngưi anh hùng T
Hi trong giây phút lên đưng.
Ngh thut y dng nhân vật đặc sc yếu t to n thành công ca tác phm.
T Hải hình ợng mang tính ước l đưc th hin qua hình nh, qua các hành
động c ch. T Hi là con người sánh ngang tầm vũ trụ, mang trong mình hùng tâm
tráng trí ln lao.
Đoạn trích Chí khí anh hùng đã khc họa thành công hình tượng T Hi vi phm
cht chí khí ln lao của người anh hùng. T Hi mang trong mình khát vng ln
làm nên s nghiệp vĩ đại. Qua nhân vt này, Nguyễn Du cũng gửi gắm mơ ước v t
do, công lí trong xã hội cũ.
Phân tích đon trích Chí khí anh hùng - mu 11
Hi ng ri chia li đó hai mặt ca mt qtrình. qui lut t nhiên trong
đời sống con người và cũng như qui luật tình cm riêng khó nói thành li.
Chng thế chia li đã tr thành đề tài, là ngun cm hng vô tận cho các nhà thơ,
nhà văn đi vào khai thác sao. T trong câu ca dao quen thuc: Vầng trăng ai xẻ m
đôi; Đưng trn ai v ngược xuôi hi chàng đến vầng trăng ai xẻ làm đôi; Nửa in
gi chiếc, na soi dặm trường (Truyn Kiu Nguyn Du) ngay c Cuc chia li
màu đỏ (Nguyễn Mĩ). Ta vẫn bt gp nhng giọt nước long lanh, nóng bng, sáng
ngi ca k người đi. Nhưng một cuc chia li làm bạn đc ấn tượng bi Chí
khí anh hùng, tràn đy nim tin lạc quan, tươi sáng ch không như:
Ngưi lên nga, k chia bào,
Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san.
Đó cuc chia li ca T Hi vi Thuý Kiều để lên đường đi khởi nghĩa. Đoạn Chí
khí anh hùng (Trích Thuý Kiu) thuc phn gia biến lưu lạc trên đoạn trường
ời m năm. Rơi o lu xanh ln th hai, Thuý Kiều được gp T Hải, ngưi
anh hùng rồi đây sẽ cu vt nàng ra khi cuộc đời thanh lâu đau khổ. Người đại
diện cho tưởng, đạo công bng Nguyn Du gi gm khi y dng trong tác
phẩm. Người Nguyn Du bc l ng, tình cm, khi mâu thun khó gii
quyết bng li ca tác gi.
Sau cuc gp g đặc bit, trong hoàn cảnh cũng rất đặc bit, Thuý Kiu T Hải đã
tìm thy s hòa hp v tâm hn ca nhau, h va s thu hiu chân thành va
có s đồng cm cho nhau. Hai khong trng v tâm hồn đã đưc lp đầy, san s cho
nhau bng tình yêu. S tương xứng y to nên mt kết thúc hu ca min c tích
khi:
Trai anh hùng gái thuyn quyên
Ph nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rng.
Trước khi đi vào m hiểu đoạn trích, ta y hiểu xem con người y đặc bit
Nguyn Du nh nhiều ưu đãi khi y dng T Hi người anh hùng tưởng.
Mt nga, một gươm T Hải đã vung lên ỡi gươm ng cu vt nhng con
người khn kh, và chắp .cánh cho ước mơ hoài bão ca h bay cao, bay xa mãi. S
xut hin mt nhân vt mi trên chặng đường s phn ca Thuý Kiu ln y mang
một ý nghĩa giá tr ngh thuật đặc biệt. Hình tượng T Hi không ch phn ánh mt
quan nim mi m, t do v quan h luyến ái nam n:
Mt đi đưc my anh hùng
Bõ chi cá chu chim lồng mà chơi
Chính li nói gin d, chân thành, trân trng Thuý Kiu ca T Hải đã li t
tình tế nh kín đáo phá v khong ch vn rt d xut hin gia nhân vt anh
hùng với con người nh thường như Kiu. th nói rng Nguyn Du tht bit
tài y dng, khc ha tính cách tng nhân vt một cách đậm nét ràng. Đc
bit nhân vt T Hải. Hơn bất c nhng hình tượng nào khác trong tác phm, T
Hi phn ánh khát vng t do một khuynh hưng t do không ch vượt khi l giáo,
đạo đức chính thng mà còn là mt ngưi ni loạn đối lp vi trt t chính tr phong
kiến.
Hình ng T Hi con người đã san phng bt bình, bênh vực ngưi b áp bc
bằng nghĩa khí tài năng nhân to nên ni dung phong phú sâu sc ca
Truyn Kiu. T Hải ờng như đã bẻ y xing xích hi phong kiến trói
buộc con người, chàng ph định chính quyền nhà vua, đi vi chàng t do cao
hơn hết thy:
Chc tri khuy nưc mc du
Dc ngang nào biết trên đầu có ai!
Vi khí thế ngang tàng ca s t do, không phi là cnh:
Áo xiêm ràng buc ly nhau
Vào lun ra cúi công hu mà chi?
Mà lại cái tư thế hiên ngang giữa đất tri, tha chí anh hùng:
Giang h quen thói vy vùng
Gươm đàn nửa gánh non sông mt chèo.
Hình nh y cung thanh kiếm đã tạo n mt nét mi trong tính cách ca T
Hải. Cũng như Kim Trng, T Hải cũng một tâm hồn cao thượng đượm cht
thơ. Nhưng khác vi các nhân vt trong tác phm T Hải còn làm độc gi say
bi cái ct cách ca mt k ngang tàng, hào phóng. Nguyn Du y dng T Hi là
nhân vật ng ct cách phi thường, nhưng đứng trước Kiu "Tm lòng nhi n
cũng xiêu anh hùng". Tuy nhiên chàng luôn đng trên lập trường li ích ca
cộng đồng, tình cảm và lí tưởng ca chàng luôn thng nht ch không đng nht. Vì
vy mà:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương,
Trông vi tri b mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thng giong.
Sng trong hạnh phúc yêu thương, khi hơi m tình cm v chng độ mn nng,
đằm thm. T Hi vn không quên s nghip lớn, chí m trai theo như Nguyễn
Công Tr:
Chí làm trai nam bắc tây đông
Cho ph sc vy vùng trong bn b.
Đim y T Hi đã cho thấy s phù hp trong tính cách của chàng đó đi tri
đạp đất đời. thế ra đi của T Hi dứt khoát, không chút lưu luyến bn rn
như Thúc Sinh từ bit Thuý Kiu, không lòng chàng ý thiếp ai su hơn ai.
đoạn trích ckhí anh hùng (Truyn Kiu Nguyễn Du), người Trượng phu mang
trong mình tm vóc ln lao ca thời đại giao cho, đối lp vi mt không gian bao la;
trông vi tri b mênh mang là tm vóc ca người anh hùng: Thanh gươm yên nga
lên đưng thng giong.
Ch mi bốn câu thơ thôi Nguyễn Du đã khc ha mt nhân vật, ngưi anh hùng
bằng xương bng tht. Bi miêu t là người anh hùng cho nên ngôn ng ca Nguyn
Du s kính phc, trân trng. Cách miêu t cũng khác, không gian, thời gian đưc
m rộng để phù hp vi khí phách ca nhân vt chăng? Người anh hùng ra đi không
muốn vưng bn n nhi, không chút mm yếu trước li nói ca thê t.
Nàng rng: phn gái ch tòng.
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Thuý Kiều là người sâu sắc đến my cũng không thoát khỏi chuyn phu thê quyến
luyến. Nàng ch mun theo T Hải đi để làm tròn bn phn m v ca mình,
không nghĩ đến vic ln ca chàng. thế T Hải đã trách khéo nàng tâm phúc
tương tư tc hai người đã hiểulòng d ca nhau mt cách sâu sắc như thế, cn
phải quan tâm đến chuyện nghĩa theo chồng như đo Nho bắt làm. Sau đó chàng
động viên Thuý Kiu nhà yên tm đi tin vui:
Bao gi i vn tinh binh
Tiếng chuông dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bây gi ta s c nàng nghi gia.
Còn bây gi gia tri đt bao la bn b không nhà, nàng mà đi theo chỉ làm bn tâm
thêm, huống chi chưa biết rõ là đi đâu. Vì vy nàng hãy dn lòng ch đợi ch mt
hai năm vội gì. Thế ri chàng:
Quyết li dứt áo ra đi,
Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
Hình con chim bằng được ly t điển tích t truyn ng ngôn k rng chim bng
mt ging chim rt lớn, đập cách làm động c trong ba ngàn dm, cho nhng
người anh hùng bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên s nghip ln. Nguyn
Du đã T Hải như là con chim bằng đã đến lúc tung cánh bay n cùng gió mây.
Cuc sng ca một con người luôn khao khát không trung, t do tha chí vy vùng,
không bao gi chu sng trong cnh túng, mt không gian nh thường
ngày ca ngưi bình tng.
Khi miêu t ngưi anh hùng T Hi, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và c ch
ngôn ng mang ý nghĩa mạnh m, dứt khoát như: thoắt đã, thẳng giong, sao chưa
thoát khi, dy đất, phi thường, vi gì, quyết li dứt áo ra đi, đã lìa... Ngoài ra thêm
các t ch Hán để bc l tư tưởng tình cm ca tác gi, rồi dung điển cố, điển tích...
và c xây dng thi gian, không gian m: nửa năm, bốn phương, trời b mênh mang,
bng tin...
Tóm li, ch một đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vt T Hải dường như xut hin
t mt giấc mơ, từ mt giấc hùng về chính phía hàng triệu người khn
kh áp bc hng ôm p. Vì vy, mà khi xây dng, Nguyễn Du đã những sáng to
các phương thức ngh thuật riêng, đ biu đạt khát vng ca mình ca thời đi
Nguyn Du sng khát vng v s t do, công bng l phi. T mt cuc chia li mà
nói lên được toàn b chí khí anh hùng ca T Hi.
Bài tham kho mu 12
Truyn Kiu kit tác trong sáng tác ca Nguyễn Du, cũng một trong nhng c
phm m nên s hưng thịnh văn học Việt Nam giai đoạn cui thế k XVIII đầu thế
k XIX. Qua Truyn Kiều, đại thi hào Nguyn Du không ch th hin s đồng cm,
xót xa vi cuộc đời truân chuyên ca nàng Kiu còn gi gm ước về người
anh hùng th cu dân, dp loạn thông qua hình ng T Hải. Trong đoạn trích
“Chí khí anh hùng”, nhân vật T Hi xut hin ni bt vi nhng phm cht phi
thưng và khát vọng cao đẹp của người anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”.
Tri qua bao biến c ca cuộc đi, những ng cuộc đời Thúy Kiu mãi b vùi dp
trong những đau đớn, ê ch thì T Hải đã xuất hin, mang theo ánh sáng hi vng
cho cuộc đời nàng. th nói gp g nên duyên cùng vi T Hi hnh phúc
hiếm hoi trong cuc đi ca Thúy Kiu. Tuy nhiên, cuc sng hnh phúc vi nàng
Kiều cũng không th làm nguôi đi chí lớn của ngưi anh hùng:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trưng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vi tri b mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong
Sau nửa m chung sng hnh phúc vi nàng Kiu, T Hải đã quyết định ra đi để
thc hin nghip ln. T Hi vốn người người anh hùng đầu đội trời, chân đạp
đất vi khát vng tung hoành khắp muôn phương “nghênh ngang một cõi biên thùy”.
vy đang sống trong nhng ngày hnh phúc nht cuộc đời cùng người mà
mình yêu thương, trân trọng thì ngưi anh hùng y cũng không thể quên đi chí ln
ca người làm trai “Trưng phu thot đã đng lòng bốn phương”.
thế ra đi của T Hải đưc c gi Nguyn Du tái hin qua một động t “thoắt
th hin s mau l, dt khoát của người trượng phu. “Trời b mênh mang” không
ch hình ảnh ưc l th hin s rng ln trời đất, nơi ngưi anh hùng tha sc
tung hoành ngang dc còn gi ra tm vóc lớn lao, phi thường của người anh
hùng. Hình ảnh gươm ngựa “lên đưng thẳng rong” góp phn làm ni bt lên phong
thái ung dung, tư thế đĩnh đạc, hiên ngang ca T Hi.
Thu hiu khát vng quyết m ca T Hi, Kiều không ngăn cn y t
nguyn vng muốn đi theo để tin b chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chng:
“Nàng rng: Phn gái ch tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”
Thúy Kiu muốn đi theo Từ Hải để cùng s chia, gánh vác làm trn đạo “tam ng
ch đức” của một ngưi v làm trọn tình nghĩa với một người tri k, một ngưi
ân nhân có công cu mng. Tuy cảm động trước tm lòng ca nàng Kiều nhưng Từ
Hải đã quyết chí ra đi không muốn vướng bn bi tình cm nam n cũng là
mun bo v nàng Kiu khi nhng hiểm nguy nơi chiến trường nên đã từ chi:
“T rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khi n nhi thường tình
Bao gi i vn tinh binh
Tiếng chiêng dy đất, bóng binh rợp đưng
Làm cho rõ mặt phi thường
By gi ta s ớc nàng nghi gia”
Dù hiểu đưc tm lòng ca Thúy Kiều nhưng Từ Hi vn c gng khuyên nh Kiu
mun nàng thoát khi thói “nữ nhi thường tình” hứa hn v tương lai tươi
sáng, khi nghip ln thành công, cơ đồ được gây dng s “rước nàng nghi gia”. Qua
nhng li nói ca T Hi vi Thúy Kiu, ta th thấy được nhng phm cht tt
đẹp của ngưi anh hùng, T Hải không đ tình cm chi phi mà vô cùng quyết đoán,
dt khoát với hành động của mình. Cũng cần phi hiu rng không phi s dt
khoát ca T Hi khi ra đi là vô tình hay trọng công danh hơn tình cm. Chàng
người sng tình cảm hơn bất c ai, thay vì quyến luyến, đng lòng thì T Hi mun
th hin bằng hành động, bng quyết tâm chiến thắng để mang đến nàng Kiu
không ch là danh phn mà còn là tình cm.
“Bng ngay bn b là nhà
Theo càng thêm bn, biết là đi đâu
Đành lòng ch đó ít lâu
Chy chăng là một năm sau vội gì”
Nếu những câu thơ trên Từ Hi ý trách móc nàng Kiu s yếu đuối ca n
nhi thường tình thì ngay câu thơ sau chàng đã kín đáo th hin s quan tâm, đng
viên vi nàng. T Hi mang tráng khí khp bốn phương vi toàn b quyết tâm và t
tin nhưng chàng cũng hiu rằng con đường mình đang đi s ng chông gai, đó
cuc sng màn tri chiếu đất, bn b không nhà. T Hi không mun Thúy Kiu
đi theo một không muốn vướng bn, hai mun nàng phi xông pha vào chn
him nguy cùng mình. Cui cùng, để li bao lưu luyến, T Hi dt khoát lên đường:
“Quyết li dt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dm khơi”
T Hi nhân vt hi t đầy đủ nhng phm cht đẹp đẽ, phi thưng của người
anh hùng. Khi y dng nhân vt T Hải trong đoạn trích Chí khí anh hùng, tác gi
Nguyễn Du đã kín đáo thể hin quan nim v người anh hùng và ước mơ công lí.
| 1/38

Preview text:

Phân tích Chí khí anh hùng - Ngữ văn 10
Dàn ý Phân tích trích đoạn Chí khí anh hùng 1. Mở bài:
Tác giả: Đại thi hào Nguyễn Du, là danh nhân văn hóa Việt Nam.
Tác phẩm: Trích truyện Kiều nói lên tính cách và chí khí anh hùng của Từ Hải. 2 .Thân bài:
* Tính cách và chí khí anh hùng của Từ Hải:
- Sống với Kiều được nửa năm thì Từ Hải đã nghĩ đến nghiệp lớn
- “Động lòng bốn phương” công việc và chí lớn của người nam nhi
-“ trượng phu” là để chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng với hàm hàm nghĩa khâm phục, ca ngợi.
- “thoắt”sự mau chóng trong việc thay đổi tâm trạng, dáng vẻ của Từ Hải.
-> Từ Hải đã thoát khỏi tình cảm cá nhân nhanh chóng đi làm việc lớn của cuộc đời.
- “Mênh mang” càng lộ ra độ rộng và cao của trời đất càng bật lên tư thế của chàng
giữa vũ trụ rộng lớn.
-“trông vời” cái nhìn rộng lớn, sáng suốt.
-Từ Hải một mình cưỡi ngựa lên đường thẳng dong, cho thấy ý chí quyết tâm và bản
lĩnh của người anh hùng.
- Từ Hải ra đi không lưu luyến, bịn rịn tình cảm. Chàng coi Kiều như tâm phúc của
mình nhưng không thể để tình cảm cá nhân ảnh hưởng đến nghiệp lớn.
* Lời hứa của Từ Hải với Kiều:
- Chàng hứa Kiều khi nào “bao giờ mười vạn tinh binh”, “tiếng chuông ngập đất
bóng tinh rợp đường”, “Làm cho rõ mặt phi thường” sự nghiệp ổn định sẽ cưới nàng
cho nàng cuộc sống hạnh phúc ấm no.
- Sự tự tin và khẳng định của Từ Hải: một năm sau sẽ mang vinh quang về, chàng
rất tự tin và chắc chắn về chiến thắng của mình.
* Sự dứt khoát của Từ Hải:
- Chim bằng là loài chim của sự dũng mãnh, ý chí tác giả ví với Từ Hải, đã đến lúc
chàng tung bay đôi cánh để tìm khát vọng của bản thân.
- “ Dứt”, “quyết” khẳng định ý chí quyết tâm của Từ Hải. * nghệ thuật:
- Tính chất ước lệ tượng trưng theo lối văn học cổ trung đại, lời thơ sâu sắc. 3. Kết bài:
Đoạn trích Chí khí anh hùng là đoạn trích hay và ý nghĩa. Ca ngợi chí làm trai, chí
khí của bậc đại trượng phu, lí tưởng về người anh hùng mang lại ánh sáng tươi đẹp
cho đời và tình cảm sâu sắc của Từ Hải và Kiều, những ước vọng đẹp cho tương lai.
Văn mẫu Phân tích Chí khí anh hùng
Phân tích bài Chí khí anh hùng - mẫu 1
Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về
Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người
anh hùng có những phẩm chất, phi thường.
Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại
thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước
mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.
Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với
tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường
nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp
gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan
cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:
Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau
Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã
hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri
kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng
tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục
tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà
cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.
Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và
kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng.
Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy
Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân
của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng
hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên
đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một
tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là
nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời
cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.
Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán:
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái
chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản
được bước chân chàng.
Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch
truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả
một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con
người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng.
Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là
toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm
yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiều chỉ xuất hiện
một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ
Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện
quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ động lòng bốn phương nói
lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một
làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).
Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn
phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một
không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh
gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi
sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình
ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.
Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường
thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người
cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn
dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều - Kim Trọng, Thúy
Kiều - Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa
mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc,
nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.
Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn
khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một
lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không
chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của đạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu..., mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.
Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà
sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường
tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.
Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khí anh hùng.
Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng
vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp
nhận cho Thúy Kiều đi theo.
Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm
mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của
sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối
với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà
còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở
chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa,
trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy
Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng.
Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn
con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng
vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.
Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là
anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc
trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng
mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để
đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải
đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.
Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc
chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của
riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt
đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường
tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn
làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái
độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng
của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.
Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng
khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dặm mới nghỉ,
đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây
phút ngây ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.
Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về
phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng
ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.
Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù
túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu
kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị
chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái
khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành ! rong bốn bể để thực hiện ước mơ
công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.
Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu
tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường
với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất
lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải - nhân vật lí tưởng,
mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.
Phân tích bài thơ Chí khí anh hùng - mẫu 2
Nếu Kim Trọng là một người thư sinh đèn sách hiếu học thì Từ Hải là một người
anh hùng với khí phách hiên ngang. Từ Hải là người đã cứu Thúy Kiều thoát khỏi
cảnh sống nhơ nhớp, ô nhục khi nàng rơi vào lầu xanh lần thứ hai. Hai người chung
sống với nhau rất hạnh phúc nhưng do Từ Hải muốn có được sự nghiệp lớn lao nên
đã từ biệt Thúy Kiều ra đi. Ý chí, quyết tâm ấy của chàng được thể hiện qua đoạn
trích "Chí khí anh hùng" nằm trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du.
Đoạn trích này nằm ở vị trí câu 2213 đến câu 2230 thể hiện lí tưởng về người anh
hùng của tác giả. Bốn câu thơ đầu của đoạn trích đã thể hiện khát vọng lên đường vì
sự nghiệp của Từ Hải:
"Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong".
Trong lúc tình yêu và hạnh phúc vợ chồng đang nồng đượm, yên ấm, Từ Hải quyết
chí ra đi, rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Nam nhi
trong xã hội xưa muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiệp, có được
những công trạng lớn lao. Chẳng vậy mà Nguyễn Công Trứ từng viết:
"Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể".
Từ Hải là một đấng nam nhi muốn "vẫy vùng" nên đã "động lòng bốn phương".
Chàng là người có ý chí lập công danh, sự nghiệp lớn. Động từ "thoắt" vừa thể hiện
một trạng thái nhanh chóng vừa thể hiện sự dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Tác
giả Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình thế khó xử khi một bên là hạnh phúc
vợ chồng chốn khuê phòng như một cám dỗ còn một bên là không gian rộng lớn
thỏa sức thể hiện tráng trí bốn phương. Không làm bạn đọc thất vọng, bậc trượng
phu ấy đã lựa chọn con đường theo đuổi hoài bão, lí tưởng cuộc đời mình. Nguyễn
Du đã thể hiện sự trân trọng nhân vật Từ Hải khi gọi chàng là "trượng phu" - người
nam nhi có chí lớn, là bậc anh hùng trong thiên hạ. Dù cuộc sống vợ chồng còn
nhiều lưu luyến, vẻ đẹp khiến "hoa ghen", "liễu hờn" của người vợ Thúy Kiều còn
níu bước chân người anh hùng nhưng Từ Hải vẫn quyết lên đường chinh chiến để
thực hiện khát vọng "vẫy vùng trong bốn bể" mà không một chút do dự, phân vân.
Một con người "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai" như Từ Hải muốn thỏa sức tung
hoành khắp thiên hạ cũng là điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải ra đi một mạch cùng
thanh gươm trên yên ngựa trong cõi "trời bể mênh mang" thật oai phong, lẫm liệt.
Những hạnh phúc cá nhân riêng tư không thể làm chùn bước chân của người anh
hùng. Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng, mà là
người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Chàng đối diện với trời đất, vũ
trụ bằng một tâm thế đầy chủ động.
Cuộc chia ly nào cũng gắn với nỗi buồn, những giọt nước mắt và cuộc chia ly của
Thúy Kiều - Kim Trọng cũng không ngoại lệ:
"Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"
Nho giáo đã quy định người phụ nữ phải tuân theo luật "tam tòng": ở nhà theo cha,
xuất giá theo chồng, chồng chết theo con. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến luật lệ
của đạo Nho để xin đi theo chồng. Trong lúc "hương lửa đương nồng", nàng không
muốn phải chịu cảnh xa cách, chia lìa với Từ Hải - một người chồng nhưng đồng
thời cũng là một người ân nhân cứu mạng Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh. Nàng
muốn được theo chồng, muốn nâng khăn sửa túi và cùng chồng sẻ chia những khó
khăn trong cuộc đời. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng bởi lẽ nữ nhi lấy chồng thì
phải theo chồng. Dù phải chịu những vất vả, gian nan thì Kiều cũng nguyện một
lòng ở bên Từ Hải. Nhưng với nghĩa khí của một bậc quân tử, Từ Hải đã đáp lại rằng:
"Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia"
Hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau đến mức sâu sắc vậy tại sao Kiều vẫn "chưa
thoát khỏi nữ nhi thường tình". Đó là lời trách cứ Thúy Kiều tuy là tri âm tri kỉ mà
tại sao lại không thấu hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đó cũng là lời
động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt qua những trắc trở trước mắt để hướng về
tương lai tốt đẹp sau này và mong muốn nàng đừng quá lo lắng cho mình. Từ Hải
thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng tình cảm chân thành, sâu nặng. Từ Hải ra
đi lập sự nghiệp, công danh đến khi trở thành một con người xuất chúng, phi thường
và nắm giữ trong tay "mười vạn tinh binh"thì chàng sẽ quay trở về rước Kiều "nghi
gia" bằng những hình thức lễ nghi trang trọng. Vợ chồng đoàn tụ trong âm thanh
rộn rã của "tiếng chiêng dậy đất" và khung cảnh ngập tràn bóng cờ trên các con đường.
Để từ chối khéo léo mong muốn của Thúy Kiều, Từ Hải đã sử dụng những lời lẽ đầy sức thuyết phục:
"Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!"
Chàng từ chối mong muốn của Thúy Kiều là vì nàng sẽ làm bận lòng mình hay thật
tâm chàng không muốn người vợ của mình phải chịu những khổ cực, vất vả? Đối
với đấng nam nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ thường tình nhưng đối với phận nữ
nhi như Thúy Kiều thì việc đó không hề dễ dàng và rất khó thích nghi. Có lẽ vì
những lí do trên mà Từ Hải khuyên Kiều "đành lòng" chờ đợi ngày chàng thành
công trở về. Một năm chờ đợi không phải thời gian quá dài nhưng nó lại thể hiện chí
khí,lòng quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải. Việc gây dựng sự nghiệp,
công danh không phải là chuyện ngày một ngày hai mà đó còn là chuyện của cả đời
người nhưng Từ Hải lại hứa với Thúy Kiều sẽ đạt được công danh sau một năm nữa.
Phải là người có quyết tâm cao độ, tin vào khả năng của bản thân thì mới có lời hứa như vậy.
Nếu cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong "Chinh phụ ngâm" được Đặng Trần Côn miêu tả:
"Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước giây giây lại dừng"
thì cuộc chia tay của Từ Hải và Thúy Kiều trong đoạn trích "Chí khí anh hùng"
được Nguyễn Du miêu tả với sự dứt khoát:
"Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi".
Người xưa có câu anh hùng khó qua ải mĩ nhân nhưng với khát vọng lớn lao của
con người đầu đội trời chân đạp đất thì ải mĩ nhân không làm khó được Từ Hải.
Hành động "dứt áo ra đi" của chàng thể hiện thái độ dứt khoát, không chút tơ vương,
vướng bận chuyện cá nhân. Theo truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử, "chim bằng
là giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay
lên chín ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của
người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khát khao làm nên sự nghiệp lớn". Tư thế ra
đi của Từ Hải được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ chim bằng thật oai phong và có sức
mạnh phi thường. Đó là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ trung đại.
"Chí khí anh hùng" đã miêu tả cuộc chia ly giữa "trai anh hùng" và "gái thuyền
quyên" đầy dứt khoát nhưng nổi bật lên trong đoạn trích là chí khí của người anh
hùng Từ Hải. Đó là tính cách hiên ngang, ngay thẳng của bậc "trượng phu" trong
thiên hạ. Nhân vật này được Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng
cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần
tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng
đáng là bậc nam nhi "vẫy vùng trong bốn bể", không vì "hương lửa đương nồng" mà chùn chân, nhụt chí.
Phân tích tác phẩm Chí khí anh hùng - mẫu 3
Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại
thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước
mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.
Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với
tri âm, tri kỉ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường
nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp
gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan
cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:
Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau
Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm "giặc", đều thuộc hạng người bị xã
hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri
kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng
tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục
tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà
cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.
Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và
kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng.
Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy
Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi. Cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ
hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã
lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một
tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là
nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời
cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.
Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán:
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái
chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản
được bước chân chàng.
Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch
truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả
một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con
người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng.
Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là
toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một mình với thanh gươm
yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiểu chỉ xuất hiện
một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ
trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện
quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ động lòng bốn phương nói
lên được cái ý Từ Hải "không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một
làng mà là người của trời đất, của bốn phương". (Hoài Thanh).
Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn
phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một
không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh
gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi
sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình
ảnh của con người "thanh gươm yên ngựa" tưởng như che đầy cả trời đất".
Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường
thẳng rong trước rồi mới để cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người
cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn
dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều - Kim Trọng, Thúy
Kiều - Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa
mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc,
nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.
Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn
khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một
lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không
chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của đạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu..., mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.
Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!"
Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà
sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường
tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.
Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khi anh hùng.
Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng
vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp
nhận cho Thúy Kiều đi theo.
Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm
mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của
sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối
với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà
còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở
chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa,
trong lời trách: Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy
Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng.
Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn
con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng
vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.
Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là
anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc
trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng
mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng:
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để
đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải
đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.
Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc
chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của
riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt
đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường
tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn
làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái
độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng
của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.
Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng
khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi lần bay thì chín vạn dậm mới
nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những
giây phút ngây ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.
Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về
phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng
ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.
Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù
túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu
kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị
chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái
khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành, thong dong bốn bể để thực hiện ước
mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.
Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu
tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường
với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất
lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải - nhân vật lí tưởng,
mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.
Phân tích đoạn thơ Chí khí anh hùng - mẫu 4
Nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, ta không thể nào không nhắc đến "Truyện
Kiều" – một tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu sắc, đề cao giá trị con
người và lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến thối nát.
Đoạn trích "Chí khí anh hùng" trích trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du đã dành
những lời thơ của mình để nói về Từ Hải – người anh hùng lí tưởng có những phẩm
chất cao đẹp, phi thường.
Có thể nói trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng nhân vật
Từ Hải hoàn toàn mới so với hình tượng nhân vật này trong "Kim Vân Kiều truyện"
của Thanh Tâm Tài Nhân, ở "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, hình tượng Từ Hải
giống như một tướng cướp đã bị lược bỏ, thay vào đó là một hình tượng Từ Hải như
một vị anh hùng tuyệt đẹp, phi thường. Hình tượng này là sự hợp nhất của hình
tượng nhân vật có tính ước lệ – là nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn
Du và hình tượng con người vũ trụ với nét vĩ đại, lớn lao.
Sau khi bị mắc bẫy và rơi vào chốn lầu xanh lần thứ hai, Kiều luôn sống trong tâm
trạng đau khổ, giày vò. Giữa lúc ấy, Từ Hải xuất hiện như một vị cứu tinh giúp Kiều
thoát khỏi chốn lầu xanh đầy nhơ nhớp ấy. Nhưng tình yêu giữa Thúy Kiều và Từ
Hải vẫn không thể nào che khuất đi ước mơ gây dựng một sự nghiệp lớn lao ở con
người này. Đó chính là lí do mà khi mối tình của họ vừa chớm nở được "nửa năm"
thì Từ Hải đã tiếp tục lên đường với khát khao cháy bỏng gây dựng sự nghiệp của mình:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong
Mặc dù trong thời gian sáu tháng, tình yêu của họ luôn nồng nàn, cháy bỏng nhưng
với chí lớn và khát khao công danh nghiệp lớn Từ Hải thoắt đã "động lòng bốn
phương". "Lòng bốn phương" ở đây là hình ảnh tượng trưng, ước lệ cho chí nguyện
lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Hình ảnh "trời bể mênh mang" cũng mang ý
nghĩa tương tự như vậy. Chúng như một sự ước lệ tạo nên một tầm vóc lớn lao, phi
thường cho Từ Hải. Có thể nói tình yêu hay bất cứ một cái gì cũng không đủ sức để
ngăn cản được bước chân của chàng. Trong cả một tác phẩm dài, Nguyễn Du chỉ
dành duy nhất một từ "trượng phu" cho Từ Hải như thể khẳng định một chí khí lớn
ở chàng. Hình ảnh "thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong" diễn tả một phong
thái ung dung của người "trượng phu" trên con đường gây dựng sự nghiệp ấy.
Đối với Thúy Kiều, Từ Hải không chỉ như một người chồng mà còn như một vị ân
nhân có ơn vô cùng lớn đã cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh ô nhục. Vì vậy, trước
quyết tâm ra đi vì nghiệp lớn của chồng mình, Thúy Kiều đã xin đi theo để là người
chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chàng:
Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi
Nàng xin đi để được làm trọn chữ "tòng" vì theo nàng thì "xuất giá tòng phu" lấy
chồng thì phải theo chồng, nguyện cùng chồng gánh vác mọi chuyện.
Nhưng lời Từ Hải đã quyết, như để làm an lòng Thúy Kiều:
Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Trước lời xin đi theo của Thúy Kiều, Từ Hải như trách Kiều: "Sao chưa thoát khỏi
nữ nhi thường tình"', đó cũng như một lời khuyên Kiều đừng xem nặng quá vấn đề
"lấy chồng là phải theo chồng", hãy xem nhẹ chuyện tình cảm vì sự nghiệp lớn lao
của chồng. Với một quyết tâm, chí khí lớn lao, Từ Hải nói như hứa hẹn sẽ gây dựng
được một cơ đồ to lớn, nắm chắc trong tay "mười vạn tinh binh" và chàng sẽ trở về
để đón Kiều trong "tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời". Lúc thành công quay
trở lại cũng là lúc Từ Hải sẽ "rước nàng nghi gia", đem lại địa vị và danh phận cho
người mà chàng xem là tri âm tri kỉ. Những lời của Từ Hải vào khoảnh khắc tiễn
biệt này càng làm rõ "chí khí anh hùng" của nhân vật này, thay vì những lời nói thể
hiện sự bịn rịn, quyến luyến khi chia tay thì là những ước mơ, sự khẳng định nhất
định sẽ thành công của chàng.
Từ Hải còn thể hiện chí khí của mình ở việc cho rằng Thúy Kiều đi theo sẽ "càng
thêm bận" nhưng sâu thẳm bên trong là sự lo lắng cho Kiều khi đi theo sẽ phải chịu
cực khổ, nay đây mai đó "bốn bể không nhà":
Bằng ngay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Chàng còn dám khẳng định chắc chắn thời gian mà mình sẽ quay về đó là khoảng
thời gian một năm. Từ Hải khuyên Kiều ở nhà đợi chàng trở về trong sự chiến thắng vẻ vang, hiển hách:
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì.
Cách chia tay của Từ Hải rất khác biệt ở chỗ những lời chia tay được thay bằng
những lời hứa vào một chiến thắng không xa, sự quyến luyến được thay bằng một
quyết tâm vào tương lai.
Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi
Chàng dứt khoát ra đi với một quyết tâm sắt đá như cánh chim bằng khi đã cất cánh
tung bay trên bầu trời thì phải bay thật xa mới nghỉ cũng như Từ Hải khi đã chiến
thắng, thành công thì mới quay trở về.
Với đoạn trích "Chí khí anh hùng", Nguyễn Du đã xây dựng được một hình tượng
người anh hùng lí tưởng hoàn toàn mới. Có thể nói Nguyễn Du đã thực sự thành
công khi xây dựng hình tượng nhân vật này chính bằng tài năng nghệ thuật thể hiện
ở sự sáng tạo độc đáo và sự đam mê văn chương của mình.
Phân tích bài thơ Chí khí anh hùng - mẫu 5
Có một nhà thơ mà người Việt Nam không ai là không biết đến. Có một truyện thơ
mà hơn 200 năm qua không mấy người Việt Nam không thuộc vài câu hay vài đoạn.
Người ấy, thơ ấy đã từng được Tố Hữu ngợi ca:
“ Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”
Không ai khác đó chính là Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi
câu thơ đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp
bút. Đằng sau số phận cuộc đời nhân vật đều được gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo
sâu sắc. Đó là niềm trân trọng nâng niu ước mơ khát vọng con người. Đó là tiếng
nói lên án tố cáo những thế lực xấu xa đứng đằng đằng sau. Và hơn thế nữa nó phản
ảnh chân thực giấc mơ tự do công lí mà đoạn trích “Chí khí anh hùng” chính là tiêu
biểu nhất cho điều này.
Sau tháng ngày ân ái bên Thúc Sinh, Kiều lại một lần nữa sa thân vào chốn lầu xanh
nhơ nhớp, một lần nữa quay trở lại với Tú Bà để sống thân phận của người kĩ nữ
hèn mọn. Cứ tưởng rằng, cuộc đời nàng đã đặt một dấu chấm hết trong tối tăm và
đầy rẫy những bất hạnh. Thế nhưng, giữa cơn phong ba, Từ Hải bỗng dưng “vụt đến
như một ngôi sao lạ chiếu sáng một đoạn đời nàng” (Hoài Thanh). Chàng chuộc
Kiều ra, trả lại cho Kiều sự tự do xứng đáng. Hai người họ đến bên nhau với tấm
lòng của những bậc tri kỉ giữa “trai anh hùng’’ và “gái thuyền quyên”. Nhưng hạnh
phúc chưa được bao lâu, thì cái “thói vẫy vùng” của bậc giang hồ lại được dịp sục
sôi,cái khát khao dựng nên nghiệp lớn bỗng thúc dục mạnh mẽ bước chân người anh
hùng. Đoạn trích chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi. Khác với
Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đôi ba dòng
ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì
Nguyễn Du với bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai
gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình.
Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối
lập nhau. Một bên là không gian khuê phòng với “hương lửa đương nồng” với tình
cảm lứa đôi đầy những cám dỗ, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái
lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Đường đường là
đấng “trượng phu” Từ không một phút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái
đưa ra quyết định của chính mình. Chàng vốn sinh ra không phải là con người của
những đam mê thông thường mà là người của những sự nghiệp vĩ đại- sự nghiệp
của bậc anh hùng. Hiểu thấu được khát khao ấy, Nguyễn Du đã trân trọng gọi nhân
vật của mình bằng hai tiếng “trượng phu” – người đàn ông có trí lớn .Rõ ràng, hai
chữ này chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong truyện Kiều và dành riêng cho Từ.
Thứ tình cảm vợ chồng giản đơn đâu thể nào níu giữ bước chân người anh hùng
thêm nữa. Tiếng gọi của lí trí thúc dục chàng đi theo đuổi và thực hiện hoài bão của
cuộc đời. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một
khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa trí vẫy vùng với
những đam mê, lí tưởng. Hình ảnh cuối cùng “Thanh gươm yên ngựa lên đường
thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền
kì vĩ của không gian mà còn mở ra tâm thế nhân vật không hề có một chút nào là do
dự luôn hành động thật dứt khoát, quả quyết. Đến đây, ta chợt bắt gặp những điểm
tương đồng trong thơ Nguyễn Du với các nhà thơ cùng thời. Là hình ảnh chinh phu
oai hùng trước buổi ra trận:
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao” Hay như:
“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiêng theo việc binh đao
Dã nhà đeo bức chiến hào
Thét roi cầm vị ào ào gió thu”
(Chinh phu ngâm_ Đoàn Thị Điểm)
Cả Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm đều mượn hình ảnh vốn của thiên nhiên vũ trụ để
nâng cao tầm vóc, kích thước nhân vật anh hùng của mình. Thế nhưng, nếu “chí làm
trai” trong những câu thơ của “chinh phụ ngâm” là lập nên sự nghiệp là lưu danh,
lập công với núi sông thì với “chí anh hùng” lập nên sự nghiệp lại là để yên bề gia
thất. Có thể nói đúng như những lời nhận định của Hoài Thanh “Từ Hải hiện ra
trong bốn câu đầu không phải người của một nhà, một họ, một làng mà là người của
trời đất, của bốn phương…” chỉ bằng ngòi bút xuất thần của thi nhân cùng với cái
nhìn đầy trân trọng ngưỡng mộ dành cho nhân vật. Lời thơ tuy ít mà ý thơ thì trải ra đến vô cùng.
Lẽ thường, cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng những dùng dằng
chẳng nỡ của kẻ ở với người đi. Với Từ và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. Nàng
không muốn một thân một mình, giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo, nàng
một mực muốn được sẻ chia, được gánh vác sự nghiệp với Từ Hải. Lời lẽ nghe sao mà tha thiết thế:
Nàng rằng: “ Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cùng một lòng xin đi”
Kiều một lòng xin đi theo âu cũng là hợp tình hợp lí với đạo Nho truyền thống. Nho
giáo viết đã phận nữ nhi “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phụ tử tòng tử”. Thế
nhưng, trái với những mong mỏi của nàng, Từ ngay lập tức đáp lại:
Từ rằng: “Tam phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”
Mới nghe qua thì cứ nghĩ là một lời trách cứ nhưng đằng sau đó lại là lời động viên
người tri kỉ của mình biết vượt lên những tình cảm thông thường để sánh cùng trí
lớn của người anh hùng. Vì vậy, sau này khi nói về nỗi nhớ nhung da diết của Thúy
Kiều dành cho Từ Hải, Nguyễn Du viết:
“Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”
Nàng hướng con mắt về phương trời xa không chỉ để tìm kiếm một dáng hình thân
thuộc khi xưa, đó còn là sự ngóng đợi vào sự nghiệp lớn lao mà Từ Hải đã dốc lòng dựng xây:
“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng cây rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”
Ngày chàng hoàn thành xong nghiệp lớn cũng sẽ chính là ngày chàng trở về đón
nàng trong tư cách là một người chủ tướng chỉ huy mười vạn tinh binh với chiêng
chống dậy đất, cờ quạt dậy đường. Những lời thốt lên từ người anh hùng không hề
mang tính chất khoa trương mà đầy quả quyết chắc chắn thể hiện sự tự tin tuyệt đối
của nhân vật vào cơ đồ mà mình tạo dựng. Niềm tin mãnh liệt của Từ truyền sang
cho Kiều và lan tỏa ra khắp tất thấy bạn đọc.
Đoạn trích kết lại với hai câu thơ gây ấn tượng sâu đậm bở hình ảnh ước lệ:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”
Trong thơ ca trung đại cổ điển ,hành động “dứt áo ra đi” không phải là quá xa lạ, nó
mang tính chất lưu luyến bịn rịn chẳng nỡ rời xa. Thế nhưng, đặt trong đoạn trích và
đặt trong hình tượng Từ Hải thì đó lại thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán của bậc nam
nhi. Phải chăng vì thế mà Nguyễn Du đã không chút do dự nâng nhân vật của mình
lên, ví hình ảnh chàng lúc lên đường với hình ảnh chim bằng cất cánh bay vào muôn
trùng dặm khơi? Hình ảnh đó phần nào thể hiện cái nhìn lãng mạn và khát vọng
thoát khỏi thời đại mình- một tư tưởng tiến bộ vượt bậc so với những người đương thời.
Đoạn trích “Chí khí anh hùng” xây dựng hình tượng Từ Hải bằng bút pháp ước lệ
hóa kết hợp với lối ngôn ngữ giàu sức gợi đã khẳng định rõ phẩm chất cốt lõi của
người anh hùng không để tình cảm riêng rằng buộc chí lớn luôn luôn hành động đề
hướng tới sự nghiệp cao cả, vĩ đại. Nhờ đó mà nhân vật có một sức sống đậm sâu
trong lòng bạn đọc muôn đời.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - mẫu 6
Từ Hải “khách biên đình” oai phong lẫm liệt:
“Râu hùm hàm én mày ngài.
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.
Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, đã tái sinh cuộc đời nàng, nâng Kiều thành một mệnh phụ phu nhân:
“Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”.
Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó. Từ Hải đã giã biệt phu nhân để lên đường
chinh chiến quyết “rạch đôi sơn hà”:
“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bấn phương.
Trông vời trời bể mênh mang.
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Bức chân dung Từ Hải hiện lên trong cảnh giã biệt thật đẹp. Bốn phương trời xa vẫy
gọi, “thoắt đã động lòng” đấng trượng phu. Cuộc sống êm ấm gối chăn đầy hạnh
phúc “hương lửa đương nồng” cũng không thể níu giữ. Một cái nhìn vời vợi “trời bể
mênh mang”. Đó là cái nhìn mang tầm vũ trụ của một anh hùng chí lớn, như
Nguyễn Công Trứ từng thổ lộ:
“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”. (Chí anh hùng)
“Thoắt” nghĩa vụt chốc, diễn ra rất nhanh và bất ngờ. Thoắt đã thể hiện sự chấn
động vô cùng mạnh mẽ trong tâm hồn đấng trượng phu. Từ Hải đã ra đi với khát
vọng lập nên sự nghiệp, bằng võ công của bậc tài trai:
“Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Kiều đã coi chữ “tòng” làm trọng; tòng phu là một trong đạo tam tòng của người
phụ nữ ngày xưa. Đó cũng là một nét đẹp đạo đức Thuý Kiều:
“Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”
Từ Hải đã nói với Kiểu bao lời tình nghĩa. Không thể đế cho giọt nước mắt. tiếng
thở dài của người vợ đẹp níu giữ. Từ Hải khuyên Kiều hay khẽ nhắc mình: “Sao
chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”. Hứa với Kiều về một ngày mai huy hoàng,
một ngày mai sum vầy hạnh phúc:
“Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ra sẽ rước nàng nghi gia”.
Đó là lời hứa danh dự của một đấng trượng phu phi thường. Có tin vào chí khí và
sức mạnh “rạch đôi sơn hà” của đáng tài trai “đội trời đạp đất” mới có lời hứa như
dao chém đá ấy. Với Từ Hải, bốn phương vẫy gọi là chiến công đang chờ đón, là
một ngày mai hiển hách có một lực lượng hùng hậu “mười vạn tinh binh", "huyện
thành đạp đổ năm toà cõi nam”. Thời gian đợi chờ mà Từ Hải an ủi Kiều cũng là một lời hứa:
“Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Hình ảnh cánh chim bằng bay vút muôn dặm khơi là hình ảnh người anh hùng mang
chí lớn tung hoành vẫy vùng trong bốn bể:
“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.
Đọc “Truyện Kiều”, ta bắt gặp hình ảnh Từ Hải đã trở lại Lâm Tri sau một nam trời
giã biệt. Trong cảnh “Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân”. Từ Công hỏi phu nhân:
“Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
Anh hùng mới biết anh hùng.
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?”.
Qua đoạn thơ 18 câu này (từ câu 2213 - 2230), nhân vật Từ Hải đã được Nguyễn Du
miêu tả với tấm lòng quý mến ngợi ca về chí khí anh hùng và khát vọng sự nghiệp
phi thường. Từ Hải là một nhân vật anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp trong “Truyện
Kiều” của thi hào Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - mẫu 7
Truyện Kiều là một trong những kiệt tác để đời trong nền văn học Việt Nam của
Nguyễn Du. Với tài và tâm của mình, Nguyễn du vận dụng sáng tạo ngôn ngữ, nghệ
thuật và sự thấu hiểu cảm thông tái hiện cuộc đời đầy sóng gió của Thúy Kiều và
những mối tình nàng trải qua với bao đau khổ. Trong đó có anh hùng Từ Hải được
khắc họa qua đoạn trích Chí Khí Anh Hùng.
Thúy Kiều sống trong cảnh nhơ nhớp lầu xanh, nhưng may mắn mỉm cười với nàng
khi nàng gặp Từ Hải, được vị anh hùng chuộc khỏi chốn lầu xanh và cưới làm vợ.
Sau nửa năm lửa đượm hương nồng, Từ Hải muốn tạo dựng cho mình sự nghiệp lớn
nên đã từ biệt Thúy Kiều và hình ảnh người anh hùng lúc lên đường được tái hiện trong bốn câu đầu:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Như chúng ta biết “anh hùng” là người trong bụng có chí lớn,có mưu cao, có tài bao
trùm cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia. Và khi chàng dứt khoát ra đi để lại tình
riêng “nửa năm hương lửa đương nồng”, những hạnh phúc vợ chồng giản dị, riêng
tư, mang đi trong mình chí hướng bốn phương , quyết hướng đến sự nghiệp lí tưởng
lớn lao cao cả. Dường như ý chí đó trở thành bản năng của người anh hùng không
thể ngăn cản nổi. Người anh hùng ấy với tư thế đối diện với trời bể mênh mang, làm
chủ mọi thứ, oai phong lẫm liệt “thanh gươm yên ngựa”, mạnh mẽ và dứt khoát.
Khi nhìn bóng dáng Từ Hải ta lại nhớ đến hình ảnh người chinh phu:
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
Quả thật Từ Hải là một người anh hùng phi chí hướng bốn phương, chẳng thể giam
mình nơi nắng không đến đầu mưa không đến mặt, một không gian chật hẹp. Mà chỉ
có thể lên đường mới giải phóng được con người anh hùng ấy.
Trong cảnh tiễn biệt Từ Hải, tác giả ngụ ý để cho Từ Hải sẵn sàng trên yên ngựa và
thanh kiếm bên mình, mới để Kiều và Từ Hải nói lời từ biệt. Biết rằng chồng mình
tung hoành tứ phương, sống trong cảnh màn trời chiếu đất nhưng Thúy Kiều vẫn
một lòng theo cùng, luôn muốn chia sẻ nỗi lo, tâm trạng, gánh vác cùng chàng
những mệt nhọc mà phận làm thê nên làm. Thúy Kiều thuyết phục Từ Hải bằng đạo
phu thê xưa cùng với tình cảm chân thành thể hiện sự thấu tình đạt lí, trong nghĩa
trọng tình. Nhưng Từ Hải- đấng anh hùng lại nhẹ nhàng nói với Kiều bằng đạo tri âm:
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì
Lời thuyết phúc của Từ Hải “tâm phúc tương tri” thể hiện sự tôn trọng Kiều, mong
muốn nàng hiểu mình và khéo léo từ chối không để nàng phải chịu khổ bên mình.
Với trí tuệ sáng suốt và một trái tim nhân hậu tấm lòng bao la , Từ Hải luôn muốn
có một chiến công oanh liệt, đem đến niềm tin, tình yêu và sự trân trọng cho Thúy
Kiều. Làm nên sự nghiệp cũng là lúc Từ Hải đạt được hạnh phúc mà chàng luôn
hướng tới, một hạnh phúc tràn đầy cả về sự nghiệp lẫn tình yêu và đó là hạnh phúc
xứng đáng với một người anh hùng.
Từ Hải trước đây cũng vậy, bây giờ mà mãi về sau vẫn mang trong mình sự tự tin sẽ
làm chủ được tất cả. Chỉ vỏn vẹn thanh gươm yên ngựa cùng chí khí ngút trời
nhưng Từ Hải tin rằng sẽ có trong tay “mười vạn tinh binh” về trong tiếng “chiêng
dậy đất “ mang lại vẻ vang và hạnh phúc cho người con gái chàng hết mực thương
yêu với lời hứa chắc nịch “năm sau” tạo thêm niềm tin vững chắc cho Thúy Kiều.
tất cả mọi thứ toát ra từ Từ Hải: chí khí, tư thế, hành động , tài năng đều mang một
vẻ phi thường. Chính điều đó làm cho tác giả tôn trọng, ngưỡng mộ gọi chàng là
“trượng phu, mặt phi thường”, đặt nhân vật anh hùng trong một không gian đất trời
rông lớn bao la, hết mực ngợi ca.
Từ Hải trong đoạn trích Chí Khí Anh Hùng thể hiện lí tưởng anh hùng của Nguyễn
Du: phải chiến thắng cái bình thường, tầm thường để hướng tới cái phi thường, phải
có những phẩm chất siêu phàm để trở thành một con người lí tưởng, hình mẫu được
dựng lên cho ngàn đời sau.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - mẫu 8
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc ta, nhắc tới thành công của ông thì không ai
có thể không nhắc tới tuyệt tác Truyện Kiều. Đây là một tác phẩm chứa đựng giá trị
nhân đạo sâu sắc và trở thành đề tài bàn luận, nghiên cứu chưa bao giờ ngừng nghỉ.
Trong tuyệt tác ấy ngoài nói về nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều thì nhân vật để lại
nhiều dấu ấn cho người đọc mặc dù xuất hiện trong đoạn ngắn đó chính là nhân vật
Từ Hải nằm ở đoạn trích Chí Khí Anh Hùng.
Như chúng ta đã biết, Thúy Kiều sau khi bị mắc bẫy rơi vào chốn lầu xanh chịu
nhiều đau khổ, tủi nhục. Khi ấy Từ Hải đã cứu nàng ra khỏi chốn đó vì nhận ra
phẩm chất cao quý của Kiều. Tình yêu giữa Từ Hải với Thúy Kiều không ngăn
được chí hướng xây dựng sự nghiệp. Chính vì thế nửa năm sau đó Từ Hải đã tiếp
tục lên đường gây dựng cơ đồ:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”
Được nửa năm, khi mà tình yêu và cuộc sống vợ chồng đương còn nồng nàn, cháy
bỏng nhưng lại không sao che khuất được bốn phương. Từ Hải sớm đã “động lòng
bốn phương” điều đó thể hiện cho chí lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Bằng
hình ảnh ước lệ “trời bể mênh mang” đã cho ta liên tưởng tới tầm vóc lớn lao và phi
thường, một người mà tình yêu, gia đình hay bất cứ thứ gì cũng không ngăn cản
được bước chân của chàng. Thêm vào đó hình ảnh gươm, ngựa “lên đường thẳng
rong” cho ta thấy được phong thái ung dung của Từ Hải.
Cảnh tiễn biệt của Thúy Kiều với Từ Hải được tác giả miêu tả khác hẳn với các
cảnh tiễn biệt khác đã có trong truyện như với Kim Trọng hay Thúy Kiều với Thúc
Sinh. Lúc này Từ Hải đã ở thế khác hẳn, trên yên ngựa, gươm đã sẵn sàng. Có thể
một mình ra đi, bốn bể là nhà, có thể là phiêu bạt nay đây mai đó nhưng vẫn không
hề nao núng. Thúy Kiều biết vậy nhưng vẫn xin theo để chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chồng:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”
Tam tòng tứ đức, Thúy kiều không xin gì hơn chỉ muốn được theo chồng, cùng
chồng gánh vác. Hơn nữa đây cũng không chỉ xuất phát từ chữ tòng trong “xuất giá
tòng phu” mà còn đối với Kiều thì Từ Hải không chỉ là một người chồng mà còn là
một vị ân nhân đã cứu nàng. Tuy nhiên xin là một chuyện mà thực tế Từ Hải đã quyết:
“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.”
Từ Hải trước lời cầu xin của Kiều thì bày tỏ lời trách móc khi Thúy Kiều mặc dù
phẩm cách hơn người nhưng “chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”, đồng thời cũng
khuyên nàng không phải quá đặt nặng việc “tòng phu”. Lời trách ngắn ngủi và sau
đó là lời hứa hẹn với Kiều rằng khi nào xây dựng được cơ đồ, có trong tay mười vạn
tinh binh thì chàng sẽ đón nàng về dinh, đem lại cho nàng không chỉ danh phận mà còn cả địa vị.
Có thể thấy đây là khoảnh khắc thể hiện sâu sắc nhất chí khí của người anh hùng Từ
Hải. Chàng không phải là người lụy tình, không vướng mắc mấy chuyện nữ nhi
thường tình mà rất quyết đoán cho hành động của mình. Thay vì quyến luyến, bịn
rịn lúc tiễn biệt, thay vì nói lời yêu thương, nhung nhớ thì Từ Hải đã khẳng định sự
thành công của mình trên con đường công danh. Tuy nhiên mặc dù cứng rắn như
vậy nhưng chàng vẫn kín đáo thể hiện sự quan tâm, lo lắng của mình dành cho Thúy Kiều:
“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”
Biết trước rằng con đường mình đi “bốn bể không nhà”, có khi màn trời chiếu đất
nhưng chàng vẫn quyết tâm đi và dùng nó làm lý do để khuyên Kiều ở nhà. Bởi
chàng cho rằng nàng theo thì “càng thêm bận”. Qua đó cũng cho thấy sự lo lắng nếu
Thúy Kiều theo sẽ phải chịu khổ cực. Sau lời lẽ quan tâm ấy là lời khẳng định về
thời gian, một lời hứa quyết tâm thực hiện cơ đồ trong vòng một năm của Từ Hải để
Thúy Kiều yên lòng ở lại vì sẽ không phải chờ đợi quá lâu. Cuối cùng đoạn trích
cũng là là sự lựa chọn dứt khoái của Từ Hải:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”
Sự quyết tâm của Từ Hải đã được đẩy lên cao nhất và không có gì có thể ngăn cản
được. Qua đó ta thấy được anh hùng Từ Hải được Nguyễn Du miêu tả rất sâu sắc và
sáng tạo. Từ Hải là nhân vật để Nguyễn Du gửi gắm tâm tư, tình cảm, ước mơ công
lí trong hoàn cảnh xã hội đương còn tù túng. Đoạn trích góp phần tô đậm hình ảnh,
tính cách của nhân vật, một nhân vật lí tưởng, mẫu người cao đẹp trong kiệt tác Truyện Kiều.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - mẫu 9
Nguyễn Du là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, được mệnh danh là
đại thi hào, trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại nhiều tác
phẩm hay và có giá trị, nổi bật nhất có thể kể đến đó chính là đại kiệt tác Truyện
Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng là một trong những đoạn trích khá tiêu biểu,
Nguyễn Du đã miêu tả chân dung cũng như khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của
người anh hùng Từ Hải.
Trong đoạn trích Chí khí anh hùng, tác giả Nguyễn Du đã tập trung miêu tả và làm
nổi bật lên vẻ đẹp ý chí và phẩm chất của Từ Hải. So với nhân vật Từ Hải trong tiểu
thuyết Kim Vân Kiều truyện thì nhân vật Từ Hải của Nguyễn Du hoàn toàn khác, đó
không phải một tên tướng cướp như nguyên mẫu mà là một người anh hùng đầu đội
trời, chân đạp đất có bản lĩnh và ý chí phi thường. Cảm hứng ca ngợi cùng bút pháp
ước lệ tượng trưng khiến cho nhân vật Từ Hải hiện lên lớn lao, kì vĩ, mang đầy đủ
phẩm chất của người những người anh hùng xưa.
Khi Thúy Kiều đang tuyệt vọng, chìm đắm trong cuộc sống đau khổ, ê chề nơi lầu
xanh thì Từ Hải đã xuất hiện và cứu nàng ra khỏi chốn tửu sắc đầy thị phi ấy. Nhờ
có Từ Hải mà Thúy Kiều được báo ân báo oán, được hưởng hạnh phúc vợ chồng
như những người phụ nữ bình thường khác. Tuy cuộc sống vợ chồng hạnh phúc
nhưng vẫn không thể che khuất được khát vọng lập thân to lớn của Từ Hải. Vì vậy
mà dù không đành lòng nhưng Từ Hải vẫn phải để Thúy Kiều ở lại còn bản thân
mình thì ra đi thực hiện hoài bão:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”
Thúy Kiều và Từ Hải đã có nửa năm bên nhau, cuộc sống êm ấm, hạnh phúc nhưng
với hoài bão lớn của người anh hùng, Từ Hải đã “động lòng bốn phương”. Cách sử
dụng từ ngữ đầy tính ước lệ đã làm nổi bật lên khát vọng lập công danh, sự nghiệp
của Từ Hải. Dù yêu thương, trân trọng tình yêu với Thúy Kiều nhưng khát vọng anh
hùng đã không cho phép Từ Hải lùi bước, tương lai, sự nghiệp phía trước “mênh
mang” chưa xác định nhưng với bản lĩnh kiên cường, khát vọng lớn lao ấy hình ảnh
ra đi của Từ Hải đẹp đẽ như những bậc trượng phu xưa.
Đối với Thúy Kiều mà nói, Từ Hải không chỉ là người chồng mà nàng thương yêu,
trân trọng mà đó còn là người mà nàng mang ơn, chính Từ Hải đã cứu nàng ra khỏi
chốn lầu xanh. Trước quyết định ra đi của Từ Hải, nàng biết không thể ngăn cản
nhưng cũng không đành lòng để chàng ra đi đơn độc, Thúy Kiều đã bày tỏ mong
muốn được đi theo để chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chàng:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”
Thúy Kiều đề cao quan niệm “xuất giá tòng phu” của đạo đức Nho giáo xưa, nàng
muốn được đi theo để tiện bề chăm sóc cũng như giúp đỡ cho Từ Hải. Trước yêu
cầu đầy chân thành của Thúy Kiều, Từ Hải đã rất cảm động nhưng cuối cùng chàng
không đồng ý vì sợ Thúy Kiều thân con gái đi theo sẽ phải chịu khổ. Như để an ủi
nàng, Từ Hải đã hứa hẹn bao giờ lập lên sự nghiệp lớn sẽ rước nàng “nghi gia”:
“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”
Theo Từ Hải, Thúy Kiều chưa thoát khói thói nữ nhi thường tình đồng thời đó cũng
là lời động viên để nàng không phải lo lắng khi mình lên đường thực hiện nghiệp
lớn. Là một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất, Từ Hải quyết tâm ra đi gây
dựng nghiệp lớn để có thể nắm trong tay “mười vạn tinh binh”. Và khi sự nghiệp đã
thành, chàng sẽ trở về để đón Kiều nghi gia trong “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời”.
Qua những lời đối thoại của Từ Hải với Thúy Kiều trước lúc ra đi đã thể hiện được
chí khí lớn lao của người anh hùng mang trong mình khát vọng lớn. Tuy nói Thúy
Kiều đi theo sẽ thêm vướng bận nhưng thật ra nguyên nhân chính Từ Hải không
muốn Thúy Kiều đi theo là vì không muốn nàng phải chịu khổ, sợ nàng không thể
thích ứng được với cuộc sống bốn bể là nhà:
“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu”
Để Thúy Kiều có thể yên tâm hơn, Từ Hải đã khẳng định thời gian mà mình ra đi là
một năm, Từ Hải đã động viên Thúy Kiều về một tương lai chiến thắng, chàng sẽ
trở về trong sự hiển hách, vinh quang:
“Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì.”
Cuộc chia tay giữa Từ Hải cũng thật khác lạ, đó không phải là những lời tâm tình nỉ
non mà lại là những lời hứa hẹn về một tương lai tất thắng, qua đó ta có thể thấy
được những phẩm chất trượng phu trong con người của Từ Hải, đó là con người
dùng hành động để thể hiện tình cảm với người mình yêu.
Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã xây dựng thành công hình tượng người anh hùng
đầu đội trời chân đạp đất Từ Hải, đó không chỉ là một con người giàu tình cảm mà
còn là một người anh hùng có khát vọng lớn cùng ý chí, quyết tâm đầy mạnh mẽ, quyết liệt.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - mẫu 10
Truyện Kiều một trong những kiệt tác của Nguyễn Du nói riêng và văn học Việt
Nam nói chung. Tác phẩm không chỉ cho người đọc thấy số phận bi thương, gặp
nhiều oan trái của nàng Kiều. Trong hành trình mười lăm năm lưu lạc Kiều đã gặp
biết bao nhiêu chuyện, bao nhiêu người, nhưng người duy nhất yêu thương và bảo
vệ được nàng chính là Từ Hải. Vẻ đẹp của nhân vật Từ Hải đã được kết tinh trong
đoạn trích “Chí khí anh hùng”.
Trải qua nhiều sóng gió, Thúy Kiều đã gặp được Từ Hải – người anh hùng cái thế
“đầu đội trời, chân đạp đất” lúc bấy giờ. Gặp được Thúy Kiều, Từ Hải vô cùng quý
trọng nàng, và đã ngỏ ý với Kiều: “Một lời đã biết đến ta/ Muôn chung nghìn tứ
cũng là có nhau/ Ngỏ lời nói với văn nhân/ Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn”.
Thúy Kiều trở về chung sống cùng Từ Hải, cuộc sống gia đình vô cùng hạnh phúc,
yên ấm. Nhưng chỉ được nửa năm, Từ Hải động lòng bốn phương quyết tâm lên
đường lập sự nghiệp phi thường. Bài thơ mở ra bằng câu thơ:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Cuộc sống hôn nhân của họ mới bắt đầu hình thành, đây đồng thời cũng là giai đoạn
vợ chồng yêu thương nồng nàn và thắm thiết nhất trong cuộc sống hôn nhân. Nếu
như những người bình thường chắc chắn sẽ thỏa nguyện, bằng lòng trong hoàn cảnh
hạnh phúc ngập đầy như vậy. Nhưng Từ Hải lại là một người hoàn toàn khác, chàng
là một người phi thường ngay từ vẻ bề ngoài: “Râu hùm hàm én mày ngài/ Vai năm
tấc rộng, thân mười thước cao”. Và khác thường trong cả tài trí: “Côn quyền hơn
sức, lược thao gồm tài”. Từ Hải hơn hẳn người khác cả về sức mạnh và trí tuệ, bởi
vậy, chàng không bằng lòng với cuộc sống êm đềm hiện tại, Từ Hải quyết tâm ra đi.
Lòng bốn phương ở đây có thể hiểu là ý chí lập công danh, sự nghiệp của kẻ làm
trai trong xã hội phong kiến. Trong xã hội phong kiến, làm trai phải lập nên sự
nghiệp lớn và để lại tiếng thơm muôn đời. Bốn phương là nam bắc đông tây, còn có
nghĩa là thiên hạ, thế giới. Đồng thời bốn phương cũng thể hiện ý chí tung hoành
ngang dọc của kẻ làm trai: “Chí làm trai Nam Bắc Tây Đông/ Cho phỉ sức vẫy vùng
trong bốn biển”. Nguyễn Du đã sử dụng rất tài tình từ “thoắt” nó cho thấy ý chí,
lòng quyết tâm thức dậy nhanh chóng và khi lòng quyết tâm đó đã được xác lập thì
ngay lập tức phải thực hiện. Đó là hành động mạnh mẽ, dứt khoát của người kẻ có
hùng tâm tráng chí ôm trùm thiên hạ.
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong
Hành động của Từ Hải hết sức dứt khoát, không chút lưu luyến, bịn rịn: thẳng rong
– đi liền một mạch. Chàng ra đi trong tâm thế ung dung, tự tại, đó là khí phách của
một người trượng phu. Sự ra đi dứt khoát còn được thể hiện trong đoạn đối thoại với
Thúy Kiều: Nàng rằng phận gái chữ tòng/ Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Trước quyết tâm ra đi của Từ Hải, nàng bày tỏ ước nguyện để được đi theo Từ Hải,
đó cùng là thực hiện trọn đạo tam tòng “xuất giá tòng phu”. Đây là nguyện ước
hoàn toàn chính đáng, đi cùng để đỡ đần cho chồng, để cùng chung vai gánh vác,
chia sẻ những khó khăn. Nhưng ngược lại Từ Hải trách Thúy Kiều: “Từ rằng: tâm
phúc tương tri/ Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”.
Từ Hải trách Kiều vẫn chưa thoát khỏi những thói thường của nữ nhi, nhưng trách
ấy cũng là lời động viên nàng hãy vượt lên những tình cảm ấy để xứng đáng là tâm
phúc tương tri của Từ Hải. Đằng sau câu thơ cho thấy sự tự tin của Từ Hải khi đặt
mình lên trên thiên hạ nên yêu cầu người đầu gối tay ấp với mình cũng phải hơn
những người phụ nữ bình thường khác.
Trước khi đi, Từ Hải còn đưa ra lời hẹn ước với Thúy Kiều: “Bao giờ mười vạn tinh
binh/ Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường/ Làm ra rõ mặt phi thường/ Bấy
giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”. Câu thơ được Từ Hải sử dụng số từ chỉ số lượng
nhiều: mười vạn, động từ mạnh: dậy đất, rợp đường. Cho thấy tương lai huy hoàng
chỉ cần sau một năm có thể làm nên sự nghiệp lớn để rước Thúy Kiều về với cuộc
sống vinh hiển hạnh phúc. Lời nói vừa là lời động viên Kiều, vừa cho thấy sự bản
lĩnh, tự tin của Từ Hải, chàng ý thức sâu sắc tài năng, năng lực của bản thân. Ngoài
ra, Từ Hải còn an ủi vợ: “Bằng nay bốn biển không nhà/ Theo càng thêm bận biết là
đi đâu”. Trong sự an ủi có sự lo lắng, giải thích để Thúy Kiều an lòng ở lại.
Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi. Không gian mở ra vô
cùng rộng rãi, khoáng đạt xứng với tầm vóc vĩ đại, với tráng chí bốn phương của Từ
Hải. Câu thơ đã thể hiện hiện chí lớn của người anh hùng: khao khát được vẫy vùng,
tung hoành giữa trời đất cao rộng giống như lời giới thiệu của Nguyễn Du “Đội trời
đạp đất ở đời”. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi: tái hiện hình ảnh người anh hùng
Từ Hải: chim bằng tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng tạo nên sự
nghiệp lớn. Chim bằng bay lên cùng gió mây chính là hình ảnh người anh hùng Từ
Hải trong giây phút lên đường.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc là yếu tố tạo nên thành công của tác phẩm.
Từ Hải là hình tượng mang tính ước lệ được thể hiện qua hình ảnh, qua các hành
động cử chỉ. Từ Hải là con người sánh ngang tầm vũ trụ, mang trong mình hùng tâm tráng trí lớn lao.
Đoạn trích Chí khí anh hùng đã khắc họa thành công hình tượng Từ Hải với phẩm
chất và chí khí lớn lao của người anh hùng. Từ Hải mang trong mình khát vọng lớn
làm nên sự nghiệp vĩ đại. Qua nhân vật này, Nguyễn Du cũng gửi gắm mơ ước về tự
do, công lí trong xã hội cũ.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - mẫu 11
Hội ngộ – rồi chia li đó là hai mặt của một quá trình. Nó là qui luật tự nhiên trong
đời sống con người và cũng như là qui luật tình cảm riêng tư khó nói thành lời.
Chẳng thế mà chia li đã trở thành đề tài, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ,
nhà văn đi vào khai thác sao. Từ trong câu ca dao quen thuộc: Vầng trăng ai xẻ làm
đôi; Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng đến vầng trăng ai xẻ làm đôi; Nửa in
gối chiếc, nửa soi dặm trường (Truyện Kiều – Nguyễn Du) và ngay cả Cuộc chia li
màu đỏ (Nguyễn Mĩ). Ta vẫn bắt gặp những giọt nước long lanh, nóng bỏng, sáng
ngời của kẻ ở – người đi. Nhưng có một cuộc chia li làm bạn đọc ấn tượng bởi Chí
khí anh hùng, tràn đầy niềm tin lạc quan, tươi sáng chứ không như:
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san.
Đó là cuộc chia li của Từ Hải với Thuý Kiều để lên đường đi khởi nghĩa. Đoạn Chí
khí anh hùng (Trích Thuý Kiều) thuộc phần gia biến và lưu lạc trên đoạn trường
mười lăm năm. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thuý Kiều được gặp Từ Hải, người
anh hùng rồi đây sẽ cứu vớt nàng ra khỏi cuộc đời thanh lâu đau khổ. Người mà đại
diện cho lí tưởng, đạo lí công bằng mà Nguyễn Du gửi gắm khi xây dựng trong tác
phẩm. Người mà Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng, tình cảm, khối mâu thuẫn khó giải
quyết bằng lời của tác giả.
Sau cuộc gặp gỡ đặc biệt, trong hoàn cảnh cũng rất đặc biệt, Thuý Kiều – Từ Hải đã
tìm thấy sự hòa hợp về tâm hồn của nhau, ở họ vừa có sự thấu hiểu chân thành vừa
có sự đồng cảm cho nhau. Hai khoảng trống về tâm hồn đã được lấp đầy, san sẻ cho
nhau bằng tình yêu. Sự tương xứng ấy tạo nên một kết thúc có hậu của miền cổ tích khi:
Trai anh hùng gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.
Trước khi đi vào tìm hiểu đoạn trích, ta hãy hiểu xem con người này có gì đặc biệt
mà Nguyễn Du dành nhiều ưu đãi khi xây dựng Từ Hải là người anh hùng lí tưởng.
Một ngựa, một gươm – Từ Hải đã vung lên lưỡi gươm công lí cứu vớt những con
người khốn khổ, và chắp .cánh cho ước mơ hoài bão của họ bay cao, bay xa mãi. Sự
xuất hiện một nhân vật mới trên chặng đường số phận của Thuý Kiều lần này mang
một ý nghĩa giá trị nghệ thuật đặc biệt. Hình tượng Từ Hải không chỉ phản ánh một
quan niệm mới mẻ, tự do về quan hệ luyến ái nam nữ:
Một đời được mấy anh hùng
Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi
Chính là lời nói giản dị, chân thành, trân trọng Thuý Kiều của Từ Hải đã là lời tỏ
tình tế nhị kín đáo mà phá vỡ khoảng cách vốn rất dễ xuất hiện giữa nhân vật anh
hùng với con người bình thường như Kiều. Có thể nói rằng Nguyễn Du thật có biệt
tài xây dựng, khắc họa tính cách từng nhân vật một cách đậm nét là rõ ràng. Đặc
biệt là nhân vật Từ Hải. Hơn bất cứ những hình tượng nào khác trong tác phẩm, Từ
Hải phản ánh khát vọng tự do một khuynh hướng tự do không chỉ vượt khỏi lễ giáo,
đạo đức chính thống mà còn là một người nổi loạn đối lập với trật tự chính trị phong kiến.
Hình tượng Từ Hải – con người đã san phẳng bất bình, bênh vực người bị áp bức
bằng nghĩa khí và tài năng cá nhân – tạo nên nội dung phong phú sâu sắc của
Truyện Kiều. Từ Hải dường như đã bẻ gãy xiềng xích mà xã hội phong kiến trói
buộc con người, chàng phủ định chính quyền nhà vua, và đối với chàng tự do cao hơn hết thảy:
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!
Với khí thế ngang tàng của sự tự do, không phải là cảnh:
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Mà lại cái tư thế hiên ngang giữa đất trời, thỏa chí anh hùng:
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
Hình ảnh cây cung và thanh kiếm đã tạo nên một nét mới trong tính cách của Từ
Hải. Cũng như Kim Trọng, Từ Hải cũng có một tâm hồn cao thượng và đượm chất
thơ. Nhưng khác với các nhân vật trong tác phẩm Từ Hải còn làm độc giả say mê
bởi cái cốt cách của một kẻ ngang tàng, hào phóng. Nguyễn Du xây dựng Từ Hải là
nhân vật lí tưởng có cốt cách phi thường, nhưng đứng trước Kiều "Tấm lòng nhi nữ
cũng xiêu anh hùng". Tuy nhiên chàng luôn đứng trên lập trường và lợi ích của
cộng đồng, tình cảm và lí tưởng của chàng luôn thống nhất chứ không đồng nhất. Vì vậy mà:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương,
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong.
Sống trong hạnh phúc yêu thương, khi hơi ấm tình cảm vợ chồng ở độ mặn nồng,
đằm thắm. Từ Hải vẫn không quên sự nghiệp lớn, chí làm trai mà theo như Nguyễn Công Trứ:
Chí làm trai nam bắc tây đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
Điểm này ở Từ Hải đã cho thấy sự phù hợp trong tính cách của chàng đó là đội trời
đạp đất ở đời. Tư thế ra đi của Từ Hải dứt khoát, không có chút lưu luyến – bịn rịn
như Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, không có lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Mà ở
đoạn trích chí khí anh hùng (Truyện Kiều – Nguyễn Du), người Trượng phu mang
trong mình tầm vóc lớn lao của thời đại giao cho, đối lập với một không gian bao la;
trông vời trời bể mênh mang là tầm vóc của người anh hùng: Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong.
Chỉ mới bốn câu thơ thôi Nguyễn Du đã khắc họa một nhân vật, người anh hùng
bằng xương bằng thịt. Bởi miêu tả là người anh hùng cho nên ngôn ngữ của Nguyễn
Du là sự kính phục, trân trọng. Cách miêu tả cũng khác, không gian, thời gian được
mở rộng để phù hợp với khí phách của nhân vật chăng? Người anh hùng ra đi không
muốn vướng bận nữ nhi, không chút mềm yếu trước lời nói của thê tử.
Nàng rằng: phận gái chữ tòng.
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Thuý Kiều là người sâu sắc đến mấy cũng không thoát khỏi chuyện phu – thê quyến
luyến. Nàng chỉ muốn theo Từ Hải đi để làm tròn bổn phận làm vợ của mình, mà
không nghĩ đến việc lớn của chàng. Vì thế Từ Hải đã trách khéo nàng tâm phúc
tương tư tức là hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc như thế, cần
gì phải quan tâm đến chuyện nghĩa theo chồng như đạo Nho bắt làm. Sau đó chàng
động viên Thuý Kiều ở nhà yên tấm đợi tin vui:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chuông dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Còn bây giờ giữa trời đất bao la bốn bể không nhà, nàng mà đi theo chỉ làm bận tâm
thêm, huống chi chưa biết rõ là đi đâu. Vì vậy nàng hãy dằn lòng chờ đợi chỉ một
hai năm vội gì. Thế rồi chàng:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
Hình con chim bằng được lấy từ điển tích từ truyện ngụ ngôn kể rằng chim bằng là
một giống chim rất lớn, đập cách làm động nước trong ba ngàn dặm, cho những
người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn
Du đã ví Từ Hải như là con chim bằng đã đến lúc tung cánh bay lên cùng gió mây.
Cuộc sống của một con người luôn khao khát không trung, tự do thỏa chí vẫy vùng,
không bao giờ chịu sống trong cảnh tù túng, gò bó một không gian nhỏ bé thường
ngày của người bình thường.
Khi miêu tả người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và cử chỉ
ngôn ngữ mang ý nghĩa mạnh mẽ, dứt khoát như: thoắt đã, thẳng giong, sao chưa
thoát khỏi, dậy đất, phi thường, vội gì, quyết lời dứt áo ra đi, đã lìa... Ngoài ra thêm
các từ chữ Hán để bộc lộ tư tưởng tình cảm của tác giả, rồi dung điển cố, điển tích...
và cả xây dựng thời gian, không gian mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang, bằng tiện...
Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vật Từ Hải dường như xuất hiện
từ một giấc mơ, từ một giấc mơ hùng vĩ về chính phía mà hàng triệu người khốn
khổ áp bức hằng ôm ấp. Vì vậy, mà khi xây dựng, Nguyễn Du đã có những sáng tạo
các phương thức nghệ thuật riêng, để biểu đạt khát vọng của mình và của thời đại
Nguyễn Du sống – khát vọng về sự tự do, công bằng lẽ phải. Từ một cuộc chia li mà
nói lên được toàn bộ chí khí anh hùng của Từ Hải.
Bài tham khảo mẫu 12
Truyện Kiều là kiệt tác trong sáng tác của Nguyễn Du, cũng là một trong những tác
phẩm làm nên sự hưng thịnh văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế
kỉ XIX. Qua Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du không chỉ thể hiện sự đồng cảm,
xót xa với cuộc đời truân chuyên của nàng Kiều mà còn gửi gắm ước mơ về người
anh hùng có thể cứu dân, dẹp loạn thông qua hình tượng Từ Hải. Trong đoạn trích
“Chí khí anh hùng”, nhân vật Từ Hải xuất hiện nổi bật với những phẩm chất phi
thường và khát vọng cao đẹp của người anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”.
Trải qua bao biến cố của cuộc đời, những tưởng cuộc đời Thúy Kiều mãi bị vùi dập
trong những đau đớn, ê chề thì Từ Hải đã xuất hiện, mang theo ánh sáng hi vọng
cho cuộc đời nàng. Có thể nói gặp gỡ và nên duyên cùng với Từ Hải là hạnh phúc
hiếm hoi trong cuộc đời của Thúy Kiều. Tuy nhiên, cuộc sống hạnh phúc với nàng
Kiều cũng không thể làm nguôi đi chí lớn của người anh hùng:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”
Sau nửa năm chung sống hạnh phúc với nàng Kiều, Từ Hải đã quyết định ra đi để
thực hiện nghiệp lớn. Từ Hải vốn là người người anh hùng đầu đội trời, chân đạp
đất với khát vọng tung hoành khắp muôn phương “nghênh ngang một cõi biên thùy”.
Vì vậy dù đang sống trong những ngày hạnh phúc nhất cuộc đời cùng người mà
mình yêu thương, trân trọng thì người anh hùng ấy cũng không thể quên đi chí lớn
của người làm trai “Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”.
Tư thế ra đi của Từ Hải được tác giả Nguyễn Du tái hiện qua một động từ “thoắt”
thể hiện sự mau lẹ, dứt khoát của người trượng phu. “Trời bể mênh mang” không
chỉ là hình ảnh ước lệ thể hiện sự rộng lớn trời đất, nơi người anh hùng thỏa sức
tung hoành ngang dọc mà còn gợi ra tầm vóc lớn lao, phi thường của người anh
hùng. Hình ảnh gươm ngựa “lên đường thẳng rong” góp phần làm nổi bật lên phong
thái ung dung, tư thế đĩnh đạc, hiên ngang của Từ Hải.
Thấu hiểu khát vọng và quyết tâm của Từ Hải, Kiều không ngăn cản mà bày tỏ
nguyện vọng muốn đi theo để tiện bề chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chồng:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”
Thúy Kiều muốn đi theo Từ Hải để cùng sẻ chia, gánh vác làm trọn đạo “tam tòng
chữ đức” của một người vợ và làm trọn tình nghĩa với một người tri kỉ, một người
ân nhân có công cứu mạng. Tuy cảm động trước tấm lòng của nàng Kiều nhưng Từ
Hải đã quyết chí ra đi mà không muốn vướng bận bởi tình cảm nam nữ và cũng là
muốn bảo vệ nàng Kiều khỏi những hiểm nguy nơi chiến trường nên đã từ chối:
“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng binh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”
Dù hiểu được tấm lòng của Thúy Kiều nhưng Từ Hải vẫn cố gắng khuyên nhủ Kiều
và muốn nàng thoát khỏi thói “nữ nhi thường tình” và hứa hẹn về tương lai tươi
sáng, khi nghiệp lớn thành công, cơ đồ được gây dựng sẽ “rước nàng nghi gia”. Qua
những lời nói của Từ Hải với Thúy Kiều, ta có thể thấy được những phẩm chất tốt
đẹp của người anh hùng, Từ Hải không để tình cảm chi phối mà vô cùng quyết đoán,
dứt khoát với hành động của mình. Cũng cần phải hiểu rằng không phải sự dứt
khoát của Từ Hải khi ra đi là vì vô tình hay trọng công danh hơn tình cảm. Chàng là
người sống tình cảm hơn bất cứ ai, thay vì quyến luyến, động lòng thì Từ Hải muốn
thể hiện bằng hành động, bằng quyết tâm chiến thắng để mang đến nàng Kiều
không chỉ là danh phận mà còn là tình cảm.
“Bằng ngay bốn bể là nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”
Nếu ở những câu thơ trên Từ Hải có ý trách móc nàng Kiều vì sự yếu đuối của nữ
nhi thường tình thì ngay câu thơ sau chàng đã kín đáo thể hiện sự quan tâm, động
viên với nàng. Từ Hải mang tráng khí khắp bốn phương với toàn bộ quyết tâm và tự
tin nhưng chàng cũng hiểu rằng con đường mình đang đi sẽ vô cùng chông gai, đó
là cuộc sống màn trời chiếu đất, bốn bể không nhà. Từ Hải không muốn Thúy Kiều
đi theo một là không muốn vướng bận, hai là muốn nàng phải xông pha vào chốn
hiểm nguy cùng mình. Cuối cùng, để lại bao lưu luyến, Từ Hải dứt khoát lên đường:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”
Từ Hải là nhân vật hội tụ đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ, phi thường của người
anh hùng. Khi xây dựng nhân vật Từ Hải trong đoạn trích Chí khí anh hùng, tác giả
Nguyễn Du đã kín đáo thể hiện quan niệm về người anh hùng và ước mơ công lí.