Phân tích Chí khí anh hùng HAY CHỌN LỌC | Văn mẫu 11 Kết nối tri thức
Chí khí anh hùng là một đoạn trích hay trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đây cũng là một trong những đề bài được lựa chọn để phân tích. Phân tích đoạn trích "Chí khí anh hùng" trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du.
Chủ đề: Văn mẫu 11
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Phân tích Chí khí anh hùng - Ngữ văn 10
Dàn ý Phân tích trích đoạn Chí khí anh hùng 1. Mở bài:
Tác giả: Đại thi hào Nguyễn Du, là danh nhân văn hóa Việt Nam.
Tác phẩm: Trích truyện Kiều nói lên tính cách và chí khí anh hùng của Từ Hải. 2 .Thân bài:
* Tính cách và chí khí anh hùng của Từ Hải:
- Sống với Kiều được nửa năm thì Từ Hải đã nghĩ đến nghiệp lớn
- “Động lòng bốn phương” công việc và chí lớn của người nam nhi
-“ trượng phu” là để chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng với hàm hàm nghĩa khâm phục, ca ngợi.
- “thoắt”sự mau chóng trong việc thay đổi tâm trạng, dáng vẻ của Từ Hải.
-> Từ Hải đã thoát khỏi tình cảm cá nhân nhanh chóng đi làm việc lớn của cuộc đời.
- “Mênh mang” càng lộ ra độ rộng và cao của trời đất càng bật lên tư thế của chàng
giữa vũ trụ rộng lớn.
-“trông vời” cái nhìn rộng lớn, sáng suốt.
-Từ Hải một mình cưỡi ngựa lên đường thẳng dong, cho thấy ý chí quyết tâm và bản
lĩnh của người anh hùng.
- Từ Hải ra đi không lưu luyến, bịn rịn tình cảm. Chàng coi Kiều như tâm phúc của
mình nhưng không thể để tình cảm cá nhân ảnh hưởng đến nghiệp lớn.
* Lời hứa của Từ Hải với Kiều:
- Chàng hứa Kiều khi nào “bao giờ mười vạn tinh binh”, “tiếng chuông ngập đất
bóng tinh rợp đường”, “Làm cho rõ mặt phi thường” sự nghiệp ổn định sẽ cưới nàng
cho nàng cuộc sống hạnh phúc ấm no.
- Sự tự tin và khẳng định của Từ Hải: một năm sau sẽ mang vinh quang về, chàng
rất tự tin và chắc chắn về chiến thắng của mình.
* Sự dứt khoát của Từ Hải:
- Chim bằng là loài chim của sự dũng mãnh, ý chí tác giả ví với Từ Hải, đã đến lúc
chàng tung bay đôi cánh để tìm khát vọng của bản thân.
- “ Dứt”, “quyết” khẳng định ý chí quyết tâm của Từ Hải. * nghệ thuật:
- Tính chất ước lệ tượng trưng theo lối văn học cổ trung đại, lời thơ sâu sắc. 3. Kết bài:
Đoạn trích Chí khí anh hùng là đoạn trích hay và ý nghĩa. Ca ngợi chí làm trai, chí
khí của bậc đại trượng phu, lí tưởng về người anh hùng mang lại ánh sáng tươi đẹp
cho đời và tình cảm sâu sắc của Từ Hải và Kiều, những ước vọng đẹp cho tương lai.
Văn mẫu Phân tích Chí khí anh hùng
Phân tích bài Chí khí anh hùng - mẫu 1
Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về
Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người
anh hùng có những phẩm chất, phi thường.
Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại
thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước
mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.
Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với
tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường
nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp
gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan
cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:
Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau
Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã
hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri
kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng
tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục
tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà
cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.
Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và
kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng.
Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy
Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân
của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng
hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên
đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một
tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là
nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời
cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.
Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán:
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái
chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản
được bước chân chàng.
Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch
truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả
một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con
người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng.
Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là
toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm
yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiều chỉ xuất hiện
một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ
Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện
quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ động lòng bốn phương nói
lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một
làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).
Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn
phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một
không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh
gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi
sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình
ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.
Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường
thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người
cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn
dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều - Kim Trọng, Thúy
Kiều - Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa
mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc,
nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.
Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn
khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một
lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không
chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của đạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu..., mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.
Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà
sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường
tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.
Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khí anh hùng.
Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng
vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp
nhận cho Thúy Kiều đi theo.
Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm
mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của
sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối
với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà
còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở
chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa,
trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy
Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng.
Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn
con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng
vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.
Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là
anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc
trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng
mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để
đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải
đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.
Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc
chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của
riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt
đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường
tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn
làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái
độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng
của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.
Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng
khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dặm mới nghỉ,
đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây
phút ngây ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.
Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về
phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng
ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.
Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù
túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu
kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị
chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái
khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành ! rong bốn bể để thực hiện ước mơ
công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.
Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu
tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường
với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất
lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải - nhân vật lí tưởng,
mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.
Phân tích bài thơ Chí khí anh hùng - mẫu 2
Nếu Kim Trọng là một người thư sinh đèn sách hiếu học thì Từ Hải là một người
anh hùng với khí phách hiên ngang. Từ Hải là người đã cứu Thúy Kiều thoát khỏi
cảnh sống nhơ nhớp, ô nhục khi nàng rơi vào lầu xanh lần thứ hai. Hai người chung
sống với nhau rất hạnh phúc nhưng do Từ Hải muốn có được sự nghiệp lớn lao nên
đã từ biệt Thúy Kiều ra đi. Ý chí, quyết tâm ấy của chàng được thể hiện qua đoạn
trích "Chí khí anh hùng" nằm trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du.
Đoạn trích này nằm ở vị trí câu 2213 đến câu 2230 thể hiện lí tưởng về người anh
hùng của tác giả. Bốn câu thơ đầu của đoạn trích đã thể hiện khát vọng lên đường vì
sự nghiệp của Từ Hải:
"Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong".
Trong lúc tình yêu và hạnh phúc vợ chồng đang nồng đượm, yên ấm, Từ Hải quyết
chí ra đi, rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Nam nhi
trong xã hội xưa muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiệp, có được
những công trạng lớn lao. Chẳng vậy mà Nguyễn Công Trứ từng viết:
"Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể".
Từ Hải là một đấng nam nhi muốn "vẫy vùng" nên đã "động lòng bốn phương".
Chàng là người có ý chí lập công danh, sự nghiệp lớn. Động từ "thoắt" vừa thể hiện
một trạng thái nhanh chóng vừa thể hiện sự dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Tác
giả Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình thế khó xử khi một bên là hạnh phúc
vợ chồng chốn khuê phòng như một cám dỗ còn một bên là không gian rộng lớn
thỏa sức thể hiện tráng trí bốn phương. Không làm bạn đọc thất vọng, bậc trượng
phu ấy đã lựa chọn con đường theo đuổi hoài bão, lí tưởng cuộc đời mình. Nguyễn
Du đã thể hiện sự trân trọng nhân vật Từ Hải khi gọi chàng là "trượng phu" - người
nam nhi có chí lớn, là bậc anh hùng trong thiên hạ. Dù cuộc sống vợ chồng còn
nhiều lưu luyến, vẻ đẹp khiến "hoa ghen", "liễu hờn" của người vợ Thúy Kiều còn
níu bước chân người anh hùng nhưng Từ Hải vẫn quyết lên đường chinh chiến để
thực hiện khát vọng "vẫy vùng trong bốn bể" mà không một chút do dự, phân vân.
Một con người "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai" như Từ Hải muốn thỏa sức tung
hoành khắp thiên hạ cũng là điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải ra đi một mạch cùng
thanh gươm trên yên ngựa trong cõi "trời bể mênh mang" thật oai phong, lẫm liệt.
Những hạnh phúc cá nhân riêng tư không thể làm chùn bước chân của người anh
hùng. Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng, mà là
người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Chàng đối diện với trời đất, vũ
trụ bằng một tâm thế đầy chủ động.
Cuộc chia ly nào cũng gắn với nỗi buồn, những giọt nước mắt và cuộc chia ly của
Thúy Kiều - Kim Trọng cũng không ngoại lệ:
"Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"
Nho giáo đã quy định người phụ nữ phải tuân theo luật "tam tòng": ở nhà theo cha,
xuất giá theo chồng, chồng chết theo con. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến luật lệ
của đạo Nho để xin đi theo chồng. Trong lúc "hương lửa đương nồng", nàng không
muốn phải chịu cảnh xa cách, chia lìa với Từ Hải - một người chồng nhưng đồng
thời cũng là một người ân nhân cứu mạng Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh. Nàng
muốn được theo chồng, muốn nâng khăn sửa túi và cùng chồng sẻ chia những khó
khăn trong cuộc đời. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng bởi lẽ nữ nhi lấy chồng thì
phải theo chồng. Dù phải chịu những vất vả, gian nan thì Kiều cũng nguyện một
lòng ở bên Từ Hải. Nhưng với nghĩa khí của một bậc quân tử, Từ Hải đã đáp lại rằng:
"Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia"
Hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau đến mức sâu sắc vậy tại sao Kiều vẫn "chưa
thoát khỏi nữ nhi thường tình". Đó là lời trách cứ Thúy Kiều tuy là tri âm tri kỉ mà
tại sao lại không thấu hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đó cũng là lời
động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt qua những trắc trở trước mắt để hướng về
tương lai tốt đẹp sau này và mong muốn nàng đừng quá lo lắng cho mình. Từ Hải
thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng tình cảm chân thành, sâu nặng. Từ Hải ra
đi lập sự nghiệp, công danh đến khi trở thành một con người xuất chúng, phi thường
và nắm giữ trong tay "mười vạn tinh binh"thì chàng sẽ quay trở về rước Kiều "nghi
gia" bằng những hình thức lễ nghi trang trọng. Vợ chồng đoàn tụ trong âm thanh
rộn rã của "tiếng chiêng dậy đất" và khung cảnh ngập tràn bóng cờ trên các con đường.
Để từ chối khéo léo mong muốn của Thúy Kiều, Từ Hải đã sử dụng những lời lẽ đầy sức thuyết phục:
"Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!"
Chàng từ chối mong muốn của Thúy Kiều là vì nàng sẽ làm bận lòng mình hay thật
tâm chàng không muốn người vợ của mình phải chịu những khổ cực, vất vả? Đối
với đấng nam nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ thường tình nhưng đối với phận nữ
nhi như Thúy Kiều thì việc đó không hề dễ dàng và rất khó thích nghi. Có lẽ vì
những lí do trên mà Từ Hải khuyên Kiều "đành lòng" chờ đợi ngày chàng thành
công trở về. Một năm chờ đợi không phải thời gian quá dài nhưng nó lại thể hiện chí
khí,lòng quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải. Việc gây dựng sự nghiệp,
công danh không phải là chuyện ngày một ngày hai mà đó còn là chuyện của cả đời
người nhưng Từ Hải lại hứa với Thúy Kiều sẽ đạt được công danh sau một năm nữa.
Phải là người có quyết tâm cao độ, tin vào khả năng của bản thân thì mới có lời hứa như vậy.
Nếu cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong "Chinh phụ ngâm" được Đặng Trần Côn miêu tả:
"Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước giây giây lại dừng"
thì cuộc chia tay của Từ Hải và Thúy Kiều trong đoạn trích "Chí khí anh hùng"
được Nguyễn Du miêu tả với sự dứt khoát:
"Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi".
Người xưa có câu anh hùng khó qua ải mĩ nhân nhưng với khát vọng lớn lao của
con người đầu đội trời chân đạp đất thì ải mĩ nhân không làm khó được Từ Hải.
Hành động "dứt áo ra đi" của chàng thể hiện thái độ dứt khoát, không chút tơ vương,
vướng bận chuyện cá nhân. Theo truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử, "chim bằng
là giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay
lên chín ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của
người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khát khao làm nên sự nghiệp lớn". Tư thế ra
đi của Từ Hải được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ chim bằng thật oai phong và có sức
mạnh phi thường. Đó là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ trung đại.
"Chí khí anh hùng" đã miêu tả cuộc chia ly giữa "trai anh hùng" và "gái thuyền
quyên" đầy dứt khoát nhưng nổi bật lên trong đoạn trích là chí khí của người anh
hùng Từ Hải. Đó là tính cách hiên ngang, ngay thẳng của bậc "trượng phu" trong
thiên hạ. Nhân vật này được Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng
cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần
tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng
đáng là bậc nam nhi "vẫy vùng trong bốn bể", không vì "hương lửa đương nồng" mà chùn chân, nhụt chí.
Phân tích tác phẩm Chí khí anh hùng - mẫu 3
Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại
thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước
mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.
Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với
tri âm, tri kỉ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường
nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp
gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan
cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:
Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau
Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm "giặc", đều thuộc hạng người bị xã
hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri
kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng
tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục
tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà
cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.
Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và
kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng.
Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy
Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi. Cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ
hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã
lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một
tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là
nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời
cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.
Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán:
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái
chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản
được bước chân chàng.
Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch
truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả
một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con
người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng.
Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là
toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một mình với thanh gươm
yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiểu chỉ xuất hiện
một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ
trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện
quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ động lòng bốn phương nói
lên được cái ý Từ Hải "không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một
làng mà là người của trời đất, của bốn phương". (Hoài Thanh).
Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn
phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một
không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh
gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi
sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình
ảnh của con người "thanh gươm yên ngựa" tưởng như che đầy cả trời đất".
Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường
thẳng rong trước rồi mới để cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người
cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn
dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều - Kim Trọng, Thúy
Kiều - Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa
mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc,
nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.
Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn
khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một
lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không
chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của đạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu..., mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.
Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!"
Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà
sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường
tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.
Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khi anh hùng.
Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng
vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp
nhận cho Thúy Kiều đi theo.
Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm
mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của
sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối
với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà
còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở
chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa,
trong lời trách: Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy
Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng.
Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn
con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng
vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.
Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là
anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc
trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng
mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng:
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để
đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải
đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.
Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc
chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của
riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt
đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường
tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn
làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái
độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng
của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.
Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng
khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi lần bay thì chín vạn dậm mới
nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những
giây phút ngây ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.
Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về
phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng
ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.
Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù
túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu
kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị
chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái
khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành, thong dong bốn bể để thực hiện ước
mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.
Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu
tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường
với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất
lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải - nhân vật lí tưởng,
mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.
Phân tích đoạn thơ Chí khí anh hùng - mẫu 4
Nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, ta không thể nào không nhắc đến "Truyện
Kiều" – một tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân đạo sâu sắc, đề cao giá trị con
người và lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến thối nát.
Đoạn trích "Chí khí anh hùng" trích trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du đã dành
những lời thơ của mình để nói về Từ Hải – người anh hùng lí tưởng có những phẩm
chất cao đẹp, phi thường.
Có thể nói trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng nhân vật
Từ Hải hoàn toàn mới so với hình tượng nhân vật này trong "Kim Vân Kiều truyện"
của Thanh Tâm Tài Nhân, ở "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, hình tượng Từ Hải
giống như một tướng cướp đã bị lược bỏ, thay vào đó là một hình tượng Từ Hải như
một vị anh hùng tuyệt đẹp, phi thường. Hình tượng này là sự hợp nhất của hình
tượng nhân vật có tính ước lệ – là nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn
Du và hình tượng con người vũ trụ với nét vĩ đại, lớn lao.
Sau khi bị mắc bẫy và rơi vào chốn lầu xanh lần thứ hai, Kiều luôn sống trong tâm
trạng đau khổ, giày vò. Giữa lúc ấy, Từ Hải xuất hiện như một vị cứu tinh giúp Kiều
thoát khỏi chốn lầu xanh đầy nhơ nhớp ấy. Nhưng tình yêu giữa Thúy Kiều và Từ
Hải vẫn không thể nào che khuất đi ước mơ gây dựng một sự nghiệp lớn lao ở con
người này. Đó chính là lí do mà khi mối tình của họ vừa chớm nở được "nửa năm"
thì Từ Hải đã tiếp tục lên đường với khát khao cháy bỏng gây dựng sự nghiệp của mình:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong
Mặc dù trong thời gian sáu tháng, tình yêu của họ luôn nồng nàn, cháy bỏng nhưng
với chí lớn và khát khao công danh nghiệp lớn Từ Hải thoắt đã "động lòng bốn
phương". "Lòng bốn phương" ở đây là hình ảnh tượng trưng, ước lệ cho chí nguyện
lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Hình ảnh "trời bể mênh mang" cũng mang ý
nghĩa tương tự như vậy. Chúng như một sự ước lệ tạo nên một tầm vóc lớn lao, phi
thường cho Từ Hải. Có thể nói tình yêu hay bất cứ một cái gì cũng không đủ sức để
ngăn cản được bước chân của chàng. Trong cả một tác phẩm dài, Nguyễn Du chỉ
dành duy nhất một từ "trượng phu" cho Từ Hải như thể khẳng định một chí khí lớn
ở chàng. Hình ảnh "thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong" diễn tả một phong
thái ung dung của người "trượng phu" trên con đường gây dựng sự nghiệp ấy.
Đối với Thúy Kiều, Từ Hải không chỉ như một người chồng mà còn như một vị ân
nhân có ơn vô cùng lớn đã cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh ô nhục. Vì vậy, trước
quyết tâm ra đi vì nghiệp lớn của chồng mình, Thúy Kiều đã xin đi theo để là người
chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chàng:
Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi
Nàng xin đi để được làm trọn chữ "tòng" vì theo nàng thì "xuất giá tòng phu" lấy
chồng thì phải theo chồng, nguyện cùng chồng gánh vác mọi chuyện.
Nhưng lời Từ Hải đã quyết, như để làm an lòng Thúy Kiều:
Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Trước lời xin đi theo của Thúy Kiều, Từ Hải như trách Kiều: "Sao chưa thoát khỏi
nữ nhi thường tình"', đó cũng như một lời khuyên Kiều đừng xem nặng quá vấn đề
"lấy chồng là phải theo chồng", hãy xem nhẹ chuyện tình cảm vì sự nghiệp lớn lao
của chồng. Với một quyết tâm, chí khí lớn lao, Từ Hải nói như hứa hẹn sẽ gây dựng
được một cơ đồ to lớn, nắm chắc trong tay "mười vạn tinh binh" và chàng sẽ trở về
để đón Kiều trong "tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời". Lúc thành công quay
trở lại cũng là lúc Từ Hải sẽ "rước nàng nghi gia", đem lại địa vị và danh phận cho
người mà chàng xem là tri âm tri kỉ. Những lời của Từ Hải vào khoảnh khắc tiễn
biệt này càng làm rõ "chí khí anh hùng" của nhân vật này, thay vì những lời nói thể
hiện sự bịn rịn, quyến luyến khi chia tay thì là những ước mơ, sự khẳng định nhất
định sẽ thành công của chàng.
Từ Hải còn thể hiện chí khí của mình ở việc cho rằng Thúy Kiều đi theo sẽ "càng
thêm bận" nhưng sâu thẳm bên trong là sự lo lắng cho Kiều khi đi theo sẽ phải chịu
cực khổ, nay đây mai đó "bốn bể không nhà":
Bằng ngay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Chàng còn dám khẳng định chắc chắn thời gian mà mình sẽ quay về đó là khoảng
thời gian một năm. Từ Hải khuyên Kiều ở nhà đợi chàng trở về trong sự chiến thắng vẻ vang, hiển hách:
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì.
Cách chia tay của Từ Hải rất khác biệt ở chỗ những lời chia tay được thay bằng
những lời hứa vào một chiến thắng không xa, sự quyến luyến được thay bằng một
quyết tâm vào tương lai.
Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi
Chàng dứt khoát ra đi với một quyết tâm sắt đá như cánh chim bằng khi đã cất cánh
tung bay trên bầu trời thì phải bay thật xa mới nghỉ cũng như Từ Hải khi đã chiến
thắng, thành công thì mới quay trở về.
Với đoạn trích "Chí khí anh hùng", Nguyễn Du đã xây dựng được một hình tượng
người anh hùng lí tưởng hoàn toàn mới. Có thể nói Nguyễn Du đã thực sự thành
công khi xây dựng hình tượng nhân vật này chính bằng tài năng nghệ thuật thể hiện
ở sự sáng tạo độc đáo và sự đam mê văn chương của mình.
Phân tích bài thơ Chí khí anh hùng - mẫu 5
Có một nhà thơ mà người Việt Nam không ai là không biết đến. Có một truyện thơ
mà hơn 200 năm qua không mấy người Việt Nam không thuộc vài câu hay vài đoạn.
Người ấy, thơ ấy đã từng được Tố Hữu ngợi ca:
“ Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”
Không ai khác đó chính là Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi
câu thơ đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp
bút. Đằng sau số phận cuộc đời nhân vật đều được gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo
sâu sắc. Đó là niềm trân trọng nâng niu ước mơ khát vọng con người. Đó là tiếng
nói lên án tố cáo những thế lực xấu xa đứng đằng đằng sau. Và hơn thế nữa nó phản
ảnh chân thực giấc mơ tự do công lí mà đoạn trích “Chí khí anh hùng” chính là tiêu
biểu nhất cho điều này.
Sau tháng ngày ân ái bên Thúc Sinh, Kiều lại một lần nữa sa thân vào chốn lầu xanh
nhơ nhớp, một lần nữa quay trở lại với Tú Bà để sống thân phận của người kĩ nữ
hèn mọn. Cứ tưởng rằng, cuộc đời nàng đã đặt một dấu chấm hết trong tối tăm và
đầy rẫy những bất hạnh. Thế nhưng, giữa cơn phong ba, Từ Hải bỗng dưng “vụt đến
như một ngôi sao lạ chiếu sáng một đoạn đời nàng” (Hoài Thanh). Chàng chuộc
Kiều ra, trả lại cho Kiều sự tự do xứng đáng. Hai người họ đến bên nhau với tấm
lòng của những bậc tri kỉ giữa “trai anh hùng’’ và “gái thuyền quyên”. Nhưng hạnh
phúc chưa được bao lâu, thì cái “thói vẫy vùng” của bậc giang hồ lại được dịp sục
sôi,cái khát khao dựng nên nghiệp lớn bỗng thúc dục mạnh mẽ bước chân người anh
hùng. Đoạn trích chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi. Khác với
Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đôi ba dòng
ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì
Nguyễn Du với bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai
gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình.
Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối
lập nhau. Một bên là không gian khuê phòng với “hương lửa đương nồng” với tình
cảm lứa đôi đầy những cám dỗ, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái
lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Đường đường là
đấng “trượng phu” Từ không một phút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái
đưa ra quyết định của chính mình. Chàng vốn sinh ra không phải là con người của
những đam mê thông thường mà là người của những sự nghiệp vĩ đại- sự nghiệp
của bậc anh hùng. Hiểu thấu được khát khao ấy, Nguyễn Du đã trân trọng gọi nhân
vật của mình bằng hai tiếng “trượng phu” – người đàn ông có trí lớn .Rõ ràng, hai
chữ này chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong truyện Kiều và dành riêng cho Từ.
Thứ tình cảm vợ chồng giản đơn đâu thể nào níu giữ bước chân người anh hùng
thêm nữa. Tiếng gọi của lí trí thúc dục chàng đi theo đuổi và thực hiện hoài bão của
cuộc đời. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một
khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa trí vẫy vùng với
những đam mê, lí tưởng. Hình ảnh cuối cùng “Thanh gươm yên ngựa lên đường
thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền
kì vĩ của không gian mà còn mở ra tâm thế nhân vật không hề có một chút nào là do
dự luôn hành động thật dứt khoát, quả quyết. Đến đây, ta chợt bắt gặp những điểm
tương đồng trong thơ Nguyễn Du với các nhà thơ cùng thời. Là hình ảnh chinh phu
oai hùng trước buổi ra trận:
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao” Hay như:
“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiêng theo việc binh đao
Dã nhà đeo bức chiến hào
Thét roi cầm vị ào ào gió thu”
(Chinh phu ngâm_ Đoàn Thị Điểm)
Cả Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm đều mượn hình ảnh vốn của thiên nhiên vũ trụ để
nâng cao tầm vóc, kích thước nhân vật anh hùng của mình. Thế nhưng, nếu “chí làm
trai” trong những câu thơ của “chinh phụ ngâm” là lập nên sự nghiệp là lưu danh,
lập công với núi sông thì với “chí anh hùng” lập nên sự nghiệp lại là để yên bề gia
thất. Có thể nói đúng như những lời nhận định của Hoài Thanh “Từ Hải hiện ra
trong bốn câu đầu không phải người của một nhà, một họ, một làng mà là người của
trời đất, của bốn phương…” chỉ bằng ngòi bút xuất thần của thi nhân cùng với cái
nhìn đầy trân trọng ngưỡng mộ dành cho nhân vật. Lời thơ tuy ít mà ý thơ thì trải ra đến vô cùng.
Lẽ thường, cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng những dùng dằng
chẳng nỡ của kẻ ở với người đi. Với Từ và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. Nàng
không muốn một thân một mình, giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo, nàng
một mực muốn được sẻ chia, được gánh vác sự nghiệp với Từ Hải. Lời lẽ nghe sao mà tha thiết thế:
Nàng rằng: “ Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cùng một lòng xin đi”
Kiều một lòng xin đi theo âu cũng là hợp tình hợp lí với đạo Nho truyền thống. Nho
giáo viết đã phận nữ nhi “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phụ tử tòng tử”. Thế
nhưng, trái với những mong mỏi của nàng, Từ ngay lập tức đáp lại:
Từ rằng: “Tam phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”
Mới nghe qua thì cứ nghĩ là một lời trách cứ nhưng đằng sau đó lại là lời động viên
người tri kỉ của mình biết vượt lên những tình cảm thông thường để sánh cùng trí
lớn của người anh hùng. Vì vậy, sau này khi nói về nỗi nhớ nhung da diết của Thúy
Kiều dành cho Từ Hải, Nguyễn Du viết:
“Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”
Nàng hướng con mắt về phương trời xa không chỉ để tìm kiếm một dáng hình thân
thuộc khi xưa, đó còn là sự ngóng đợi vào sự nghiệp lớn lao mà Từ Hải đã dốc lòng dựng xây:
“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng cây rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”
Ngày chàng hoàn thành xong nghiệp lớn cũng sẽ chính là ngày chàng trở về đón
nàng trong tư cách là một người chủ tướng chỉ huy mười vạn tinh binh với chiêng
chống dậy đất, cờ quạt dậy đường. Những lời thốt lên từ người anh hùng không hề
mang tính chất khoa trương mà đầy quả quyết chắc chắn thể hiện sự tự tin tuyệt đối
của nhân vật vào cơ đồ mà mình tạo dựng. Niềm tin mãnh liệt của Từ truyền sang
cho Kiều và lan tỏa ra khắp tất thấy bạn đọc.
Đoạn trích kết lại với hai câu thơ gây ấn tượng sâu đậm bở hình ảnh ước lệ:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”
Trong thơ ca trung đại cổ điển ,hành động “dứt áo ra đi” không phải là quá xa lạ, nó
mang tính chất lưu luyến bịn rịn chẳng nỡ rời xa. Thế nhưng, đặt trong đoạn trích và
đặt trong hình tượng Từ Hải thì đó lại thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán của bậc nam
nhi. Phải chăng vì thế mà Nguyễn Du đã không chút do dự nâng nhân vật của mình
lên, ví hình ảnh chàng lúc lên đường với hình ảnh chim bằng cất cánh bay vào muôn
trùng dặm khơi? Hình ảnh đó phần nào thể hiện cái nhìn lãng mạn và khát vọng
thoát khỏi thời đại mình- một tư tưởng tiến bộ vượt bậc so với những người đương thời.
Đoạn trích “Chí khí anh hùng” xây dựng hình tượng Từ Hải bằng bút pháp ước lệ
hóa kết hợp với lối ngôn ngữ giàu sức gợi đã khẳng định rõ phẩm chất cốt lõi của
người anh hùng không để tình cảm riêng rằng buộc chí lớn luôn luôn hành động đề
hướng tới sự nghiệp cao cả, vĩ đại. Nhờ đó mà nhân vật có một sức sống đậm sâu
trong lòng bạn đọc muôn đời.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - mẫu 6
Từ Hải “khách biên đình” oai phong lẫm liệt:
“Râu hùm hàm én mày ngài.
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.
Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, đã tái sinh cuộc đời nàng, nâng Kiều thành một mệnh phụ phu nhân:
“Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”.
Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó. Từ Hải đã giã biệt phu nhân để lên đường
chinh chiến quyết “rạch đôi sơn hà”:
“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bấn phương.
Trông vời trời bể mênh mang.
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Bức chân dung Từ Hải hiện lên trong cảnh giã biệt thật đẹp. Bốn phương trời xa vẫy
gọi, “thoắt đã động lòng” đấng trượng phu. Cuộc sống êm ấm gối chăn đầy hạnh
phúc “hương lửa đương nồng” cũng không thể níu giữ. Một cái nhìn vời vợi “trời bể
mênh mang”. Đó là cái nhìn mang tầm vũ trụ của một anh hùng chí lớn, như
Nguyễn Công Trứ từng thổ lộ:
“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”. (Chí anh hùng)
“Thoắt” nghĩa vụt chốc, diễn ra rất nhanh và bất ngờ. Thoắt đã thể hiện sự chấn
động vô cùng mạnh mẽ trong tâm hồn đấng trượng phu. Từ Hải đã ra đi với khát
vọng lập nên sự nghiệp, bằng võ công của bậc tài trai:
“Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Kiều đã coi chữ “tòng” làm trọng; tòng phu là một trong đạo tam tòng của người
phụ nữ ngày xưa. Đó cũng là một nét đẹp đạo đức Thuý Kiều:
“Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”
Từ Hải đã nói với Kiểu bao lời tình nghĩa. Không thể đế cho giọt nước mắt. tiếng
thở dài của người vợ đẹp níu giữ. Từ Hải khuyên Kiều hay khẽ nhắc mình: “Sao
chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”. Hứa với Kiều về một ngày mai huy hoàng,
một ngày mai sum vầy hạnh phúc:
“Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ra sẽ rước nàng nghi gia”.
Đó là lời hứa danh dự của một đấng trượng phu phi thường. Có tin vào chí khí và
sức mạnh “rạch đôi sơn hà” của đáng tài trai “đội trời đạp đất” mới có lời hứa như
dao chém đá ấy. Với Từ Hải, bốn phương vẫy gọi là chiến công đang chờ đón, là
một ngày mai hiển hách có một lực lượng hùng hậu “mười vạn tinh binh", "huyện
thành đạp đổ năm toà cõi nam”. Thời gian đợi chờ mà Từ Hải an ủi Kiều cũng là một lời hứa:
“Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Hình ảnh cánh chim bằng bay vút muôn dặm khơi là hình ảnh người anh hùng mang
chí lớn tung hoành vẫy vùng trong bốn bể:
“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.
Đọc “Truyện Kiều”, ta bắt gặp hình ảnh Từ Hải đã trở lại Lâm Tri sau một nam trời
giã biệt. Trong cảnh “Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân”. Từ Công hỏi phu nhân:
“Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
Anh hùng mới biết anh hùng.
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?”.
Qua đoạn thơ 18 câu này (từ câu 2213 - 2230), nhân vật Từ Hải đã được Nguyễn Du
miêu tả với tấm lòng quý mến ngợi ca về chí khí anh hùng và khát vọng sự nghiệp
phi thường. Từ Hải là một nhân vật anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp trong “Truyện
Kiều” của thi hào Nguyễn Du.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - mẫu 7
Truyện Kiều là một trong những kiệt tác để đời trong nền văn học Việt Nam của
Nguyễn Du. Với tài và tâm của mình, Nguyễn du vận dụng sáng tạo ngôn ngữ, nghệ
thuật và sự thấu hiểu cảm thông tái hiện cuộc đời đầy sóng gió của Thúy Kiều và
những mối tình nàng trải qua với bao đau khổ. Trong đó có anh hùng Từ Hải được
khắc họa qua đoạn trích Chí Khí Anh Hùng.
Thúy Kiều sống trong cảnh nhơ nhớp lầu xanh, nhưng may mắn mỉm cười với nàng
khi nàng gặp Từ Hải, được vị anh hùng chuộc khỏi chốn lầu xanh và cưới làm vợ.
Sau nửa năm lửa đượm hương nồng, Từ Hải muốn tạo dựng cho mình sự nghiệp lớn
nên đã từ biệt Thúy Kiều và hình ảnh người anh hùng lúc lên đường được tái hiện trong bốn câu đầu:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Như chúng ta biết “anh hùng” là người trong bụng có chí lớn,có mưu cao, có tài bao
trùm cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia. Và khi chàng dứt khoát ra đi để lại tình
riêng “nửa năm hương lửa đương nồng”, những hạnh phúc vợ chồng giản dị, riêng
tư, mang đi trong mình chí hướng bốn phương , quyết hướng đến sự nghiệp lí tưởng
lớn lao cao cả. Dường như ý chí đó trở thành bản năng của người anh hùng không
thể ngăn cản nổi. Người anh hùng ấy với tư thế đối diện với trời bể mênh mang, làm
chủ mọi thứ, oai phong lẫm liệt “thanh gươm yên ngựa”, mạnh mẽ và dứt khoát.
Khi nhìn bóng dáng Từ Hải ta lại nhớ đến hình ảnh người chinh phu:
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
Quả thật Từ Hải là một người anh hùng phi chí hướng bốn phương, chẳng thể giam
mình nơi nắng không đến đầu mưa không đến mặt, một không gian chật hẹp. Mà chỉ
có thể lên đường mới giải phóng được con người anh hùng ấy.
Trong cảnh tiễn biệt Từ Hải, tác giả ngụ ý để cho Từ Hải sẵn sàng trên yên ngựa và
thanh kiếm bên mình, mới để Kiều và Từ Hải nói lời từ biệt. Biết rằng chồng mình
tung hoành tứ phương, sống trong cảnh màn trời chiếu đất nhưng Thúy Kiều vẫn
một lòng theo cùng, luôn muốn chia sẻ nỗi lo, tâm trạng, gánh vác cùng chàng
những mệt nhọc mà phận làm thê nên làm. Thúy Kiều thuyết phục Từ Hải bằng đạo
phu thê xưa cùng với tình cảm chân thành thể hiện sự thấu tình đạt lí, trong nghĩa
trọng tình. Nhưng Từ Hải- đấng anh hùng lại nhẹ nhàng nói với Kiều bằng đạo tri âm:
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì
Lời thuyết phúc của Từ Hải “tâm phúc tương tri” thể hiện sự tôn trọng Kiều, mong
muốn nàng hiểu mình và khéo léo từ chối không để nàng phải chịu khổ bên mình.
Với trí tuệ sáng suốt và một trái tim nhân hậu tấm lòng bao la , Từ Hải luôn muốn
có một chiến công oanh liệt, đem đến niềm tin, tình yêu và sự trân trọng cho Thúy
Kiều. Làm nên sự nghiệp cũng là lúc Từ Hải đạt được hạnh phúc mà chàng luôn
hướng tới, một hạnh phúc tràn đầy cả về sự nghiệp lẫn tình yêu và đó là hạnh phúc
xứng đáng với một người anh hùng.
Từ Hải trước đây cũng vậy, bây giờ mà mãi về sau vẫn mang trong mình sự tự tin sẽ
làm chủ được tất cả. Chỉ vỏn vẹn thanh gươm yên ngựa cùng chí khí ngút trời
nhưng Từ Hải tin rằng sẽ có trong tay “mười vạn tinh binh” về trong tiếng “chiêng
dậy đất “ mang lại vẻ vang và hạnh phúc cho người con gái chàng hết mực thương
yêu với lời hứa chắc nịch “năm sau” tạo thêm niềm tin vững chắc cho Thúy Kiều.
tất cả mọi thứ toát ra từ Từ Hải: chí khí, tư thế, hành động , tài năng đều mang một
vẻ phi thường. Chính điều đó làm cho tác giả tôn trọng, ngưỡng mộ gọi chàng là
“trượng phu, mặt phi thường”, đặt nhân vật anh hùng trong một không gian đất trời
rông lớn bao la, hết mực ngợi ca.
Từ Hải trong đoạn trích Chí Khí Anh Hùng thể hiện lí tưởng anh hùng của Nguyễn
Du: phải chiến thắng cái bình thường, tầm thường để hướng tới cái phi thường, phải
có những phẩm chất siêu phàm để trở thành một con người lí tưởng, hình mẫu được
dựng lên cho ngàn đời sau.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - mẫu 8
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc ta, nhắc tới thành công của ông thì không ai
có thể không nhắc tới tuyệt tác Truyện Kiều. Đây là một tác phẩm chứa đựng giá trị
nhân đạo sâu sắc và trở thành đề tài bàn luận, nghiên cứu chưa bao giờ ngừng nghỉ.
Trong tuyệt tác ấy ngoài nói về nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều thì nhân vật để lại
nhiều dấu ấn cho người đọc mặc dù xuất hiện trong đoạn ngắn đó chính là nhân vật
Từ Hải nằm ở đoạn trích Chí Khí Anh Hùng.
Như chúng ta đã biết, Thúy Kiều sau khi bị mắc bẫy rơi vào chốn lầu xanh chịu
nhiều đau khổ, tủi nhục. Khi ấy Từ Hải đã cứu nàng ra khỏi chốn đó vì nhận ra
phẩm chất cao quý của Kiều. Tình yêu giữa Từ Hải với Thúy Kiều không ngăn
được chí hướng xây dựng sự nghiệp. Chính vì thế nửa năm sau đó Từ Hải đã tiếp
tục lên đường gây dựng cơ đồ:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”
Được nửa năm, khi mà tình yêu và cuộc sống vợ chồng đương còn nồng nàn, cháy
bỏng nhưng lại không sao che khuất được bốn phương. Từ Hải sớm đã “động lòng
bốn phương” điều đó thể hiện cho chí lập công danh, sự nghiệp của Từ Hải. Bằng
hình ảnh ước lệ “trời bể mênh mang” đã cho ta liên tưởng tới tầm vóc lớn lao và phi
thường, một người mà tình yêu, gia đình hay bất cứ thứ gì cũng không ngăn cản
được bước chân của chàng. Thêm vào đó hình ảnh gươm, ngựa “lên đường thẳng
rong” cho ta thấy được phong thái ung dung của Từ Hải.
Cảnh tiễn biệt của Thúy Kiều với Từ Hải được tác giả miêu tả khác hẳn với các
cảnh tiễn biệt khác đã có trong truyện như với Kim Trọng hay Thúy Kiều với Thúc
Sinh. Lúc này Từ Hải đã ở thế khác hẳn, trên yên ngựa, gươm đã sẵn sàng. Có thể
một mình ra đi, bốn bể là nhà, có thể là phiêu bạt nay đây mai đó nhưng vẫn không
hề nao núng. Thúy Kiều biết vậy nhưng vẫn xin theo để chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chồng:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”
Tam tòng tứ đức, Thúy kiều không xin gì hơn chỉ muốn được theo chồng, cùng
chồng gánh vác. Hơn nữa đây cũng không chỉ xuất phát từ chữ tòng trong “xuất giá
tòng phu” mà còn đối với Kiều thì Từ Hải không chỉ là một người chồng mà còn là
một vị ân nhân đã cứu nàng. Tuy nhiên xin là một chuyện mà thực tế Từ Hải đã quyết:
“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.”
Từ Hải trước lời cầu xin của Kiều thì bày tỏ lời trách móc khi Thúy Kiều mặc dù
phẩm cách hơn người nhưng “chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”, đồng thời cũng
khuyên nàng không phải quá đặt nặng việc “tòng phu”. Lời trách ngắn ngủi và sau
đó là lời hứa hẹn với Kiều rằng khi nào xây dựng được cơ đồ, có trong tay mười vạn
tinh binh thì chàng sẽ đón nàng về dinh, đem lại cho nàng không chỉ danh phận mà còn cả địa vị.
Có thể thấy đây là khoảnh khắc thể hiện sâu sắc nhất chí khí của người anh hùng Từ
Hải. Chàng không phải là người lụy tình, không vướng mắc mấy chuyện nữ nhi
thường tình mà rất quyết đoán cho hành động của mình. Thay vì quyến luyến, bịn
rịn lúc tiễn biệt, thay vì nói lời yêu thương, nhung nhớ thì Từ Hải đã khẳng định sự
thành công của mình trên con đường công danh. Tuy nhiên mặc dù cứng rắn như
vậy nhưng chàng vẫn kín đáo thể hiện sự quan tâm, lo lắng của mình dành cho Thúy Kiều:
“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”
Biết trước rằng con đường mình đi “bốn bể không nhà”, có khi màn trời chiếu đất
nhưng chàng vẫn quyết tâm đi và dùng nó làm lý do để khuyên Kiều ở nhà. Bởi
chàng cho rằng nàng theo thì “càng thêm bận”. Qua đó cũng cho thấy sự lo lắng nếu
Thúy Kiều theo sẽ phải chịu khổ cực. Sau lời lẽ quan tâm ấy là lời khẳng định về
thời gian, một lời hứa quyết tâm thực hiện cơ đồ trong vòng một năm của Từ Hải để
Thúy Kiều yên lòng ở lại vì sẽ không phải chờ đợi quá lâu. Cuối cùng đoạn trích
cũng là là sự lựa chọn dứt khoái của Từ Hải:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”
Sự quyết tâm của Từ Hải đã được đẩy lên cao nhất và không có gì có thể ngăn cản
được. Qua đó ta thấy được anh hùng Từ Hải được Nguyễn Du miêu tả rất sâu sắc và
sáng tạo. Từ Hải là nhân vật để Nguyễn Du gửi gắm tâm tư, tình cảm, ước mơ công
lí trong hoàn cảnh xã hội đương còn tù túng. Đoạn trích góp phần tô đậm hình ảnh,
tính cách của nhân vật, một nhân vật lí tưởng, mẫu người cao đẹp trong kiệt tác Truyện Kiều.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - mẫu 9
Nguyễn Du là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, được mệnh danh là
đại thi hào, trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại nhiều tác
phẩm hay và có giá trị, nổi bật nhất có thể kể đến đó chính là đại kiệt tác Truyện
Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng là một trong những đoạn trích khá tiêu biểu,
Nguyễn Du đã miêu tả chân dung cũng như khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của
người anh hùng Từ Hải.
Trong đoạn trích Chí khí anh hùng, tác giả Nguyễn Du đã tập trung miêu tả và làm
nổi bật lên vẻ đẹp ý chí và phẩm chất của Từ Hải. So với nhân vật Từ Hải trong tiểu
thuyết Kim Vân Kiều truyện thì nhân vật Từ Hải của Nguyễn Du hoàn toàn khác, đó
không phải một tên tướng cướp như nguyên mẫu mà là một người anh hùng đầu đội
trời, chân đạp đất có bản lĩnh và ý chí phi thường. Cảm hứng ca ngợi cùng bút pháp
ước lệ tượng trưng khiến cho nhân vật Từ Hải hiện lên lớn lao, kì vĩ, mang đầy đủ
phẩm chất của người những người anh hùng xưa.
Khi Thúy Kiều đang tuyệt vọng, chìm đắm trong cuộc sống đau khổ, ê chề nơi lầu
xanh thì Từ Hải đã xuất hiện và cứu nàng ra khỏi chốn tửu sắc đầy thị phi ấy. Nhờ
có Từ Hải mà Thúy Kiều được báo ân báo oán, được hưởng hạnh phúc vợ chồng
như những người phụ nữ bình thường khác. Tuy cuộc sống vợ chồng hạnh phúc
nhưng vẫn không thể che khuất được khát vọng lập thân to lớn của Từ Hải. Vì vậy
mà dù không đành lòng nhưng Từ Hải vẫn phải để Thúy Kiều ở lại còn bản thân
mình thì ra đi thực hiện hoài bão:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”
Thúy Kiều và Từ Hải đã có nửa năm bên nhau, cuộc sống êm ấm, hạnh phúc nhưng
với hoài bão lớn của người anh hùng, Từ Hải đã “động lòng bốn phương”. Cách sử
dụng từ ngữ đầy tính ước lệ đã làm nổi bật lên khát vọng lập công danh, sự nghiệp
của Từ Hải. Dù yêu thương, trân trọng tình yêu với Thúy Kiều nhưng khát vọng anh
hùng đã không cho phép Từ Hải lùi bước, tương lai, sự nghiệp phía trước “mênh
mang” chưa xác định nhưng với bản lĩnh kiên cường, khát vọng lớn lao ấy hình ảnh
ra đi của Từ Hải đẹp đẽ như những bậc trượng phu xưa.
Đối với Thúy Kiều mà nói, Từ Hải không chỉ là người chồng mà nàng thương yêu,
trân trọng mà đó còn là người mà nàng mang ơn, chính Từ Hải đã cứu nàng ra khỏi
chốn lầu xanh. Trước quyết định ra đi của Từ Hải, nàng biết không thể ngăn cản
nhưng cũng không đành lòng để chàng ra đi đơn độc, Thúy Kiều đã bày tỏ mong
muốn được đi theo để chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chàng:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”
Thúy Kiều đề cao quan niệm “xuất giá tòng phu” của đạo đức Nho giáo xưa, nàng
muốn được đi theo để tiện bề chăm sóc cũng như giúp đỡ cho Từ Hải. Trước yêu
cầu đầy chân thành của Thúy Kiều, Từ Hải đã rất cảm động nhưng cuối cùng chàng
không đồng ý vì sợ Thúy Kiều thân con gái đi theo sẽ phải chịu khổ. Như để an ủi
nàng, Từ Hải đã hứa hẹn bao giờ lập lên sự nghiệp lớn sẽ rước nàng “nghi gia”:
“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”
Theo Từ Hải, Thúy Kiều chưa thoát khói thói nữ nhi thường tình đồng thời đó cũng
là lời động viên để nàng không phải lo lắng khi mình lên đường thực hiện nghiệp
lớn. Là một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất, Từ Hải quyết tâm ra đi gây
dựng nghiệp lớn để có thể nắm trong tay “mười vạn tinh binh”. Và khi sự nghiệp đã
thành, chàng sẽ trở về để đón Kiều nghi gia trong “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời”.
Qua những lời đối thoại của Từ Hải với Thúy Kiều trước lúc ra đi đã thể hiện được
chí khí lớn lao của người anh hùng mang trong mình khát vọng lớn. Tuy nói Thúy
Kiều đi theo sẽ thêm vướng bận nhưng thật ra nguyên nhân chính Từ Hải không
muốn Thúy Kiều đi theo là vì không muốn nàng phải chịu khổ, sợ nàng không thể
thích ứng được với cuộc sống bốn bể là nhà:
“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu”
Để Thúy Kiều có thể yên tâm hơn, Từ Hải đã khẳng định thời gian mà mình ra đi là
một năm, Từ Hải đã động viên Thúy Kiều về một tương lai chiến thắng, chàng sẽ
trở về trong sự hiển hách, vinh quang:
“Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì.”
Cuộc chia tay giữa Từ Hải cũng thật khác lạ, đó không phải là những lời tâm tình nỉ
non mà lại là những lời hứa hẹn về một tương lai tất thắng, qua đó ta có thể thấy
được những phẩm chất trượng phu trong con người của Từ Hải, đó là con người
dùng hành động để thể hiện tình cảm với người mình yêu.
Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã xây dựng thành công hình tượng người anh hùng
đầu đội trời chân đạp đất Từ Hải, đó không chỉ là một con người giàu tình cảm mà
còn là một người anh hùng có khát vọng lớn cùng ý chí, quyết tâm đầy mạnh mẽ, quyết liệt.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - mẫu 10
Truyện Kiều một trong những kiệt tác của Nguyễn Du nói riêng và văn học Việt
Nam nói chung. Tác phẩm không chỉ cho người đọc thấy số phận bi thương, gặp
nhiều oan trái của nàng Kiều. Trong hành trình mười lăm năm lưu lạc Kiều đã gặp
biết bao nhiêu chuyện, bao nhiêu người, nhưng người duy nhất yêu thương và bảo
vệ được nàng chính là Từ Hải. Vẻ đẹp của nhân vật Từ Hải đã được kết tinh trong
đoạn trích “Chí khí anh hùng”.
Trải qua nhiều sóng gió, Thúy Kiều đã gặp được Từ Hải – người anh hùng cái thế
“đầu đội trời, chân đạp đất” lúc bấy giờ. Gặp được Thúy Kiều, Từ Hải vô cùng quý
trọng nàng, và đã ngỏ ý với Kiều: “Một lời đã biết đến ta/ Muôn chung nghìn tứ
cũng là có nhau/ Ngỏ lời nói với văn nhân/ Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn”.
Thúy Kiều trở về chung sống cùng Từ Hải, cuộc sống gia đình vô cùng hạnh phúc,
yên ấm. Nhưng chỉ được nửa năm, Từ Hải động lòng bốn phương quyết tâm lên
đường lập sự nghiệp phi thường. Bài thơ mở ra bằng câu thơ:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Cuộc sống hôn nhân của họ mới bắt đầu hình thành, đây đồng thời cũng là giai đoạn
vợ chồng yêu thương nồng nàn và thắm thiết nhất trong cuộc sống hôn nhân. Nếu
như những người bình thường chắc chắn sẽ thỏa nguyện, bằng lòng trong hoàn cảnh
hạnh phúc ngập đầy như vậy. Nhưng Từ Hải lại là một người hoàn toàn khác, chàng
là một người phi thường ngay từ vẻ bề ngoài: “Râu hùm hàm én mày ngài/ Vai năm
tấc rộng, thân mười thước cao”. Và khác thường trong cả tài trí: “Côn quyền hơn
sức, lược thao gồm tài”. Từ Hải hơn hẳn người khác cả về sức mạnh và trí tuệ, bởi
vậy, chàng không bằng lòng với cuộc sống êm đềm hiện tại, Từ Hải quyết tâm ra đi.
Lòng bốn phương ở đây có thể hiểu là ý chí lập công danh, sự nghiệp của kẻ làm
trai trong xã hội phong kiến. Trong xã hội phong kiến, làm trai phải lập nên sự
nghiệp lớn và để lại tiếng thơm muôn đời. Bốn phương là nam bắc đông tây, còn có
nghĩa là thiên hạ, thế giới. Đồng thời bốn phương cũng thể hiện ý chí tung hoành
ngang dọc của kẻ làm trai: “Chí làm trai Nam Bắc Tây Đông/ Cho phỉ sức vẫy vùng
trong bốn biển”. Nguyễn Du đã sử dụng rất tài tình từ “thoắt” nó cho thấy ý chí,
lòng quyết tâm thức dậy nhanh chóng và khi lòng quyết tâm đó đã được xác lập thì
ngay lập tức phải thực hiện. Đó là hành động mạnh mẽ, dứt khoát của người kẻ có
hùng tâm tráng chí ôm trùm thiên hạ.
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong
Hành động của Từ Hải hết sức dứt khoát, không chút lưu luyến, bịn rịn: thẳng rong
– đi liền một mạch. Chàng ra đi trong tâm thế ung dung, tự tại, đó là khí phách của
một người trượng phu. Sự ra đi dứt khoát còn được thể hiện trong đoạn đối thoại với
Thúy Kiều: Nàng rằng phận gái chữ tòng/ Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Trước quyết tâm ra đi của Từ Hải, nàng bày tỏ ước nguyện để được đi theo Từ Hải,
đó cùng là thực hiện trọn đạo tam tòng “xuất giá tòng phu”. Đây là nguyện ước
hoàn toàn chính đáng, đi cùng để đỡ đần cho chồng, để cùng chung vai gánh vác,
chia sẻ những khó khăn. Nhưng ngược lại Từ Hải trách Thúy Kiều: “Từ rằng: tâm
phúc tương tri/ Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”.
Từ Hải trách Kiều vẫn chưa thoát khỏi những thói thường của nữ nhi, nhưng trách
ấy cũng là lời động viên nàng hãy vượt lên những tình cảm ấy để xứng đáng là tâm
phúc tương tri của Từ Hải. Đằng sau câu thơ cho thấy sự tự tin của Từ Hải khi đặt
mình lên trên thiên hạ nên yêu cầu người đầu gối tay ấp với mình cũng phải hơn
những người phụ nữ bình thường khác.
Trước khi đi, Từ Hải còn đưa ra lời hẹn ước với Thúy Kiều: “Bao giờ mười vạn tinh
binh/ Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường/ Làm ra rõ mặt phi thường/ Bấy
giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”. Câu thơ được Từ Hải sử dụng số từ chỉ số lượng
nhiều: mười vạn, động từ mạnh: dậy đất, rợp đường. Cho thấy tương lai huy hoàng
chỉ cần sau một năm có thể làm nên sự nghiệp lớn để rước Thúy Kiều về với cuộc
sống vinh hiển hạnh phúc. Lời nói vừa là lời động viên Kiều, vừa cho thấy sự bản
lĩnh, tự tin của Từ Hải, chàng ý thức sâu sắc tài năng, năng lực của bản thân. Ngoài
ra, Từ Hải còn an ủi vợ: “Bằng nay bốn biển không nhà/ Theo càng thêm bận biết là
đi đâu”. Trong sự an ủi có sự lo lắng, giải thích để Thúy Kiều an lòng ở lại.
Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi. Không gian mở ra vô
cùng rộng rãi, khoáng đạt xứng với tầm vóc vĩ đại, với tráng chí bốn phương của Từ
Hải. Câu thơ đã thể hiện hiện chí lớn của người anh hùng: khao khát được vẫy vùng,
tung hoành giữa trời đất cao rộng giống như lời giới thiệu của Nguyễn Du “Đội trời
đạp đất ở đời”. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi: tái hiện hình ảnh người anh hùng
Từ Hải: chim bằng tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng tạo nên sự
nghiệp lớn. Chim bằng bay lên cùng gió mây chính là hình ảnh người anh hùng Từ
Hải trong giây phút lên đường.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc là yếu tố tạo nên thành công của tác phẩm.
Từ Hải là hình tượng mang tính ước lệ được thể hiện qua hình ảnh, qua các hành
động cử chỉ. Từ Hải là con người sánh ngang tầm vũ trụ, mang trong mình hùng tâm tráng trí lớn lao.
Đoạn trích Chí khí anh hùng đã khắc họa thành công hình tượng Từ Hải với phẩm
chất và chí khí lớn lao của người anh hùng. Từ Hải mang trong mình khát vọng lớn
làm nên sự nghiệp vĩ đại. Qua nhân vật này, Nguyễn Du cũng gửi gắm mơ ước về tự
do, công lí trong xã hội cũ.
Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng - mẫu 11
Hội ngộ – rồi chia li đó là hai mặt của một quá trình. Nó là qui luật tự nhiên trong
đời sống con người và cũng như là qui luật tình cảm riêng tư khó nói thành lời.
Chẳng thế mà chia li đã trở thành đề tài, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ,
nhà văn đi vào khai thác sao. Từ trong câu ca dao quen thuộc: Vầng trăng ai xẻ làm
đôi; Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng đến vầng trăng ai xẻ làm đôi; Nửa in
gối chiếc, nửa soi dặm trường (Truyện Kiều – Nguyễn Du) và ngay cả Cuộc chia li
màu đỏ (Nguyễn Mĩ). Ta vẫn bắt gặp những giọt nước long lanh, nóng bỏng, sáng
ngời của kẻ ở – người đi. Nhưng có một cuộc chia li làm bạn đọc ấn tượng bởi Chí
khí anh hùng, tràn đầy niềm tin lạc quan, tươi sáng chứ không như:
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san.
Đó là cuộc chia li của Từ Hải với Thuý Kiều để lên đường đi khởi nghĩa. Đoạn Chí
khí anh hùng (Trích Thuý Kiều) thuộc phần gia biến và lưu lạc trên đoạn trường
mười lăm năm. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thuý Kiều được gặp Từ Hải, người
anh hùng rồi đây sẽ cứu vớt nàng ra khỏi cuộc đời thanh lâu đau khổ. Người mà đại
diện cho lí tưởng, đạo lí công bằng mà Nguyễn Du gửi gắm khi xây dựng trong tác
phẩm. Người mà Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng, tình cảm, khối mâu thuẫn khó giải
quyết bằng lời của tác giả.
Sau cuộc gặp gỡ đặc biệt, trong hoàn cảnh cũng rất đặc biệt, Thuý Kiều – Từ Hải đã
tìm thấy sự hòa hợp về tâm hồn của nhau, ở họ vừa có sự thấu hiểu chân thành vừa
có sự đồng cảm cho nhau. Hai khoảng trống về tâm hồn đã được lấp đầy, san sẻ cho
nhau bằng tình yêu. Sự tương xứng ấy tạo nên một kết thúc có hậu của miền cổ tích khi:
Trai anh hùng gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.
Trước khi đi vào tìm hiểu đoạn trích, ta hãy hiểu xem con người này có gì đặc biệt
mà Nguyễn Du dành nhiều ưu đãi khi xây dựng Từ Hải là người anh hùng lí tưởng.
Một ngựa, một gươm – Từ Hải đã vung lên lưỡi gươm công lí cứu vớt những con
người khốn khổ, và chắp .cánh cho ước mơ hoài bão của họ bay cao, bay xa mãi. Sự
xuất hiện một nhân vật mới trên chặng đường số phận của Thuý Kiều lần này mang
một ý nghĩa giá trị nghệ thuật đặc biệt. Hình tượng Từ Hải không chỉ phản ánh một
quan niệm mới mẻ, tự do về quan hệ luyến ái nam nữ:
Một đời được mấy anh hùng
Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi
Chính là lời nói giản dị, chân thành, trân trọng Thuý Kiều của Từ Hải đã là lời tỏ
tình tế nhị kín đáo mà phá vỡ khoảng cách vốn rất dễ xuất hiện giữa nhân vật anh
hùng với con người bình thường như Kiều. Có thể nói rằng Nguyễn Du thật có biệt
tài xây dựng, khắc họa tính cách từng nhân vật một cách đậm nét là rõ ràng. Đặc
biệt là nhân vật Từ Hải. Hơn bất cứ những hình tượng nào khác trong tác phẩm, Từ
Hải phản ánh khát vọng tự do một khuynh hướng tự do không chỉ vượt khỏi lễ giáo,
đạo đức chính thống mà còn là một người nổi loạn đối lập với trật tự chính trị phong kiến.
Hình tượng Từ Hải – con người đã san phẳng bất bình, bênh vực người bị áp bức
bằng nghĩa khí và tài năng cá nhân – tạo nên nội dung phong phú sâu sắc của
Truyện Kiều. Từ Hải dường như đã bẻ gãy xiềng xích mà xã hội phong kiến trói
buộc con người, chàng phủ định chính quyền nhà vua, và đối với chàng tự do cao hơn hết thảy:
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!
Với khí thế ngang tàng của sự tự do, không phải là cảnh:
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Mà lại cái tư thế hiên ngang giữa đất trời, thỏa chí anh hùng:
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
Hình ảnh cây cung và thanh kiếm đã tạo nên một nét mới trong tính cách của Từ
Hải. Cũng như Kim Trọng, Từ Hải cũng có một tâm hồn cao thượng và đượm chất
thơ. Nhưng khác với các nhân vật trong tác phẩm Từ Hải còn làm độc giả say mê
bởi cái cốt cách của một kẻ ngang tàng, hào phóng. Nguyễn Du xây dựng Từ Hải là
nhân vật lí tưởng có cốt cách phi thường, nhưng đứng trước Kiều "Tấm lòng nhi nữ
cũng xiêu anh hùng". Tuy nhiên chàng luôn đứng trên lập trường và lợi ích của
cộng đồng, tình cảm và lí tưởng của chàng luôn thống nhất chứ không đồng nhất. Vì vậy mà:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương,
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong.
Sống trong hạnh phúc yêu thương, khi hơi ấm tình cảm vợ chồng ở độ mặn nồng,
đằm thắm. Từ Hải vẫn không quên sự nghiệp lớn, chí làm trai mà theo như Nguyễn Công Trứ:
Chí làm trai nam bắc tây đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
Điểm này ở Từ Hải đã cho thấy sự phù hợp trong tính cách của chàng đó là đội trời
đạp đất ở đời. Tư thế ra đi của Từ Hải dứt khoát, không có chút lưu luyến – bịn rịn
như Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, không có lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Mà ở
đoạn trích chí khí anh hùng (Truyện Kiều – Nguyễn Du), người Trượng phu mang
trong mình tầm vóc lớn lao của thời đại giao cho, đối lập với một không gian bao la;
trông vời trời bể mênh mang là tầm vóc của người anh hùng: Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong.
Chỉ mới bốn câu thơ thôi Nguyễn Du đã khắc họa một nhân vật, người anh hùng
bằng xương bằng thịt. Bởi miêu tả là người anh hùng cho nên ngôn ngữ của Nguyễn
Du là sự kính phục, trân trọng. Cách miêu tả cũng khác, không gian, thời gian được
mở rộng để phù hợp với khí phách của nhân vật chăng? Người anh hùng ra đi không
muốn vướng bận nữ nhi, không chút mềm yếu trước lời nói của thê tử.
Nàng rằng: phận gái chữ tòng.
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Thuý Kiều là người sâu sắc đến mấy cũng không thoát khỏi chuyện phu – thê quyến
luyến. Nàng chỉ muốn theo Từ Hải đi để làm tròn bổn phận làm vợ của mình, mà
không nghĩ đến việc lớn của chàng. Vì thế Từ Hải đã trách khéo nàng tâm phúc
tương tư tức là hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc như thế, cần
gì phải quan tâm đến chuyện nghĩa theo chồng như đạo Nho bắt làm. Sau đó chàng
động viên Thuý Kiều ở nhà yên tấm đợi tin vui:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chuông dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Còn bây giờ giữa trời đất bao la bốn bể không nhà, nàng mà đi theo chỉ làm bận tâm
thêm, huống chi chưa biết rõ là đi đâu. Vì vậy nàng hãy dằn lòng chờ đợi chỉ một
hai năm vội gì. Thế rồi chàng:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
Hình con chim bằng được lấy từ điển tích từ truyện ngụ ngôn kể rằng chim bằng là
một giống chim rất lớn, đập cách làm động nước trong ba ngàn dặm, cho những
người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn
Du đã ví Từ Hải như là con chim bằng đã đến lúc tung cánh bay lên cùng gió mây.
Cuộc sống của một con người luôn khao khát không trung, tự do thỏa chí vẫy vùng,
không bao giờ chịu sống trong cảnh tù túng, gò bó một không gian nhỏ bé thường
ngày của người bình thường.
Khi miêu tả người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và cử chỉ
ngôn ngữ mang ý nghĩa mạnh mẽ, dứt khoát như: thoắt đã, thẳng giong, sao chưa
thoát khỏi, dậy đất, phi thường, vội gì, quyết lời dứt áo ra đi, đã lìa... Ngoài ra thêm
các từ chữ Hán để bộc lộ tư tưởng tình cảm của tác giả, rồi dung điển cố, điển tích...
và cả xây dựng thời gian, không gian mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang, bằng tiện...
Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vật Từ Hải dường như xuất hiện
từ một giấc mơ, từ một giấc mơ hùng vĩ về chính phía mà hàng triệu người khốn
khổ áp bức hằng ôm ấp. Vì vậy, mà khi xây dựng, Nguyễn Du đã có những sáng tạo
các phương thức nghệ thuật riêng, để biểu đạt khát vọng của mình và của thời đại
Nguyễn Du sống – khát vọng về sự tự do, công bằng lẽ phải. Từ một cuộc chia li mà
nói lên được toàn bộ chí khí anh hùng của Từ Hải.
Bài tham khảo mẫu 12
Truyện Kiều là kiệt tác trong sáng tác của Nguyễn Du, cũng là một trong những tác
phẩm làm nên sự hưng thịnh văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế
kỉ XIX. Qua Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du không chỉ thể hiện sự đồng cảm,
xót xa với cuộc đời truân chuyên của nàng Kiều mà còn gửi gắm ước mơ về người
anh hùng có thể cứu dân, dẹp loạn thông qua hình tượng Từ Hải. Trong đoạn trích
“Chí khí anh hùng”, nhân vật Từ Hải xuất hiện nổi bật với những phẩm chất phi
thường và khát vọng cao đẹp của người anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”.
Trải qua bao biến cố của cuộc đời, những tưởng cuộc đời Thúy Kiều mãi bị vùi dập
trong những đau đớn, ê chề thì Từ Hải đã xuất hiện, mang theo ánh sáng hi vọng
cho cuộc đời nàng. Có thể nói gặp gỡ và nên duyên cùng với Từ Hải là hạnh phúc
hiếm hoi trong cuộc đời của Thúy Kiều. Tuy nhiên, cuộc sống hạnh phúc với nàng
Kiều cũng không thể làm nguôi đi chí lớn của người anh hùng:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”
Sau nửa năm chung sống hạnh phúc với nàng Kiều, Từ Hải đã quyết định ra đi để
thực hiện nghiệp lớn. Từ Hải vốn là người người anh hùng đầu đội trời, chân đạp
đất với khát vọng tung hoành khắp muôn phương “nghênh ngang một cõi biên thùy”.
Vì vậy dù đang sống trong những ngày hạnh phúc nhất cuộc đời cùng người mà
mình yêu thương, trân trọng thì người anh hùng ấy cũng không thể quên đi chí lớn
của người làm trai “Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”.
Tư thế ra đi của Từ Hải được tác giả Nguyễn Du tái hiện qua một động từ “thoắt”
thể hiện sự mau lẹ, dứt khoát của người trượng phu. “Trời bể mênh mang” không
chỉ là hình ảnh ước lệ thể hiện sự rộng lớn trời đất, nơi người anh hùng thỏa sức
tung hoành ngang dọc mà còn gợi ra tầm vóc lớn lao, phi thường của người anh
hùng. Hình ảnh gươm ngựa “lên đường thẳng rong” góp phần làm nổi bật lên phong
thái ung dung, tư thế đĩnh đạc, hiên ngang của Từ Hải.
Thấu hiểu khát vọng và quyết tâm của Từ Hải, Kiều không ngăn cản mà bày tỏ
nguyện vọng muốn đi theo để tiện bề chăm sóc, nâng khăn sửa túi cho chồng:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi”
Thúy Kiều muốn đi theo Từ Hải để cùng sẻ chia, gánh vác làm trọn đạo “tam tòng
chữ đức” của một người vợ và làm trọn tình nghĩa với một người tri kỉ, một người
ân nhân có công cứu mạng. Tuy cảm động trước tấm lòng của nàng Kiều nhưng Từ
Hải đã quyết chí ra đi mà không muốn vướng bận bởi tình cảm nam nữ và cũng là
muốn bảo vệ nàng Kiều khỏi những hiểm nguy nơi chiến trường nên đã từ chối:
“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng binh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”
Dù hiểu được tấm lòng của Thúy Kiều nhưng Từ Hải vẫn cố gắng khuyên nhủ Kiều
và muốn nàng thoát khỏi thói “nữ nhi thường tình” và hứa hẹn về tương lai tươi
sáng, khi nghiệp lớn thành công, cơ đồ được gây dựng sẽ “rước nàng nghi gia”. Qua
những lời nói của Từ Hải với Thúy Kiều, ta có thể thấy được những phẩm chất tốt
đẹp của người anh hùng, Từ Hải không để tình cảm chi phối mà vô cùng quyết đoán,
dứt khoát với hành động của mình. Cũng cần phải hiểu rằng không phải sự dứt
khoát của Từ Hải khi ra đi là vì vô tình hay trọng công danh hơn tình cảm. Chàng là
người sống tình cảm hơn bất cứ ai, thay vì quyến luyến, động lòng thì Từ Hải muốn
thể hiện bằng hành động, bằng quyết tâm chiến thắng để mang đến nàng Kiều
không chỉ là danh phận mà còn là tình cảm.
“Bằng ngay bốn bể là nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”
Nếu ở những câu thơ trên Từ Hải có ý trách móc nàng Kiều vì sự yếu đuối của nữ
nhi thường tình thì ngay câu thơ sau chàng đã kín đáo thể hiện sự quan tâm, động
viên với nàng. Từ Hải mang tráng khí khắp bốn phương với toàn bộ quyết tâm và tự
tin nhưng chàng cũng hiểu rằng con đường mình đang đi sẽ vô cùng chông gai, đó
là cuộc sống màn trời chiếu đất, bốn bể không nhà. Từ Hải không muốn Thúy Kiều
đi theo một là không muốn vướng bận, hai là muốn nàng phải xông pha vào chốn
hiểm nguy cùng mình. Cuối cùng, để lại bao lưu luyến, Từ Hải dứt khoát lên đường:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”
Từ Hải là nhân vật hội tụ đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ, phi thường của người
anh hùng. Khi xây dựng nhân vật Từ Hải trong đoạn trích Chí khí anh hùng, tác giả
Nguyễn Du đã kín đáo thể hiện quan niệm về người anh hùng và ước mơ công lí.