-
Thông tin
-
Quiz
Phân tích Chinh phụ ngâm chọn lọc hay nhất | Ngữ văn 9
Chinh phụ ngâm là tác phẩm phản ánh thái độ chán ghét của tác giả trước những cuộc chiến tranh phi nghĩa đồng thời cũng nêu lên sự đồng cảm sâu sắc về nỗi cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc đôi lứa. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 9 444 tài liệu
Ngữ Văn 9 0.9 K tài liệu
Phân tích Chinh phụ ngâm chọn lọc hay nhất | Ngữ văn 9
Chinh phụ ngâm là tác phẩm phản ánh thái độ chán ghét của tác giả trước những cuộc chiến tranh phi nghĩa đồng thời cũng nêu lên sự đồng cảm sâu sắc về nỗi cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc đôi lứa. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!





Tài liệu khác của Ngữ Văn 9
Preview text:
Phân tích Chinh phụ ngâm chọn lọc hay nhất
Chinh phụ ngâm là tác phẩm phản ánh thái độ chán ghét của tác giả trước những cuộc chiến tranh phi
nghĩa đồng thời cũng nêu lên sự đồng cảm sâu sắc về nỗi cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ khao khát
được sống trong tình yêu và hạnh phúc đôi lứa. Kính mời quý bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây của Luật
Minh Khuê, bài viết sẽ cung cấp cho quý bạn đọc mẫu phân tích Chinh Phụ ngâm chọn lọc hay nhất.
PHÂN TÍCH CHINH PHỤ NGÂM CHỌN LỌC HAY NHẤT
Chinh phụ ngâm được tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII bằng chữ hán. Đây
là thời kỳ vô cùng khủng hoảng của chế độ phong kiến. Chiến tranh xảy ra triền miên, hết Lệ-Mạc đánh
nhau đến Trịnh-Nguyễn tranh giành quyền lực khiến đất nước chia làm 2 nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục
ruỗng, nông dân bất bình nổi dậy khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh lầm than, nghèo khổ, chồng xa vợ,
cha mẹ xa con. Văn học thời kỳ này chủ yếu tập trung vào phản ánh nỗi khổ đau của nhân dân và sự dã
man tàn bạo của giai cấp thống trị. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự
đồng cảm rộng rãi của mọi tầng lớp nhất là Nho sĩ. Nhiều bản dịch cũng đã xuất hiện, trong đó có bản dịch
sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo hơn cả, phác họa thành công lại cả giá trị nội
dung và nghệ thuật của nguyên tác.
Tác phẩm Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ của người dân căm ghét những cuộc chiến phi nghĩa, đặc biệt
là nêu lên khát khao được sống trong hòa bình, hạnh phúc đầy yêu thương mãnh liệt của con người. Đó là
điều ít được thể hiện trong thơ văn trước đây.
Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. Nàng miễn cưỡng tiễn đưa chồng ra trận với mong muốn người
chồng sẽ lập được nhiều chiến công vang dội và trở về trong sự vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi
rời xa đó, nàng sống trong tình cảnh cô đơn lẻ loi, ngày đêm tựa cửa mong chồng trở về. Thấm thía nỗi cô
đơn, buồn tủi đó, nàng chợt nhận ra rằng tuổi thanh xuân của mình đã trôi qua vô nghĩa mà không hề thực
sự có tình cảm lứa đôi. Người chinh phụ rơi vào hoàn cảnh cô đơn đến tột cùng. Khúc ngâm thể hiện rất rõ
tâm trạng cô đơn buồn tủi ấy.
Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra những tình cảnh chiến trường đầy chết chóc,
đẫm máu và nguy hiểm hiện ra trước mắt mà xót xa đến người chồng của mình đang phải ra trận. Một lần
nữa nàng tự đặt câu hỏi vì sao tình yêu đôi uyên ương lại phải chia xa? Vì sao bản thân mình lại rơi vào
tình cảnh như vậy? Bấy nhiêu câu hỏi mà nàng không có câu trả lời lại khiến nàng vô cùng day dứt. Tâm
trạng băn khoăn, day dứt ấy được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật miêu tả tâm lý tinh tế. Có thể
nói rằng, nỗi buồn và xúc cảm chủ đạo bao trùm lên cả đoạn thơ này.
Trong mười sáu câu thơ đầu, Đặng Trần Côn tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của người chinh phụ:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Nàng lặng lẽ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước trong nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn. Nhịp thơ chậm
như gợi cho người đọc cảm giác như thời gian đang đứng yên không chuyển động.
Giữa không gian tĩnh lặng, tiếng bước chân vang lên như chạm vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc đến
tột độ. Nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải khiến bước chân của nàng trở nên nặng nề. Trong người
nàng đang có một cảm giác bồn chồn, đứng ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên,
trong lòng đầy lo lắng mong một tin vui được báo về mà chẳng thấy.
Nàng khao khát có một người bạn đồng cảm và chia sẻ những nỗi tâm tình của mình. Trong không gian im
ắng ấy chỉ có ngọn đèn đối diện và bầu bạn với nàng. Ban đầu, nàng tưởng như ngọn đèn hiểu được
những nỗi tâm tư của mình, nhưng rồi lại nghĩ: Đèn vô tri vô giác thì nó làm sao mà hiểu được. Nhìn ngọn
đèn chong suốt năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, nàng chợt liên tưởng đến tình cảnh mà bản thân mình
đang mắc phải mà trong lòng rưng rưng nỗi nhớ thương tủi phận: Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Hình ảnh người chinh phụ gieo bước ngoài hiên vắng trong thầm lặng và suốt năm canh ngồi một mình bên
ngọn đèn chong, không biết tìm ai để có thể san sẻ nỗi buồn đã miêu tả được tâm trạng vô cùng cô đơn
buồn tủi tột độ của người chinh phụ.
Chỉ qua tám câu thơ tác giả đã thể hiện hết được sự cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ. Đó là cảm giác
dù ở bất cứ nơi đâu và bất kỳ thời gian nào cũng thấy bản thân mình lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài
phòng, trong phòng. Nỗi cô đơn tràn ngập khắp không gian và thời gian, ám ảnh nàng.
Cảnh vật xung quanh không những không san sẻ mà ngược lại còn như xát muối vào nỗi đau của nàng,
khiến nàng càng đau đớn, buồn tủi:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Tiếng gà gáy báo canh năm làm tăng thêm vẻ tĩnh lặng của xung quanh. Cây hòe phất phơ rủ bóng trong
ánh sáng lờ mờ của ban mai gợi cảm giác buồn bã, cô đơn. Người chinh phụ cảm thấy sự nhỏ bé, cô đơn
buồn tủi của bản thân giữa không gian biết nhường nào.
Ở các khổ thơ tiếp theo, dù tác giả không hề nhắc đến hai từ "chiến tranh" nhưng nỗi ai oán vẫn hiện rõ
trong từng chữ, từng câu
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Người chinh phụ đang cố gắng hết sức mình để tìm mọi cách vượt qua được cảm giác cô đơn buồn tủi đến
đáng sợ này. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho giảm bớt đi nỗi cô đơn, nhớ người chồng
yêu dấu nhưng dường như điều đó lại khiến nàng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng
là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi. Khi Hương gượng đốt thì tâm hồn nàng lại chìm đắm vào
nỗi lo âu thấp thỏm. Lúc Gương gượng soi thì nàng lại không thể cầm được nước mắt vì nhớ gương này
mình cùng chồng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh trong quá khứ hạnh phúc của mình
đang tàn phai. Nàng cố gảy khúc đàn long phụng sum vầy thì hình như tình cảm vợ chồng lại đang ngày
càng chia xa, đẩy những dự cảm chẳng lành: Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. Rốt cuộc, người
chinh phụ đành phải quay lại với nỗi cô đơn, buồn tủi, lẻ loi đang chất chứa trong lòng mình vậy.
Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình cảm vợ
chồng. Nay vợ chồng đã chia xa, tất cả đều trở thành vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám
nghĩ, đụng hay nhắc đến tới bất cứ thứ gì vì sợ chúng sẽ lại gợi lên trong ký ức nàng những cảm giác hạnh
phúc của gia đình ngày xưa, giờ đã trôi qua và linh cảm đến sự chia lừa đôi lứa trong hiện tại. Cảm giác của
nàng thật chơi vơi, bấp bênh khiến cho cuộc sống của nàng trở nên khó khăn, bất an. Mong chờ trong nỗi
tuyệt vọng, nàng chỉ còn biết gửi những nỗi niềm, tình cảm của mình theo làn gió:
Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt có một ý nghĩa rất thơ ngây:
nhờ gió gửi đến người chồng yêu dấu nơi chiến trường xa những nỗi nhớ thương của mình, đang đối đầu
với cái chết để mong kiếm chút tước hầu. Chắc chắn, mặc dù xung quanh chàng toàn là bom đạn nhưng
trong tâm trạng của chàng lúc nào cũng nhớ thương vô cùng mái ấm gia đình và bóng dáng người vợ thân
yêu, mẹ già và những đứa con thơ:
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Hình ảnh vũ trụ vô biên được tác giả đem ra so sánh khoảng cách của hai đầu nỗi nhớ: Nhớ chàng thăm
thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhớ người yêu, thăm thẳm con đường đến với nơi người yêu
đang chiến đấu, thăm thẳm con đường lên trời. Câu thơ hàm súc về mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình
thức. Đó là điều mà chưa hề được thể hiện trong thơ văn trước đây - nỗi nhớ trực tiếp của một con người
đang hạnh phúc trong tình yêu mà phải chia xa
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Hai câu thơ chan chứa sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác đau thương, cay đắng. Đất trời thì vô biên,
bát ngát, không có giới hạn, liệu có thấu nỗi đau mà nàng đang phải ngày đêm gánh chịu nơi cõi lòng người
chinh phụ này không? Nói như ngày xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? biết ngỏ cùng
ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng xoáy sâu vào thì lại càng gây nên nỗi đớn đau về thể xác:
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Giữa con người và cảnh vật dường như có sự hòa hợp, tương đồng với nhau khiến cho nỗi buồn tủi, cô
đơn trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được
nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn đau cho những mảnh đời bất hạnh, đơn côi. Sự buốt giá của tầm hồn càng
làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng giọt sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rả rích
trong đêm mưa gió, nhưng cảnh tình này lại gợi lên rất nhiều sóng gió, bao nỗi đoạn trường trong lòng
nàng. Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy đã thể hiện được sự bi kịch trong số phận của người phụ nữ ở thời kỳ
những cuộc chiến tranh phi nghĩa diễn ra triền miên, sống không được hạnh phúc, đồng thời cũng lên án
chiến tranh của tác giả.
Bầu trời bát ngát và nỗi nhớ không cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh phụ lại trở về với thực tế
cuộc sống đầy trái đắng của mình. Ý thơ chuyển từ tình sang cảnh. Thiên nhiên lạnh lẽo đến đáng sợ như
truyền vào tâm hồn người chinh phụ cô đơn:
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.
Hình như người chinh phụ đã hết sức sống khi phải trải qua sức tàn phá ghê gớm của thời gian đợi chờ.
Tuy nhiên đến câu: Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi thì không khí đã trở nên dễ chịu hơn, cũng
bởi người chinh phụ chỉ mới thất vọng mà chưa tuyệt vọng.
Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm:
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!
Ý thơ đi từ tình đến cảnh rồi lại quay lại tình, cứ dội qua dội lại như vậy nhằm thể hiện rõ tâm trạng đang ở
đâu, thời gian nào và như thế nào....người chinh phụ cũng chỉ vò võ một mình một bóng mà thôi!
Từ thốc rất mạnh trong câu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hiệu sự chuyển sang một trạng thái mới
của người chinh phụ. Cảnh hoa - nguyệt giao hòa làm một khiến cho lòng người trở nên rạo rực tràn đầy
hạnh phúc khi lứa đôi được đoàn tụ. Những động từ dãi, lồng toát lên cái ý lứa đôi quấn quýt gần gũi, âu
yếm bên nhau mà vẫn vô cùng kín đáo, tế nhị.
Từ ngữ được tác giả lựa chọn rất cẩn thận, tỉ mỉ: Dạo hiên vắng gieo từng bước, Sương như búa, bổ mòn
gốc liễu, Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô, Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên....Đặc biệt, các từ láy được
tác giả sử dụng rất thành công: eo óc, đằng đẵng, phất phơ, dằng dặc, châu chan, mê mải, thăm thẳm, đau
đáu....về nhạc điệu, nhạc điệu du dương của thể thơ song thất lục bát cũng được tác giả thể hiện rõ nét,
giống hệt những làn sóng dạt dào đang vỗ vào bờ, thể hiện được tâm trạng người chinh phụ thương, nhớ
lẫn lộn trong tình cảm lẻ loi đơn chiếc.
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã phác họa thành công tâm trạng chân thực vô cùng phong
phú cùng các cung bậc cảm xúc của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được hòa quyện vào nhau rất
phù hợp với tâm trạng của người chinh phụ.
Thông qua tâm trạng buồn đau buồn tủi của người chinh phụ đang sống trong tình cảnh lẻ loi vì người
chồng đang phải ra trận chiến đấu phi nghĩa tranh giành quyền lực lại cho các vua chúa, tác giả đã đề cao
hạnh phúc đôi lứa và thể hiện tinh thần phản căm ghét cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ
ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương; một thời, đó là tư tưởng quyền được sống và mưu
cầu hạnh phúc chính đáng của con người phải được đảm bảo.