Phân tích Chữ người tử tù Hay Chọn Lọc | Văn mẫu 11 Cánh diều

Xin giới thiệu tới bạn đọc Phân tích Chữ người tử tù để bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn và thầy cô cùng tham khảo chi tiết và tải về bài viết dưới đây nhé.

Chủ đề:

Văn mẫu 11 256 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 11 1.1 K tài liệu

Thông tin:
39 trang 8 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích Chữ người tử tù Hay Chọn Lọc | Văn mẫu 11 Cánh diều

Xin giới thiệu tới bạn đọc Phân tích Chữ người tử tù để bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn và thầy cô cùng tham khảo chi tiết và tải về bài viết dưới đây nhé.

115 58 lượt tải Tải xuống
Phân tích Ch ngưi t Ng văn 11
Dàn ý Phân tích Ch ngưi t
I. M bài
- Gii thiệu đôi nét v tác gi Nguyn Tuân: Một cây bút tài hoa độc đáo, vị
trí quan trng trong nền văn học hiện đại Vit Nam.
- Khái quát chung v tác phm Ch ngưi t tù: Mt truyn ngn tiêu biu cho
phong cách tài hoa ngh của ông, được in trong tp Vang bóng mt thi
(1940).
II. Thân bài
1. Tnh hung truyn
+ Không gian: nhà tù. Đây không phải là nơi dành cho những cuc gp g.
+ Thi gian: nhng ngày cuối cùng trước khi ra pháp trưng ca Hun Cao.
Không gian và thi gian góp phn to nên kch tính cho tình hung.
- Cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường:
Cuộc hội ngộ diễn ra giữa chốn ngc tù căng thng
2. Nhân vt Hun Cao
a. Mt ngưi ngh tài hoa
- Ngưi khp vùng tnh Sơn khen Huấn Cao là người:
+ có tài viết ch “rt nhanh và rất đẹp”.
+ Chữ ông Huấn Cao đẹp lm, vuông lắm đưc ch ông Hun treo
là có mt báu vt trên đời”.
b. Một con người có khí phách hiên ngang bt khut
- Là th lĩnh của phong trào khởi nghĩa chng li triều đình.
- Ngay khi đặt chân vào nhà ngc: Thản nhiên rũ rệp trên thang gông:
khí phách, tiết tháo ca nhà Nho
- Khi được viên qun ngc biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vn
làm trong cái hứng bình sinh”
phong thái t do, ung dung, xem nhi chết.
- Tr li qun ngc bằng thái độ khinh miệt: “Ngươi hỏi ta mun ... vào
đây”.
Không khut phc trước cưng quyn.
khí phách ca một người anh hùng.
c. Mt nhân cách, một thiên lương cao cả
- m hồn trong sáng, cao đẹp: “Không vàng ngc hay quyn thê ép
mình viết câu đối bao gi trọng nghĩa, khinh lợi, ch cho ch những người
tri k.
- Khi chưa biết tm lòng ca qun ngc: xem y là k tiu nhân
- Khi biết tm lòng 'bit nhn liên tài'' ca qun ngc: Hun Cao nhn li cho
ch
Ch cho ch nhng người biết trân trọng cái tài và quý cái đp.
- Câu nói ca Hun Cao vi qun ngc: “Thiếu chút na ... trong thiên hạ”
S trân trọng đối vi những ngưi s thích thanh cao, nhân cách cao
đẹp.
Hun Cao là mt anh hùng - ngh sĩ, một thiên lương trong sáng.
3. Nhân vt qun ngc
a. Tm lòng bit nhn liên tài
- Trong nhng ngày Hun Cao trong ngc, qun ngc luôn y t thái độ
nghiêm kính khiêm nhường
- Dũng cm biệt đãi Hun Cao
- Cm thy tiếc nui khi biết Hun Cao sp phi t gi cõi đời: “Bấy nhiêu ...
vũ tr”.
b. S khát khao và trân trọng cái đẹp
- Khát khao cái đẹp: mong ước của ông “được treo nhà riêng một đôi câu
đối” do chính tay Hun Cao viết.
- Lo lng nếu như không xin được ch ông Huấn trước khi b hành hình thì “ân
hn sut đi mt”
4. Cnh cho ch
- Thời gian: đêm trưc khi Hun Cao ra pháp trường chu án chém, khi ch còn
“vng có tiếng mõ trên vọng canh”
- Địa đim: tri giam tỉnh Sơn
- Không gian: bung ti cht hp, m ưt...
- Đây là "cảnh tượng xưa nay chưa từng có" :
+ Thân phận và hành đng ca ngưi cho ch và nhn ch đặc bit:
+ Xây dựng được các cp phạm trù đối lp nhau
- Chi tiết qun ngc cúi đầu vái ly người t Hun Cao: s thc tỉnh trưc
cái đẹp, qun ngc đã thoát ra những cái tm thưng, ràng buc đ ơn tới cái
cao đp.
Toàn b cnh cho ch bài ca tôn vinh cái đẹp, cái thiện, cái thiên lương
ca con ngưi trong hoàn cnh tối tăm ngc tù bc nht.
III. Kết bài
- Khng định nhng nét ngh thut đc sc làm nên thành công ca tác phm
- Ch người t một văn phẩm xut sc đạt “gần đến s toàn thin, toàn
mĩ” (Vũ Ngc Phan)
Phân tích Ch ngưi t tù mu 1
Nguyn Tuân một nvăn ln ca nền n hc Vit Nam hiện đại. Nói đến
Nguyễn Tuân là nói đến mt ngh tài hoa. Mỗi lời văn ca Nguyễn Tuân đều
là nhng nét bút trác tuyt như một nét chm khc tinh xo trên mặt đá quý ca
ngôn ng (T T). Mt trong nhng nét t trác tuyệt đó tác phẩm Ch
người t tù. Ni bt lên trong tác phẩm nh tượng nhân vt Hun Cao
cnh cho ch - mt cảnh tượng xưa nay chưa tng có.
Hun Cao nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đu biết
văn học lãng mạn thưng mô t theo nhng mẫu hình tưởng. nghĩa là nhà
vàn thường th trí ởng tượng của mình đ theo đuổi nhng v đp hoàn ho
nht. Bi thế nhân vt viết theo li lãng mn có tm vóc phi thường.là biu
hin cho nhng gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Hun Cao là thế. T đầu đến
cui, ông hiện ra như một con người phi thường. T tài hoa đến thiên lương, từ
thiên ơng đến khí phách, nht nhất đều tm vóc phi thường. th nói
Hun Cao là mt giấc mơ đầy tính nhân văn ca ngòi bút Nguyn Tuân.
nhân vt tài hoa ngh sĩ, phẩm chất đầu tiên ca Hun Cao tài hoa. Thiên
truyện đưc m đầu bng cuộc đối thoi ca hai nhân vt qun ngc thơ li.
đây tuy Huấn Cao hin lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thy ông ni
tiếng với tài văn song toàn, uy danh đn khp cõi tỉnh Sơn. Cái tài được
đậm nht nhân vt này tài viết ch đẹp. Đó là nghệ thuật thư pháp - mt b
môn ngh thut truyn thng cao siêu ca dân tc. s gi gm, thác
toàn b nhng tâm nguyn sâu xa ca mình. Bi thế mi con ch mt tác
phm ngh thut sâu xa ca mình. Bi thế mi con ch mt tác phm ngh
thut, s kết tinh nhng v đẹp tâm hn của người viết. Mi con ch hin
thân ca khí phách, ca thiên lương và tài hoa. Chữ Hun Cao th hin nhân
cách Hun Cao. quý giá không ch được viết rt nhanh, rất đẹp, đẹp lm,
vuông lm trước hết đó những con ch nói lên khát vng tung hoành
ca một đời con người. Chính thế được ch ca ông Huấn Cao đã tr
thành tâm nguyn ln nht, thiêng liêng nht ca qun ngc. Để được ch
Hun Cao, qun ngc sẵn sàng đánh đổi tt c, k c s hi sinh v quyn li
sinh mnh ca mình. Nhưng Huấn Cao không ch một đng tài hoa, sâu xa
hơn, ông còn có mt tm lòng - đó tấm ng biết quý trọng thiên lương của
con ngưi.
Một nhà văn ớc ngoài đã nói v chân sâu xa. y đp vào trái tim mình
thiên tài đó. Thì ra gc của tài năng trái tim, gc ca cái tài cái tâm.
Tm lòng biết trọng thiên ơng gc r ca nhân cách Hun Cao. Trong mt
Hun Cao, qun ngc chmt k tầm thưng không làm ngh thất đức. Bi lí
Huấn Cao đã thể hin s khinh b không cn giu giếm, đến khi nhn ra viên
ngc mt thanh âm trong tro chen o gia bản đàn nhạc luật điều hn
lon xô b thì Hun Cao rt ân hn. Bng tt c s xúc động, Huấn Cao đã nói:
Ta cm cái tm lòng bit nhn liên tài của các ngươi... Thiếu chút na ta ph
mt tm lòng trong thiên h. Câu nói y đã mở cho chúng ta thy phương
châm ca mt nhân cách sng là phi xng đáng với nhng tm lòng.
Cm hng lãng mn bao gi cũng xui khiến các ngh khắc ha nhng hình
ng sao cho hoàn ho thậm chí đến mức phi thưng. Ông Huấn Cao cũng thế.
Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng y tr thành một con ngưi siêu phàm
vi việc đậm mt kphách siêu việt. Căm ghét hi thi nát, ông đã cầm
đầu cuc khởi nghĩa chng li triều đình, sự nghiệp không thành, ông lĩnh án tử
hình. Nhưng tù đày, gông cùm và cái chết cùng không khut lạc đưc ông. Ông
luôn tìm thy những nơi tự do b c bỏ. Đối vi Hun Cao, mi s trói
buc, tra kho, giam cầm đều nghĩa. khi qun ngc hi ông muốn để
giúp, ông đã trả li bng s khinh bạc đến điều... li nói ca ông th
nguyên c để ông phải c ly nhng trn tr đũa. Nhưng một khi đã nói
nghĩa ông không hề run s, không h quy phc trước cường quyn bo
lc. th Hun Cao sng sng trong sut c thiên truyện như một khí phách
kiên cường bt khuất, uy vũ bất năng khuất.
Nhng phm cht tuyt vi đó ca Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tưng
cui cùng Nguyễn Tuân đã gọi cảnh ợng xưa nay chưa từng - cnh
cho ch. Cnh cho ch s biu hin sống động rc r ca tài hoa, thiên
lương và khí phách của Hun Cao.
Mun hiểu đưc giá tr sâu sc ca cnh cho ch cho chúng ta không th không
nói ti quá trình dẫn đến cnh cho ch y. Người tinh ý s d nhn thy rng
câu chuyn hai phn rt: Phần đầu gii thiu các nhân vt dn dt câu
chuyn chun b cho phn sau. Phn sau khc ha cnh cho ch. Nếu không có
phn hai thì phần đầu ch nhng mu vn vt, thiếu sc sng. Bi thế phn
hai tuy ngắn nhưng lại kết tinh ca toàn b câu chuyn. bút lc ca
Nguyn Tuân càng dn vào phần y đm nht. Toàn b câu chuyn xoay
quanh mt tình huống đặc biệt. Đó cuc gp hết sc éo le ca Hun Cao
qun ngc - Nơi gặp g nhà tù, thi gian nhng ngày cuối cùng trước khi
ra pháp trường ca Hun Cao. Những điều này m cho nh thế tr nên ngt
nghèo, bc xúc, khó xoay sở. Nhưng oái ăm hơn cả vn thân phn ca hai
nhân vt, v nh din hi, h nhng k đối địch. Một người k phn
lon, m ni dy chng li th chế đương thời, còn người kia li mt viên
quan đại din cho chính th y. Nhưng về bình din ngh thut, h li hai
người tri âm: Một ngưi tài viết ch đẹp còn ngưi kia lại vô ng ngưng
m cái tài đó. Sự trái ngược này đã đặt qun ngc trưc s la chn nghit ngã:
hoc mun làm tròn bn phn cua mt viên quan thi phi chà đạp lên tm
lòng tri k hoc mun trọn đạo tri k phi phn bi li chc phn ca mt viên
quan. Qun ngc s nh động như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thì
tư tưởng tác phm s nghiêng v hướng đó.
Vi một tương quan như vậy, quan h gia h ban đầu rất căng thng. Tâm
nguyn ln nht ca qun ngc là có được ch ca ông Huấn Cao nhưng đây là
hội cui cùng. Còn Hun Cao tuy tài viết ch nhưng lại ch cho ch
nhng ai ông cho tri k. Vy mun ch ca Hun Cao thì qun ngc phi
được ông tha nhn tri k trong vòng my ngày tới. Điều đó lại dường như
không th đạt được. Trong mt Hun Cao, qun ngc ch k tiu nhân, gia
h mt vực sâu ngăn cách. Thực ra qun ngc cũng những ưu thế để đối
x vi những người thông thưng. Đó ông ta thừa quyn lc tin
bạc. Nhưng Huấn Cao không phi hng tiểu nhân như thế, quyn lc không ép
được ông cho ch, tin bạc không mua đưc ch ông. May thay viên qun
ngc li mt tm lòng trong tro - tm lòng bit nhn liên tài. tm ng
này đã khiến cho Hun Cao cm đng. S cảm động này ca Hun Cao ci
ngun dẫn đến cnh cho ch.
Vy vic Hun Cao cho ch không giống như việc tr n mt cách tm
thưng, không ging vic mt k sp b t hình đang đem tài sản cui cùng cho
người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng mà đ Hun Cao trình din tài
năng, về bn cht vic cho ch s xúc động ca mt tm lòng trưc mt tm
lòng.
cnh cho ch được Nguyn Tuân gọi đó cảnh xưa nay chưa từng có. Bi
trưc hết l ra phi din ra nơi sang trọng, đàng hoàng thì lại din ra
trong căn buồng giam cht hp, hôi hám, bn thỉu. Và người đem cho cái đp l
ra phi thuc thế gii t do thì đây lại t sp b hành hình. Đặc bit
đây diễn ra mt s đổi ngôi xưa nay chưa từng có. K cm quyn hành trong
tay thì b c hết quyền uy, khúm m trưc Hun Cao, k ng chng b
mt hết quyn sng ông Hun Cao tr nên đầy quyền uy khi chăm chú
đậm nhng nét ch cho qun ngc nhng li khuyên. qun ngc vái ly
Huấn Cao như một bc thánh nhân: K mê muội này xin bái lĩnh. Cảnh cho ch
khng định s chiến thng của cái đẹp, thiên lương trước cái xu, cái ác.
Trong căn phòng giam ẩm tháp đó, ánh ng rc r của đuốc đã đẩy lùi
bóng tối, mùi thơm của chu mực đã xua đuổi mùi phân chut, phân gián, màu
trng ca tm la bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này cái đẹp đang lên
ngôi, cái đẹp đang đăng quang, chiến thng hoàn toàn cái xu. Trong nhng
con ngưi y lúc này ch còn nim kính trng, tôn ng cái đẹp. thiên
lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đưng dn dt qun ngc - mt k
nhầm đường, lc lối. Qua đây tác giả cũng khng định rằng cái đp th tn
ti mọi nơi, mọi lúc, chiến thng mi cái xấu, cái ác. cái đẹp th cu
ri linh hn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, ch lại gần nhau hơn.
Cái đẹp s không mất đi ngay cả khi b vùi dập. Đó giá trị nhân văn của
tác phm.
Vi ngh thut v mây, ny trăng và ngh thuật đối lp, Nguyễn Tuân đã làm
ni bật nh tượng Hun Cao khng định s chiến thng của cái đẹp. Đồng
thời nhà văn còn s dng h thng ngôn ng c: bit nhỡn liên tài, thiên lương,
bái lĩnh, s nguyn... mang li cho truyn bu không knhịp điệu ca thi
phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyn ca mt thi vang bóng.
Phân tích Ch ngưi t tù mu 2
Tình hung truyện được tái dng trong tác phm tác dng của đi vi
vic bc l tính cách nhân vt và kch tính ca truyn.
Tình hung truyn là tình thế xy ra trong truyn, to cho câu chuyn thêm đặc
sc. Tình hung truyn biu hin mi quan h gia nhân vt này vi nhân vt
khác, gia nhân vt vi hoàn cnh sống, qua đó bc l tâm trng tính cách suy
nghĩ... của nhân vt.
Nguyễn Tuân đã xây dng mt tình hung truyện độc đáo, đặc sc, giàu kch
tính cho hai tuyến nhân vt trong tác phm ca mình. Hai nhân vật đó Huấn
Cao - người t tù phm tội đại nghịch đang bị giam ch ngày nh quyết,
người tài hoa ni tiếng viết ch đẹp... nhân vt viên qun ngc - người qun
nhân, đại din cho cái trt t hội đương thời nhưng lại rất yêu cái đẹp,
hâm m người tài tấm lòng lương thiện. Trên bình din hi, h hoàn
toàn đôi lập nhau: nhưng họ lại cùng điểm chung say cái đp tao nhã
và đều có tâm hn thanh khiết, lương thiện, biết đãi ngộ nhân tài. Như vy, trên
bình din ngh thut, h li là tri k ca nhau.
Hoàn cnh gp g ca h thật éo le: đó nơi ngc tối m, nhơ bẩn, nơi
người y qun ngưi kia. Tình hung y dẫn đến xung dt trong ni m
ca viên qun ngc: làm thế o để va làm tròn phn s ca một người canh
li va gi trn tm lòng đối vi một người tài hoa mình tng quý trng
ao ước gp mt. T đây nảy sinh nhiu kch tính: người t thành ngưi
viên qun ngc nh v mun xin chữ; đồng thi lại người m đường
hướng thin cho cuc sng v sau ca viên qun ngc. Chính tình huống độc
đáo y đã giúp làm ni bt trn vn, t nhiên v đẹp của hình tượng nhân vt
Hun Cao và làm sáng t tm lòng biệt đãi người tài ca viên qun ngc.
Nhng v đẹp đc đáo của nhân vt Hun Cao
Hun Cao một người tài hoa khác thường. Ông tài viết ch rất đẹp, "ch
đẹp vuông lm", khiến nhiều người ước được ch viết ca ông treo
trong nhà của mình, trong đó có viên quản ngc.
Hun Cao một con người hiên ngang, khí phách, một anh ng đầu di
trời chân đạp đất. Mt t đợi ngày ra pháp trưng vn gi trng thái ung
dung, t ti không h nao núng. Đến cnh chết chém ông còn chng s. S
ngang tàng của ông n được th hin qua thái đ không qu ly trước cường
quyền và hơn nữa li còn mit th viên qun ngc.
Ông còn một người có thiên lương trong ng và cao đẹp. Ông không phi là
một con ngưi sắt đá, ông cũng biết quý trọng người ngay, người tri k. Khi
hiểu được tấm chân tình thái độ t ch khinh miệt, coi thường, chng
sang thái độ tôn trọng. Đó thái độ n trng đối với con ngưi nhân cách
sng tt dẹp: trong ngưi tài, yêu cái thú vui tao nhã, thanh khiết. Ông sn sàng
cho ch - cái ch mà không cưng quyn và bc tin nào có th mua được - cái
ch c cuộc đời ông ch mi viết cho ba ngưi bn thân. Tuy nhiên, cái
đáng quý nhất cái th hiện thiêng lương cao đp ca ông chính nhng
li khuyên chân thành, cuối ng đối vi viên qun ngc trước khi vào kinh
thành th án. " đây ln ln. Ta khuyên thy qun nên thay chn đi... đây
thiên lương khó giữ cho lành vng rồi cũng đến nhem nhuc mất cái đi
lương thiện đi".
Cho ch để cu người cái tâm cao đẹp ca Hun Cao. Cái tâm không ch
lòng nhân ái n sc mnh cm hóa lòng người. Ông đã khiến viên
qun ngc cm phc "Chắp tay vái ngưi mt vái... nói mt u dòng
nước mt r vào k ming làm cho nghn ngào: k mê muội này xin bái lĩnh".
Tính cách và tâm hn ca nhân vt viên qun ngc
Nhân vt viên qun ngc xut hin trong tác phm làm ni bt ch đề ca tác
phẩm. Đây một con người không sáng tạo được cái đẹp nhưng li biết trân
trng yêu mến ci đp.
mt ngc quan chu trách nhim canh gi nhân, giúp ích cho b máy cai
tr đương thời nhưng viên quản ngc không phi k không thiên lương,
tàn ác, xảo trá ngưc li ông vn gi đưc nhân cách sng cao quý trong
cnh tù ngc tối tăm, nhiều cám d.
Viên qun ngc biết trân trng giá tr con người, biết quý trọng nhân tài. Điều
này th hin qua nhng chi tiết v những hành đng biệt đãi đối vi Hun
Cao và những người bn tù ca Hun Cao.
Ông một người s thích tao nhã, cao quý: đó thú chơi chữ. S nguyn
c đời của ông được đôi câu đối do chính tay Hun Cao viết để treo trang
trng trong nhà. Cái s nguyn y mnh m vượt qua c ni s hãi, bt chp
mi nguy hiểm đến bản thân, m đảo ln trt t trong tù, biến mt phm nhân
có án t hình thành mt thần tượng để mình tôn th.
Din hiến nội m, hành đng cách ng x ca viên qun ngc chng t
sng nơi m tôi nhưng ông vn gi được nhân cách cao đp - mt tm lòng
trong thiên h, xứng đáng tr thành bn tri k ca Hun Cao. Nhân cách và tâm
hn ca viên qun ngc theo như nhận xét ca Hun Cao "mt âm thanh
trong tro xen gia bản đàn mà nhạc lut đu hn lon xô b".
Cnh cho ch trong nhà lao
Cnh cho ch trong nlao vào đêm khuya tăm ti mt trong nhng sáng
to tuyt vi ca tác gi nhm làm bc l v đẹp hình tượng ca nhân vt Hun
Cao. Đây là mt cnh tượng trước đây chưa từng có. Mt cảnh tưng mà khung
cnh ni dung của hoàn toàn trái ngược nhau: cnh cho ch vn thanh
tao, tươi sáng, đẹp đẽ li din ra trong chn ngc bẩn tối tăm, m thp.
Nhưng chính trong cảnh ợng như thế, cái đẹp, cái thin li càng chng minh
tĩnh giá tr ca nó.
Ngưi ngh sĩ vượt qua những gông cùm, đau đớn để hiện mình tươi sáng hơn,
uy nghi, lng lộng hơn để viết n nhng nét ch xinh đp, nhng m huyết
ca c đời mình: trong khi đó, người vốn đại din cho uy quyn li tr nên
khúm núm, run run đón nhận tng nét ch quý giá mà c đời tâm huyết.
Trt t k ơng của nhoàn toàn b đảo ngược: nhân tr thành người
ban phát cái đẹp, cái lương thin, thanh cao còn ngc quan vốn đại din cho
công lí li tr nên nh bé, hèn mn.
Gia chn ngc tàn bo, không phi k thng tr làm ch mà là ngưi tù làm
ch, cái thin vn hin lên mnh m chiến thắng được cái ác. Đó s chiến
thng của ánh sáng đối vi ng ti; s tôn vinh cái đẹp, cái thin nhân
cách cao c ca con ngưi.
Phân tích Ch ngưi t tù mu 3
Nguyễn Tuân trước Cách mng tháng m một nhà văn duy mĩ. Ông yêu
đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn th cái đẹp. Theo ông là đỉnh cao
của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sc. Ông miêu
t cái đp bng kho ngôn ng giàu ca riêng ông. Nhng nhân vt hin lên
trong tác phm ca Nguyn tuân phi là hin thân của cái đẹp. Đó là những con
người tài hoa hoạt động trong nhng hoàn cảnh, môi trường đặc bit, phi
thưng. Ông phát hin, miêu t cái đẹp bên ngoài bên trong ca nhân vt.
Trong cái đẹp ca ông bao gm cái chân thin. Ông li còn kết hợp với
dũng. Truyện ngắn “Chữ người t tù” (1939) trong tập Vang bóng một thời”
áng văn hay nht, tiêu biu nht ca Nguyn Tuân. Giá tr tưởng dng
công ngh thut ca Nguyễn Tuân đưc th hin ch yếu trong đoạn văn tả
“mt cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng một người t cho ch
mt viên cai ngc.
Ông Hun Cao trong truyện “Chữ người t tù” một nho tài hoa của mt
thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mu
nhà thơ, nhà giáo, một lãnh t ca cuc khởi nghĩa nông dân Cao Quát,
một con người hết sc tài hoa dũng khí phi thường để sáng to ra nhân vt
Hun Cao (Cao h, Hun dy). Cao Quát trưc khi tr thành lãnh t
nông dân cũng thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách ca nguyên
mẫu để y dng nhân vt Huấn Cao. Cao Quát, ngưi viết ch đẹp ni
tiếng khí phách lng ly. Xây dng nhân vt Hun Cao, Nguyn Tuân va
th hiện tưởng thẩm của ông li va tha mãn tinh thn ni lon ca ông
đối vi xã hội đen ti tàn bo lúc by gi.
Truyn hai nhân vt chính, mt ông Hun Cao tài viết ch đẹp, mt
na viên qun ngc say ch đẹp ca ông Hun, quyết tìm mọi cách để
“xin ch” treo trong nhà. Lão coi ch ca Huấn Cao như báu vật.
H đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngc. Người có tài viết ch đẹp
li một tên “đại nghịch” cầm đầu khỏi nghĩa nông dân (triều đình gọi ni
lon, giặc) đang bị bt giam ch ngày th hình. Còn người mê ch đẹp ca ông
Hun Cao li mt qun ngc đại din cho cái trt t hi y. Trên bình
din ngh thut h tri âm tri k, trên bình din h h hai v trí đối lp.
Tình hung ca truyn tính kch. T tình huống đầy kch tính y, tính cách
hai nhân vật được b l ng ch đề ca truyện được th hin mt cách
sâu sc.
Huấn Cao nói: “Ta nht sinh không vàng ngc hay quyn thế mà ép mình
viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao coi thưng tin bc uy quyền, nhưng Hun
Cao vui lòng cho ch viên qun ngc vì con người sng gia chốn bùn nhơ này,
nơi người ta ch biết sng bng tàn nhn, bng la lc li có k biết trọng người
có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp ca ch nghĩa “ta cảm cái tm lòng bit nhn
liên tài của các ngưi. Nào ta có biết đâu một người nthy quản đây li
nhng s thích cao quí như vậy”. Viên quản ngc cũng không d nhn
được ch ca Hun Cao. Hắn đã bị nghi ng, b đuổi. ln hn mon men vào
ngc định làm quen biệt đãi Huấn Cao đ xin ch thì li b Hun Cao c
tuyệt: “ngươi hỏi ta mun gì? Ta ch mun có một điều. nhà ngươi đừng đặt
chân vào đây”. Về sau hiểu được tm lòng ca viên qun ngc, ông đã nói một
li sâu sc cm động: “thiếu chút nữa ta đã ph mt tm lòng trong thiên
h”.
Coi khinh ng quyn tin bc, Hun Cao ch trng nhng tm ng biết
quí cái đẹp, cái tài, s thích cao quý. Những con ngưi y theo Hun Cao
còn gi được “thiên ơng”. Ông khuyên viên qun ngc b cái ngh nhơ bẩn
của mình đi “ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vng rồi cũng đến
nhem nhuc mt c đời lương thiện đi”.
Huấn Cao còn đẹp khí phách. Ông một người t gần đến ngày t hình
vn gi được thế hiên ngang, đúng khí phách ca mt anh hùng Cao
Quát. “Đêm hôm y, lúc tri giam tỉnh Sơn ch còn vng tiếng trên vng
canh, mt cảnh tượng xưa nay chưa từng đã bày ra trong một bung ti cht
hp, ẩm ướt, đầy mng nhện, đất ba bãi phân chuột, phân gián”. Tác gi c ý
miêu t bằng cách tương phn gia tính cách cao quí ca Hun Cao với cái
dáy, bn thu ca nhà tù, mt hình nh thu nh ca xã hi thi by gi.
V đẹp rc r ca Hun Cao hiện lên trong đêm viết ch cho viên qun ngc.
Chính trong tình tiết y, cái cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rc
ca một đuc tm dầu, “một người c đeo gông, chân vướng xiềng, đang
dm nét ch trên tm la trắng tinh căng trên mảnh ván. Ngưi viết xong
mt ch, viên qun ngc li vi khúm núm ct những đồng tin km đánh du
ô ch trên phiến la óng”. Hình ảnh ngưi t tr nên ch động. Viên qun
ngc và viên thư li tr nên nh bé, b động, khúm núm trước ngưi t tù.
sao Nguyn Tuân lại nói đây một cảnh tượng xưa nay chưa từng
có”?
Cnh tượng y qu l lùng, chưa từng trò chơi chữ nghĩa thanh tao
phần đài các li không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, li diễn ra nơi
ngc ti cht hp, bn thu, hôi hám.
Cảnh tượng l lùng chưa từng thy hình nh tên t cho ch thì ni bt lên
uy nghi lng ly, còn viên qun ngc và thư lại, nhng k đại din cho hi
đương thời thì li khúm núm run ry.
Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hin thân cho cái ác, cái tàn bạo đó,
không phi cái ác, cái xấu đang thống tr mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện,
cái cao c đang làm chủ. Vi cnh cho ch này, cái nhà ngc tăm tối đã đổ sp,
bi không còn k phm ti t tù, không qun ngc thư lại, ch
người ngh sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng m sùng kính
ca nhng k liên tài, tt c đều thm đẫm ánh sáng thun khiết của cái đẹp, cái
đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng vi cảnh y, người t đang đi vào
cõi bt t. Sáng mai ông s b t hình, nhưng nhng nét ch vuông vắn, tươi
đẹp hin lên cái hoài bão tung hoành c một đời ca ông trên la bch s còn
đó. nhất li khuyên của ông đi vi tên qun ngc th coi li di
hun ca ông v đạo làm ngưi trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm
ca Nguyễn Tuân cái Đẹp gn lin vi cái Thiện. Người say cái đp
trưc hết phải người thiên lương. Cái Đp ca Nguyn Tuân còn gn vi
cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp hình ng Hun Cao vi khí phách lng
lẫy đã sáng rực c trong đêm cho chữ trong nhà tù.
Bên cạnh hình tượng Hun Cao lng lng, ta còn thy mt tm lòng trong thiên
hạ. Trong đêm cho ch, hình nh viên qun ngc cũng cảm động. Đó âm
thanh trong tro chen vào gia mt bản đàn nhạc luật đều hn lon b.
Cái thế khúm núm, ging nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh cử ch
run run bưng chậu mc không phi s qu ly hèn h thái độ chân
thành khiến ta có cm tình với con người đáng thương này.
Đon truyn ông Hun Cao cho ch đoạn văn hay nhất trong truyn ngn
“Chữ người t tù”. Bút pháp điêu luyn, sc so khi dựng người, dng cnh,
chi tiết nào cũng gợi cm, y ấn tượng. Ngôn ng Nguyn Tuân biến hóa,
sáng to, hn, nhịp điệu ba. Một không khí c kính trang nghiêm đầy
xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.
“Chữ người t tù” không còn “chữ” nữa, không ch M thôi,
“nhng nét ch ơi tn nói lên nhng hoài bão tung hoành ca một đời
người”. Đây sự chiến thng của ánh sáng đối vi bóng tối. Đy s chiến
thng của cái đẹp, cái cao thượng, đối vi s phàm tc nhơ bẩn, cũng sự
chiến thng ca tinh thn bt khuất trước thái độ cam chu l. S hòa hp
gia M Dũng trong hình ng Huấn Cao đỉnh cao nhân ch theo
ng thẩm mĩ của Nguyn Tuân, theo triết lí “duy mĩ” của Nguyn Tuân.
Phân tích Ch ngưi t tù mu 4
ớc vào văn đàn Việt Nam, ta không khi ng ngàng bởi cái đp hin hu
khp mọi i, man mác khắp các trang văn: “man mác khắp tr” (Thạch
Lam). Đến vi nhng trang viết ca Nguyn Tuân- “một người suốt đời đi tìm
cái đẹp cái thật”, ta bắt gp mt cuc gp g, mt cuc hi ng của cái đẹp
trong hoàn cảnh đ lao tăm ti, tàn nhẫn. Đó cuộc gp g ca nhng nhân
cách đp, những con người biết to ra và trân trọng cái đẹp trong cuc đi.
Ai đó đã cho rằng: “suy tưởng v cái đẹp là nét ni bt trong sáng tác ca
Nguyễn Tuân”. Thật vy, cái đẹp như một cht xúc tác diệu đến khi c
vào trang viết ca Nguyễn Tuân thì được phát l, ta sáng l thường. “Ch
người t tù” chính là cuộc gp g của cái đẹp ca Hun Cao và viên qun ngc,
cuc gp g khác thường của hai con người khác thường gia chn lao tù. Bi
s say ngưỡng m, ngc quan - k nm gi uy quyền trong nhà lao đã
âm thm biệt đã Huấn Cao-người t ni tiếng bi tài hoa khí phách phi
thường. Đó cũng cuộc gp g đặc bit, mt cuc gp g chưa tng bao
gi ca mt k nhân phm ti vi một người đại din cho pháp lut uy
quyền. Nhưng ở địa ht ca cái đp, h là những nhân cách đồng dng là nhng
con người biết sinh thành nuôi ỡng cái đẹp trong cuộc đời. t đến ng
“Chữ người t tù” cuộc hi ng ca những nhân cách cao đẹp b cm bi
bo lc, hoàn cnh, là hin thân ca cái đp trong cuc sng này!
Người đã thai nghén, sinh thành ra cái đẹp trong “Chữ ngưi t tù” không ai
khác, chính Hun Cao - “là ngưi ca vùng tỉnh Sơn”, “viết ch rt nhanh,
rất đẹp” “có chữ ông Hun treo mt báu vt trên đời”. Tiếng thơm
của người ngh y đã được ngi ca qua nhng khao khát s ngưng m
ca qun ngc. Ca ngi tài hoa ca Hun Cao, coi nhng con ch ca Hun
Cao tác phm giá, Nguyễn Tuân đã gửi gắm lòng yêu quý cái đẹp s
trân trọng văn hóa cổ truyn dân tộc, đúng như Nguyễn Đăng Mạnh nhn xét:
“Nguyễn Tuân mt trí thức giàu lòng yêu nước tinh thn dân tc. Lòng
yêu nước ca ông màu sc riêng: gn lin vi nhng giá tr văn hóa cổ
truyn dân tộc”. Song ai đó đã cho rằng “Huấn Cao s ni lon ca cái đẹp”.
Qu không sai bi Hun Cao không ch phát l cái đẹp của thiên lương mà còn
tỏa sáng cái đẹp rng ngi ca người anh hùng đy khí phách. Trong hoàn cnh
đề lao nhưng khí phách của ông vn không b ngui lạnh, ông đã dám chống li
triều đình phong kiến, ông t thái độ coi thường, bt chp trò tiu nhân th oai
ca bọn lính canh, thái đ cao ngo, khinh bạc trưc s biệt đãi của qun ngc.
Đó như là lời thách thc với cường quyn bo lc. Khi ngc quan khép nép hi
ông Huấn: “ngài có cần thêm gì na xin cho biết. Tôi s c gng chu cấp.” Ông
Huấn đã trả lời: “Ngươi hỏi ta mun gì? Ta ch mun một điều. nhà
ngươi đừng đặt chân vào đây.” Li nói y nmột gáo nước lạnh nhưng lại
làm qun ngc thêm phn kính n Huấn Cao. Đó hn phi là khí phách ca mt
trang nam nhi chc tri khuy c. Cách nh x ca Hun Cao cho thy
trong hoàn cnh nào ông vn hoàn toàn t do v nhân cách. S l phép
khúm núm c viên qun ngc càng tô đậm tm vóc kì vĩ, v đẹp hiên ngang ca
ông Hun. Hun Cao không quyn thế hay tin bc ép mình cho ch bao
gi. C đời ông cũng ch cho ch ba người bạn thân. Nhưng khi biết được m
s và tm lòng ca ngưi qun ngc, Huấn Cao đã đột ngột thay đổi: “nào ta
biết đâu, một người như thầy Quản đây lại nhng s thích cao quý như vy.
Thiếu chút nữa, ta đã ph mt mt tm lòng trong thiên hạ.” Huấn Cao đã nắm
bắt và nâng đỡ ánh sáng của thiên lươngvic cho ch việc “một tm lòng
ta đền đáp một tm lòng trong thiên hạ”, hành động đền đáp một tm lòng
trong thiên h. Hun Cao chính s hin din của cái đẹp toàn diện, “sự ta
sáng ca nhng tm lòng” xuyên suốt “Chữ người t tù”. Ly nguyên mu t
Cao Quát nhưng dưới ngòi bút Nguyn Tuân Hun Cao đã trở thành biu
ng cho v đẹp thiêng liêng, tao nhã ca nền văn hóa cổ truyn, kết tinh tinh
hoa dân tc. Yêu mến, ngi ca tiếc nui những con người như ông Huấn,
Nguyễn Tuân đã gián tiếp bày t tm lòng ca mình vi nhng giá tr ngàn xưa
đồng thi bày t quan nim thẩm tiến bộ: cái đẹp, cái thin luôn luôn song
hành làm nên nhân cách con người. Ai đó đã cho rằng: “Nguyễn Tuân bước
vào ngh văn như để chơi ngông vi thiên hạ”. Thấp thoáng đâu đó trong bóng
dáng của người t ta cũng thấy cái nét “ngông” vừa c điển, va kế tha
truyn thng tài hoa ca thế h trưc, mt cái ngông luôn luôn mun phn ng
li hin thc hội đương thời, mt cái ngông ch xut hin trong nhng trang
viết ca Nguyn Tuân.
Đằng sau s tài hoa ca Hun Cao, nhân vt qun ngc xut hiện như hiện thân
ca nim say mê, trân trọng cái đẹp. Đó như một phép màu diu biến qun
ngc thành “thanh âm trong trẻo chen vào gia mt bản đàn nhc luật đều
hn lon, bồ”. Tâm nguyện c đời ca qun ngc, không hơn, đó
được ch ca ông Huấn để treo nhà riêng. Tâm nguyn y bng chc biến
viên qun ngc đẹp như một người ngh sĩ thc th, biết say mê, biết hướng v
cái đẹp đúng như Ralph Waldo Emesson cho rằng: “Yêu cái đẹp là thường thc.
Tạo ra cái đẹp ngh thuật. Nhưng biết trân trọng cái đp mới ngưi ngh
chân chính”. Quản ngc biệt đãi Huấn Cao, luôn luôn cung kính l phép
trước thái độ kiêu ngo ca ông Hun, thành kính đón nhận nhng li khuyên
của ông. Chính điều đó đã m đường cho qun ngc đến với cái đẹp. thế
khúm m, thái đ hành đng bên ngoài v y m khi lng nghe li
khuyên ca Huấn Cao đã m sáng n v đẹp nhân cách ca ngc quan, m
cho nhân vt tr nên đáng quý, đáng trân trọng. Đặc biệt, ông còn cúi đầu thành
kính đón nhận li khuyên ca ông Huấn. Ông cúi đầu nhưng không h tr nên
hèn kém trái li, còn làm cho ông tr nên cao thượng n bao giờ.
Nguyễn Đăng Mạnh tng cho rằng: “Có những cái cúi đầu m cho con ngưi
tr nên hèn h, có nhng cái cúi lym con ngưi tr nên đê tiện. Nhưng cũng
những cái cúi đầu làm con người tr nên cao c hơn, lớn lao n, lẫm lit
hơn, sang trọng hơn. Đấy cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương”.
Và cái cúi đu ca qun ngc cũng thật cao đẹp chng khác nào cái cúi đầu ca
Cao Bá Quát khi xưa: “Nhất sinh để th bái mai hoa” (Cả đời sinh ra ch để cúi
đầu trước hoa mai). Nếu Huấn Cao nơi nhà văn gi gm nhng quan nim
thẩm tiến b thì qun ngc nơi nhà văn gửi nhng quan nim nhân sinh
sâu sc: Bn thân mỗi con người luôn khao khát hướng v cái đẹp. Bi vy,
phi biết nhìn sâu vào tâm hồn con người để nm bt ánh sáng của thiên lương.
hơn cả, i đẹp man mác khắp tr”, tồn ti ngay c trong cái ác đ
đẩy lùi bóng ti, hưng con người ti cuc sng tt đẹp hơn.
Cảnh tượng đẹp nhất trong “Chữ người t tù “chính là cảnh cho ch - mt cnh
ợng xưa nay chưa từng bao giờ, đặc bit trong hoàn cảnh đề lao, nơi
“người ta sng bng tàn nhn, bng la lọc”, cái đẹp vẫn ngang nhiên được
sinh thành. Ta ng ngàng khi thy “một người c đeo gông, chân ng
xiềng, đang dậm to nét ch trên tm la trắng tinh căng trên mảnh ván”. Bóng
ti ca nhà thực dân đã b đẩy lùi bi ánh sáng của tài hoa, thiên lương,
nhường ch cho cái đẹp được sinh thành. Cái đẹp đã trở thành tác nhân làm đo
ln ý thc hội, đưc khai sinh trên mt mảnh đất chết, t bàn tay ca
người tsp chết nhưng vẫn phát l rc r có sc cm hóa mãnh lit. Li
khuyên ca qun ngc dành cho người t đã thể hin mt quan nim sâu sc
v ngh thuật: Cái đp không bao gi chung sng với cái ác, mãi mãi như
vậy. Đó cũng niềm tin sắt đá của Nguyn Tuân v sc mnh của cái đẹp, cái
đẹp s cu ri thế gii này!
Ngọc Phan cho rằng: “Đọc văn Nguyễn Tuân bao gi người ta cũng thấy
mt hứng thú đặc bit: s thâm trầm trong ý nghĩ, sự lc lõi trong quan sát, s
hành văn một cách hoàn toàn Việt Nam”. Thật vy, cái hng thú đặc bit y
không ch toát lên t tác phm mà còn toát lên t hình thc ngh thuật độc đáo.
Ông s dng bút pháp tương phản để dng lên s đối lp gia ánh sáng
bóng tối, để đậm s thng thế của cái đẹp trong cuộc đời. Ai đó đã cho rng
“ngôn ngữ ca Nguyễn Tuân tuôn ra mun thi tài với hóa công”. Nhà văn
với văn phong “đặc Việt Nam” (Vũ Ngọ) y đã khéo léo sử dng nhng t Hán
Việt để to màu sc c kính, trang nghiêm cho tác phẩm, để “Chữ người t tù”
tr thành mt trong những” nén m ơng nguyện cầu cho cái đẹp c truyn
Việt Nam” (Văn Tâm). Câu chuyện như một thước phim quay chm, người đọc
như được chng kiến tn mắt ánh sáng được nhen lên, ta sáng che đi bóng
ti. các nét ch hin hình “như một nét bút trác tuyệt được chm khc tinh
xo trên mặt đá quý ca ngôn t”.
“Chỉ người suy xét đc Nguyn Tuân mi thy thú v, bởi văn Nguyễn Tuân
không phi th văn đ người nông nổi thưng thức” (Vũ Ngọc Phan). Bi vy,
khi đến vi ch ngưi t tù, y t t đón nhận ánh sáng của cái đẹp để thanh
lc tâm hồn, để thu hiu cm nhận…” Chữ người t không ch “vang
bóng mt thời” mà còn vang bóng mãi muôn sau…
Phân tích Ch ngưi t tù mu 5
Nguyễn Tuân sinh m 1910 làng Nhân Mc, tc gi là làng Mc, thuc
Nội. Ông ngưi bn lnh cng cỏi trong đời sng và trong ng tác văn
hc; hiu biết rng, quý trọng i năng, coi trng ngh nghip, nhng sáng
tạo độc đáo trong lời văn cũng như trong cảm nghĩ. Sự nghiệp văn hc ca ông
gồm hai giai đoạn. c tác phm tiêu biu trưc 1945: Vang bóng mt thi
(1940), y bút I (1941), y bút II (1943). Sau 1945: Tình chiến dch (1950),
Tùy bút kháng chiến (1955), Sông Đà (1960), một s bài phê bình và gii thiu
chân dung văn hc. Nguyn Tuân những đóng góp đáng kể cho nền văn
xuôi hin đại, nht th loi tùy bút, cm th sâu sc văn phong cẩu
kì, đa dạng như một ống kính trăm màu.
Ch người tcâu chuyn v mt viên qun ngc mến m tài năng, nhất
tài viết ch Hán đẹp ni tiếng ca một người án chém, ông ta đã mật đối
đãi trân trọng ngưi với mong ước xin được ch quý. Cuối cùng, tưởng đã
hết hi vng xin ch thì ông li được người tù vui v cho ch, kèm.
Theo li khuyên hãy b ngh coi ngc, v quê sng thanh bần để gi được tâm
hn trong sch, xng với thú chơi chữ đẹp. Thông qua câu chuyn ấy đc bit
cnh cho ch ban đêm trong ánh đuốc đ rc, tác gi mun nêu bt giá tr
cao, quý của Cái Đẹp: đẹp ch viết, đẹp đức cao, đẹp nhân cách. Đng thi ca
ngợi ngưi biết quý trng gìn gi Cái Đp ấy như một báu vt đi ngc
vàng, quyn thế cũng không sao đổi đưc.
Người đọc ngày nay tìm hiểu văn chương xưa bao gi cũng phải t qua mt
ca ải khó khăn. Đó vốn văn hoá, lịch s làm nn cho tác phm. Nói v
phong kiến nhc tới vua quan dân đen, đa ch nông dân. Nói v đạo
Nho là nhc tới cương thường, trên trí quân, i trch dân. Nói v đo Pht
nhc ti luân hi, t bi... thì th cũng hiểu được đôi chút, nhưng trưc
nhng sn phm vt cht tinh thn của văn hóa phong kiến cách đây trên
mt thế k được đ cp ti trong truyn ngn này thì qu tht không d hiu
chút nào.
Ch người t rút t tp truyn Vang ng mt thời. Như tựa đề, đó cun
sách ghi chép v mt thi mt lớp người đã tàn trong quá kh, bóng
dáng hãy còn in đậm trong trí nh, trong s kính phc, tôn sùng ca tác gi.
Nguyn Tuân dng ý ràng khi dng li một không khí xưa như thế
truyn Ch người t tù. Cnh vật, con ngưi, s vic hiện ra cũng đậm màu sc
ấy, đưa chúng ta trở li quá kh cách đây hơn trăm năm.
M đầu, ni dòng ch: phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc b đường, mun
hiu cho thu ngn ngành, e đến bạc tóc. Bình thường, người ta viết t trát,
trát, nhưng tác giả vn để nguyên cách gi ca thời đó với nghĩa nghiêm
trng phiến trát Còn ti sao ông không viết: ca quan tổng đốc Sơn Hưng
Tuyên đốc b đường theo kết cấu Hán văn y như trong phiến trát để cho nó gi
nguyên cái tính cht quan yếu, dy mùi quyn lc ngay trong tng ch... Đốc
b đường là ch dùng đ ch chc v Tổng đốc. Li thêm tên gi tt ca ba tnh
Sơn (Sơn y), Hưng (Hưng Hóa), Tuyên (Tuyên Quang) hi y, tnh nh
đứng đầu chi chc Tuần vũ, hai hay ba tỉnh nh hp li mi chc Tng
đốc trùm lên trên - ba tỉnh y đặt chung dưới quyn cai tr ca mt Tổng đốc.
Mnh lnh t dinh quan Tổng đốc phát ra cho cp ph, cp huyn rt uy
nghi.
Ngưi cầm bút mượn ch xưa khơi dậy cái không khí, khung cnh ca mt
thi. T cnh vt thì vng canh (vng canh chiếc chòi canh được dng khá
cao để th trông xa (vng), chiếc hèo hoa, giá gươm, án thư, con song, giy
bn, ty Niết, tàn đồn, chiếc gông, chu mc, bc châm... T người thì thy bát,
ngc tt, thng thp, th xưởng... T vic thi cho chữ, thay bút con, đ xong lc
khoản, nh ý, bái lĩnh... Đng sau ch nghĩa y mt nn văn hóa xưa
truyn này chi xén ra mt mảnh, đủ đưa người đọc vào không khí ca mt
ca ngc tiêu biu cho triều đình thời y, đầy quyn lc mà ngu xun, hùa nhau
hy diệt nhân cách đức tài. May mà trong đó còn ni lên dè dt sâu thiết
mt tm lòng biết qtrọng, tôn kính cái đp của đức độ, tài ba. Nhng điều
cha cht bên trong ni dung ca truyện đã chinh phc được người đọc. Đó
điều đáng chú ý trước tiên.
Ct truyn Ch ngưi t xoay quanh tài viết ch đẹp của người án chém.
Ý nghĩa nhiên thể m rng ra nhiều, nhưng đó cái cốt lõi. ba hng
người ba thái độ trước cái đẹp ấy. Thái độ th nht hy diệt; thái độ th
hai kính trng, mến phc; thái độ th ba đại lượng, trng mình, trng
người ca mt bc chính nhân quân tử. Đan dt trong truyện ba thái đ đối
vi cái đp.
Nói ch đề ca truyện tôn vinh cái đp e h đồ chăng? Cái đẹp y ch viết
của người t điu khi bàn cãi. Viên qun ngc đã nghe cả vùng tỉnh Sơn
vn khen cái tài viết ch rt nhanh và rất đẹp của người tù này. c nhiên tài viết
ch y gn lin vi mt cái tên c th Hun Cao. Ông quan h Cao thi
làm huấn đạo tỉnh Sơn y, nơi viên qun ngc gi thân mt tỉnh Sơn
Tây. Ông Hun Cao y bây gi tên tui lại đứng đầu trong danh sách sáu t
phm ti phn nghch, dám cầm gươm chống li triều đình. Lời văn chỉ k
thế, còn nhân vt Hun Cao phi Cao Quát ni tiếng thơ hay chữ đẹp,
li thi gian b triều đình đầy đi giữ chc giáo th ph Quc Oai tỉnh Sơn
đã cùng nông dân ni lên chng vua quan hay không, thì chng biết. Đó
ch kín nhim ca ngòi bút, ch để trăng ẩn vào y như cách nói của người
xưa. Nếu có gì trùng hợp thì cũng coi như là ngẫu nhiên vy.
L thưng, đời cái đẹp cũng quý bởi làm cho cuc sống thêm tươi vui,
ý nghĩa. Chữ đẹp cũng thế. Ch đây ch Hán ngày xưa, một loi ch ng
hình, các nét được cách điệu hóa qua nhiều đời thành mt ngh thut viết ch
phép tc hn hoi (thư pháp). Sách xưa ca ta ca Trung Quc đều nhc
đến thiếp Lan Đình của Vương Hi Chi là nhắc đến mu ch đẹp ni tiếng, đổng
thời cũng ghi chép s xut hin ca nhiều trưng phái viết ch Hán. Thu xưa,
trong nhng nhà giàu sang, nht nhà học, thường treo nhiu hoành phi,
câu đối, bc châm, bức trướng... bng la bch, bng giy y in hoa, bng g
sơn son thiếp vàng hoc khm c. Nht bc châm, b t bình la bi
thành tranh có ch viết kiểu đi tho chép nhng lời văn, những bài thơ Đường
ca bn tri k treo trong nhà điều hãnh din vinh d, bo vt còn quý
hơn vàng ngọc.
Ch đẹp một cái đẹp hiếm trên đời nhưng éo le thay, li của người
mang án t hình, nghĩa người y chết thì cũng mất theo. Nguy mất
mt báu vt trong thiên h đã ràng. Châu ngọc còn m ra, ch nét ch rng
bay phưng múa y, nét ch mà c mt tỉnh đều ca ngi thì m đâu ra? Điều
đó khiến cho v đẹp ca nó bỗng như lấp lánh thêm.
Cái hoa tay viết ch đp y còn đi m với phẩm cách cao thượng l kì. Nhà
văn nhắc ti cái tài b khóa vượt ngc của ngưi tù chắc để đậm tài
bên cạnh tài văn. Xin đừng vội cho đó hạ cp. B khóa vượt ngc, m làm
gic chng vua quan n bo, cu kh dân lành thì ai dám bảo đó điều đáng
chê? Viên qun ngc l phép nói li kính phc người người có nghĩa khí;
mt gi ngài, hai gi ngài, ngài cn thêm na xin cho biết... nhất định
không phi chi nghe cái tên Hun Cao nh ti tiếng đồn ch đẹp, đã
tng nghe, từng nghĩ nhiều điều khác na v con người y: Những ngưi chc
tri khuy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chng còn biết có ai na...
nhân vt Hun Cao, tâm hồn cũng đẹp, nhân cách cũng đẹp, hành động cũng
đẹp, nhưng tt c đều n kín sau nét ch đẹp. Những nét đẹp kia là đẹp đạo đức,
còn đẹp ch viết mi ngh thut. Ngh thuật hay và đẹp, không ai không say
mê, ngưỡng m. Nguyn Tuân ly nó làm ct truyn là vy.
Trong tác phm, Nguyễn Tuân đề cập đến ba thái độ đối với Cái Đẹp.
Thái đ th nht là hy dit.
Mt s k được miêu t trong truyện nhưng đó hng thiên lôi ch đâu đánh
đó, sống lâu chn ngc nên nhiễm thói đầu trâu mt nga. Đó là bọn lính
tráng, nhng thng thp, thng cu, lính canh, lính coi tù. Li sng ca chúng
sng bng tàn nhn, bng la lc. Chúng là một đống cn bã, một quay
qut Thy đám tử bo nhau qu xuống đất để thúc mnh chiếc gông vào
thềm đá cho rệp rơi bớt ra, một tên trong lũ lính áp giải đùa một câu độc ming:
Các ngưi ch phi tp na. Mai mốt chi đây sẽ người sành si dn c
người ra làm trò pháp trường. By gi tha h mà tp. nói tiếp, ging hách
dịch: Đứng dy không ông li phết cho my hèo y giờ. Cũng giọng y, hn
nhc viên qun ngc khi thy ông y l v kiêng n bit nhỡn đối vi
Hun Cao: Tên y chính th xướng. Xin thy để m cho. Hn ngạo ngược
nguy him nht trong bn. Thói sai nha vy. Chn y tất nhiên đẻ ra
giống ngưi y. Giá ai có tm lòng trong sạch thì cũng khó giữ thiên lương cho
lành vng rồi cũng đến nhem nhuc mt c cái đời lương thiện đi. Lời ông
Hun Cao khuyên viên qun ngc cui truyn ch nhc li mt s thật vĩnh
hng ca ngc ca giai cp thng tr thời suy thoái. Nhà thơ Cao Bá Quát
bài thơ nói về cái gông: Mày ch biết gông người ch y biết phi trái, biết
tt xấu trên đời, đúng để ám ch bọn đầu trâu mt nga này. Nhng người
kia, Huấn Cao hay quan đi nữa, chí cao tài c đến đâu chăng
nữa, đối vi chúng chi nhng tên tù, li là t tù, thì chúng chi nói bng o,
bằng tay thước, bng thanh qut, bằng ơm. Chúng chỉ tuân th mt mnh
lnh là tiêu dit.
Mt loại người na tuy không có mt trong truyện nhưng lại là nhng tên tai to
mt ln, ra lnh t xa. Đó Sơn Hưng Tuyên đốc b đường, là Hình b
Thượng thư trong kinh, ty Niết, hoc trừu tượng hơn nhưng kinh khủng hơn,
triều đình quốc gia... hình, nhưng chính mi b máy hy dit. Tài
năng, đức hnh, tiết tháo, khí phách, lo ớc, lo dân, văn tài, nghệ thut...
không cn. ch cn nhng tên càng ngu xun càng tốt để giúp gi
tht cht cái ngai vàng bn thu, mc rung.
Thái độ th hai thái đ quý trng, kính phc tài ng, nghĩa khí. Đó thái
độ ca viên qun ngc và thy thơ lại.
Cái Đẹp ai cũng quý, nhưng phải biết đp thì mi biết quý. Thy thơ lại biết
Hun Cao có c tài văn lẫn võ, nhưng là biết qua li viên qun ngc và ông này
cũng chi nghe người ta đn. Vy mà, khi hay tin một con người nvậy s b
chém đầu thì li thy tiêng tiếc. Cái tính lành tri sinh, thy tài gii thì mến,
kh cực thì thương thy thơ li thun phác này đáng quý biết bao nhiêu! Viên
qun ngc thì ch nghĩa thánh hiền l không nhiều, nhưng trình độ hc vn
th hin câu ca ming: học thì như lúa như nếp, không học thì như m
như cỏ. Quý hơn cả là con mt biết nhìn Cái Đẹp, coi vic thưng thc Cái Đẹp
như một thú chơi thanh nhã đời. Nhân cách ca ông ta là mt nhân cách
trên mức bình thường. Biết quý trng Cái Đẹp ch viết, Cái Đẹp khí phách,
biết trân trng hoài bão của con người có tài viết ch đẹp, thì lại càng đáng quý!
Yêu Cái Đẹp, quý Cái Đp, kính phc Cái Đẹp cũng làm cho con người đp lên,
phm cht lớn hơn, cao hơn, thơm ngát.
Viên qun ngc đã bắt mạch được tm lòng thun hu ca thy thơ lại, trưc
hết t cái cảm tưởng tiêng tiếc hn nhiên, ri t đó khng định căn cứ
rng: người đã biết kính mến khi phách, biết tiếc, biết trọng người tài hn
không phi k xấu. Không đơn thuần suy lun, t bng ta suy ra bng
người. Đó nhận xét người, còn bn thân mình thì không giấu được s kiêng
n, ý bit nhỡn đối vi Hun Cao và ly quyn lc của phép nước mà át ti lính
tráng quen thói lên mặt. Đắn đo mãi ông ta mới dám bước vào bung giam,
khép nép thưa bày, một phiền ngài hai xin ngài, để ri phi nhn mt câu cao
ngạo như đuổi thng ca Huấn Cao: Ngươi hỏi ta mun gì? Ta ch mun
một điều nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Rồi ông ta li l phép lui ra vi
một câu: Xin nh ý ch không gi trò tiu nhân th oai vẫn dâng m u
hậu hơn trước. Như vy h mình, h mình quá mức. Thông thường, quan
quyn t trên tột đỉnh xung tn lính quèn, c vic ra oai, nói bng t hình,
bng gông, bng hèo ch đâu nói bằng đạo phải trái. Nhưng viên quản ngc
này đã đến với ngưi t bằng ch ca k b dưới, theo bng giá tr đích
thc ca l phi: người tài đc thiu nh trọng người tài cao đức c...
Hung chi ông ta li mun xin của người t y nhng nét ch tài hoa mt
không hai, mà ngưi y chết thì nó cũng chết theo. Chơi chữ đẹp, mt mặt đã là
thú chơi tao nhã, còn giữ cho được nét ch đẹp ấy u lại vi đời li mt ý
thc bo tàng còn quá hiếm hoi cái hi trng chức tước tin bạc hơn
hc vấn văn hóa thu by giờ. Thú chơi y, ý thc y, viên qun ngc mong
ước biến thành hin thc. Vic chun b ngày càng chu đáo sự ch đợi
mi ngày mi thiết tha. ông đã mua sẵn chc vuông la trng can li tht
phng phiu. Chao ôi! Xin hiu giùm cho lòng ông: T nhng ngày nào, cái s
nguyn ca viên quan coi ngc y một ngày kia đưc treo nhà riêng
mình một câu đối do tay ông Hun Cao viết... đưc ch ông Hun treo
mt báu vật trên đời. Một con người m nguyện như vy, trong nhân
cách li không có ch đáng nể hay sao?
Chưa kể ông ta li vào cái nơi toàn là cnh của Diêm Vương, Âm phủ: không
vc du thì ngc tối, không cưa x thì gông xing, hành h, k c biến người tù
thành ma không đầu... Nơi ấy chi tàn nhn và quay quắt, nơi y người ta vui
khi thy máu nhân đổ, người ta cười khi thy nhân qun qui. Nơi đó
không ch cho l phải, tình thương, đo lí, mt chút. y vy li
còn sót đưc hai tâm hn, mt thun hu, mt cao quý, thì cái thun hu cao
quý ấy càng đáng kính trọng biết bao! Trong bùn mà sen vẫn ngát thơm.
Tính cách ca thầy thơ lại và viên qun ngc b sung cho nhau để th hin trn
vn cái trt t ca bng giá tr l phải đạo truyn này. Cnh viết ch
trong bung giam ban đêm ới ánh sáng đỏ rc ca một đuc nim vui
giây lát ca ông Hun, s tha nguyn ca viên qun ngc cùng vi lời bái lĩnh
kính cn sau li khuyên ca ông Hun s hòa hp bng n viên mãn ba v
đẹp của ba con người xứng đáng là Con Người.
Thái đ th ba là thái đ cao rng ca bc chính nhân quân t.
Đầu tiên, nhân vt Hun Cao xut hin qua tiếng đồn. đã tiếng đồn thì
không phải cái cũng chính xác. Phn khuếch đại theo quy lut d bn ca
truyn ming hn không tránh được, như tài bẻ khóa vượt ngc chng hn,
nhưng tài viết ch rt nhanh, rất đẹp, c tỉnh đều khen chc s tht. Còn
phm ti phn nghch, làm gic thì trong giy t quan trên đã ghi rõ. đã
dám làm vic y thì đương nhiên phải là người có nghĩa khí, tài gii, nay b giết
đi thì thấy tiêng tiếc. Việc ngưi y m là vic quc gia triều đình, những k
coi ngc biết mà nói. Như vậy là con người Huấn Cao tuy chưa thy mt
uy tín, danh tiếng đã ly lng.
Trong suy nghĩ của hai viên chc nhà ngc cũng có điều tô đậm thêm tính cách
Hun Cao, k c li bình có tính cht cnh cáo ca tên lính áp gii. Ba nhân vt
ba t chứa đựng ý nghĩa đánh giá khá rõ: người thơ lại thì bun. (tài thế
mà đi làm gic thì bun lm). Viên qun ngc thì bo ông Hun là khonh (tính
ông vn khonh, tr ch tri k, ông ít chu cho ch). Tên lính áp gii thì xếch
bo ông y ngạo ngược: Tên y chính th ng. Xin thy đ tâm
cho. Hn ngạo ngược và nguy him nht trong bn.
Ti sao thy thơ lại thy bun? y là do thy nhn ra rằng người t tù kia có tài.
tài thì phải được sng để đem tài giúp đời, đó mong ước của người xưa.
tài đức, kh my rồi cũng làm nên. Từng đọc tích xưa nên thy thơ lại
nghĩ: Có tài thế mà làm giặc thì đáng buồn lm vì làm gic chng biết đúng sai,
nhưng bị khép vào ti chết. Tài y không được vua quan s dng, li đem tiêu
diệt đi, thiệt cho đời biết bao nhiêu?! Đáng buồn cho đời bao nhiêu! Đây là mt
ch đánh giá cái tài mà cũng là Cái Đp đời.
Còn khonh thế nào? Khonh v cái gì? Khonh vi ai? Ch ông Hun Cao
đẹp, nhưng ông chỉ viết cho nhng bn tri k. ông tiếc công hay ông thiên v?
Không phi! Mà ông ngh rng ch đẹp chng phải ai cũng biết thưng thc và
quý trng.
Bn tri ki là bn hiểu Cái Đẹp, quý Cái Đẹp y và những Cái Đẹp khác ca con
người mình. Viết cho tri k san s m hn, tài năng Cái Đẹp ca mình
cho bn. Khonh như vy trng mình, trng bạn, coi Cái Đp báu vt trên
đời, không d phung phí. Viết ch cũng như viết văn, m thơ. C Tam
Nguyên Yên Đổ thoáng liên h mình với ông Đào (nhà thơ Trung Quốc ni
tiếng Đào Tiềm) đã thấy thn phi ngng bút. Bao bậc tài hoa trưc khi chết đã
đốt tt c ch nghĩa của mình cho không xứng đáng đ đời. Đâu phải ch
nào cũng d dàng h bút đ v vi?! Ta s thy t ming ông Hun nói ra cũng
cùng một ý như trên. Biết nhận ra Cái Đẹp thì tất nhiên cũng biết quý trng nó.
Đào tiên Tây Vương Mẫu năm trăm năm mới ra đưc mt trái, đó thần thoi
nhưng ý nghĩa vằn là đ cao Cái Đẹp.
Còn tên lính áp gii bo Hun Cao ngạo ngưc thì chng cn bàn. Con mt
ếch ngồi đáy giếng ca hn thì thy tri ch to bng cái vung. S t trng ca
Hun Cao cho ngạo ngược. Theo nó, đã là nhân thì chi biết cúi đầu,
chết cũng phải chu, hung gi phm giá làm người. tay sai thời đó
chng khác nhng cái gông, ch biết gông ngưi ch biết phải trái, đạo và
danh d. Nhưng đánh giá Huấn Cao như vy, tên lính gián tiếp đã coi Hun
Cao là hạng người trên, dám khinh thưng bn hn ra mt.
Trên đây mới là tiếng tăm Huấn Cao qua li đồn, trong ý nghĩ hai con ngưi
đáng quý nhà ngc c trong li nói ca tên sai nha. Còn ông Hun t nghĩ
v mình, v người và nói năng, hành động ra sao?
Trưc s biệt đãi của viên qun ngc mà ngưi trc tiếp săn sóc là thầy thơ lại,
ban đầu Hun Cao tiếp nhận rượu tht thản nhiên, coi như là việc vn làm trong
cái hứng bình sinh. Đến khi viên qun ngc đích thân vào buồng giam, l độ,
cung kính tôn xưng ông người nghĩa khí, xin ông cho biết cn thêm thì
ông đáp một cách trch thượng: Nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Đẩy ngưi
ta ra ch s đáp trả bng uy lc, nhưng ngưi ta chi mt mc l phép lui ra
vi mt câu bt ngờ: Xin lĩnh ý, tức xin tuân lnh, hi làm sao ông Hun
không nghi ng? Cái trò d d mua chuc nơi giam cầm là mánh khóe quá bình
thưng, ông Hun càng bực tưởng viên qun ngc mưu đồ thâm him
đây. Suy xét mi l, ông thy hóa ra không phải. Mãi đến khi thy thơ li ht
hải đem nguyện ước sâu xa ca viên qun ngc bày t vi ông, cùng cái tin
khn cp là sáng hôm sau ông Hun và các bn s b đưa vào tận trong Kinh để
chu ti, thì Hun Cao mi v l sao những hành động đối x l lùng ca
thy trò ông qun nhn ra viên qun ngc y chính hạng ngưi biết quý
Cái Đẹp. Ông mỉm cười dy thy thơ lại chun b chu đáo để ông cóhội đáp
li tm thnh tình ca viên qun ngc ngay đêm nay. Ging Hun Cao tr nên
t tn: v bo vi ch ngươi, tối nay... đem la, mc, bút c một đuc
xuống đây ta cho chữ. Cho ch ch không phi viết chữ. Nghe như lời ca b
trên, ca thn tiên phán bo. Hun Cao khng định: Ch thì quý thc. Ta nht
sinh không vì vàng ngc hay quyn thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta
cũng mới viết hai b t bình mt bức tranh đường cho ba người bn thân
ca ta thôi.
Ln y ln th ông Huấn cho ch. ông t gi giá ch đẹp của mình đến
mc y, vy thì cái gì đã khiến ông ht ln này? Chính là do lòng thành, biết
quý trng, biết lưu gi Cái Đẹp hiếm hơn vàng ngc ca viên qun ngc: Ta
cm cái tm lòng bit nhn liên tài của các ngưi. Nào ta có biết đâu một ngưi
như thầy Qun đây lại nhng s thích cao quý như vậy. Thiếu chút na,
đã ph mt mt tm lòng trong thiên h. Lòng t trng ca ông Huấn đã gặp
lòng trân trng ca viên qun ngc. Không phi phi là s hiu biết mà còn là s
thông cm, cao hơn nữa s kính trọng đã nâng ông quản lên v trí ca mt
bc tri kì mt tm lòng liên tài hiếm trong thiên h. Lời khuyên sau đó ca
Hun Cao tht ra mt cách t nhiên. Phi xa cuc sống nơi ngc này, tm
gi mình trong cuc sng trong sch chn quê nhà thì mi gi gìn đưc cái tính
lành tri sinh và mi đeo đuổi được thú chơi chữ đẹp.
Quang cnh bui ông Hun cho ch va l vừa đẹp, vừa như một o nh, mt
ánh hào quang không phi ca thế gii y ca cõi nào trong thn thoi,
mt cảnh ợng xưa nay chưa tng có. Bung giam hp, bn, m ưt, ti mt,
ánh đuốc đỏ rực như một đám cháy nhà. Ba bóng ngưi hoạt động. Một ngưi
ngồi ới đất, hai tay nâng tm la trắng tinh căng trên mảnh ván. Một người
khác run run bưng chậu mực. Người th ba c đeo gông, chân ng xing,
đang cm bút viết thoăn thoắt trên mt la. Đó viên quản ngc, thy thơ lại
Hun Cao. Viết xong, ông Hun đỡ viên quản đứng dy, ri nhìn li ch
mình viết đẹp tươi, nói lên những hoài bão ca một đời người, ông đỉnh đạc
có li khuyên cui cùng cho viên qun ngc: muốn treo chơi trong nhà bức ch
đẹp y thì phải thay đổi môi trưng sng. Ln y, viên qun ngc lùi ra
nói gần như muốn khóc: K muội này xin bái lĩnh. cuc giáp mt ln
trưc, sau câu sng ging ca Hun Gao, viên qun l phép lui ra lp bp:
Xin lĩnh ý! Lần y, câu nói ca ông ta p úng trong nghn ngào cm động.
Trên kia chưa hiểu nhau, đến đây cả ba người đổng cm trong mt tm lòng
chung: tha thiết yêu Cái Đẹp, Cái Đẹp ch viết đi lin với Cái Đẹp tâm hn.
Truyn chm dt vi li nghn ngào nhiều ý nghĩa y. Thái độ Huấn Cao trước
sau có khác nhưng vẫn là thái độ ca mt bc chính nhân quân tử. Đối vi thy
trò viên qun ngc, ông Hun vn gi mt khoảng cách trên dưới nhất đnh,
trưc lnh nht sau thân mt, ân cn; vẫn phong thái đĩnh đạc, ung dung, đ
ng, cao rộng đối với cái đẹp dù là nh nht, dù bt kì hoàn cnh nào.
Viết truyn y, Nguyn Tuân ng ý gì nữa không? Điều chc chn tác
gi mun nói lên ni tiếc nuối đối vi một con người tài giỏi, nghĩa khí, một
nhân cách ln lao cái thời đất ớc suy vong, đng thời cũng kín đáo lồng
vào đó một nỗi đau chung cho đất nước cho tt c nhng tốt đẹp, tài ba
trong đời thng tr thc dân phong kiến đã vùi dập mt cách bo tàn.
Đồng thi, tác gi khng định: cuộc đời dù đen tối đến đâu, trong nhân dân vẫn
có nhng tm lòng ngi sáng.
Phân tích Ch ngưi t tù mu 6
Nhà thơ lừng danh người M Ralph Emerson tng câu nói rt hay rng:
“Yêu cái đẹp thưng thc. Tạo ra cái đẹp ngh thuật. Nhưng biết trân
trọng cái đẹp mới ngưi ngh chân chính.” lẽ t lâu nhà văn Nguyễn
Tuân đã sớm thm nhuần tư tưng trên mà c cuc đi ông là mt chặng đường
say mê đi tìm cái đẹp thanh cao, cái đẹp ca chun mc to hoá. Tác phm Ch
người t tù của ông đã khắc ho rt thành công chân dung v toàn m, dù trong
bt k hoàn cnh nào thì nó vn luôn to sáng và trường tn vi thi gian.
Nguyn Tuân (1910 - 1987) xut thân trong mt gia đình Nho giáo, quê ông
làng Mọc nay phường Nhân Chính, qun Thanh Xuân, Ni. Nguyn
Tuân nhà văn lớn đóng góp ng quan trọng cho nền văn học Vit
Nam hiện đại, c đời ông say đi tìm cái đp trong cuc sống đ t đó thổi
hn vào trong các tác phm ca mình nhng làn gió mi, nhng v đẹp nhân
văn cao đẹp. Các tác phm chính ca ông gm có: Mt chuyến đi (1938), Vang
bóng mt thi (1940), Sông Đà (1960),… Truyn ngn Ch người t tù lúc đầu
tên Dòng ch cuối cùng in năm 1939 tên tạp chí Tao Đàn, sau đó đưc in
trong tp truyn Vang bóng mt thời đi tên thành Ch người t tù. Hình
ng Hun Cao - một con người tài hoa, li lc vi ý chí hiên ngang, bt khut,
cho chí lớn không thành nhưng ông cũng không bao giờ gc ngã, vn gi
cho mình tâm hồn thanh cao trước cnh gc tù tối tăm, u uất.
Thành công ca mt tác phm truyn ngắn đến t tình hung truyện đặc sc,
đó chính chiếc chìa khoá thúc đy ct truyện dâng lên cao trào như cách
Nguyn Minh Châu tng nói đó là: “Tình thế ca câu chuyn, khonh khc
trong đó sự sng hin ra rất đậm đặc”. Chữ người t cũng một câu
chuyện như thế, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vt ca mình vào nghch cnh tr
trêu, cuc hi ng gia hai thế lực đối lp. Một bên đại diện cho con ngưi tài
hoa khí phách, mt bên quyn lực tăm ti ca hi phong kiến. Cuc gp
g diễn ra đy kch tính, lôi cuốn người đọc, cui cùng v đẹp thiên lương tao
nhã đã thắng thế trưc s xã hi tàn bo, xu xa.
Ch người t y dng thành công tuyến nhân vt chính din, h trung
tâm đi diện cho cái đẹp thanh cao trong tâm hn, dù trong hoàn cnh nào,
thc ti hi d bẩn ra sao cũng không th nào làm ng bn nhân cách
thiên lương của họ. Trước tiên là hình tượng Hun Cao - mt v anh hùng sa cơ,
tht thế ông người lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh đòi lại công bng
cho chính mình. y thế mà trong con mt ca chế độ phong kiến ông li b gi
k “phản nghịch”, k cầm đầu nguy him cn phi tiêu dit. ý kiến cho
rng Nguyn Tuân sáng tạo hình tượng Hun Cao da trên nguyên mu Cao Bá
Quát - một người tài hoa, ngh sĩ, tinh thn qu cm đặc bit tài viết
ch đạt đến độ tuyt m. Hun Cao cách gi kính trng, một ngưi mang
h Cao gi chc huấn đạo - chc quan trông coi vic hc mt huyn.
Nguyn Tuân khc ho v đẹp ca nhân vt Hun Cao qua nhiu bình diện để
thấy đưc cái v đẹp thanh cao đạt đến chân - thin - m ca một ngưi tài hoa
bc nhất. Trước tiên, nvăn miêu tả Hun Cao một người ngh tài hoa,
lng danh khp chn. Ông xut hin gián tiếp trong câu chuyn ca viên qun
ngc và thy thơ lại, là người mà “vùng tỉnh Sơn ta vn khen cái tài viết ch rt
nhanh rất đẹp”, không nhng thế ông còn tài “b khoá vượt ngc”.
Hun Cao hin lên trong tác phm qu một người “văn song toàn”, hi t
tt c nhng khí cht ca một người anh hùng tài ba. Tác gi gii thiu Hun
Cao vi li miêu t gián tiếp hoàn toàn dng ý khéo léo, chu toàn ông
muốn để cho nhân vt ca mình xut hin mt cách t nhiên không đưng
đột, t đó cho người đc thấy được hình tượng nhân vật phi thường tiếng thơm
đã truyền đi khắp nhân gian, khi nhắc đến tên tui c viên qun ngc hay thy
thơ lại đều đã tng nghe qua. i tài hoa, ngh ca ông Huấn cao còn đưc
bc l rõ nét nht khi viên qun ngc bt chp him nguy, ch vi hy vng
được ch ca ông, ch ông “đp lm, vuông lắm” chỉ cn một đôi câu đối
ca Huấn Cao treo trong nhà coi như y đã mãn nguyện” bi phần, dường
như trên đời s chng th m cho viên qun ngc hạnh phúc hơn thế
na.
Hun Cao còn v anh hùng vi khí phách hiên ngang ngút tri, lâm vào
cảnh đày đối din vi án t nhưng ông chng mt chút s hãi vn gi cho
mình nhân cách thanh cao, không nhún nhường trước cường quyn tào bo.
Trưc li giu ct ca bn lính cai ngc, Hun Cao im lặng “lạnh lùng, chúc
mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xung thm đá tảng
một hành động dứt khoát như là li cnh báo chc nch của ngưi t vi bn
nha sai hách dch, cy quyn. Trong ngc tăm tối ông thn nhiên, ung dung
“nhận rượu thịt, coi như đó một vic vn m trong cái hứng sinh bình”, tht
hiếm ngưi nào sp chết vn gi thái độ điềm nhiên, bình thn
được như Huấn Cao. Chng s ng quyn, khinh bc chế độ hi tàn bo
biết trước s phải đối đầu vi mt trận “lôi đình báo thù nhng th đoạn
tàn bạo” thế nhưng người anh hùng cũng chng th dối lòng “Ngươi hỏi ta
mun gì? Ta ch mun một điều. ngươi đừng đặt chân vào đây” Câu i
thng thừng như gáo nước lnh tt thng vào b mt phong kiến.
Nguyn Tuân còn miêu t người anh ng kiên ng mang tm lòng thiên
lương cao cả. Hun Cao t thu sinh thi không bao gi ham phù hoa, danh li
mà bán chữ. Đời ông cũng chỉ viết có “hai bộ t bình mt bức trung đường”
cho những người bn tri k. Ông quan nim cái đẹp thanh cao phải được trao
cho đúng người mới phát huy đưc hết giá tr ca nó. Huấn Cao đã bị cm
động trưc s đối đãi chân tình “biệt nhỡn liên tài” của ch t Viên qun ngc.
Tm lòng nhân hu không mun ph “mt tm lòng trong thiên h”.
Ngoài nhân vt trung tâm Hun Cao, Nguyn Tuân còn y dng thêm mt
tuyến nhân vt viên qun ngc, một người yêu thích cái đp, m hn tài hoa
ngh nhưng lại b lc vào chốn nbẩn, dung tc. Nhà văn y dựng đồng
thi hai nhân vt chính din song song soi chiếu cho nhau to sáng vi v đẹp
tâm hn tao nhã. Viên qun ngc dường như chn nhm ngh, ông “một
thanh âm trong tro chen vào gia mt bản đàn nhạc luật đều hn lon
bồ”. Như cách tác giả nói “Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày i nhng
cái thun khiết vào gia một đống cạn bã”. Thật đáng trân trọng sng gia mt
hi ri ren, lon lc vn gi cho tâm hn mình không v i lp trong
bùn ly, ông còn còn biết trân trọng cái đẹp, biết n trọng người tài, ngưi
dũng cảm bt chp him nguy.
Vào một đêm hoang vng, ti tri giam tỉnh Sơn đã xảy ra “một cảnh tượng xưa
nay chưa từng ”. Trong buồng giam tăm ti, cht hp, mùi m mc bc lên,
xung quanh đầy nhưng mạng nhện giăng, mùi hôi thốc ca phân chut, phân
gián. Trong không khí khói to, ngn lửa đ rc ca ngọn đuốc đang cháy
hng hực. “Một người tù, c đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét ch
trên tm la trắng tinh”, viên qun ngc “khúm m”, thầy thơ lại “run run
bưng chậu mực”, vị thế nhân vật dường như đổi dời người nm quyn thế bng
dưng khép nép, nh cẩn trước mt t tù. Cái đẹp không l loi đơn độc,
không tn ti cùng cái xu xa chiến thắng chúng, nhân đo hoá nhng tâm
hồn đang vướng bi trn giúp h thc tnh, tìm lại con người nhân nghĩa vn có
ca mình.
Ch người tca tác gi Nguyn Tuân là mt thiên truyện đã đạt “gần ti s
toàn din, toàn m”. Tác phẩm th hin phong cách ngh thut tài tình ca nhà
văn, tạo dng thành ng tình hung truyện độc đáo, khắc ho tính cách nhân
vt qua th pháp đối lập, tương phản gay gt, ngôn ng trang trng giàu hình
ảnh sinh động. Qua truyn, tác gi đã khng định s tn tại vĩnh cu ca cái
đẹp, th hiện lòng yêu nước thm kín ca Nguyn Tuân.
Phân tích Ch ngưi t tù mu 7
Nguyn Tuân một nhà văn luôn đi tìm cái đẹp đã đem đến cho nền văn học
Vit Nam một phong cách tài hoa, độc đáo. Trước Cách mng, các tác phm
ca Nguyễn Tuân, đặc bit trong tp Vang bóng mt thời, thưng viết v
những nho cuối đời, nhng con người tài hoa nhưng bất đắc chí, buông xuôi
với đời nhưng vẫn nhng mâu thun sâu sc vi hi, vi thi buổi “Tây
Tàu nh nhăng”. Những tác phm trong Vang bóng mt thi miêu t nhng
người chí tài hoa, ngông nghênh gia cuộc đời, ly cái thái độ ca mình làm
cái đối lp vi xã hi. Trong s các tác phm y, ni bt lên tác phm Ch
người t t cũng nhân vật Hun Cao mt con người tài hoa, khí phách vi cái
tâm cùng trong sáng thiện lương, rơi vào hoàn cnh chí không thành
nhưng cũng không hề mất đi tư thế hiên ngang, ngo ngh với đời.
Tác phm Ch người t được in trong tp Vang bóng mt thi xut bản năm
1940, ban đầu được mang tên Dòng ch cui cùng. Tác phẩm cũng mang
chung mt mch cm xúc vi các tác phm khác trong cùng tp truyn khi ca
ngi khng định cái đẹp, đồng thi ca ngi những con người sống đẹp vi
li sng gin d thanh bạch. cái đẹp chính trung m ca toàn b câu
chuyn.
Nguyễn Tuân đã y dựng lên mt Ch người t đặc sc vi không ch câu
ch đầy tài năng, mà còn ở mt tình hung truyn có mt không hai đời. Tình
hung truyn vn hoàn cnh to nên s kiện đặc biệt đưc nhà văn tạo ra
trong tác phm ca mình, chính tại đó, cuộc sng hiện lên đậm sc nht, ý
đồ của ngưi viết đưc bc l nét nht. Dựa vào đó, Nguyễn Tuân đã dựng
lên mt tình hung truyn khi viên qun ngc cuc gp g vi Hun Cao
một con người tài hoa, đặc bit tài viết ch hiếm trên đời nhưng đồng
thời ng một tên t đang ch ngày hành quyết. viên qun ngc
người cùng hâm m nét ch ca Hun Cao, quyết tâm xin bằng được ch
ca ngưi t y để cho toại cái “sở nguyện” của mình. Tình hung truyn mà
Nguyn Tuân dng lên hết sc đặc sc, hết sc độc đáo, giàu kịch tính mà cũng
đầy éo le. Chính điều đó đã tạo nên mt Ch ngưi t mt tác phm v cái
đẹp độc nht vô nh.
Đọc tác phẩm, ngưi ta không khi khc thành ấn tượng v nhân vt chính
trong câu chuyn Hun Cao - mt nhân vật đại din cho lớp người nho tài
hoa, nhưng lại không gp thi, bất đắc chí. Hun Cao mt v anh hùng b sa
thất thế, ông nho nhưng cũng lại người lãnh đạo nhân n vùng lên
chng li triều đình đ đòi lại công bng cho mình. Cuộc đu tranh tht bi,
ông b bt, b phán mt k phn nghch triều đình, phải chu ti chết, bi vi
Nho giáo ngày xưa, trung quân ái quc mt trong những điều kin tiên quyết
quyết định nhân phm ca một con người. nhiu ý kiến cho rng, nhân vt
Huấn Cao được ly cm hng t người anh hùng Cao Bá Quát mt ngưi nho
cũng tài hoa cùng, cũng qu cm, cũng tài viết ch tuyệt đỉnh, được
mệnh danh "thánh Quát", cũng một th lĩnh đứng lên lãnh đạo khởi nghĩa
chng li triều đình.
Hun Cao vn mt cách gi cùng kính trọng đối vi mt v quan trông gi
vic hc mt huyện đối vi viên qun ngc trong tác phm, Hun Cao
được hn cùng kính trng. Vi qun ngc, Hun Cao ta như "một ngôi
sao Hôm nhp nháy", hay " mt ngôi sao chính v". Vi v thế của mình, đáng
l ra một người như qun ngc, sau khi nhn được tin mt k "phn nghch"
như Huấn Cao vào ngc ca mình phải căm tc, phi ghét b lắm, nhưng quản
ngc lại khác, ông ờng như kiêng nể Hun Cao, coi trng Huấn Cao. Ngưi
ta thy mt phần trong đó cht cha cái s ưu ái Nguyễn Tuân dành cho
mt anh hùng tht thế như Huấn Cao.
Hình tượng nhân vt Huấn Cao được ly nguyên mu t người anh hùng Cao
Quát, l vy Huấn Cao cũng mang trong mình sự tài hoa, không
ch v ngh thuật thư pháp đỉnh cao còn một người anh hùng vi khí
phách kiên cường mt người với cái tâm thiên lương trong sáng. Nguyễn
Tuân đã khắc ha Hun Cao trên nhiu bình diện để thy được mt v đẹp
thanh cao, đt ti chân thin m ca cuộc đời.
Đầu tiên, Nguyn Tuân miêu t Hun Cao một người ngh , cùng tài
hoa trong ngh thut viết ch, vang danh khắp nơi. Nguyễn Tuân không trc
tiếp khen ngợi cái tài năng y ca Hun Cao li gián tiếp thông qua câu
chuyn ca viên qun ngc và thy thơ lại. Trong câu chuyn của hai ngưi coi
tù, xut hin sáu tên ti phm mang ti phn nghch triều đình, trong đó có một
k tên Hun Cao "Huấn Cao? Hay cái ngưi vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen
cái tài viết ch rất nhanh đẹp đó không?". Không chỉ vy, hai thy trò viên
qun ngc còn dn nhau rng "ngoài cái tài viết ch tt, li còn tài b
khóa và vượt ngc", đó là tất c nhng gì người ta đưc nghe gián tiếp khi nhc
nhm v Hun Cao. Hun Cao hin lên mt k "văn toàn tài", hội t khí
cht ca mt k anh hùng tài ba. Nguyễn Tuân đã thật tinh tế khi khéo léo để
nhân vt ca mình xut hin gián tiếp trong li k ca nhng k khác tht t
nhiên, khi mà tiếng thơm của ông đã vang danh và truyền đi khắp thế gian.
Thế nhưng, cái tài hoa ca Hun Cao còn bc l thật ràng hơn trong hành
động và suy nghĩ của viên qun ngc người khao khát có đưc ch Hun Cao
hơn hết thy mi th trên đời.
Ngay khi nhận được "phiến trát" báo tin rng "chúng ta sp nhn đưc sáu tên
án chém. Trong đó, tôi nhn thy tên người đứng đầu bn phn nghch
Hun Cao", viên qun ngc đã gần như ngay lập tc mun biệt đãi đi vi
Hun Cao. Qun ngc đã cho "quét dn li cái bung trong cùng. Có vic dùng
đến". Ông mun nhng ngày cui cùng của người Huấn Cao đưc thoi mái
nht, vy ông đã bt chp nguy him đối đãi với Hun Cao hết sc t tế.
Đối vi Huấn Cao như thế, ông không ch mun bày t tm lòng trân trng,
thành kính của mình đối vi tài hoa ca Hun Cao còn muốn đạt được cái
s nguyn của mình, đó đưc ch ca ông Huấn. Đối với y, được ch
viết ca Huấn Cao đã trở thành mt "s nguyn" mà ch cần đạt được thôi là "y
s mãn nguyện". Cái đp qu sc ảnh ng ln, khiến con người ta
phi mn, phi c gắng để đạt đưc, bt chp nhng nguy him him nguy
đang chờ đợi.
Tài năng của Hun Cao chng h được Nguyn Tuân bc l trc tiếp mt li
vậy mà, ngưi ta vn c như thấy nhng con ch thư pháp "đẹp lm, vuông
lm" ca người t t hiện lên trước mt. Qua những hành động bt chp nguy
him ca qun ngc để đối đãi với Hun Cao cùng những suy tư của y đã khiến
chúng ta tht ấn tượng v tài năng của người t t ni danh của vùng Sơn y.
ch cn miêu t cái khát khao cháy bỏng được ch Hun Cao ca viên
qun ngc, Nguyễn Tuân đã nâng tầm tài năng của Hun Cao, biến ông tr
thành một tài năng hơn người, tr thành mt bc "thn thơ thánh chữ". Thái độ
ca viên qun ngc đối với người t tù đy s ngưỡng mộ, đầy kính trng, phi
chăng đây cũng chính là tình cảm ngưỡng m ca Nguyễn Tuân đối với cái đẹp?
Ngưi ta biết Nguyễn Tuân người luôn săn m cái đẹp, cái đẹp trong tài
năng thư pháp của Huấn Cao đã chạm tới cái đẹp tuyệt đối Nguyn Tuân
kiếm tìm chăng? Và đó cũng như một li trân trng ca Nguyn Tuân dành cho
văn hóa truyền thng ca dân tộc đang bị mai mt chăng?
Không ch một ngưi ngh tài hoa với ngh thuật thư pháp, t Hun
Cao còn ni tiếng là mt ngưi có khí phách hiên ngang ca mt v anh hùng.
Nguyễn Tuân đã ct công y dng hình nh ca mt v anh hùng "chc tri
khuấy nưc", một người ch mt viên quan coi sóc vic hc mt huyn
dám đứng lên lãnh đạo người dân chng li triều đình để lp li trt t
hi. Mt v quan nh, vi công vic của mình, đáng ra cả đời ông đã được yên
bình trong tĩnh lặng, thế nhưng, giữa cái cnh "Hán hc suy vi", "Tây Tàu nh
nhăng" đã buộc v quan y phi ng dy vi mong mun ly li công bng
cho hội, mong được mt hi tt đẹp hơn. Như viên qun ngc nhn
xét Hun Cao, ông không ch đánh giá tài năng viết ch ca Hun Cao còn
khâm phc cái khí phách hơn ngưi ca tên t tù na, qun ngc gi Hun Cao
"mt ngôi sao Hôm", "mt ngôi sao chính v sp biệt tr" hay "mt k
chc tri khuấy nước". Vài ba câu ca qun ngc, những người ta đã thấy hin
lên cái tm vóc công vic ca Huấn Cao theo đuổi, to lớn đại ti
nhường nào!
Khí phách ca Hun Cao không ch th hin khi ông còn ngoài t do mà ngay
c khi sa cơ, phải chu ti, ông vn gi nguyên cái khí phách ngang tàng,
kiên trung ca mình.
Cái khí phách ca ông th hin gián tiếp qua li ca nhng nhân vt trong
truyện đu tiên qua li ca tên lính dn tù. Khi va dn Hun Cao cùng
anh em ca ông ti tri giam ca viên qun ngc, tên lính đã dặn dò viên qun
ngc rng: "Bm thy, tên y chính th ng. Xin thầy để m cho. Hn
ngạo ngược nguy him nht bn". Mt v anh hùng sa nhưng vẫn
mt k đặc bit nguy him, cần được đặc biệt chú ý. Đó chính là cái khí phách
ngo ngh ca Hun Cao, khí phách ca mt v anh hùng luôn ta ra chói lòa
đến thế.
nếu theo dõi tiếp, ngưi ta hn để ý đến mt chi tiết nh trong u chuyn,
chi tiết d gông. Nguyễn Tuân đã chèn vào c mch truyn mt chi tiết nh y,
thế nhưng li chi tiết ni bt nht, phn ánh mnh m nht cái khí phách
gan góc, ngo ngh của người anh hùng Hun Cao. Qu thc ch Nguyn
Tuân mi có th làm được điu này!
Sau khi bước ti ca tri giam, v thế đó một k khác, chc hn s không
ch buồn đau khi còn biến cht, tr thành k tiu nhân, thế nhưng với
Hun Cao thì không. Nhng lời nói hành đng của ông dường ncùng
thoi mái, thn nhiên, nh như không khí, đọc lên, người ta ng như ông đang
còn t do ngoài thế gii rng ln kia. Hun Cao nói "Rp cắn tôi, đỏ c c lên
ri! Phi d gông đi!", câu nói nh nhàng như lúc bình thường ch không ai
nghĩ đây lúc ông đang phải đeo gông vào ngc. Nghe câu nói y, người
ta ng như thấy Hun Cao thản nhiên như đang làm mt việc bình thường trong
cuc sng.
ri, cái khí phách ngo ngh y càng th hin mnh m hơn vi cái hành
động "d gông": "Hun Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nng, khom mình thúc
mạnh đầu thang gông xung thềm đá tảng đánh thunh mt cái". Ch vi mt
ch "thunh" thôi, Nguyễn Tuân đã thu hết cái ngo khí ca mt v anh hùng
vào câu ch. Ch "thunh" y nghe nó vang vọng, người đọc như được chính
mt nhìn thy Hun Cao "d gông", chính tai nghe đưc cái âm thanh "d
gông" vọng lên trong đu ca mình. Một cái "thúc mũi gông", Hun Cao làm
mt cách thản nhiên quá, như ông đang làm một việc gì đó bình thưng hàng
ngày vy. Nếu như năm ngưi bn ca ông phải "nhăn mặt" "then ngang
chiếc gông b git mạnh, đập vào c", thì riêng Hun Cao li chng h t v gì.
Đó chính khí phách ca mt v anh hùng làm vic ln, khiến cho mọi người
phi n vì.
Khí phách của người anh hùng Huấn Cao càng đưc th hin qua hình nh ca
mt tên t trong lao ngc. Lao xưa nay vn khiến cho con người ta phi
kinh sợ, động lòng, nơi th biến mt k anh hùng tr thành mt k tiu
nhân li, thế nhưng với Hun Cao li khác. Vi ông, lao chng qua cũng
ch như một nơi , bi chí khí của ông đã tung hoành khp thế gian này ri.
trong nhưng chng khác nào nhà, Hun Cao vn ung dung, t ti, vi
khon "biệt đãi" của qun ngc, ông "thn nhiên nhận rượu thịt, coi như đó
mt vic vn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa b giam cm". Hun Cao
cũng giống như Phan Bi Châu trong nhà lao Quảng Đông:
"Vn hào kit, vẫn phong lưu
Chy mi chân thì hng tù"
Cái khí phách ngo ngh ca những ngưi anh hùng tht khiến nhng con
người bình thường như chúng ta phi khâm phc bi phn.Và cái khí phách y
ca Hun Cao còn th hin ch, ông "khinh bc đến điều" ng quyn.
Đó khi viên quản ngc lui vào "bung kín, khép nép hi ông Hun" va
mong ông gi kín chuyn va ân cn hi han "ngài cn thêm na xin cho
biết. Tôi s c gng chu tt", thế nhưng đáp li s ân cn ca qun ngc, Hun
Cao ch tr li bằng thái độ ngo mạn "Ngươi hỏi ta mun gì? Ta ch mun mt
điều. ngươi đừng đặt chân vào đây". Với ông Hun, tt c nhng k thuc
triều đình, là quan li ca triều đình đều nhng k ác, nhng k xu xa, sng
trên đầu trên c ca nhân dân, vy nên, ông cũng coi viên qun ngc mt k
như thế. Chính thế, ông "khinh bạc đến điều" nhng k hèn h này. Đến khi
viên qun ngc nghe thy lời ông, đáp lại bng một câu "xin lĩnh ý", người ta
mi càng thy cái tm vóc ca Hun Cao, tr lên hơn, uy nghi hơn.
Mt viên qun ngc, chúa ngc li "cung kính chắp tay "xin nh ý"" với
mt tên t tù, thì tên t y phi mang mt khí phách khiến ngưi ta phi n
phc đến nhường nào ch?
Xưa nay, đối vi những người anh hùng khí phách ngút tri, cái chết vi h
chng qua "lông hng", h đã chng còn đặt nng vic sng chết. Vi Hun
Cao cũng vậy, đến trước ngày ra pháp trường, ông vẫn ung dung trong tĩnh tại.
Nếu như những k khác, trước cái chết không run s cũng phải động lòng ht
hong, thế nhưng, vi những người anh ng như Huấn Cao, cái chết chng
đáng sợ, bi vy, ông vẫn đường hoàng, bình tĩnh cho li nhng con ch
cui cùng ca cuc đời mình "nhng nét ch vuông tươi tắn nói lên nhng
cái hoài bão tung hoành ca mt đời con ngưi".
Nếu như phía trên, ngưi ta ch thy tài hoa ca ông gián tiếp qua li k ca
nhng nhân vt khác thì đây, khí phách ca ông lại đưc bc l trc tiếp qua
lời nói và hành động, va đưc gián tiếp th hin qua li k ca viên qun ngc.
Nguyễn Tuân đã y dng Hun Cao trong cm hng của bút pháp tưởng
hóa, khc sâu vào trong lòng chúng ta hình nh ca một người vi khí phách
ngo ngh.
Không ch tài hoa, phí khách hơn ngưi, Huấn Cao còn được biết đến trên
khía cnh là một con người có cái tâm thiên lương vô cùng trong sáng.
Thiên lương vốn t ch bn tính tốt đẹp của con người được th hin t khi
sinh ra. Hun Cao mt người có cái tâm thiên lương trong sáng, điều đó thể
hin qua vic ông cho ch cũng như quan niệm ca ông v cái ch. Bi như li
qun ngc nói v Hun Cao "tính ông vn khonh, tr ch tri k, ông ít chu
cho ch", bi vi Hun Cao, cái ch th quý giá, không th cho tùy tin "ta
nht sinh không vàng ngc hay quyn thế ép mình viết câu đi bao gi".
Hun Cao viết ch đẹp thế, nhưng c đời ông ch mi viết "hai b t bính và
mt bức trung đường cho ba ngưi bn thân", ông ch trao con ch ca mình
cho những người xứng đáng, cho những người chung chí hướng thôi. Đó
quan nim ca Hun Cao v cái chữ, cái đẹp đời. Hun Cao tng ch cho
qun ngc "ta cm cái tm lòng bit nhn liên tài của các người", không
mun ph đi tấm lòng ca một ngưi vi "s thích cao quý" cái tâm biết
kính trọng cái đẹp.
Hành động cho ch ca Hun Cao cho qun ngc va th hin mt tm lòng
quý trọng con người, đền đáp cho ngưi tri ký, va để nâng đỡ th ánh sáng
thiên ơng trong một con người khác ca Hun Cao. Viết ch, viết câu đối
một hành đng sáng to v mt thm m, thế nhưng đây, còn một s
xúc động v mt đo đức na.
Thiên lương của Huấn Cao đã th hinkhi ông nht m cho ch qun ngc,
ông cm động bi tm lòng trân trọng cái đẹp, yêu quý cái đẹp ca qun ngc
cũng từ cái đẹp y, ông khuyên nh qun ngc gi ly cái thiên lương của
chính mình. Con ngưi ta vn thiện lương đã đẹp, nhưng khi chia sẻ, giúp đỡ
người khác tr nên thin lương thì cái thiện ấy còn tăng gp bi phn, Và Hun
Cao đã thực s làm đưc việc đó bằng li khuyên nh qun ngc "Tôi bo thc
đấy, thy Qun n tìm v quê , thy y thoát khi cái ngh y đi…
đây, khó gi thiên ơng cho lành vng rồi cũng đến nhem nhuc mt cái
đời lương thiện đi". Một ngưi t đã dùng hết nhng m can cui cùng ca
cuộc đời mình để giúp người khác hướng thiện, ông đem cái thiên lương trong
sáng ngn y của mình để khơi gợi cái thiên lương trong lòng ngưi khác.
Đó mới thc là một người anh hùng đời!
Hun Cao là nhân vật được Nguyn Tuân xây dng bng bút pháp lãng mn,
ởng hóa người anh hùng yêu nước, đồng thời, qua đó, ông bộc l kín đáo tình
yêu c thm kín ca mình, kết tính quan điểm v cái đẹp ca nhân vt v
ngh thuật con ngưi. Ngh thut chân chính s sc hút l đối vi
những con người thc s yêu nó, thc s trân trọng nó. Cái đẹp s c động ti
tâm thc, tâm hn của con người, nó là s hòa hp ca c cái tài và cái tâm
Thế nhưng, Chữ người t s chng th mt tác phm vẹn tròn ý nghĩa nếu
không nhc v nhân vt qun ngc, mt chúa ngc sng gia chốn đề lao "tàn
nhn", "la lc", "một đống cặn bã", nơi con người d sa ngã, d bc l
nhng thú tính hoang di, đc ác nht ca mình.
Những tưởng sống trong cái môi trưng vi một "lũ quay quắt", qun ngc
cũng sẽ như chúng, hòa mình vào cái "bản đàn" bồ y, nhưng không, quản
ngc lại được như "một thanh âm trong tro chen vào gia mt bản đàn
nhc luật đều hn lon b". Ông một con người vi "tính cách du dàng
lòng biết giá người", một con người "thun khiết gia một đống cn bã".
Qun ngc hin lên hoàn toàn trong một đoạn văn miêu tả bng t pháp tr
tình, gi lên cho chúng ta hình nh ca một con ngưi vi tâm hn đẹp đẽ, biết
trọng cái đẹp cái tài.
Viên qun ngc được Nguyn Tuân khéo léo dng lên thông qua hai khía cnh:
mt là một con người say mê cái đẹp, và hai là một con người biết hướng thin,
biết sng với cái thiên lương của mình.
Qun ngc một ngưi say mê, quý trọng cái đẹp, đó khi ông vừa nhn
được "phiến trát" biết tin Hun Cao sắp được chuyn tới đề lao ca mình. Qun
ngc đã gần như ngay lập tc th hin tm lòng mun "biệt đãi" với Hun Cao
k t phn nghch cùng vi những ngưi bn khác ca ông, bt chp s
nguy him ti tính mng nếu như để l ra ngoài. Nếu như những tên qun ngc
khác mun bày t cái uy quyn ca mt chúa ngc nơi chốn lao tù ca mình thì
viên qun ngc đây li th hin cái s "biệt đãi" kính trọng đối vi mt tên tù
nhân khí phách ngo ngh.
Quan đim sng ca qun ngc đó trân trọng cái đẹp, người tài, cái đẹp
chính tiêu chí đầu tiên đánh giá nhân cách ca một con người. Thế nên, khi
nhn Hun Cao o ngc ca mình, qun ngc đã "biệt nhn" Hun Cao hết
sức đặc biệt. Yêu cái đẹp, trng cái tài, chính thế, qun ngc luôn đau đáu
trong mình cái "s nguyn" khi Huấn Cao trong tay, đó "một ngày kia
được treo nhà riêng mình một đôi câu đi do tay ông Hun Cao viết", "không
kịp xin đưc my ch, thì ân hn suốt đời mt". Cái s nguyn y ca qun
ngc chng phải ai ng có, đó s nguyn cao quý mang phm cht ca mt
người ngh sĩ. Không yêu cái đp, trọng cái đẹp thì ngưi ta làm sau thu hiu
được cái đp đời mà trân trọng cái tài làm ra cái đẹp được cơ chứ?
Có l vì thế, mỗi hành động ca qun ngc đối vi ông Hun là c mt s cung
kính, khiêm nhường đến cùng. Hun Cao xut hiện trước mt qun ngc,
vi s ngo ngh trong hành động "d gông", nếu như những nhân khác,
qun ngc chc hn "gi nhng mánh khóe hành h thưng l ra", nhưng với
Hun Cao, ông li "kiêng n, tuy c gi kín đáo cũng đã quá ri". Phi,
một con người trọng cái đẹp, cái tài như qun ngc thì m sao không kính n
con người tài hoa và khí phách như Huấn Cao được cơ chứ?
Đến khi b Hun Cao hiu lm "khinh bạc đến điều", qun ngc vn gi
nguyên thái độ cung kính của mình, đáp lại bng s "l phép lui ra vi mt câu:
"Xin lĩnh ý", bởi y tha hiu tính cách ca nhng người anh hùng như Huấn
Cao, "những người chc tri quy nước, đến trên dầu người ta, người ta cũng
còn chng biết ai na, hung chi cái th mình ch mt k tiu li gi tù".
Cái khí phách Hun Cao th hin ra càng khiến cho viên qun ngc khâm
phc ông hơn bội phn, s khinh bc ca Hun Cao vi y, càng làm cho y cm
thy kính n mà "cơm rượu li vẫn đưa đến đều đều và có phn hu hơn nữa".
Qun ngc mt nhân vt mà thân phn khác xa vi tâm hn ca mình,
Nguyn Tuân cũng đã thng thn tha nhận điều đó "Ông trời nhiều khi chơi ác,
đem đày i nhng cái thun khiết vào gia một đống cn bã. những ngưi
tâm điền tt thng thn, li phải ăn đi kiếp vi một quay quắt".
Qun ngc một con người cái đẹp, khát khao được cái đẹp đ trân
quý gi gìn. như Nguyễn Tuân đã từng khng định: một con người yêu
cái đp, trân trọng cái đp thì không bao gi là k xấu được.
Chng thế mà qun ngc còn một con ngưi biết hưng thin, biết dũng cảm
mà sng theo tiếng gi ca thiên lương.
Có l khi bước chân vào cái ngh cai ngc khng khiếp này, qun ngc cũng đã
tng day dt "l hắn cũng nmình, chn nhm ngh mt ri!". Bi ông
hiểu cái môi trường đề lao "người ta sng bng tàn nhn, bng la lc", s
làm mai một đi tâm hồn "tt thng thn", mai mt luôn c tình yêu vi cái
đẹp của ông. Đến khi gp Hun Cao, ông li càng băn khoăn hơn gia trí
nhim v ca triều đình tiếng gi của thiên ơng trong con tim ông. Huấn
Cao tới, con người với cái tài, cái đẹp ông kính trng ti, "ngc quan băn
khoăn ngồi bóp thái dương", ông không biết nên hành x thế nào, nên lo liu
thế nào? Bi mt n, ông không h mun vi phm ni quy công v ca triu
đình, một bên ông mun khoản đãi một k t phn nghch ông yêu kính.
Tình thế khiến qun ngc phải đau đầu chn lựa. ngưi s công v
quên đi cái tâm của mình, quên đi cái đẹp mà mình vn yêu vn quý, thế nhưng,
qun ngc thì không. Sau một đêm ngồi suy ngm, "những đường nhăn nheo
ca mt b mặt lự, bây gi đã biến mt hn. đấy, gi ch còn mặt c
ao xuân, bng lặng, kín đáo êm nhẹ", ông đã chọn nghe theo tiếng nói ca
trái tim, cất bước theo tiếng gi của cái đẹp, cái thiện lương.
Tiếp nhn Hun Cao, chng kiến cái hành động "d gông" ngông cung, thế
nhưng quản ngc li chng h băn khoăn, động tâm trc tiếp bc l tm
chân tình ca mình khiến cho tt c nhng tên lính l phi ngc nhiên đến độ
"nhc nh".
Đến cui cùng, khi Huấn Cao đồng ý cho ch ri ct li khuyên can qun ngc
"thy Qun nên tìm v nhà quê , thy y thoát khi cái ngh này đi đã,
rồi y nghĩ đến việc chơi chữ. đây, khó giữ thiên ơng cho nh vững
rồi cũng đến nhem nhuc mất cái đời lương thiện đi", nghe đến đây, quản ngc
không khi cm động, cúi đầu, nhìn "bức châm", "vái người mt vái, chp
tay i một câu nước mt r vào k ming làm cho nghn ngào: "K
muội y xin bái lĩnh"". Cuối cùng, cái thiên lương ca mt tên chúa ngc
cũng đã đưc khai m hoàn toàn nh cái đẹp.
Qun ngc đã bước qua cái gii hn ca thân phận để sng tht vi bn
thân, với lương tri của mình, bt chp rng ông có th him nguy ti tính mng.
Một con người đy mâu thun, ông là mt k tù nhân ca chính mình, là mt k
lc lõng giữa cái đề lao mà mình cai qun.
Qun ngc đưc Nguyn Tuân dng lên bng cm hng lãng mn, bng cái
tâm yêu cái đẹp ca mình. Qua nhân vt qun ngc, Nguyn Tuân mun khng
định quan đim ca mình v cái đẹp rng s nguồn cơn để con ngưi tr
v cái chân thin m ca cuc đi, hay một con người yêu cái đẹp, trng cái tài
s không bao gi tr thành mt k ác đưc.
Tìm hiu Ch người t không tìm hiu cn k, không phân tích cho sâu
cái phân đoạn đắt gnht ca tác phm "cnh cho ch" thì s chng ai th
hiu hết những ý nghĩa sâu xa Nguyễn Tuân mun gi gm. Cnh cho ch
mt cảnh đắt giá nht trong toàn b tác phm, mt cảnh "xưa nay chưa
tng có".
Gia mt không gian cht hp bung bit giam, "mt bung ti cht hp, m
ướt, tường đầy mng nhện, đất ba bãi phân chut, phân gián" lại nơi cho
người ta thy cái đẹp, cái tài hoa ca một con ngưi. Vào giữa đêm khuya "chỉ
còn vng lên tiếng vng canh", nhng con ch được sáng to ra vào lúc
người ta không ng ti nht, bởi a nay, người ta thường cho ch vào lúc tri
còn sáng, lúc mt trời còn đẹp gia thế gian. ngưi cho ch cũng vậy,
những người làm công vic sáng to y phải ngưi hay ch, trong mt tâm
thế thoải mái, vui tươi nhất, thế nhưng đi lp lại, ngưi cho ch đây lại
mt tên t ngày mai s b dẫn ra pháp trưng nh quyết. l gi đây
khong thi gian cuối cùng người anh hùng th để li di hun ca mình
vi "những hoài bão ước mơ tung hoành ca c mt đời người".
l chưa từng trong lch s văn học Vit Nam, mt cnh cho ch nào
v thế ca các nhân vật được đảo ngược đến thế. Nhng k uy quyền như quản
ngc, thy thơ lại phi khúm núm, khép nép còn k t ti li hiên
ngang, bình thản, tĩnh lặng bay bng trong tng nét ch như thế! nếu
như chúa ngc nhng k phi buông lời khuyên răn dạy d phm nhân, thì
đây, phm nhân lại người lên tiếng dy d viên qun ngc. Thế nhưng,
không aith không công nhn, cái khí phách, cái tài hoa ca tên t kia đã
khiến cho nhng k uy quyn như quản ngc phải cúi đầu. cái cúi đu y
không khiến cho qun ngc thp n đi khiến ông tr lên cao đẹp hơn, bởi
l nhng li giáo hun y đã đánh thức cái thiện trong ông, cúi đầu trưc cái
đẹp, cái uy nghi để nhn nhng lời răn dạy thì không bao gi thp hèn c.
Qun ngc cung kính vi Hun Cao, cái cung kính y không làm ông hèn nhát
còn m sáng rực cái nhân cách đẹp đẽ, thánh thin, s sùng bái ca
qun ngc với cái đp, cái tài và khí phách của người anh hùng.
Qun ngc chính nhân vt được Nguyn Tuân gi gm quan nim nhân sinh
sâu sc của mình. Đó là n sau mỗi con người dù sng trong xấu xa, đc ác vn
luôn mt m hồn khao khát cái đp, khao khát cái thiện lương, chực ch
th ánh sáng thiên lương chiếu tới để bng dy mnh m.
Bng bút pháp lãng mn, tài hoa ca mình, Nguyễn Tuân đã dng lên nhng
nhân vt trong s hoàn thin, hoàn m ti mc tưởng hóa. Như Huấn Cao
một con người xut chúng, không ch tài hoa còn khí phách hơn ngưi
cùng mt trái tim chứa đầy thiên lương. Còn qun ngc một con người sng
giữa muôn vàn cái ác nhưng lại tr thành "mt thanh âm trong tro chen gia
mt bn đàn nhạc luật đều hn lon b", biết yêu cái đẹp, biết trng cái
tài, biết phc cái thiện. Ông cũng y dựng nhng nhân vật đối lp trong Ch
người t như Huấn Cao vi qun ngc (t vi chúa ngc), hay s đối lp
trong chính thân phn và ni tâm ca qun ngc.
Hơn thế, trong cnh cho ch, tác gi cũng xây dựng nhng hình ảnh đối lp t
không gian, thời gian, cũng như cái đp đối lp vi cái xu. Ngôn ng trong
Ch người t cùng giàu nh ảnh, đa dạng các t ng Hán Vit to nên
không khí c kính cho tác phm.
Ch người ttác phm thành công nht trong tp Vang bóng mt thi ca
Nguyễn Tuân. đã cho chúng ta thy được v đẹp ca một người anh hùng
tài hoa, chí khí, đng thời cũng cho ta thấy được quan điểm v cái đẹp ca
Nguyn Tuân trong cuc sng.
Phân tích Ch ngưi t tù mu 8
Nguyn Tuân y bút tài hoa ca nền văn học Vit Nam. Nghip sáng tác
ca ông chia thành hai giai đoạn trưc cách mng tháng Tám và sau cách mng
tháng Tám. Trước cách mng, ngòi bút ca ông thiên v phương châm “Vang
bóng mt thi-try lc-xê dịch”. Truyện ngắn “Chữ người t tù” tác phẩm
kit xuất trước cách mạng tháng Tám, đã khc ha thành công hình nh Hun
Cao, mt k sĩ tài hoa, có tấm lòng thng thn.
Hun Cao mt k xả thân đại nghĩa, lên án t cáo s trng trn ca
triều đình, ông bất chp tt c để chng li triều đình mc nát, thi ra. Hun
Cao trong mt ca bn lính mt k “ngạo ngược nguy him nhất”, nên đề
phòng. Đi vi thy thơ thì ông “văn đu tài cả, chà chàcòn đi vi
người qun ngc thì Huấn Cao người “chọc tri khuy nước”, coi thường
tin bc bo lc. Vi nhng cách nhìn y, Hun Cao một người tài ba
trong mt ca mọi người, mt k nhưng li tm lòng kiên trung, toát
lên s thanh cao gia chn xiềng xích nhơ bẩn.
Bng ngòi bút tài hoa ca mình, Nguyễn Tuân đã vẽ lên hình nh Hun Cao
bc trực, đầy hào khí, từng đường nét đều rt thoát phàm, rất độc đáo. một
k nhưng Huấn Cao ờng như chng s tri, chng s đất, ông th thét
lên vi bt c ai. Không cần hành động nhưng khí phách của ông li khiến cho
mi ngưi n phc.
Hun Cao gia chốn lao y còn được biết đến k tài hoa, người đời
mến m bằng cái tên cái người vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viết ch rt
nhanh rất đẹp..” Những k chữ đẹp luôn được sùng bái ngưỡng m
như vậy. Ch của ông như “một báu vật trên đời”, ai diễm phúc s hu ch
ca ông chính s hu mt vt báu trong thiên h. Hun Cao không biết ông
qun ngc luôn một ước mong được s hu cha Huấn Cao, đưc treo ch
ca ông viết trong nhà, ch ông Huấn Cao đp vuông lm. Một con người
tài đc vn toàn, mt con ngưi không ch tài hoa còn cái tâm rt trong
sáng ngay thng. K thc ông viết ch đẹp nhưng chưa bao gi “ép mình
viết bao giờ” Đấy ct cách thc s đáng quý. Ông chỉ viết cho nhng người
thc s xứng đáng, những người th khiến ông ngưng m khâm phc
nht.
Nguyn Tuân thc s rất tài, tài đến nối đọc tng câu tng ch của ông người
ta c ng như ông đang v nên mt bc ha thật sinh động gia chn nhân gian
v mt k sĩ đáng trọng như Huấn Cao.
Hun Cao còn một người trân trng tình bn, mến m những con ngưi
“chí nhớn” trong thiên hạ. Qua li k của viên thơ lại, ông đã biết được tm
lòng ca viên qun ngc ngưng m trưc tấm chân tình cũng như s yêu
mến và khát khao có được ch của ông. Ông xúc động nhận ra được con ngưi
thú vui thanh tao gia chốn nhơ bẩn này “Ta cảm cái tm ng bit nhn
liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy qun li
nhng s thích cao qnhư vy. Thiếu chút nữa, ta đã ph mt mt tm lòng
trong thiên h”. Chỉ mt cm t “ph mt tm lòng trong thiên hạ”, Huấn Cao
đã khiến cho người đọc không th nén được cm xúc. Một con ngưi biết trân
trọng cái đẹp, hướng v cái đẹp, đó một li sống hướng đến v đẹp
“Chân-Thin-M”.
Hình nh cnh cho ch hin lên cui tác phẩm dường như cảnh tượng khó
quên nht trong tác phm. Mt cảnh tượng khiến cho người đọc nh mãi. Cnh
cho ch din ra không phi một nơi thanh cao lại din ra gia chn ngc
tù, “cảnh tượng a nay chưa từng có”. Hình ảnh ba con ngưi hin lên
trong cảnh tượng y thật đẹp, tht lung linh, h không còn ngưi tù, viên
qun ngc na những người yêu cái đẹp, tâm đắc với cái đp. Cnh cho
ch y thật thiêng liêng xúc động, s gp g quá mun màng gia nhng
con người yêu cái đẹp, yêu cái v đẹp hoàn thin nht. Hình nh Hun Cao
vướng xing xích, bút viết nhng ch vuông vn nht thc s hình ảnh đẹp
nhất, đáng ngưng m khâm phc nht. Hình nh viên qun ngc “vái lạy”
Hun Cao Huấn Cao đ viên qun ngc y thc s hình nh ám nh khi
gp trang sách li. Thi khc mong manh gia s sng cái chết khiến cho
người k y thêm kì vĩ, lấp lánh hơn. Kẻ t tù không th có cốt cách như vậy,
chanh hùng mi xứng đáng với ct cách y. Và Hun Cao là một đng anh
hùng như vậy.
Hun Cao hiện lên nét, oai phong, đĩnh đc qua tng nét t ca Nguyn
Tuân thc s khiến cho người đọc không th ri mt khi trang viết. Hun Cao
biểu tượng của cái đẹp vĩnh cửu, ca nhng hoàn ho kiên trung nht.
Một con người “khó kiếm” trong thiên h.
Tht vy, gp trang ch lại nhưng hình nh Hun Cao vn hin hin trong trí
óc của người đọc. Ông hình nh tiêu biu cho nhng anh hùng hiên ngang
bt khut gia chốn nhơ bẩn, bt công ca thi đi.
Bài làm văn mẫu 9
Nguyễn Tuân được đánh giá “nhà văn lớn, mt ngh suốt đời đi tìm cái
đẹp”, ông vị trí ý nghĩa quan trọng đối vi nền văn học Việt Nam. Trưc
cách mng ông thoát li hin thc, m v mt thi vang bóng, tp Vang bóng
mt thi chính tp truyn tiêu biu nht cho phong ch của ông trước cách
mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến Ch người t vi nim trân
trng thú viết ch tao nhã truyn thng.
Ch người t đưc in trong tp Vang bóng mt thi xut bn năm 1940, tác
phm khi xut hin trên tạp cTao đàn tên ng ch cui cùng, sau in
thành sách đổi thành Ch người t tù. c phm đã truyền tải đầy đ tinh thn
ca tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phm. “Chữ” là hiện thân ca cái
đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người t tù” là đại
din ca cái xu, cái ác, cn phi loi b khi hi. Ngay t nhan đ đã chứa
đựng nhng mâu thun gi ra tình hung truyn éo le, gi dy s ca
người đọc. Qua đó m nổi bt ch đề tưởng ca tác phẩm: tôn vinh cái đẹp,
cái tài, khng định s bt t ca cái đp trong cuc đi.
Tác phm tình hung gp g hết sức độc đáo, lạ, chúng din ra trong hoàn
cnh nhà tù, vào nhng ngày cui cùng của người t Hun Cao, một ngưi
mang chí lớn tài ng lớn nhưng không gặp thi. V thế hi ca hai nhân
vật cũng nhiều đối nghch. Hun Cao k t t, mun lật đổ trt t hi
đương thời. Còn qun ngc người đứng đầu tri giam tỉnh Sơn, đi din cho
lut l, trt t hội đương thời. Nhưng bình din ngh thut, v thế ca h
lại đảo ngược nhau hoàn toàn : Huấn Cao người tài viết thư pháp, người
sáng tạo ra cái đp, còn qun ngc người yêu trân trọng cái đẹp người
sáng tạo ra cái đẹp. Đó mi quan h gắn khăng khít cht ch vi nhau.
Vi tình hung truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát trin logic, hp
đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc l tính cách nhân vt m ni bt ch
đề ca truyn: S bt t của cái đẹp, s chiến thng của cái đẹp. Sc mnh cm
hóa ca cái đp.
Ni bt trong tác phm chính Huấn Cao, người tài viết ch đẹp ni
tiếng khắp nơi: “người vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết ch rt nhanh
rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài ca ông còn gn
lin vi khát khao, s n trng của người đời. được ch ca Hun Cao
nim mong mi ca bt c ai, được treo ch ca ông trong nhà nim vui,
nim vinh d ln. Cái tài ca Hun Cao không ch dng li mức đ bình
thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.
Không ch tài năng, vẻ đẹp ca Hun Cao n v đẹp của thiên lương trong
sáng: “Tính ông vốn khonh, tr ch tri k, ông ít chu cho chữ”. Khoảnh”
đây có thể hiu là s kiêu ngo v tài năng viết ch, bi ông ý thức đưc giá tr
của tài năng, luôn tôn trọng tng con ch mình viết ra. Mi ch ông viết như
một món quà thượng đế trao cho bn thân nên ch th dùng nhng ch
ấy để trao cho nhng tm lòng trong thiên h. Trong đời ông, ông không uy
quyn mà trao ch cho ai bao giờ: “Ta nht sinh không vì vàng ngc hay quyn
thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc bit, tấm lòng thiên lương y còn th
hin trong việc ông đồng ý cho ch viên qun ngc: “Ta cảm tm lòng bit
nhn liên tài của các ngưi. Thiếu chút na ta đã ph mt mt tm lòng trong
thiên hạ”, tm lòng ca Hun Cao vi những con người quý trọng cái đp, cái
tài.
Hun Cao ta còn thy được trong ông v đẹp ca một con người có nghĩa khí,
khí phách hơn người. Ông người gii ch nghĩa nhưng không đi theo li
mòn, dám cm đầu mt cuộc đại phản, đối đầu vi triều đình. Khi b bt ông
vn gi thế hiên ngang, trước lời đe da ca tên lính áp gii tù, Hun Cao
không h để m, coi thường, vn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thunh mt
cái xung nền đá tảng… Khi viên quản ngc xung tn phòng giam hi han ân
cần, chu đáo, Hun Cao t ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta mun gì, ta ch
mun một điều, nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhn
tin d (ngày mai vào kinh chu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.
đẹp d nht cnh cho ch, c ba v đẹp ca ông đưc hi t ta sáng.
Trên tm vi trng còn nguyên vn ln h, ch Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói
lên hoài bão, tung hoành ca một con người khí phách. Ông không để tâm
đến mọi điều xung quanh ch tp trung vào vic to ra nhng nét ch tuyt tác.
Vi vic qun ngc xin ch, Huấn Cao cũng hiểu ta tm lòng ca qun ngc,
trong nhng giây phút cuối đời đã viết ch dành tng viên qun ngc, dành
tng cho tm lòng bit nhn liên tài trong thiên h.
Viên qun ngc người s phn bi kch. Ông vn nh cách du dàng,
biết trng nhng ngưi ngay thng, nhưng li phi sng trong môi trưng
ch có tàn nhn, la lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lp vi hoàn cnh sng
đầy, b giam m. Ông t nhn thc v ki kch ca mình, bi kch ca s lm
đường lc li, nhm nghề. Nhưng vậy, trong qun ngc vn gi đưc tâm
hồn cao đẹp, tâm hn ca một người ngh sĩ. Ông khao khát đưc ch ca
Huấn Cao để treo trong nhà, nếu không xin được ch ông Hun qu điều
đáng tiếc. Nhưng xin đưc ch ca Huấn Cao điều ng khó khăn: bản
thân ông qun ngc, nếu thái độ bit nhn, hay xin ch k t Hun
Cao, chc chc s gp tai vạ. Hơn nữa Hun Cao vốn “khoảnhkhông phỉa ai
cũng cho chữ. Trong nhng ngày cui cùng ca ông Hun, qun ngc hành
động bất thường, bit nhn với người t tù. Cũng như Huấn Cao, v đẹp m
hn ca qun ngc được th hin nht đoạn cho ch. Ông trân trng,
ngưỡng m n đã bất chp tt c để t chc một đêm xin chữ chưa từng có.
Ba con ngưi, ba nhân cách cao đẹp chum li li chng kiến nhng nét ch dn
dn hiện ra…, viên qun ngc khúm núm ct từng đồng tin kẽm đánh dấu ô
ch, với thái độ sung kính, ngưỡng m cái đẹp. Trước nhng li ging gii ca
Hun Cao, viên qun ngc chắp tay vái người một vái, “kẻ mui y xin
bái lĩnh”.
Tác phm đã sáng tạo tình hung truyện cùng độc đáo. Với ngh thut y
dng nhân vật đặc sc, mi nhân vt mang mt v đẹp riêng, v đẹp thiên
lương, khí phách trọng đãi người tài. Đng thi tác phm cũng thành công
khi Nguyễn Tuân đã gi lên không khí c xưa nay ch còn vang bóng. Nhp
điệu câu văn chm, thong th, góp phn phc chế li không khí c xưa ca tác
phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vn dng thành thc, tài hoa.
Qua truyn ngn Ch người t tù, Nguyễn Tuân đã th hin nim tin vào s
chiến thng tt yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xu xa, tàn nhẫn. Đồng
thời ông cũng th hin tm lòng chân trng nhng giá tr văn hóa truyền thng,
qua đó kín đáo bc l lòng yêu nước. Vi ngh thut xây dng tình hung đắc
sc, ngôn ng tài hoa đã góp phn to nên s thành công cho tác phm.
Bài làm văn mẫu 10
Trong các sáng c ca Nguyn Tuân, c nhân vật thường được miêu t, nhìn
nhận như một ngh sĩ. tác phẩm “Chữ người t tù” cũng được xây dng
bng cách nhìn nhận như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo sáng tạo lên
mt tình hung truyện cùng độc đáo. Đó là cnh cho ch trong ngiam-
phần đặc sc nht ca thiên truyện y “một cảnh tượng xưa nay chưa tng
có”.
Đon cho ch nm phn cui tác phm, v trí y tình hung truyện đưc
đẩy lên đến đỉnh điểm viên qun ngc bng nhận được công văn v vic x
t nhng tên phn loạn, trong đó Huấn Cao. Do vy cnh cho ch ý
nghĩa cởi nút,gii ta những băn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, t đó toát lên
nhng giá tr ln lao ca tác phm.
Sau khi nhận được công văn, viên quản ngc đã rãi y tâm sự ca mình vi
thầy thơ lại. Nghe xong truyn, thy thơ lại đã chạy xung bung giam Hun
Cao để k ni lòng viên qun ngc. đêm hôm đó, trong một bung ti
cht hp với ánh sáng đ rc ca một đuốc tm dầu, “một cảnh ợng xưa
nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để ng to ngh thuật người ta
thường m đến những nơi không gian đẹp, thoáng đãng , yên nh. Nhưng
trong mt không gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn chn ngc thì vic sáng
to ngh thut vn xy ra. Thi gian đây cũng gợi cho ta tình cnh của người
t tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người t -ngưi cho ch và cũng chính là giờ
phút cui cùng ca Hun Cao. trong hoàn cnh y t“một người c đeo
gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm nét ch trên tm la
trăng tinh”. Trong khi y, viên qun ngc thy thơ li thì khúm lúm chuyn
động. đây cho thấy ờng như trật t hội đang b đảo ln. Viên qun ngc
đáng nhẽ phải hào, răn đe kẻ ti. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì
nhân li tr thành ngưi răn dy, ban phát cái đẹp.
Đây quả thc là mt cuc gp g xưa nay chưa từng có gia Hun Cao ngưi
tài viết ch nhanh, đp viên qun ngc, thy thơ lại những người thích
chơi chữ. H đã gặp nhau trong hoàn cnh thật đặc bit: mt bên k phn
nghch phải lĩnh án tử hình (Hun Cao) mt bên những ngưi thc thi
pháp lut. Trên bình din xã hi, h hai phía đối lập nhau nhưng xét trên bình
din ngh thut h li tri âm, tri k ca nhau. thế tht chua xót
đây là lần đầu tiên nhưng cũng là ln cui cùng ba con người y gặp nhau. Hơn
thế na, h gp nhau với con ngưi thật, ước muntht của mình. Trong đoạn
văn, nhà văn đã sử dng s tương phản gia ánh sáng bóng ti làm câu
chuyện cũng vận đng theo s vận động ca ánh sáng và bóng ti. Cái hỗn độn,
b ca nhà giam vi cái thanh khiết ca nn la trng nhng nét ch đẹp
đẽ. Nhà văn đã làm nổi bt hình nh ca Hun Cao, đậm s vươn lên thng
thế ca ánh sáng so vi bóng tối, i đp so vi cái xu cái thin so vi cái
ác. Vào lúc y, t mt quan h đối nghch l: ngn la của chính nghĩa bùng
cháy chn ngc tối m, cái đẹp đưc sáng to gia chn i hám, nhơ
bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật ch đ ca tác phm: cái đp chiến thng
cái xấu xa, thiên lương chiến thng tội ác. Đó sự tôn vinh cái đẹp, cái thin
đầy ấn tượng.
Sau khi cho ch xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngc t b chn ngc nhơ
bẩn: “đổi ch ở” để th tiếp tc s nguyn cao ý. Muốn chơi ch phi gi
được thiên lương. Trong môi trưng của cái ác, cái đẹp khó th bn vng.
Cái đẹp th ny sinh t chn tối tăm, nhơ bẩn, t môi trường ca cái ác( cho
ch trong tù) nhưng không th chung sng vi cái ác. Nguyn Tuân nhắc đến
thú chơi chữmôn ngh thuật đòi hỏi s cm nhn không ch bng th giác mà
còn cm nhn bng tâm hn. Người ta thưởng thc ch không my ai thy,
cm nhận mùi thơm ca mc. y biết tìm trong mc trong ch ơng v ca
thiên lương. Cái gốc ca ch chính cái thiện chơi chữ chính là th hin
cách sống có văn hóa.
Trưc li khuyên của người t tù, viên quản nguc xúc động vái người mt
vái, chp tay nói một câu dòng nước mt r vào k ming nghn ngào: k
muội y xin bái lĩnh”. Bng sc mnh ca mt nhân cách cao c tài
năng xuất chúng, người t đã ng qun ngc đến mt cuc sng ca cái
thiện. trên con đường đến vi cái chết Hun Cao gieo mm cuc sng cho
những người lầm đường. Trong khung cảnh đen tối ca ngc, hình tượng
Hun Cao bng tr lên cao lớn là thường, vượt lên trên nhng cái dung tc thp
hèn ca thế giới xung quanh. Đồng thi th hin mt nim tin vng chc ca
con người: trong bt hoàn cảnh nào con người vn luôn khao khát hướng ti
chân thin mĩ.
ý kiến cho rng: Nguyễn Tuân nhà văn duy mĩ, tức điu khiến ông
quan tâm ch cái đẹp, ngh thuật. Nhưng qua truyện ngắn Chữ người t
tù” mà đặc bit là cnh cho ch ta càng thy rng nhn xét trên là hi ht, thiếu
chính xác. Đúng trong truyện ngn này, Nguyn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng
cái đẹp bao gi cũng gn vi cái thiện, thiên lương con người. Quan đim này
đã bác bỏ định kiến v ngh thuật trước cách mng, Nguyn Tuân mt nhà
văn có tưởng duy mĩ, theo quan điểm ngh thut v ngh thut. Bên cạnh đó,
truyn còn ca ngi viên qun ngc thầy thơ lại những con ngưi tuy sng
trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn những “thanh âm trong trẻo” biết
hướng ti cái thiện. Qua đó còn thể hin tấm lòng yêu ớc, căm ghét bn
thng tr đương thời và thái độ trân trọng đối vi những người có “thiên lương”
trên cơ sở đạo lí truyn thng của nhà văn.
“Chữ người t tù” bài ca bi tráng, bt dit v thiên lương, tài năng nhân
cách cao c ca con người. Hành động cho ch ca Hun Cao, nhng dong ch
cui cung của đời người ý nghĩa truyền li cái tài hoa trong sáng cho k tri
âm, tri k hôm nay mai sau. Nếu không s truyn lại y cái đẹp s mai
mt. Đó cũng là tm lòng mun gi gìn cái đẹp cho đi.
Bng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình nh gợi liên tưởng đến một đoạn
phim quay chm. Tng hình nh, từng động tác dn hiện lên dưới ngòi bút đm
chất điện nh ca Nguyn Tuân: mt bung ti cht hẹp…hình ảnh con người
“ba cái đầu đang chăm chú trên mt tm la trắng tinh”, hình ảnh người c
đeo gông, chân vướng xiềng đang viết ch. Trình t miêu t cũng th hiện
ng mt cách nét: t bóng tối đến ánh sáng, t hôi m nhơ bẩn đến cái
đẹp. Ngôn ng, hình nh c kính cũng to không khí cho tác phm. Ngôn ng
s dng nhiu t hán việt để miêu t đối tượng thú chơi chữ. Tác gi đã
“phc chế” cái cổ xưa bằng thut hin đại như bút pháp t thc, phân tích
tâm nhân vật.( văn học c nói chung không t thc phân tích tâm nhân
vt)
Cnh cho ch trong “Ch người t tù” đã kết tinh tài năng, sáng tạo
ởng độc đáo của Nguyn Tuân. Tác phm đã nói lên lòng ngưỡng vng
tâm s nui tiếc đối vi những con người có tài hoa, nghĩa k nhân cách
cao thượng. Đan xen vào đó tác gi cũng kín đáo y tỏ cái đau xót chung cho
cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hy hoi. Tác phm góp mt tiếng nói
đầy tính nhân bn: dù cuc đời có đen tối vn còn có nhng tm lòng ta sáng.
| 1/39

Preview text:

Phân tích Chữ người tử tù Ngữ văn 11
Dàn ý Phân tích Chữ người tử tù I. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Tuân: Một cây bút tài hoa độc đáo, có vị
trí quan trọng trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
- Khái quát chung về tác phẩm Chữ người tử tù: Một truyện ngắn tiêu biểu cho
phong cách tài hoa nghệ sĩ của ông, được in trong tập Vang bóng một thời (1940). II. Thân bài
1. Tình huống truyện
+ Không gian: nhà tù. Đây không phải là nơi dành cho những cuộc gặp gỡ.
+ Thời gian: những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao.
⇒ Không gian và thời gian góp phần tạo nên kịch tính cho tình huống.
- Cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường:
⇒ Cuộc hội ngộ diễn ra giữa chốn ngục tù căng thẳng
2. Nhân vật Huấn Cao
a. Một người nghệ sĩ tài hoa
- Người khắp vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao là người:
+ có tài viết chữ “rất nhanh và rất đẹp”.
+ “ Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm … có được chữ ông Huấn mà treo
là có một báu vật ở trên đời”.
b. Một con người có khí phách hiên ngang bất khuất
- Là thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa chống lại triều đình.
- Ngay khi đặt chân vào nhà ngục: Thản nhiên rũ rệp trên thang gông:
⇒ khí phách, tiết tháo của nhà Nho
- Khi được viên quản ngục biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn
làm trong cái hứng bình sinh”
⇒ phong thái tự do, ung dung, xem nhẹ cái chết.
- Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt: “Ngươi hỏi ta muốn gì ... vào đây”.
⇒ Không khuất phục trước cường quyền.
⇒ khí phách của một người anh hùng.
c. Một nhân cách, một thiên lương cao cả
- Tâm hồn trong sáng, cao đẹp: “Không vì vàng ngọc hay quyền thê mà ép
mình viết câu đối bao giờ” ⇒ trọng nghĩa, khinh lợi, chỉ cho chữ những người tri kỉ.
- Khi chưa biết tấm lòng của quản ngục: xem y là kẻ tiểu nhân
- Khi biết tấm lòng 'biệt nhỡn liên tài'' của quản ngục: Huấn Cao nhận lời cho chữ
⇒ Chỉ cho chữ những người biết trân trọng cái tài và quý cái đẹp.
- Câu nói của Huấn Cao với quản ngục: “Thiếu chút nữa ... trong thiên hạ”
⇒ Sự trân trọng đối với những người có sở thích thanh cao, có nhân cách cao đẹp.
⇒ Huấn Cao là một anh hùng - nghệ sĩ, một thiên lương trong sáng.
3. Nhân vật quản ngục
a. Tấm lòng biệt nhỡn liên tài
- Trong những ngày Huấn Cao trong ngục, quản ngục luôn bày tỏ thái độ
nghiêm kính khiêm nhường
- Dũng cảm biệt đãi Huấn Cao
- Cảm thấy tiếc nuối khi biết Huấn Cao sắp phải từ giữ cõi đời: “Bấy nhiêu ... vũ trụ”.
b. Sự khát khao và trân trọng cái đẹp
- Khát khao cái đẹp: mong ước của ông là “được treo ở nhà riêng một đôi câu
đối” do chính tay Huấn Cao viết.
- Lo lắng nếu như không xin được chữ ông Huấn trước khi bị hành hình thì “ân hận suốt đời mất” 4. Cảnh cho chữ
- Thời gian: đêm trước khi Huấn Cao ra pháp trường chịu án chém, khi chỉ còn
“vẳng có tiếng mõ trên vọng canh”
- Địa điểm: trại giam tỉnh Sơn
- Không gian: buồng tối chật hẹp, ẩm ướt...
- Đây là "cảnh tượng xưa nay chưa từng có" :
+ Thân phận và hành động của người cho chữ và nhận chữ đặc biệt:
+ Xây dựng được các cặp phạm trù đối lập nhau
- Chi tiết quản ngục cúi đầu vái lạy người tử tù Huấn Cao: sự thức tỉnh trước
cái đẹp, quản ngục đã thoát ra những cái tầm thường, ràng buộc để vươn tới cái cao đẹp.
⇒ Toàn bộ cảnh cho chữ là bài ca tôn vinh cái đẹp, cái thiện, cái thiên lương
của con người trong hoàn cảnh tối tăm ngục tù bậc nhất. III. Kết bài
- Khẳng định những nét nghệ thuật đặc sắc làm nên thành công của tác phẩm
- Chữ người tử tù là một văn phẩm xuất sắc đạt “gần đến sự toàn thiện, toàn mĩ” (Vũ Ngọc Phan)
Phân tích Chữ người tử tù mẫu 1
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến
Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân đều
là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của
ngôn ngữ (Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ
người tử tù. Nối bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn Cao và
cảnh cho chữ - một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều biết
văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà
vàn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo
nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu
hiện cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Huấn Cao là thế. Từ đầu đến
cuối, ông hiện ra như một con người phi thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ
thiên lương đến khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói
Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.
Là nhân vật tài hoa nghệ sĩ, phẩm chất đầu tiên của Huấn Cao là tài hoa. Thiên
truyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thơ lại.
Ở đây tuy Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi
tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài được tô
đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó là nghệ thuật thư pháp - một bộ
môn nghệ thuật truyền thống và cao siêu của dân tộc. Ở sự gửi gắm, kí thác
toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác
phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ
thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện
thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân
cách Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm,
vuông lắm mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành
của một đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở
thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ
Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và
sinh mệnh của mình. Nhưng Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa
hơn, ông còn có một tấm lòng - đó là tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người.
Một nhà văn nước ngoài đã nói về chân lí sâu xa. Hãy đập vào trái tim mình
thiên tài là ở đó. Thì ra gốc của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái tâm.
Tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của nhân cách Huấn Cao. Trong mắt
Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường không làm nghề thất đức. Bởi lí
Huấn Cao đã thể hiện sự khinh bỉ không cần giấu giếm, đến khi nhận ra viên
ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật điều hỗn
loạn xô bồ thì Huấn Cao rất ân hận. Bằng tất cả sự xúc động, Huấn Cao đã nói:
Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi... Thiếu chút nữa ta phụ
một tấm lòng trong thiên hạ. Câu nói ấy đã hé mở cho chúng ta thấy phương
châm của một nhân cách sống là phải xứng đáng với những tấm lòng.
Cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những hình
tượng sao cho hoàn hảo thậm chí đến mức phi thường. Ông Huấn Cao cũng thế.
Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng này trở thành một con người siêu phàm
với việc tô đậm một khí phách siêu việt. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm
đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp không thành, ông lĩnh án tử
hình. Nhưng tù đày, gông cùm và cái chết cùng không khuất lạc được ông. Ông
luôn tìm thấy ở những nơi mà tự do bị tước bỏ. Đối với Huấn Cao, mọi sự trói
buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa. Và khi quản ngục hỏi ông muốn gì để
giúp, ông đã trả lời bằng sự khinh bạc đến điều... lời nói của ông có thể là
nguyên cớ để ông phải rước lấy những trận trả đũa. Nhưng một khi đã nói
nghĩa là ông không hề run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo
lực. Có thể Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một khí phách
kiên cường bất khuất, uy vũ bất năng khuất.
Những phẩm chất tuyệt vời đó của Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng
cuối cùng mà Nguyễn Tuân đã gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có - cảnh
cho chữ. Cảnh cho chữ là sự biểu hiện sống động rực rỡ của tài hoa, thiên
lương và khí phách của Huấn Cao.
Muốn hiểu được giá trị sâu sắc của cảnh cho chữ cho chúng ta không thể không
nói tới quá trình dẫn đến cảnh cho chữ ấy. Người tinh ý sẽ dễ nhận thấy rằng
câu chuyện có hai phần rõ rệt: Phần đầu giới thiệu các nhân vật và dẫn dắt câu
chuyện chuẩn bị cho phần sau. Phần sau khắc họa cảnh cho chữ. Nếu không có
phần hai thì phần đầu chỉ là những mẩu vụn vặt, thiếu sức sống. Bởi thế phần
hai tuy ngắn nhưng lại là kết tinh của toàn bộ câu chuyện. Và bút lực của
Nguyễn Tuân càng dồn vào phần này đậm nhất. Toàn bộ câu chuyện xoay
quanh một tình huống đặc biệt. Đó là cuộc gặp hết sức éo le của Huấn Cao và
quản ngục - Nơi gặp gỡ là nhà tù, thời gian là những ngày cuối cùng trước khi
ra pháp trường của Huấn Cao. Những điều này làm cho tình thế trở nên ngặt
nghèo, bức xúc, khó xoay sở. Nhưng oái ăm hơn cả vẫn là thân phận của hai
nhân vật, về bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch. Một người là kẻ phản
loạn, dám nổi dậy chống lại thể chế đương thời, còn người kia lại là một viên
quan đại diện cho chính thể ấy. Nhưng về bình diện nghệ thuật, họ lại là hai
người tri âm: Một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại vô cùng ngưỡng
mộ cái tài đó. Sự trái ngược này đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn nghiệt ngã:
hoặc là muốn làm tròn bổn phận cua một viên quan thi phải chà đạp lên tấm
lòng tri kỉ hoặc muốn trọn đạo tri kỉ phải phản bội lại chức phận của một viên
quan. Quản ngục sẽ hành động như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thì
tư tưởng tác phẩm sẽ nghiêng về hướng đó.
Với một tương quan như vậy, quan hệ giữa họ ban đầu rất căng thẳng. Tâm
nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của ông Huấn Cao nhưng đây là
cơ hội cuối cùng. Còn Huấn Cao tuy có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho chữ
những ai ông cho là tri kỉ. Vậy muốn có chữ của Huấn Cao thì quản ngục phải
được ông thừa nhận là tri kỉ trong vòng mấy ngày tới. Điều đó lại dường như
không thể đạt được. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là kẻ tiểu nhân, giữa
họ là một vực sâu ngăn cách. Thực ra quản ngục cũng có những ưu thế để đối
xử với những người tù thông thường. Đó là ông ta có thừa quyền lực và tiền
bạc. Nhưng Huấn Cao không phải hạng tiểu nhân như thế, quyền lực không ép
được ông cho chữ, tiền bạc không mua được chữ ông. May thay ở viên quản
ngục lại có một tấm lòng trong trẻo - tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Và tấm lòng
này đã khiến cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao là cội
nguồn dẫn đến cảnh cho chữ.
Vậy là việc Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm
thường, không giống việc một kẻ sắp bị tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho
người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng mà để Huấn Cao trình diễn tài
năng, về bản chất việc cho chữ là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng.
Và cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có. Bởi
trước hết lẽ ra nó phải diễn ra ở nơi sang trọng, đàng hoàng thì nó lại diễn ra
trong căn buồng giam chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu. Và người đem cho cái đẹp lẽ
ra phải thuộc thế giới tự do thì ở đây lại là tử tù sắp bị hành hình. Đặc biệt ở
đây diễn ra một sự đổi ngôi xưa nay chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành trong
tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng bị
mất hết quyền sống là ông Huấn Cao trở nên đầy quyền uy khi chăm chú tô
đậm những nét chữ và cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy
Huấn Cao như một bậc thánh nhân: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Cảnh cho chữ
lã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, thiên lương trước cái xấu, cái ác.
Trong căn phòng giam ẩm tháp đó, ánh sáng rực rờ của bó đuốc đã đẩy lùi
bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột, phân gián, màu
trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này cái đẹp đang lên
ngôi, cái đẹp đang đăng quang, chiến thắng hoàn toàn cái xấu. Trong những
con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên
lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẫn dắt quản ngục - một kẻ
nhầm đường, lạc lối. Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn
tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu
rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn.
Cái đẹp sẽ không mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.
Với nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân đã làm
nổi bật hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Đồng
thời nhà văn còn sử dụng hệ thống ngôn ngữ cổ: biệt nhỡn liên tài, thiên lương,
bái lĩnh, sở nguyện... mang lại cho truyện bầu không khí và nhịp điệu của thời
phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của một thời vang bóng.
Phân tích Chữ người tử tù mẫu 2
Tình huống truyện được tái dựng trong tác phẩm và tác dụng của nó đối với
việc bộc lộ tính cách nhân vật và kịch tính của truyện.
Tình huống truyện là tình thế xảy ra trong truyện, tạo cho câu chuyện thêm đặc
sắc. Tình huống truyện biểu hiện mối quan hệ giữa nhân vật này với nhân vật
khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh sống, qua đó bộc lộ tâm trạng tính cách suy nghĩ... của nhân vật.
Nguyễn Tuân đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo, đặc sắc, giàu kịch
tính cho hai tuyến nhân vật trong tác phẩm của mình. Hai nhân vật đó là Huấn
Cao - người tử tù phạm tội đại nghịch đang bị giam chờ ngày hành quyết,
người tài hoa nổi tiếng viết chữ đẹp... và nhân vật viên quản ngục - người quản
lí tù nhân, đại diện cho cái trật tự xã hội đương thời nhưng lại rất yêu cái đẹp,
hâm mộ người tài và có tấm lòng lương thiện. Trên bình diện xã hội, họ hoàn
toàn đôi lập nhau: nhưng họ lại có cùng điểm chung là say mê cái đẹp tao nhã
và đều có tâm hồn thanh khiết, lương thiện, biết đãi ngộ nhân tài. Như vậy, trên
bình diện nghệ thuật, họ lại là tri kỉ của nhau.
Hoàn cảnh gặp gỡ của họ thật éo le: đó là nơi tù ngục tối tăm, nhơ bẩn, nơi
người này quản lí người kia. Tình huống này dẫn đến xung dột trong nội tâm
của viên quản ngục: làm thế nào để vừa làm tròn phận sự của một người canh
tù lại vừa giữ trọn tấm lòng đối với một người tài hoa mà mình từng quý trọng
và ao ước gặp mặt. Từ đây nảy sinh nhiều kịch tính: người tử tù thành người
mà viên quản ngục nhờ vả muốn xin chữ; đồng thời lại là người mở đường
hướng thiện cho cuộc sống về sau của viên quản ngục. Chính tình huống độc
đáo này đã giúp làm nổi bật trọn vẹn, tự nhiên vẻ đẹp của hình tượng nhân vật
Huấn Cao và làm sáng tỏ tấm lòng biệt đãi người tài của viên quản ngục.
Những vẻ đẹp độc đáo của nhân vật Huấn Cao
Huấn Cao là một người tài hoa khác thường. Ông có tài viết chữ rất đẹp, "chữ
đẹp và vuông lắm", khiến nhiều người mơ ước có được chữ viết của ông treo
trong nhà của mình, trong đó có viên quản ngục.
Huấn Cao là một con người hiên ngang, khí phách, là một anh hùng đầu dội
trời chân đạp đất. Một tử tù đợi ngày ra pháp trường vẫn giữ trạng thái ung
dung, tự tại và không hề nao núng. Đến cảnh chết chém ông còn chẳng sợ. Sự
ngang tàng của ông còn được thể hiện qua thái độ không quỵ lụy trước cường
quyền và hơn nữa lại còn miệt thị viên quản ngục.
Ông còn là một người có thiên lương trong sáng và cao đẹp. Ông không phải là
một con người sắt đá, ông cũng biết quý trọng người ngay, người tri kỉ. Khi
hiểu được tấm chân tình và thái độ từ chỗ khinh miệt, coi thường, dè chừng
sang thái độ tôn trọng. Đó là thái độ tôn trọng đối với con người có nhân cách
sống tốt dẹp: trong người tài, yêu cái thú vui tao nhã, thanh khiết. Ông sẵn sàng
cho chữ - cái chữ mà không cường quyền và bạc tiền nào có thể mua được - cái
chữ mà cả cuộc đời ông chỉ mới viết cho ba người bạn thân. Tuy nhiên, cái
đáng quý nhất và là cái thể hiện thiêng lương cao đẹp của ông chính là những
lời khuyên chân thành, cuối cùng đối với viên quản ngục trước khi vào kinh
thành thụ án. "Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chốn đi... ở đây
thiên lương khó giữ cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi".
Cho chữ để cứu người là cái tâm cao đẹp của Huấn Cao. Cái tâm không chỉ là
lòng nhân ái mà nó còn có sức mạnh cảm hóa lòng người. Ông đã khiến viên
quản ngục cảm phục "Chắp tay vái người tù một vái... nói một câu mà dòng
nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh".
Tính cách và tâm hồn của nhân vật viên quản ngục
Nhân vật viên quản ngục xuất hiện trong tác phẩm làm nổi bật chủ đề của tác
phẩm. Đây là một con người không sáng tạo được cái đẹp nhưng lại biết trân
trọng yêu mến cải đẹp.
Là một ngục quan chịu trách nhiệm canh giữ tù nhân, giúp ích cho bộ máy cai
trị đương thời nhưng viên quản ngục không phải là kẻ không có thiên lương,
tàn ác, xảo trá mà ngược lại ông vẫn giữ được nhân cách sống cao quý trong
cảnh tù ngục tối tăm, nhiều cám dỗ.
Viên quản ngục biết trân trọng giá trị con người, biết quý trọng nhân tài. Điều
này thể hiện rõ qua những chi tiết về những hành động biệt đãi đối với Huấn
Cao và những người bạn tù của Huấn Cao.
Ông là một người có sở thích tao nhã, cao quý: đó là thú chơi chữ. Sở nguyện
cả đời của ông là có được đôi câu đối do chính tay Huấn Cao viết để treo trang
trọng trong nhà. Cái sở nguyện này mạnh mẽ vượt qua cả nỗi sợ hãi, bất chấp
mọi nguy hiểm đến bản thân, làm đảo lộn trật tự trong tù, biến một phạm nhân
có án tử hình thành một thần tượng để mình tôn thờ.
Diễn hiến nội tâm, hành động và cách ứng xử của viên quản ngục chứng tỏ dù
sống ở nơi tăm tôi nhưng ông vẫn giữ được nhân cách cao đẹp - một tấm lòng
trong thiên hạ, xứng đáng trở thành bạn tri kỉ của Huấn Cao. Nhân cách và tâm
hồn của viên quản ngục theo như nhận xét của Huấn Cao là "một âm thanh
trong trẻo xen giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ".
Cảnh cho chữ trong nhà lao
Cảnh cho chữ trong nhà lao vào đêm khuya tăm tối là một trong những sáng
tạo tuyệt vời của tác giả nhằm làm bộc lộ vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn
Cao. Đây là một cảnh tượng trước đây chưa từng có. Một cảnh tượng mà khung
cảnh và nội dung của nó hoàn toàn trái ngược nhau: cảnh cho chữ vốn thanh
tao, tươi sáng, đẹp đẽ lại diễn ra trong chốn tù ngục dơ bẩn tối tăm, ẩm thấp.
Nhưng chính trong cảnh tượng như thế, cái đẹp, cái thiện lại càng chứng minh tĩnh giá trị của nó.
Người nghệ sĩ vượt qua những gông cùm, đau đớn để hiện mình tươi sáng hơn,
uy nghi, lồng lộng hơn để viết lên những nét chữ xinh đẹp, những tâm huyết
của cả đời mình: trong khi đó, người vốn đại diện cho uy quyền lại trở nên
khúm núm, run run đón nhận từng nét chữ quý giá mà cả đời tâm huyết.
Trật tự kỉ cương của nhà tù hoàn toàn bị đảo ngược: tù nhân trở thành người
ban phát cái đẹp, cái lương thiện, thanh cao còn ngục quan vốn đại diện cho
công lí lại trở nên nhỏ bé, hèn mọn.
Giữa chốn ngục tù tàn bạo, không phải kẻ thống trị làm chủ mà là người tù làm
chủ, cái thiện vẫn hiện lên mạnh mẽ chiến thắng được cái ác. Đó là sự chiến
thắng của ánh sáng đối với bóng tối; là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện và nhân
cách cao cả của con người.
Phân tích Chữ người tử tù mẫu 3
Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu
đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mĩ là đỉnh cao
của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu
tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên
trong tác phẩm của Nguyễn tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con
người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi
thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật.
Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông lại còn kết hợp mĩ với
dũng. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” (1939) trong tập “Vang bóng một thời”
là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng
công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả
“một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.
Ông Huấn Cao trong truyện “Chữ người tử tù” là một nho sĩ tài hoa của một
thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu
nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát,
một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật
Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ
nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên
mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi
tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa
thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông
đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.
Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một
nữa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để
“xin chữ” treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.
Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp
lại là một tên “đại nghịch” cầm đầu khỏi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi
loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông
Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình
diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hộ họ ở hai vị trí đối lập.
Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách
hai nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.
Huấn Cao nói: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình
viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn
Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này,
nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người
có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn
liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại
có những sở thích cao quí như vậy”. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận
được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào
ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự
tuyệt: “ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt
chân vào đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một
lời sâu sắc và cảm động: “thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.
Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết
quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là
còn giữ được “thiên lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn
của mình đi “ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến
nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.
Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình
vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bá
Quát. “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng
canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật
hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả cố ý
miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ
dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục.
Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực
của một bó đuốc tẩm dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang
dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong
một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu
ô chữ trên phiến lụa óng”. Hình ảnh người tử tù trở nên chủ động. Viên quản
ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.
Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?
Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có
phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi
ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám.
Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên
uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội
đương thời thì lại khúm núm run rẩy.
Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó,
không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện,
cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp,
bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có
người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính
của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái
đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào
cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi
đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn
đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di
huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm
của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp
trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với
cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng
lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.
Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên
hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm
thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.
Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ
run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân
thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn
“Chữ người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh,
chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa,
sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy
xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.
“Chữ người tử tù” không còn là “chữ” nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà
“những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời
người”. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến
thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự
chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp
giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí
tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí “duy mĩ” của Nguyễn Tuân.
Phân tích Chữ người tử tù mẫu 4
Bước vào văn đàn Việt Nam, ta không khỏi ngỡ ngàng bởi cái đẹp hiện hữu
khắp mọi nơi, man mác khắp các trang văn: “man mác khắp vũ trụ” (Thạch
Lam). Đến với những trang viết của Nguyễn Tuân- “một người suốt đời đi tìm
cái đẹp và cái thật”, ta bắt gặp một cuộc gặp gỡ, một cuộc hội ngộ của cái đẹp
trong hoàn cảnh đề lao tăm tối, tàn nhẫn. Đó là cuộc gặp gỡ của những nhân
cách đẹp, những con người biết tạo ra và trân trọng cái đẹp trong cuộc đời.
Ai đó đã cho rằng: “suy tưởng về cái đẹp là nét nổi bật trong sáng tác của
Nguyễn Tuân”. Thật vậy, cái đẹp như một chất xúc tác kì diệu và đến khi bước
vào trang viết của Nguyễn Tuân thì được phát lộ, tỏa sáng lạ thường. “Chữ
người tử tù” chính là cuộc gặp gỡ của cái đẹp của Huấn Cao và viên quản ngục,
cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường giữa chốn lao tù. Bởi
sự say mê và ngưỡng mộ, ngục quan - kẻ nắm giữ uy quyền trong nhà lao đã
âm thầm biệt đã Huấn Cao-người tử tù nổi tiếng bởi tài hoa và khí phách phi
thường. Đó cũng là cuộc gặp gỡ đặc biệt, một cuộc gặp gỡ chưa từng có bao
giờ của một kẻ tù nhân phạm tội với một người đại diện cho pháp luật và uy
quyền. Nhưng ở địa hạt của cái đẹp, họ là những nhân cách đồng dạng là những
con người biết sinh thành và nuôi dưỡng cái đẹp trong cuộc đời. Xét đến cùng
“Chữ người tử tù” là cuộc hội ngộ của những nhân cách cao đẹp bị cầm tù bởi
bạo lực, hoàn cảnh, là hiện thân của cái đẹp trong cuộc sống này!
Người đã thai nghén, sinh thành ra cái đẹp trong “Chữ người tử tù” không ai
khác, chính là Huấn Cao - “là người của vùng tỉnh Sơn”, “viết chữ rất nhanh,
rất đẹp” và “có chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. Tiếng thơm
của người nghệ sĩ ấy đã được ngợi ca qua những khao khát và sự ngưỡng mộ
của quản ngục. Ca ngợi tài hoa của Huấn Cao, coi những con chữ của Huấn
Cao là tác phẩm vô giá, Nguyễn Tuân đã gửi gắm lòng yêu quý cái đẹp và sự
trân trọng văn hóa cổ truyền dân tộc, đúng như Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét:
“Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng
yêu nước của ông có màu sắc riêng: gắn liền với những giá trị văn hóa cổ
truyền dân tộc”. Song ai đó đã cho rằng “Huấn Cao là sự nổi loạn của cái đẹp”.
Quả không sai bởi Huấn Cao không chỉ phát lộ cái đẹp của thiên lương mà còn
tỏa sáng cái đẹp rạng ngời của người anh hùng đầy khí phách. Trong hoàn cảnh
đề lao nhưng khí phách của ông vẫn không bị nguội lạnh, ông đã dám chống lại
triều đình phong kiến, ông tỏ thái độ coi thường, bất chấp trò tiểu nhân thị oai
của bọn lính canh, thái độ cao ngạo, khinh bạc trước sự biệt đãi của quản ngục.
Đó như là lời thách thức với cường quyền bạo lực. Khi ngục quan khép nép hỏi
ông Huấn: “ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu cấp.” Ông
Huấn đã trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà
ngươi đừng đặt chân vào đây.” Lời nói ấy như một gáo nước lạnh nhưng lại
làm quản ngục thêm phần kính nể Huấn Cao. Đó hẳn phải là khí phách của một
trang nam nhi chọc trời khuấy nước. Cách hành xử của Huấn Cao cho thấy dù
ở trong hoàn cảnh nào ông vẫn hoàn toàn tự do về nhân cách. Sự lễ phép và
khúm núm cả viên quản ngục càng tô đậm tầm vóc kì vĩ, vẻ đẹp hiên ngang của
ông Huấn. Huấn Cao không vì quyền thế hay tiền bạc mà ép mình cho chữ bao
giờ. Cả đời ông cũng chỉ cho chữ ba người bạn thân. Nhưng khi biết được tâm
sự và tấm lòng của người quản ngục, Huấn Cao đã đột ngột thay đổi: “nào ta có
biết đâu, một người như thầy Quản đây lại có những sở thích cao quý như vậy.
Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.” Huấn Cao đã nắm
bắt và nâng đỡ ánh sáng của thiên lương và việc cho chữ là việc “một tấm lòng
ta đền đáp một tấm lòng trong thiên hạ”, là hành động đền đáp một tấm lòng
trong thiên hạ. Huấn Cao chính là sự hiện diện của cái đẹp toàn diện, “sự tỏa
sáng của những tấm lòng” xuyên suốt “Chữ người tử tù”. Lấy nguyên mẫu từ
Cao Bá Quát nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân Huấn Cao đã trở thành biểu
tượng cho vẻ đẹp thiêng liêng, tao nhã của nền văn hóa cổ truyền, kết tinh tinh
hoa dân tộc. Yêu mến, ngợi ca và tiếc nuối những con người như ông Huấn,
Nguyễn Tuân đã gián tiếp bày tỏ tấm lòng của mình với những giá trị ngàn xưa
đồng thời bày tỏ quan niệm thẩm mĩ tiến bộ: cái đẹp, cái thiện luôn luôn song
hành và làm nên nhân cách con người. Ai đó đã cho rằng: “Nguyễn Tuân bước
vào nghề văn như để chơi ngông với thiên hạ”. Thấp thoáng đâu đó trong bóng
dáng của người tử tù ta cũng thấy cái nét “ngông” vừa cổ điển, vừa kế thừa
truyền thống tài hoa của thế hệ trước, một cái ngông luôn luôn muốn phản ứng
lại hiện thực xã hội đương thời, một cái ngông chỉ xuất hiện trong những trang viết của Nguyễn Tuân.
Đằng sau sự tài hoa của Huấn Cao, nhân vật quản ngục xuất hiện như hiện thân
của niềm say mê, trân trọng cái đẹp. Đó như một phép màu kì diệu biến quản
ngục thành “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều
hỗn loạn, xô bồ”. Tâm nguyện cả đời của quản ngục, không gì hơn, đó là có
được chữ của ông Huấn để treo ở nhà riêng. Tâm nguyện ấy bỗng chốc biến
viên quản ngục đẹp như một người nghệ sĩ thực thụ, biết say mê, biết hướng về
cái đẹp đúng như Ralph Waldo Emesson cho rằng: “Yêu cái đẹp là thường thức.
Tạo ra cái đẹp nghệ thuật. Nhưng biết trân trọng cái đẹp mới là người nghệ sĩ
chân chính”. Quản ngục biệt đãi Huấn Cao, luôn luôn cung kính và lễ phép
trước thái độ kiêu ngạo của ông Huấn, thành kính đón nhận những lời khuyên
của ông. Chính điều đó đã mở đường cho quản ngục đến với cái đẹp. Tư thế
khúm núm, thái độ và hành động bên ngoài có vẻ ủy mị khi lắng nghe lời
khuyên của Huấn Cao đã làm sáng lên vẻ đẹp nhân cách của ngục quan, làm
cho nhân vật trở nên đáng quý, đáng trân trọng. Đặc biệt, ông còn cúi đầu thành
kính đón nhận lời khuyên của ông Huấn. Ông cúi đầu nhưng không hề trở nên
hèn kém mà trái lại, nó còn làm cho ông trở nên cao thượng hơn bao giờ.
Nguyễn Đăng Mạnh từng cho rằng: “Có những cái cúi đầu làm cho con người
trở nên hèn hạ, có những cái cúi lậy làm con người trở nên đê tiện. Nhưng cũng
có những cái cúi đầu làm con người trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt
hơn, sang trọng hơn. Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương”.
Và cái cúi đầu của quản ngục cũng thật cao đẹp chẳng khác nào cái cúi đầu của
Cao Bá Quát khi xưa: “Nhất sinh để thủ bái mai hoa” (Cả đời sinh ra chỉ để cúi
đầu trước hoa mai). Nếu Huấn Cao là nơi nhà văn gửi gắm những quan niệm
thẩm mĩ tiến bộ thì quản ngục là nơi nhà văn gửi những quan niệm nhân sinh
sâu sắc: Bản thân mỗi con người luôn khao khát và hướng về cái đẹp. Bởi vậy,
phải biết nhìn sâu vào tâm hồn con người để nắm bắt ánh sáng của thiên lương.
Và hơn cả, cái đẹp “man mác khắp vũ trụ”, nó tồn tại ngay cả trong cái ác để
đẩy lùi bóng tối, hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn.
Cảnh tượng đẹp nhất trong “Chữ người tử tù “chính là cảnh cho chữ - một cảnh
tượng xưa nay chưa từng có bao giờ, đặc biệt là trong hoàn cảnh đề lao, nơi
“người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc”, cái đẹp vẫn ngang nhiên được
sinh thành. Ta ngỡ ngàng khi thấy “một người tù cổ đeo gông, chân vướng
xiềng, đang dậm to nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Bóng
tối của nhà tù thực dân đã bị đẩy lùi bởi ánh sáng của tài hoa, thiên lương,
nhường chỗ cho cái đẹp được sinh thành. Cái đẹp đã trở thành tác nhân làm đảo
lộn ý thức xã hội, nó được khai sinh trên một mảnh đất chết, từ bàn tay của
người tử tù sắp chết nhưng vẫn phát lộ rực rỡ và có sức cảm hóa mãnh liệt. Lời
khuyên của quản ngục dành cho người tử tù đã thể hiện một quan niệm sâu sắc
về nghệ thuật: Cái đẹp không bao giờ chung sống với cái ác, mãi mãi là như
vậy. Đó cũng là niềm tin sắt đá của Nguyễn Tuân về sức mạnh của cái đẹp, cái
đẹp sẽ cứu rỗi thế giới này!
Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Đọc văn Nguyễn Tuân bao giờ người ta cũng thấy
một hứng thú đặc biệt: sự thâm trầm trong ý nghĩ, sự lọc lõi trong quan sát, sự
hành văn một cách hoàn toàn Việt Nam”. Thật vậy, cái hứng thú đặc biệt ấy
không chỉ toát lên từ tác phẩm mà còn toát lên từ hình thức nghệ thuật độc đáo.
Ông sử dụng bút pháp tương phản để dựng lên sự đối lập giữa ánh sáng và
bóng tối, để tô đậm sự thắng thế của cái đẹp trong cuộc đời. Ai đó đã cho rằng
“ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tuôn ra hư muốn thi tài với hóa công”. Nhà văn
với văn phong “đặc Việt Nam” (Vũ Ngọ) ấy đã khéo léo sử dụng những từ Hán
Việt để tạo màu sắc cổ kính, trang nghiêm cho tác phẩm, để “Chữ người tử tù”
trở thành một trong những” nén tâm hương nguyện cầu cho cái đẹp cổ truyền
Việt Nam” (Văn Tâm). Câu chuyện như một thước phim quay chậm, người đọc
như được chứng kiến tận mắt ánh sáng được nhen lên, tỏa sáng và che đi bóng
tối. Và các nét chữ hiện hình “như một nét bút trác tuyệt được chạm khắc tinh
xảo trên mặt đá quý của ngôn từ”.
“Chỉ người suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, bởi văn Nguyễn Tuân
không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức” (Vũ Ngọc Phan). Bởi vậy,
khi đến với chữ người tử tù, hãy từ từ đón nhận ánh sáng của cái đẹp để thanh
lọc tâm hồn, để thấu hiểu và cảm nhận…” Chữ người tử tù không chỉ “vang
bóng một thời” mà còn vang bóng mãi muôn sau…
Phân tích Chữ người tử tù mẫu 5
Nguyễn Tuân sinh năm 1910 ở làng Nhân Mục, tục gọi là làng Mọc, thuộc Hà
Nội. Ông là người có bản lỉnh cứng cỏi trong đời sống và trong sáng tác văn
học; hiểu biết rộng, quý trọng tài năng, coi trọng nghề nghiệp, có những sáng
tạo độc đáo trong lời văn cũng như trong cảm nghĩ. Sự nghiệp văn học của ông
gồm hai giai đoạn. Các tác phẩm tiêu biểu trước 1945: Vang bóng một thời
(1940), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943). Sau 1945: Tình chiến dịch (1950),
Tùy bút kháng chiến (1955), Sông Đà (1960), một số bài phê bình và giới thiệu
chân dung văn học. Nguyễn Tuân có những đóng góp đáng kể cho nền văn
xuôi hiện đại, nhất là ở thể loại tùy bút, ở cảm thụ sâu sắc và ở văn phong cẩu
kì, đa dạng như một ống kính trăm màu.
Chữ người tử tù là câu chuyện về một viên quản ngục mến mộ tài năng, nhất là
tài viết chữ Hán đẹp nổi tiếng của một người tù án chém, ông ta đã bí mật đối
đãi trân trọng người tù với mong ước xin được chữ quý. Cuối cùng, tưởng đã
hết hi vọng xin chữ thì ông lại được người tù vui vẻ cho chữ, kèm.
Theo lời khuyên hãy bỏ nghề coi ngục, về quê sống thanh bần để giữ được tâm
hồn trong sạch, xứng với thú chơi chữ đẹp. Thông qua câu chuyện ấy đặc biệt
là cảnh cho chữ ban đêm trong ánh đuốc đỏ rực, tác giả muốn nêu bật giá trị
cao, quý của Cái Đẹp: đẹp chữ viết, đẹp đức cao, đẹp nhân cách. Đồng thời ca
ngợi người biết quý trọng gìn giữ Cái Đẹp ấy như một báu vật ở đời mà ngọc
vàng, quyền thế cũng không sao đổi được.
Người đọc ngày nay tìm hiểu văn chương xưa bao giờ cũng phải vượt qua một
cửa ải khó khăn. Đó là vốn văn hoá, lịch sử làm nền cho tác phẩm. Nói về
phong kiến là nhắc tới vua quan và dân đen, địa chủ và nông dân. Nói về đạo
Nho là nhắc tới cương thường, trên trí quân, dưới trạch dân. Nói về đạo Phật là
nhắc tới luân hồi, từ bi... thì có thể cũng hiểu được sơ sơ đôi chút, nhưng trước
những sản phẩm vật chất và tinh thần của văn hóa phong kiến cách đây trên
một thế kỉ được để cập tới trong truyện ngắn này thì quả thật không dễ hiểu chút nào.
Chữ người tử tù rút từ tập truyện Vang bóng một thời. Như tựa đề, đó là cuốn
sách ghi chép về một thời và một lớp người đã tàn trong quá khứ, mà bóng
dáng hãy còn in đậm trong trí nhớ, trong sự kính phục, tôn sùng của tác giả.
Nguyễn Tuân có dụng ý rõ ràng khi dựng lại một không khí xưa cũ như thế ở
truyện Chữ người tử tù. Cảnh vật, con người, sự việc hiện ra cũng đậm màu sắc
ấy, đưa chúng ta trở lại quá khứ cách đây hơn trăm năm.
Mở đầu, nội dòng chữ: phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, muốn
hiểu cho thấu ngọn ngành, e đến bạc tóc. Bình thường, người ta viết là tờ trát,
lá trát, nhưng tác giả vẫn để nguyên cách gọi của thời đó với nghĩa nghiêm
trọng là phiến trát Còn tại sao ông không viết: của quan tổng đốc Sơn Hưng
Tuyên đốc bộ đường theo kết cấu Hán văn y như trong phiến trát để cho nó giữ
nguyên cái tính chất quan yếu, dậy mùi quyển lực ngay trong từng chữ... Đốc
bộ đường là chữ dùng để chỉ chức vụ Tổng đốc. Lại thêm tên gọi tắt của ba tỉnh
Sơn (Sơn Tây), Hưng (Hưng Hóa), Tuyên (Tuyên Quang) vì hồi ấy, tỉnh nhỏ
đứng đầu chi là chức Tuần vũ, hai hay ba tỉnh nhỏ hợp lại mới có chức Tổng
đốc trùm lên trên - ba tỉnh này đặt chung dưới quyền cai trị của một Tổng đốc.
Mệnh lệnh từ dinh quan Tổng đốc phát ra cho cấp phủ, cấp huyện là rất uy nghi.
Người cầm bút mượn chữ xưa mà khơi dậy cái không khí, khung cảnh của một
thời. Tả cảnh vật thì vọng canh (vọng canh là chiếc chòi canh được dựng khá
cao để có thể trông xa (vọng), chiếc hèo hoa, giá gươm, án thư, con song, giấy
bản, ty Niết, tàn đồn, chiếc gông, chậu mực, bức châm... Tả người thì thầy bát,
ngục tốt, thằng thập, thủ xưởng... Tả việc thi cho chữ, thay bút con, đề xong lạc
khoản, lĩnh ý, bái lĩnh... Đằng sau chữ nghĩa ấy là cà một nền văn hóa xưa mà
truyện này chi xén ra có một mảnh, đủ đưa người đọc vào không khí của một
cửa ngục tiêu biểu cho triều đình thời ấy, đầy quyền lực mà ngu xuẩn, hùa nhau
hủy diệt nhân cách và đức tài. May mà trong đó còn nổi lên dè dặt mà sâu thiết
một tấm lòng biết quý trọng, tôn kính cái đẹp của đức độ, tài ba. Những điều
chứa chất bên trong nội dung của truyện đã chinh phục được người đọc. Đó là
điều đáng chú ý trước tiên.
Cốt truyện Chữ người tử tù xoay quanh tài viết chữ đẹp của người tù án chém.
Ý nghĩa dĩ nhiên có thể mở rộng ra nhiều, nhưng đó là cái cốt lõi. Có ba hạng
người và ba thái độ trước cái đẹp ấy. Thái độ thứ nhất là hủy diệt; thái độ thứ
hai là kính trọng, mến phục; thái độ thứ ba là đại lượng, trọng mình, trọng
người của một bậc chính nhân quân tử. Đan dệt trong truyện là ba thái độ đối với cái đẹp.
Nói chủ đề của truyện là tôn vinh cái đẹp e hồ đồ chăng? Cái đẹp ấy ở chữ viết
của người tử tù là điểu khỏi bàn cãi. Viên quản ngục đã nghe cả vùng tỉnh Sơn
vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp của người tù này. cố nhiên tài viết
chữ ấy gắn liền với một cái tên cụ thể là Huấn Cao. Ông quan họ Cao có thời
làm huấn đạo ở tỉnh Sơn Tây, nơi mà viên quản ngục gọi thân mật là tỉnh Sơn
Tây. Ông Huấn Cao ấy bây giờ tên tuổi lại đứng đầu trong danh sách sáu tử tù
phạm tội phản nghịch, dám cầm gươm chống lại triều đình. Lời văn chỉ kể có
thế, còn nhân vật Huấn Cao có phải là Cao Bá Quát nổi tiếng thơ hay chữ đẹp,
lại có thời gian bị triều đình đầy đi giữ chức giáo thụ ở phủ Quốc Oai tỉnh Sơn
và đã cùng nông dân nổi lên chống vua quan hay không, thì chẳng biết. Đó là
chỗ kín nhiệm của ngòi bút, chỗ để trăng ẩn vào mây như cách nói của người
xưa. Nếu có gì trùng hợp thì cũng coi như là ngẫu nhiên vậy.
Lẽ thường, ở đời cái gì đẹp cũng quý bởi nó làm cho cuộc sống thêm tươi vui,
ý nghĩa. Chữ đẹp cũng thế. Chữ đây là chữ Hán ngày xưa, một loại chữ tượng
hình, các nét được cách điệu hóa qua nhiều đời thành một nghệ thuật viết chữ
có phép tắc hẳn hoi (thư pháp). Sách xưa của ta và của Trung Quốc đều nhắc
đến thiếp Lan Đình của Vương Hi Chi là nhắc đến mẫu chữ đẹp nổi tiếng, đổng
thời cũng ghi chép sự xuất hiện của nhiều trường phái viết chữ Hán. Thuở xưa,
trong những nhà giàu sang, nhất là nhà có học, thường treo nhiều hoành phi,
câu đối, bức châm, bức trướng... bằng lụa bạch, bằng giấy dày in hoa, bằng gỗ
sơn son thiếp vàng hoặc khảm xà cừ. Nhất là bức châm, bộ tứ bình lụa bồi
thành tranh có chữ viết kiểu đới thảo chép những lời văn, những bài thơ Đường
của bạn bè tri kỉ treo trong nhà là điều hãnh diện vinh dự, là bảo vật còn quý hơn vàng ngọc.
Chữ đẹp là một cái đẹp hiếm có trên đời nhưng éo le thay, nó lại là của người
tù mang án tử hình, nghĩa là người ấy chết thì nó cũng mất theo. Nguy cơ mất
một báu vật trong thiên hạ đã rõ ràng. Châu ngọc còn tìm ra, chứ nét chữ rồng
bay phượng múa ấy, nét chữ mà cả một tỉnh đều ca ngợi thì tìm ở đâu ra? Điều
đó khiến cho vẻ đẹp của nó bỗng như lấp lánh thêm.
Cái hoa tay viết chữ đẹp ấy còn đi kèm với phẩm cách cao thượng lạ kì. Nhà
văn có nhắc tới cái tài bẻ khóa vượt ngục của người tù chắc là để tô đậm tài võ
bên cạnh tài văn. Xin đừng vội cho đó là hạ cấp. Bẻ khóa vượt ngục, dám làm
giặc chống vua quan tàn bạo, cứu khổ dân lành thì ai dám bảo đó là điều đáng
chê? Viên quản ngục lễ phép nói lời kính phục người tù là người có nghĩa khí;
một gọi ngài, hai gọi ngài, ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết... nhất định
không phải chi vì nghe cái tên Huấn Cao và nhớ tới tiếng đồn chữ đẹp, mà đã
từng nghe, từng nghĩ nhiều điều khác nữa về con người ấy: Những người chọc
trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng còn biết có ai nữa...
Ở nhân vật Huấn Cao, tâm hồn cũng đẹp, nhân cách cũng đẹp, hành động cũng
đẹp, nhưng tất cả đều ẩn kín sau nét chữ đẹp. Những nét đẹp kia là đẹp đạo đức,
còn đẹp chữ viết mới là nghệ thuật. Nghệ thuật hay và đẹp, không ai không say
mê, ngưỡng mộ. Nguyễn Tuân lấy nó làm cốt truyện là vậy.
Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân đề cập đến ba thái độ đối với Cái Đẹp.
Thái độ thứ nhất là hủy diệt.
Một số kẻ được miêu tả trong truyện nhưng đó là hạng thiên lôi chỉ đâu đánh
đó, sống lâu ở chốn tù ngục nên nhiễm thói đầu trâu mặt ngựa. Đó là bọn lính
tráng, những thằng thập, thằng cửu, lính canh, lính coi tù. Lối sống của chúng
là sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc. Chúng là một đống cặn bã, một lũ quay
quất Thấy đám tử tù bảo nhau quỳ xuống đất để thúc mạnh chiếc gông vào
thềm đá cho rệp rơi bớt ra, một tên trong lũ lính áp giải đùa một câu độc miệng:
Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sỏi dẫn các
người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Nó nói tiếp, giọng hách
dịch: Đứng dậy không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ. Cũng giọng ấy, hắn
nhắc viên quản ngục khi thấy ông này lộ vẻ kiêng nể và có biệt nhỡn đối với
Huấn Cao: Tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược
và nguy hiểm nhất trong bọn. Thói sai nha nó vậy. Chốn ấy tất nhiên đẻ ra
giống người ấy. Giá ai có tấm lòng trong sạch thì cũng khó giữ thiên lương cho
lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả cái đời lương thiện đi. Lời ông
Huấn Cao khuyên viên quản ngục ở cuối truyện chỉ nhắc lại một sự thật vĩnh
hằng ở cửa ngục của giai cấp thống trị thời suy thoái. Nhà thơ Cao Bá Quát có
bài thơ nói về cái gông: Mày chỉ biết gông người chứ mày biết gì phải trái, biết
gì tốt xấu trên đời, đúng là để ám chỉ bọn đầu trâu mặt ngựa này. Những người
tù kia, dù là Huấn Cao hay là quan gì đi nữa, dù chí cao tài cả đến đâu chăng
nữa, đối với chúng chi là những tên tù, lại là tử tù, thì chúng chi nói bằng hèo,
bằng tay thước, bằng thanh quất, bằng gươm. Chúng chỉ tuân thủ một mệnh lệnh là tiêu diệt.
Một loại người nữa tuy không có mặt trong truyện nhưng lại là những tên tai to
mặt lớn, ra lệnh từ xa. Đó là Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, là Hình bộ
Thượng thư trong kinh, là ty Niết, hoặc trừu tượng hơn nhưng kinh khủng hơn,
là triều đình quốc gia... Vô hình, nhưng chính nó mới là bộ máy hủy diệt. Tài
năng, đức hạnh, tiết tháo, khí phách, lo nước, lo dân, văn tài, nghệ thuật... nó
không cần. Nó chỉ cần những tên nô tì càng ngu xuẩn càng tốt để giúp nó giữ
thật chặt cái ngai vàng bẩn thỉu, mục ruỗng.
Thái độ thứ hai là thái độ quý trọng, kính phục tài năng, nghĩa khí. Đó là thái
độ của viên quản ngục và thầy thơ lại.
Cái Đẹp ai cũng quý, nhưng phải biết là đẹp thì mới biết quý. Thầy thơ lại biết
Huấn Cao có cả tài văn lẫn võ, nhưng là biết qua lời viên quản ngục và ông này
cũng chi nghe người ta đồn. Vậy mà, khi hay tin một con người như vậy sẽ bị
chém đầu thì lại thấy tiêng tiếc. Cái tính lành trời sinh, thấy tài giỏi thì mến,
khổ cực thì thương ở thầy thơ lại thuần phác này đáng quý biết bao nhiêu! Viên
quản ngục thì chữ nghĩa thánh hiền có lẽ không nhiều, nhưng trình độ học vấn
thể hiện ở câu cửa miệng: Có học thì như lúa như nếp, không học thì như rơm
như cỏ. Quý hơn cả là con mắt biết nhìn Cái Đẹp, coi việc thưởng thức Cái Đẹp
như là một thú chơi thanh nhã ở đời. Nhân cách của ông ta là một nhân cách
trên mức bình thường. Biết quý trọng Cái Đẹp chữ viết, Cái Đẹp khí phách,
biết trân trọng hoài bão của con người có tài viết chữ đẹp, thì lại càng đáng quý!
Yêu Cái Đẹp, quý Cái Đẹp, kính phục Cái Đẹp cũng làm cho con người đẹp lên,
phẩm chất lớn hơn, cao hơn, thơm ngát.
Viên quản ngục đã bắt mạch được tấm lòng thuần hậu của thầy thơ lại, trước
hết là từ cái cảm tưởng tiêng tiếc hồn nhiên, rồi từ đó khẳng định có căn cứ
rằng: người đã biết kính mến khi phách, biết tiếc, biết trọng người có tài hẳn
không phải là kẻ xấu. Không đơn thuần suy luận, mà từ bụng ta suy ra bụng
người. Đó là nhận xét người, còn bản thân mình thì không giấu được sự kiêng
nể, ý biệt nhỡn đối với Huấn Cao và lấy quyền lực của phép nước mà át tụi lính
tráng quen thói lên mặt. Đắn đo mãi ông ta mới dám bước vào buồng giam,
khép nép thưa bày, một phiền ngài hai xin ngài, để rồi phải nhận một câu cao
ngạo như đuổi thẳng của Huấn Cao: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có
một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Rồi ông ta lại lễ phép lui ra với
một câu: Xin lĩnh ý chứ không giở trò tiểu nhân thị oai và vẫn dâng cơm rượu
hậu hơn trước. Như vậy là hạ mình, hạ mình quá mức. Thông thường, lũ quan
quyền từ trên tột đỉnh xuống tận lính quèn, cứ việc ra oai, nói bằng tử hình,
bằng gông, bằng hèo chứ đâu nói bằng đạo lí phải trái. Nhưng viên quản ngục
này đã đến với người tử tù bằng tư cách của kẻ bề dưới, theo bảng giá trị đích
thực của lẽ phải: người tài sơ đức thiểu kính trọng người tài cao đức cả...
Huống chi ông ta lại muốn xin của người tử tù ấy những nét chữ tài hoa có một
không hai, mà người ấy chết thì nó cũng chết theo. Chơi chữ đẹp, một mặt đã là
thú chơi tao nhã, còn giữ cho được nét chữ đẹp ấy lưu lại với đời lại là một ý
thức bảo tàng còn quá hiếm hoi ở cái xã hội trọng chức tước và tiền bạc hơn
học vấn và văn hóa thuở bấy giờ. Thú chơi ấy, ý thức ấy, viên quản ngục mong
ước biến nó thành hiện thực. Việc chuẩn bị ngày càng chu đáo và sự chờ đợi
mỗi ngày mỗi thiết tha. ông đã mua sẵn chục vuông lụa trắng Mà can lại thật
phẳng phiu. Chao ôi! Xin hiểu giùm cho lòng ông: Từ những ngày nào, cái sở
nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng
mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết... Có được chữ ông Huấn mà treo
là có một báu vật trên đời. Một con người có tâm nguyện như vậy, trong nhân
cách lại không có chỗ đáng nể hay sao?
Chưa kể ông ta lại ở vào cái nơi toàn là cảnh của Diêm Vương, Âm phủ: không
vạc dầu thì ngục tối, không cưa xẻ thì gông xiềng, hành hạ, kể cả biến người tù
thành ma không đầu... Nơi ấy chi có tàn nhẫn và quay quắt, nơi ấy người ta vui
khi thấy máu tù nhân đổ, người ta cười khi thấy tù nhân quằn quại. Nơi đó
không có chỗ cho lẽ phải, tình thương, đạo lí, dù là một chút. Ấy vậy mà lại
còn sót được hai tâm hồn, một thuần hậu, một cao quý, thì cái thuần hậu cao
quý ấy càng đáng kính trọng biết bao! Trong bùn mà sen vẫn ngát thơm.
Tính cách của thầy thơ lại và viên quản ngục bổ sung cho nhau để thể hiện trọn
vẹn cái trật tự của bảng giá trị lẽ phải và đạo lí ở truyện này. Cảnh viết chữ
trong buồng giam ban đêm dưới ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc và niềm vui
giây lát của ông Huấn, sự thỏa nguyện của viên quản ngục cùng với lời bái lĩnh
kính cẩn sau lời khuyên của ông Huấn là sự hòa hợp bừng nở viên mãn ba vẻ
đẹp của ba con người xứng đáng là Con Người.
Thái độ thứ ba là thái độ cao rộng của bậc chính nhân quân tử.
Đầu tiên, nhân vật Huấn Cao xuất hiện qua tiếng đồn. Mà đã là tiếng đồn thì
không phải cái gì cũng chính xác. Phần khuếch đại theo quy luật dị bản của
truyền miệng hẳn không tránh được, như tài bẻ khóa vượt ngục chẳng hạn,
nhưng tài viết chữ rất nhanh, rất đẹp, cả tỉnh đều khen chắc là sự thật. Còn
phạm tội phản nghịch, làm giặc thì trong giấy tờ quan trên đã ghi rõ. Mà đã
dám làm việc ấy thì đương nhiên phải là người có nghĩa khí, tài giỏi, nay bị giết
đi thì thấy tiêng tiếc. Việc người ấy làm là việc quốc gia triều đình, những kẻ
coi ngục biết gì mà nói. Như vậy là con người Huấn Cao tuy chưa thấy mặt mà
uy tín, danh tiếng đã lẫy lừng.
Trong suy nghĩ của hai viên chức nhà ngục cũng có điều tô đậm thêm tính cách
Huấn Cao, kể cả lời bình có tính chất cảnh cáo của tên lính áp giải. Ba nhân vật
có ba từ chứa đựng ý nghĩa đánh giá khá rõ: người thơ lại thì buồn. (Có tài thế
mà đi làm giặc thì buồn lắm). Viên quản ngục thì bảo ông Huấn là khoảnh (tính
ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ). Tên lính áp giải thì xếch
mé bảo ông tù này là ngạo ngược: Tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm
cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn.
Tại sao thầy thơ lại thấy buồn? Ấy là do thầy nhận ra rằng người tử tù kia có tài.
Có tài thì phải được sống để đem tài giúp đời, đó là mong ước của người xưa.
Có tài có đức, khổ mấy rồi cũng làm nên. Từng đọc tích xưa nên thầy thơ lại
nghĩ: Có tài thế mà làm giặc thì đáng buồn lắm vì làm giặc chẳng biết đúng sai,
nhưng bị khép vào tội chết. Tài ấy không được vua quan sử dụng, lại đem tiêu
diệt đi, thiệt cho đời biết bao nhiêu?! Đáng buồn cho đời bao nhiêu! Đây là một
cách đánh giá cái tài mà cũng là Cái Đẹp ở đời.
Còn khoảnh là thế nào? Khoảnh về cái gì? Khoảnh với ai? Chữ ông Huấn Cao
đẹp, nhưng ông chỉ viết cho những bạn tri kỉ. ông tiếc công hay ông thiên vị?
Không phải! Mà ông nghỉ rằng chữ đẹp chẳng phải ai cũng biết thưởng thức và quý trọng.
Bạn tri ki là bạn hiểu Cái Đẹp, quý Cái Đẹp ấy và những Cái Đẹp khác của con
người mình. Viết cho tri kỉ là san sẻ tâm hồn, tài năng và Cái Đẹp của mình
cho bạn. Khoảnh như vậy là trọng mình, trọng bạn, coi Cái Đẹp là báu vật trên
đời, không dễ gì phung phí. Viết chữ cũng như viết văn, làm thơ. Cụ Tam
Nguyên Yên Đổ thoáng liên hệ mình với ông Đào (nhà thơ Trung Quốc nổi
tiếng Đào Tiềm) đã thấy thẹn phải ngừng bút. Bao bậc tài hoa trước khi chết đã
đốt tất cả chữ nghĩa của mình vì cho là không xứng đáng để đời. Đâu phải chỗ
nào cũng dễ dàng hạ bút để vẽ vời?! Ta sẽ thấy tự miệng ông Huấn nói ra cũng
cùng một ý như trên. Biết nhận ra Cái Đẹp thì tất nhiên cũng biết quý trọng nó.
Đào tiên Tây Vương Mẫu năm trăm năm mới ra được một trái, đó là thần thoại
nhưng ý nghĩa vằn là đề cao Cái Đẹp.
Còn tên lính áp giải bảo Huấn Cao là ngạo ngược thì chẳng cần bàn. Con mắt
ếch ngồi đáy giếng của hắn thì thấy trời chỉ to bằng cái vung. Sự tự trọng của
Huấn Cao nó cho là ngạo ngược. Theo nó, đã là tù nhân thì chi biết cúi đầu,
chết cũng phải chịu, huống gì giữ phẩm giá làm người. Lũ tay sai ở thời đó
chẳng khác những cái gông, chỉ biết gông người chứ biết gì phải trái, đạo lí và
danh dự. Nhưng đánh giá Huấn Cao như vậy, tên lính gián tiếp đã coi Huấn
Cao là hạng người trên, dám khinh thường bọn hắn ra mặt.
Trên đây mới là tiếng tăm Huấn Cao qua lời đồn, trong ý nghĩ hai con người
đáng quý ở nhà ngục và cả trong lời nói của tên sai nha. Còn ông Huấn tự nghĩ
về mình, về người và nói năng, hành động ra sao?
Trước sự biệt đãi của viên quản ngục mà người trực tiếp săn sóc là thầy thơ lại,
ban đầu Huấn Cao tiếp nhận rượu thịt thản nhiên, coi như là việc vẫn làm trong
cái hứng bình sinh. Đến khi viên quản ngục đích thân vào buồng giam, lễ độ,
cung kính tôn xưng ông là người có nghĩa khí, xin ông cho biết cần gì thêm thì
ông đáp một cách trịch thượng: Nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Đẩy người
ta ra và chờ sự đáp trả bằng uy lực, nhưng người ta chi một mực lễ phép lui ra
với một câu bất ngờ: Xin lĩnh ý, tức là xin tuân lệnh, hỏi làm sao ông Huấn
không nghi ngờ? Cái trò dụ dỗ mua chuộc nơi giam cầm là mánh khóe quá bình
thường, ông Huấn càng bực vì tưởng viên quản ngục có mưu đồ thâm hiểm gì
đây. Suy xét mọi lẽ, ông thấy hóa ra không phải. Mãi đến khi thầy thơ lại hớt
hải đem nguyện ước sâu xa của viên quản ngục bày tỏ với ông, cùng cái tin
khẩn cấp là sáng hôm sau ông Huấn và các bạn sẽ bị đưa vào tận trong Kinh để
chịu tội, thì Huấn Cao mới vỡ lẽ vì sao có những hành động đối xử lạ lùng của
thầy trò ông quản và nhận ra viên quản ngục này chính là hạng người biết quý
Cái Đẹp. Ông mỉm cười dạy thầy thơ lại chuẩn bị chu đáo để ông có cơ hội đáp
lại tấm thịnh tình của viên quản ngục ngay đêm nay. Giọng Huấn Cao trở nên
từ tốn: về bảo với chủ ngươi, tối nay... đem lụa, mực, bút và cả một bó đuốc
xuống đây ta cho chữ. Cho chữ chứ không phải viết chữ. Nghe như lời của bề
trên, của thần tiên phán bảo. Huấn Cao khẳng định: Chữ thì quý thực. Ta nhất
sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta
cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức tranh đường cho ba người bạn thân của ta thôi.
Lần này là lần thứ tư ông Huấn cho chữ. ông tự giữ giá chữ đẹp của mình đến
mức ấy, vậy thì cái gì đã khiến ông hạ bút lần này? Chính là do lòng thành, biết
quý trọng, biết lưu giữ Cái Đẹp hiếm hơn vàng ngọc của viên quản ngục: Ta
cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người
như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa,
tà đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Lòng tự trọng của ông Huấn đã gặp
lòng trân trọng của viên quản ngục. Không phải phi là sự hiểu biết mà còn là sự
thông cảm, cao hơn nữa là sự kính trọng đã nâng ông quản lên vị trí của một
bậc tri kì một tấm lòng liên tài hiếm có trong thiên hạ. Lời khuyên sau đó của
Huấn Cao thốt ra một cách tự nhiên. Phải xa cuộc sống nơi tù ngục này, tắm
gội mình trong cuộc sống trong sạch chốn quê nhà thì mới giữ gìn được cái tính
lành trời sinh và mới đeo đuổi được thú chơi chữ đẹp.
Quang cảnh buổi ông Huấn cho chữ vừa lạ vừa đẹp, vừa như một ảo ảnh, một
ánh hào quang không phải của thế giới này mà của cõi nào trong thần thoại,
một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Buồng giam hẹp, bẩn, ẩm ướt, tối mịt,
ánh đuốc đỏ rực như một đám cháy nhà. Ba bóng người hoạt động. Một người
ngồi dưới đất, hai tay nâng tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Một người
khác run run bưng chậu mực. Người thứ ba cổ đeo gông, chân vướng xiềng,
đang cầm bút viết thoăn thoắt trên mặt lụa. Đó là viên quản ngục, thầy thơ lại
và Huấn Cao. Viết xong, ông Huấn đỡ viên quản đứng dậy, rồi nhìn lại chữ
mình viết đẹp tươi, nó nói lên những hoài bão của một đời người, ông đỉnh đạc
có lời khuyên cuối cùng cho viên quản ngục: muốn treo chơi trong nhà bức chữ
đẹp ấy thì phải thay đổi môi trường sống. Lần này, viên quản ngục lùi ra mà
nói gần như muốn khóc: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Ở cuộc giáp mặt lần
trước, sau câu sẵng giọng của Huấn Gao, viên quản lễ phép lui ra và lắp bắp:
Xin lĩnh ý! Lần này, câu nói của ông ta ấp úng trong nghẹn ngào cảm động.
Trên kia là chưa hiểu nhau, đến đây cả ba người đổng cảm trong một tấm lòng
chung: tha thiết yêu Cái Đẹp, Cái Đẹp chữ viết đi liền với Cái Đẹp tâm hồn.
Truyện chấm dứt với lời nghẹn ngào nhiều ý nghĩa ấy. Thái độ Huấn Cao trước
sau có khác nhưng vẫn là thái độ của một bậc chính nhân quân tử. Đối với thầy
trò viên quản ngục, ông Huấn vẫn giữ một khoảng cách trên dưới nhất định,
trước lạnh nhạt sau thân mật, ân cần; vẫn phong thái đĩnh đạc, ung dung, độ
lượng, cao rộng đối với cái đẹp dù là nhỏ nhất, dù ở bất kì hoàn cảnh nào.
Viết truyện này, Nguyễn Tuân có ngụ ý gì nữa không? Điều chắc chắn là tác
giả muốn nói lên nỗi tiếc nuối đối với một con người tài giỏi, nghĩa khí, một
nhân cách lớn lao ở cái thời đất nước suy vong, đồng thời cũng kín đáo lồng
vào đó một nỗi đau chung cho đất nước và cho tất cả những gì tốt đẹp, tài ba
trong đời mà lũ thống trị thực dân phong kiến đã vùi dập một cách bạo tàn.
Đồng thời, tác giả khẳng định: cuộc đời dù đen tối đến đâu, trong nhân dân vẫn
có những tấm lòng ngời sáng.
Phân tích Chữ người tử tù mẫu 6
Nhà thơ lừng danh người Mỹ Ralph Emerson từng có câu nói rất hay rằng:
“Yêu cái đẹp là thường thức. Tạo ra cái đẹp là nghệ thuật. Nhưng biết trân
trọng cái đẹp mới là người nghệ sĩ chân chính.” Có lẽ từ lâu nhà văn Nguyễn
Tuân đã sớm thấm nhuần tư tưởng trên mà cả cuộc đời ông là một chặng đường
say mê đi tìm cái đẹp thanh cao, cái đẹp của chuẩn mực tạo hoá. Tác phẩm Chữ
người tử tù của ông đã khắc hoạ rất thành công chân dung vẻ toàn mỹ, dù trong
bất kỳ hoàn cảnh nào thì nó vẫn luôn toả sáng và trường tồn với thời gian.
Nguyễn Tuân (1910 - 1987) xuất thân trong một gia đình Nho giáo, quê ông ở
làng Mọc nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Nguyễn
Tuân là nhà văn lớn có đóng góp vô cùng quan trọng cho nền văn học Việt
Nam hiện đại, cả đời ông say mê đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để từ đó thổi
hồn vào trong các tác phẩm của mình những làn gió mới, những vẻ đẹp nhân
văn cao đẹp. Các tác phẩm chính của ông gồm có: Một chuyến đi (1938), Vang
bóng một thời (1940), Sông Đà (1960),… Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu
có tên là Dòng chữ cuối cùng in năm 1939 tên tạp chí Tao Đàn, sau đó được in
trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Hình
tượng Huấn Cao - một con người tài hoa, lỗi lạc với ý chí hiên ngang, bất khuất,
cho dù là chí lớn không thành nhưng ông cũng không bao giờ gục ngã, vẫn giữ
cho mình tâm hồn thanh cao trước cảnh gục tù tối tăm, u uất.
Thành công của một tác phẩm truyện ngắn là đến từ tình huống truyện đặc sắc,
đó chính là chiếc chìa khoá thúc đấy cốt truyện dâng lên cao trào như cách mà
Nguyễn Minh Châu từng nói đó là: “Tình thế của câu chuyện, là khoảnh khắc
mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”. Chữ người tử tù cũng là một câu
chuyện như thế, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật của mình vào nghịch cảnh trớ
trêu, cuộc hội ngộ giữa hai thế lực đối lập. Một bên đại diện cho con người tài
hoa khí phách, một bên là quyền lực tăm tối của xã hội phong kiến. Cuộc gặp
gỡ diễn ra đầy kịch tính, lôi cuốn người đọc, cuối cùng vẻ đẹp thiên lương tao
nhã đã thắng thế trước sự xã hội tàn bạo, xấu xa.
Chữ người tử tù xây dựng thành công tuyến nhân vật chính diện, họ là trung
tâm đại diện cho cái đẹp thanh cao trong tâm hồn, dù ở trong hoàn cảnh nào, dù
thực tại xã hội có dở bẩn ra sao cũng không thể nào làm vướng bẩn nhân cách
thiên lương của họ. Trước tiên là hình tượng Huấn Cao - một vị anh hùng sa cơ,
thất thế ông là người lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh đòi lại công bằng
cho chính mình. Ấy thế mà trong con mắt của chế độ phong kiến ông lại bị gọi
là kẻ “phản nghịch”, kẻ cầm đầu nguy hiểm cần phải tiêu diệt. Có ý kiến cho
rằng Nguyễn Tuân sáng tạo hình tượng Huấn Cao dựa trên nguyên mẫu Cao Bá
Quát - một người tài hoa, nghệ sĩ, tinh thần quả cảm và đặc biệt là có tài viết
chữ đạt đến độ tuyệt mỹ. Huấn Cao là cách gọi kính trọng, là một người mang
họ Cao giữ chức huấn đạo - chức quan trông coi việc học ở một huyện.
Nguyễn Tuân khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao qua nhiều bình diện để
thấy được cái vẻ đẹp thanh cao đạt đến chân - thiện - mỹ của một người tài hoa
bậc nhất. Trước tiên, nhà văn miêu tả Huấn Cao là một người nghệ sĩ tài hoa,
lừng danh khắp chốn. Ông xuất hiện gián tiếp trong câu chuyện của viên quản
ngục và thầy thơ lại, là người mà “vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất
nhanh và rất đẹp”, không những thế ông còn có tài “bẻ khoá và vượt ngục”.
Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm quả là một người “văn võ song toàn”, hội tụ
tất cả những khí chất của một người anh hùng tài ba. Tác giả giới thiệu Huấn
Cao với lối miêu tả gián tiếp là hoàn toàn có dụng ý khéo léo, chu toàn ông
muốn để cho nhân vật của mình xuất hiện một cách tự nhiên mà không đường
đột, từ đó cho người đọc thấy được hình tượng nhân vật phi thường tiếng thơm
đã truyền đi khắp nhân gian, khi nhắc đến tên tuổi cả viên quản ngục hay thầy
thơ lại đều đã từng nghe qua. Cái tài hoa, nghệ sĩ của ông Huấn cao còn được
bộc lộ rõ nét nhất khi viên quản ngục bất chấp hiểm nguy, chỉ với hy vọng có
được chữ của ông, chữ ông “đẹp lắm, vuông lắm” chỉ cần có một đôi câu đối
của Huấn Cao treo trong nhà coi như là “y đã mãn nguyện” bội phần, dường
như trên đời sẽ chẳng có gì có thể làm cho viên quản ngục hạnh phúc hơn thế nữa.
Huấn Cao còn là vị anh hùng với khí phách hiên ngang ngút trời, dù lâm vào
cảnh tù đày đối diện với án tử nhưng ông chẳng một chút sợ hãi vẫn giữ cho
mình nhân cách thanh cao, không nhún nhường trước cường quyền tào bạo.
Trước lời giễu cợt của bọn lính cai ngục, Huấn Cao im lặng “lạnh lùng, chúc
mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng”
một hành động dứt khoát như là lời cảnh báo chắc nịch của người tử tù với bọn
nha sai hách dịch, cậy quyền. Trong ngục tù tăm tối ông thản nhiên, ung dung
“nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình”, thật
là hiếm có người tù nào sắp chết mà vẫn giữ thái độ điềm nhiên, bình thản
được như Huấn Cao. Chẳng sợ cường quyền, khinh bạc chế độ xã hội tàn bạo
dù biết trước sẽ phải đối đầu với một trận “lôi đình báo thù và những thủ đoạn
tàn bạo” thế nhưng người anh hùng cũng chẳng thể dối lòng “Ngươi hỏi ta
muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây” Câu nói
thẳng thừng như gáo nước lạnh tạt thẳng vào bộ mặt phong kiến.
Nguyễn Tuân còn miêu tả người anh hùng kiên cường mang tấm lòng thiên
lương cao cả. Huấn Cao từ thuở sinh thời không bao giờ ham phù hoa, danh lợi
mà bán chữ. Đời ông cũng chỉ viết có “hai bộ tứ bình và một bức trung đường”
cho những người bạn tri kỷ. Ông quan niệm cái đẹp thanh cao phải được trao
cho đúng người mới phát huy được hết giá trị của nó. Huấn Cao đã bị cảm
động trước sự đối đãi chân tình “biệt nhỡn liên tài” của chủ tớ Viên quản ngục.
Tấm lòng nhân hậu không muốn phụ “một tấm lòng trong thiên hạ”.
Ngoài nhân vật trung tâm Huấn Cao, Nguyễn Tuân còn xây dựng thêm một
tuyến nhân vật viên quản ngục, một người yêu thích cái đẹp, tâm hồn tài hoa
nghệ sĩ nhưng lại bị lạc vào chốn nhơ bẩn, dung tục. Nhà văn xây dựng đồng
thời hai nhân vật chính diện song song soi chiếu cho nhau toả sáng với vẻ đẹp
tâm hồn tao nhã. Viên quản ngục dường như chọn nhầm nghề, ông là “một
thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô
bồ”. Như cách mà tác giả nói “Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những
cái thuần khiết vào giữa một đống cạn bã”. Thật đáng trân trọng sống giữa một
xã hội rối ren, loạn lạc mà vẫn giữ cho tâm hồn mình không vị vùi lấp trong
bùn lầy, ông còn còn biết trân trọng cái đẹp, biết nể trọng người tài, là người
dũng cảm bất chấp hiểm nguy.
Vào một đêm hoang vắng, tại trại giam tỉnh Sơn đã xảy ra “một cảnh tượng xưa
nay chưa từng có”. Trong buồng giam tăm tối, chật hẹp, mùi ẩm mốc bốc lên,
xung quanh là đầy nhưng mạng nhện giăng, mùi hôi thốc của phân chuột, phân
gián. Trong không khí khói toả, ngọn lửa đỏ rực của ngọn đuốc đang cháy
hừng hực. “Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ
trên tấm lụa trắng tinh”, viên quản ngục “khúm núm”, thầy thơ lại “run run
bưng chậu mực”, vị thế nhân vật dường như đổi dời người nắm quyền thế bỗng
dưng khép nép, kính cẩn trước một tử tù. Cái đẹp không lẻ loi đơn độc, nó
không tồn tại cùng cái xấu xa mà chiến thắng chúng, nhân đạo hoá những tâm
hồn đang vướng bụi trần giúp họ thức tỉnh, tìm lại con người nhân nghĩa vốn có của mình.
Chữ người tử tù của tác giả Nguyễn Tuân là một thiên truyện đã đạt “gần tới sự
toàn diện, toàn mỹ”. Tác phẩm thể hiện phong cách nghệ thuật tài tình của nhà
văn, tạo dựng thành công tình huống truyện độc đáo, khắc hoạ tính cách nhân
vật qua thủ pháp đối lập, tương phản gay gắt, ngôn ngữ trang trọng giàu hình
ảnh sinh động. Qua truyện, tác giả đã khẳng định sự tồn tại vĩnh cửu của cái
đẹp, thể hiện lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn Tuân.
Phân tích Chữ người tử tù mẫu 7
Nguyễn Tuân – một nhà văn luôn đi tìm cái đẹp đã đem đến cho nền văn học
Việt Nam một phong cách tài hoa, độc đáo. Trước Cách mạng, các tác phẩm
của Nguyễn Tuân, đặc biệt trong tập Vang bóng một thời, thường viết về
những nho sĩ cuối đời, những con người tài hoa nhưng bất đắc chí, buông xuôi
với đời nhưng vẫn có những mâu thuẫn sâu sắc với xã hội, với thời buổi “Tây
Tàu nhố nhăng”. Những tác phẩm trong Vang bóng một thời miêu tả những
người chí sĩ tài hoa, ngông nghênh giữa cuộc đời, lấy cái thái độ của mình làm
cái đối lập với xã hội. Trong số các tác phẩm ấy, nổi bật lên là tác phẩm Chữ
người tử từ cũng nhân vật Huấn Cao – một con người tài hoa, khí phách với cái
tâm vô cùng trong sáng thiện lương, dù rơi vào hoàn cảnh chí không thành
nhưng cũng không hề mất đi tư thế hiên ngang, ngạo nghễ với đời.
Tác phẩm Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời xuất bản năm
1940, ban đầu được mang tên Dòng chữ cuối cùng. Tác phẩm cũng mang
chung một mạch cảm xúc với các tác phẩm khác trong cùng tập truyện khi ca
ngợi và khẳng định cái đẹp, đồng thời ca ngợi những con người sống đẹp với
lối sống giản dị mà thanh bạch. Và cái đẹp chính là trung tâm của toàn bộ câu chuyện.
Nguyễn Tuân đã xây dựng lên một Chữ người tử tù đặc sắc với không chỉ câu
chữ đầy tài năng, mà còn ở một tình huống truyện có một không hai ở đời. Tình
huống truyện vốn là hoàn cảnh tạo nên sự kiện đặc biệt được nhà văn tạo ra
trong tác phẩm của mình, và chính tại đó, cuộc sống hiện lên đậm sắc nhất, ý
đồ của người viết được bộc lộ rõ nét nhất. Dựa vào đó, Nguyễn Tuân đã dựng
lên một tình huống truyện khi viên quản ngục có cuộc gặp gỡ với Huấn Cao –
một con người tài hoa, đặc biệt là tài viết chữ hiếm có ở trên đời nhưng đồng
thời cũng là một tên tử tù đang chờ ngày hành quyết. Và viên quản ngục –
người vô cùng hâm mộ nét chữ của Huấn Cao, quyết tâm xin bằng được chữ
của người tử tù ấy để cho toại cái “sở nguyện” của mình. Tình huống truyện mà
Nguyễn Tuân dựng lên hết sức đặc sắc, hết sức độc đáo, giàu kịch tính mà cũng
đầy éo le. Chính điều đó đã tạo nên một Chữ người tử tù – một tác phẩm về cái
đẹp độc nhất vô nhị.
Đọc tác phẩm, người ta không khỏi khắc thành ấn tượng về nhân vật chính
trong câu chuyện – Huấn Cao - một nhân vật đại diện cho lớp người nho sĩ tài
hoa, nhưng lại không gặp thời, bất đắc chí. Huấn Cao – một vị anh hùng bị sa
cơ thất thế, ông là nho sĩ nhưng cũng lại là người lãnh đạo nhân dân vùng lên
chống lại triều đình để đòi lại công bằng cho mình. Cuộc đấu tranh thất bại,
ông bị bắt, bị phán là một kẻ phản nghịch triều đình, phải chịu tội chết, bởi với
Nho giáo ngày xưa, trung quân ái quốc là một trong những điều kiện tiên quyết
quyết định nhân phẩm của một con người. Có nhiều ý kiến cho rằng, nhân vật
Huấn Cao được lấy cảm hứng từ người anh hùng Cao Bá Quát – một người nho
sĩ cũng tài hoa vô cùng, cũng quả cảm, cũng có tài viết chữ tuyệt đỉnh, được
mệnh danh "thánh Quát", cũng là một thủ lĩnh đứng lên lãnh đạo khởi nghĩa chống lại triều đình.
Huấn Cao vốn một cách gọi vô cùng kính trọng đối với một vị quan trông giữ
việc học ở một huyện và đối với viên quản ngục trong tác phẩm, Huấn Cao
được hắn vô cùng kính trọng. Với quản ngục, Huấn Cao tựa như là "một ngôi
sao Hôm nhấp nháy", hay " một ngôi sao chính vị". Với vị thế của mình, đáng
lẽ ra một người như quản ngục, sau khi nhận được tin có một kẻ "phản nghịch"
như Huấn Cao vào ngục của mình phải căm tức, phải ghét bỏ lắm, nhưng quản
ngục lại khác, ông dường như kiêng nể Huấn Cao, coi trọng Huấn Cao. Người
ta thấy một phần trong đó chất chứa cái sự ưu ái mà Nguyễn Tuân dành cho
một anh hùng thất thế như Huấn Cao.
Hình tượng nhân vật Huấn Cao được lấy nguyên mẫu từ người anh hùng Cao
Bá Quát, có lẽ vì vậy mà Huấn Cao cũng mang trong mình sự tài hoa, không
chỉ về nghệ thuật thư pháp đỉnh cao mà còn là một người anh hùng với khí
phách kiên cường và một người với cái tâm thiên lương trong sáng. Nguyễn
Tuân đã khắc họa Huấn Cao trên nhiều bình diện để thấy được một vẻ đẹp
thanh cao, đạt tới chân – thiện – mỹ của cuộc đời.
Đầu tiên, Nguyễn Tuân miêu tả Huấn Cao là một người nghệ sĩ, vô cùng tài
hoa trong nghệ thuật viết chữ, vang danh khắp nơi. Nguyễn Tuân không trực
tiếp khen ngợi cái tài năng ấy của Huấn Cao mà lại gián tiếp thông qua câu
chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại. Trong câu chuyện của hai người coi
tù, xuất hiện sáu tên tội phạm mang tội phản nghịch triều đình, trong đó có một
kẻ tên Huấn Cao "Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen
cái tài viết chữ rất nhanh và đẹp đó không?". Không chỉ vậy, hai thầy trò viên
quản ngục còn dặn dò nhau rằng "ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ
khóa và vượt ngục", đó là tất cả những gì người ta được nghe gián tiếp khi nhắc
nhỏm về Huấn Cao. Huấn Cao hiện lên là một kẻ "văn võ toàn tài", hội tụ khí
chất của một kẻ anh hùng tài ba. Nguyễn Tuân đã thật tinh tế khi khéo léo để
nhân vật của mình xuất hiện gián tiếp trong lời kể của những kẻ khác thật tự
nhiên, khi mà tiếng thơm của ông đã vang danh và truyền đi khắp thế gian.
Thế nhưng, cái tài hoa của Huấn Cao còn bộc lộ thật rõ ràng hơn trong hành
động và suy nghĩ của viên quản ngục – người khao khát có được chữ Huấn Cao
hơn hết thảy mọi thứ trên đời.
Ngay khi nhận được "phiến trát" báo tin rằng "chúng ta sắp nhận được sáu tên
tù án chém. Trong đó, tôi nhận thấy tên người đứng đầu bọn phản nghịch là
Huấn Cao", viên quản ngục đã gần như ngay lập tức muốn biệt đãi đối với
Huấn Cao. Quản ngục đã cho "quét dọn lại cái buồng trong cùng. Có việc dùng
đến". Ông muốn những ngày cuối cùng của người tù Huấn Cao được thoải mái
nhất, vì vậy ông đã bất chấp nguy hiểm mà đối đãi với Huấn Cao hết sức tử tế.
Đối với Huấn Cao như thế, ông không chỉ muốn bày tỏ tấm lòng trân trọng,
thành kính của mình đối với tài hoa của Huấn Cao mà còn muốn đạt được cái
sở nguyện của mình, đó là có được chữ của ông Huấn. Đối với y, có được chữ
viết của Huấn Cao đã trở thành một "sở nguyện" mà chỉ cần đạt được thôi là "y
sẽ mãn nguyện". Cái đẹp quả là có sức ảnh hưởng lớn, nó khiến con người ta
phải mê mẩn, phải cố gắng để đạt được, bất chấp những nguy hiểm hiểm nguy đang chờ đợi.
Tài năng của Huấn Cao chẳng hề được Nguyễn Tuân bộc lộ trực tiếp một lời
vậy mà, người ta vẫn cứ như thấy những con chữ thư pháp "đẹp lắm, vuông
lắm" của người tử từ hiện lên trước mắt. Qua những hành động bất chấp nguy
hiểm của quản ngục để đối đãi với Huấn Cao cùng những suy tư của y đã khiến
chúng ta thật ấn tượng về tài năng của người tử từ nổi danh của vùng Sơn ấy.
Và chỉ cần miêu tả cái khát khao cháy bỏng có được chữ Huấn Cao của viên
quản ngục, Nguyễn Tuân đã nâng tầm tài năng của Huấn Cao, biến ông trở
thành một tài năng hơn người, trở thành một bậc "thần thơ thánh chữ". Thái độ
của viên quản ngục đối với người từ tù đầy sự ngưỡng mộ, đầy kính trọng, phải
chăng đây cũng chính là tình cảm ngưỡng mộ của Nguyễn Tuân đối với cái đẹp?
Người ta biết Nguyễn Tuân là người luôn săn tìm cái đẹp, và cái đẹp trong tài
năng thư pháp của Huấn Cao đã chạm tới cái đẹp tuyệt đối mà Nguyễn Tuân
kiếm tìm chăng? Và đó cũng như một lời trân trọng của Nguyễn Tuân dành cho
văn hóa truyền thống của dân tộc đang bị mai một chăng?
Không chỉ là một người nghệ sĩ tài hoa với nghệ thuật thư pháp, tử tù Huấn
Cao còn nổi tiếng là một người có khí phách hiên ngang của một vị anh hùng.
Nguyễn Tuân đã cất công xây dựng hình ảnh của một vị anh hùng "chọc trời
khuấy nước", một người chỉ là một viên quan coi sóc việc học ở một huyện mà
dám đứng lên lãnh đạo người dân chống lại triều đình để mà lập lại trật tự xã
hội. Một vị quan nhỏ, với công việc của mình, đáng ra cả đời ông đã được yên
bình trong tĩnh lặng, thế nhưng, giữa cái cảnh "Hán học suy vi", "Tây Tàu nhố
nhăng" đã buộc vị quan ấy phải vùng dậy với mong muốn lấy lại công bằng
cho xã hội, mong có được một xã hội tốt đẹp hơn. Như viên quản ngục nhận
xét Huấn Cao, ông không chỉ đánh giá tài năng viết chữ của Huấn Cao mà còn
khâm phục cái khí phách hơn người của tên tử tù nữa, quản ngục gọi Huấn Cao
là "một ngôi sao Hôm", "một ngôi sao chính vị sắp tù biệt vũ trụ" hay "một kẻ
chọc trời khuấy nước". Vài ba câu của quản ngục, những người ta đã thấy hiện
lên cái tầm vóc mà công việc của Huấn Cao theo đuổi, nó to lớn và vĩ đại tới nhường nào!
Khí phách của Huấn Cao không chỉ thể hiện khi ông còn ở ngoài tự do mà ngay
cả khi sa cơ, phải chịu tù tội, ông vẫn giữ nguyên cái khí phách ngang tàng, kiên trung của mình.
Cái khí phách của ông thể hiện gián tiếp qua lời của những nhân vật trong
truyện mà đầu tiên là qua lời của tên lính dẫn tù. Khi vừa dẫn Huấn Cao cùng
anh em của ông tới trại giam của viên quản ngục, tên lính đã dặn dò viên quản
ngục rằng: "Bẩm thầy, tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn
ngạo ngược và nguy hiểm nhất bọn". Một vị anh hùng dù sa cơ nhưng vẫn là
một kẻ đặc biệt nguy hiểm, cần được đặc biệt chú ý. Đó chính là cái khí phách
ngạo nghễ của Huấn Cao, khí phách của một vị anh hùng luôn tỏa ra chói lòa đến thế.
Và nếu theo dõi tiếp, người ta hẳn để ý đến một chi tiết nhỏ trong câu chuyện,
chi tiết dỗ gông. Nguyễn Tuân đã chèn vào cả mạch truyện một chi tiết nhỏ ấy,
thế nhưng nó lại là chi tiết nổi bật nhất, phản ánh mạnh mẽ nhất cái khí phách
gan góc, ngạo nghễ của người anh hùng Huấn Cao. Quả thực là chỉ có Nguyễn
Tuân mới có thể làm được điều này!
Sau khi bước tới cửa trại giam, ở vị thế đó là một kẻ khác, chắc hẳn sẽ không
chỉ buồn đau mà có khi còn biến chất, trở thành kẻ tiểu nhân, thế nhưng với
Huấn Cao thì không. Những lời nói và hành động của ông dường như vô cùng
thoải mái, thản nhiên, nhẹ như không khí, đọc lên, người ta ngỡ như ông đang
còn tự do ngoài thế giới rộng lớn kia. Huấn Cao nói "Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên
rồi! Phải dỗ gông đi!", câu nói nhẹ nhàng như lúc bình thường chứ không ai
nghĩ đây là lúc ông đang phải đeo gông mà vào ngục. Nghe câu nói ấy, người
ta ngờ như thấy Huấn Cao thản nhiên như đang làm một việc bình thường trong cuộc sống.
Và rồi, cái khí phách ngạo nghễ ấy càng thể hiện mạnh mẽ hơn với cái hành
động "dỗ gông": "Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc
mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái". Chỉ với một
chữ "thuỳnh" thôi, Nguyễn Tuân đã thu hết cái ngạo khí của một vị anh hùng
vào câu chữ. Chữ "thuỳnh" ấy nghe nó vang vọng, người đọc như được chính
mắt nhìn thấy Huấn Cao "dỗ gông", chính tai nghe được cái âm thanh "dỗ
gông" vọng lên trong đầu của mình. Một cái "thúc mũi gông", Huấn Cao làm
một cách thản nhiên quá, như ông đang làm một việc gì đó bình thường hàng
ngày vậy. Nếu như năm người bạn tù của ông phải "nhăn mặt" vì "then ngang
chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ", thì riêng Huấn Cao lại chẳng hề tỏ vẻ gì.
Đó chính là khí phách của một vị anh hùng làm việc lớn, khiến cho mọi người phải nể vì.
Khí phách của người anh hùng Huấn Cao càng được thể hiện qua hình ảnh của
một tên tử tù trong lao ngục. Lao tù xưa nay vốn khiến cho con người ta phải
kinh sợ, động lòng, là nơi có thể biến một kẻ anh hùng trở thành một kẻ tiểu
nhân vô lại, thế nhưng với Huấn Cao lại khác. Với ông, lao tù chẳng qua cũng
chỉ như một nơi ở, bởi chí khí của ông đã tung hoành khắp thế gian này rồi. Ở
trong tù nhưng chẳng khác nào ở nhà, Huấn Cao vẫn ung dung, tự tại, với
khoản "biệt đãi" của quản ngục, ông "thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là
một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm". Huấn Cao
cũng giống như Phan Bội Châu ở trong nhà lao Quảng Đông:
"Vẫn hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù"
Cái khí phách ngạo nghễ của những người anh hùng thật khiến những con
người bình thường như chúng ta phải khâm phục bội phần.Và cái khí phách ấy
của Huấn Cao còn thể hiện ở chỗ, ông "khinh bạc đến điều" cường quyền.
Đó là khi viên quản ngục lui vào "buồng kín, khép nép hỏi ông Huấn" vừa
mong ông giữ kín chuyện vừa ân cần hỏi han "ngài có cần thêm gì nữa xin cho
biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất", thế nhưng đáp lại sự ân cần của quản ngục, Huấn
Cao chỉ trả lời bằng thái độ ngạo mạn "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một
điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây". Với ông Huấn, tất cả những kẻ thuộc
triều đình, là quan lại của triều đình đều là những kẻ ác, những kẻ xấu xa, sống
trên đầu trên cổ của nhân dân, vậy nên, ông cũng coi viên quản ngục là một kẻ
như thế. Chính vì thế, ông "khinh bạc đến điều" những kẻ hèn hạ này. Đến khi
viên quản ngục nghe thấy lời ông, đáp lại bằng một câu "xin lĩnh ý", người ta
mới càng thấy cái tầm vóc của Huấn Cao, nó trở lên kì vĩ hơn, uy nghi hơn.
Một viên quản ngục, chúa ngục mà lại "cung kính chắp tay "xin lĩnh ý"" với
một tên tử tù, thì tên tử tù ấy phải mang một khí phách khiến người ta phải nể
phục đến nhường nào chứ?
Xưa nay, đối với những người anh hùng khí phách ngút trời, cái chết với họ
chẳng qua là "lông hồng", họ đã chẳng còn đặt nặng việc sống chết. Với Huấn
Cao cũng vậy, đến trước ngày ra pháp trường, ông vẫn ung dung trong tĩnh tại.
Nếu như những kẻ khác, trước cái chết không run sợ cũng phải động lòng hốt
hoảng, thế nhưng, với những người anh hùng như Huấn Cao, cái chết chẳng có
gì đáng sợ, bởi vậy, ông vẫn đường hoàng, bình tĩnh cho lại những con chữ
cuối cùng của cuộc đời mình "những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những
cái hoài bão tung hoành của một đời con người".
Nếu như phía trên, người ta chỉ thấy tài hoa của ông gián tiếp qua lời kể của
những nhân vật khác thì ở đây, khí phách của ông lại được bộc lộ trực tiếp qua
lời nói và hành động, vừa được gián tiếp thể hiện qua lời kể của viên quản ngục.
Nguyễn Tuân đã xây dựng Huấn Cao trong cảm hứng của bút pháp lý tưởng
hóa, khắc sâu vào trong lòng chúng ta hình ảnh của một người với khí phách ngạo nghễ.
Không chỉ là tài hoa, là phí khách hơn người, Huấn Cao còn được biết đến trên
khía cạnh là một con người có cái tâm thiên lương vô cùng trong sáng.
Thiên lương vốn là từ chỉ bản tính tốt đẹp của con người được thể hiện từ khi
sinh ra. Huấn Cao là một người có cái tâm thiên lương trong sáng, điều đó thể
hiện qua việc ông cho chữ cũng như quan niệm của ông về cái chữ. Bởi như lời
quản ngục nói về Huấn Cao "tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu
cho chữ", bởi với Huấn Cao, cái chữ là thứ quý giá, không thể cho tùy tiện "ta
nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ".
Huấn Cao viết chữ đẹp là thế, nhưng cả đời ông chỉ mới viết "hai bộ tứ bính và
một bức trung đường cho ba người bạn thân", ông chỉ trao con chữ của mình
cho những người xứng đáng, cho những người chung chí hướng mà thôi. Đó là
quan niệm của Huấn Cao về cái chữ, cái đẹp ở đời. Huấn Cao tặng chữ cho
quản ngục vì "ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người", không
muốn phụ đi tấm lòng của một người với "sở thích cao quý" và cái tâm biết kính trọng cái đẹp.
Hành động cho chữ của Huấn Cao cho quản ngục vừa thể hiện một tấm lòng
quý trọng con người, đền đáp cho người tri ký, vừa để nâng đỡ thứ ánh sáng
thiên lương trong một con người khác của Huấn Cao. Viết chữ, viết câu đối là
một hành động sáng tạo về mặt thẩm mỹ, thế nhưng ở đây, nó còn là một sự
xúc động về mặt đạo đức nữa.
Thiên lương của Huấn Cao đã thể hiện rõ khi ông nhất tâm cho chữ quản ngục,
ông cảm động bởi tấm lòng trân trọng cái đẹp, yêu quý cái đẹp của quản ngục
và cũng từ cái đẹp ấy, ông khuyên nhủ quản ngục giữ lấy cái thiên lương của
chính mình. Con người ta vốn thiện lương đã đẹp, nhưng khi chia sẻ, giúp đỡ
người khác trở nên thiện lương thì cái thiện ấy còn tăng gấp bội phần, Và Huấn
Cao đã thực sự làm được việc đó bằng lời khuyên nhủ quản ngục "Tôi bảo thực
đấy, thấy Quản nên tìm về quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi… Ở
đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái
đời lương thiện đi". Một người tử tù đã dùng hết những tâm can cuối cùng của
cuộc đời mình để giúp người khác hướng thiện, ông đem cái thiên lương trong
sáng vô ngần ấy của mình để khơi gợi cái thiên lương trong lòng người khác.
Đó mới thực là một người anh hùng ở đời!
Huấn Cao là nhân vật được Nguyễn Tuân xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, lý
tưởng hóa người anh hùng yêu nước, đồng thời, qua đó, ông bộc lộ kín đáo tình
yêu nước thầm kín của mình, kết tính quan điểm về cái đẹp của nhân vật về
nghệ thuật và con người. Nghệ thuật chân chính sẽ có sức hút kì lạ đối với
những con người thực sự yêu nó, thực sự trân trọng nó. Cái đẹp sẽ tác động tới
tâm thức, tâm hồn của con người, nó là sự hòa hợp của cả cái tài và cái tâm
Thế nhưng, Chữ người tử tù sẽ chẳng thể là một tác phẩm vẹn tròn ý nghĩa nếu
không nhắc về nhân vật quản ngục, một chúa ngục sống giữa chốn đề lao "tàn
nhẫn", "lừa lọc", "một đống cặn bã", nơi mà con người dễ sa ngã, dễ bộc lộ
những thú tính hoang dại, độc ác nhất của mình.
Những tưởng sống trong cái môi trường với một "lũ quay quắt", quản ngục
cũng sẽ như chúng, hòa mình vào cái "bản đàn" xô bồ ấy, nhưng không, quản
ngục lại được ví như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà
nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ". Ông là một con người với "tính cách dịu dàng
và lòng biết giá người", là một con người "thuần khiết giữa một đống cặn bã".
Quản ngục hiện lên hoàn toàn trong một đoạn văn miêu tả bằng bút pháp trữ
tình, gợi lên cho chúng ta hình ảnh của một con người với tâm hồn đẹp đẽ, biết
trọng cái đẹp cái tài.
Viên quản ngục được Nguyễn Tuân khéo léo dựng lên thông qua hai khía cạnh:
một là một con người say mê cái đẹp, và hai là một con người biết hướng thiện,
biết sống với cái thiên lương của mình.
Quản ngục là một người say mê, quý trọng cái đẹp, đó là khi ông vừa nhận
được "phiến trát" biết tin Huấn Cao sắp được chuyển tới đề lao của mình. Quản
ngục đã gần như ngay lập tức thể hiện tấm lòng muốn "biệt đãi" với Huấn Cao
– kẻ tử tù phản nghịch cùng với những người bạn khác của ông, bất chấp sự
nguy hiểm tới tính mạng nếu như để lộ ra ngoài. Nếu như những tên quản ngục
khác muốn bày tỏ cái uy quyền của một chúa ngục nơi chốn lao tù của mình thì
viên quản ngục ở đây lại thể hiện cái sự "biệt đãi" kính trọng đối với một tên tù
nhân khí phách ngạo nghễ.
Quan điểm sống của quản ngục đó là trân trọng cái đẹp, người tài, cái đẹp
chính là tiêu chí đầu tiên đánh giá nhân cách của một con người. Thế nên, khi
nhận Huấn Cao vào ngục của mình, quản ngục đã "biệt nhỡn" Huấn Cao hết
sức đặc biệt. Yêu cái đẹp, trọng cái tài, chính vì thế, quản ngục luôn đau đáu
trong mình cái "sở nguyện" khi có Huấn Cao trong tay, đó là "một ngày kia
được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết", "không
kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất". Cái sở nguyện ấy của quản
ngục chẳng phải ai cũng có, đó là sở nguyện cao quý mang phẩm chất của một
người nghệ sĩ. Không yêu cái đẹp, trọng cái đẹp thì người ta làm sau thấu hiểu
được cái đẹp ở đời mà trân trọng cái tài làm ra cái đẹp được cơ chứ?
Có lẽ vì thế, mỗi hành động của quản ngục đối với ông Huấn là cả một sự cung
kính, khiêm nhường đến vô cùng. Huấn Cao xuất hiện trước mặt quản ngục,
với sự ngạo nghễ trong hành động "dỗ gông", nếu như những tù nhân khác,
quản ngục chắc hẳn "giở những mánh khóe hành hạ thường lệ ra", nhưng với
Huấn Cao, ông lại "kiêng nể, tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá rồi". Phải,
một con người trọng cái đẹp, cái tài như quản ngục thì làm sao không kính nể
con người tài hoa và khí phách như Huấn Cao được cơ chứ?
Đến khi bị Huấn Cao hiểu lầm mà "khinh bạc đến điều", quản ngục vẫn giữ
nguyên thái độ cung kính của mình, đáp lại bằng sự "lễ phép lui ra với một câu:
"Xin lĩnh ý", bởi y thừa hiểu tính cách của những người anh hùng như Huấn
Cao, "những người chọc trời quấy nước, đến trên dầu người ta, người ta cũng
còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù".
Cái khí phách mà Huấn Cao thể hiện ra càng khiến cho viên quản ngục khâm
phục ông hơn bội phần, sự khinh bạc của Huấn Cao với y, càng làm cho y cảm
thấy kính nể mà "cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn nữa".
Quản ngục – một nhân vật mà thân phận khác xa với tâm hồn của mình,
Nguyễn Tuân cũng đã thẳng thắn thừa nhận điều đó "Ông trời nhiều khi chơi ác,
đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người
có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với một lũ quay quắt".
Quản ngục là một con người mê cái đẹp, khát khao có được cái đẹp để mà trân
quý và giữ gìn. Và như Nguyễn Tuân đã từng khẳng định: một con người yêu
cái đẹp, trân trọng cái đẹp thì không bao giờ là kẻ xấu được.
Chẳng thế mà quản ngục còn là một con người biết hướng thiện, biết dũng cảm
mà sống theo tiếng gọi của thiên lương.
Có lẽ khi bước chân vào cái nghề cai ngục khủng khiếp này, quản ngục cũng đã
từng day dứt "Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi!". Bởi ông
hiểu rõ cái môi trường đề lao "người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc", sẽ
làm mai một đi tâm hồn "tốt và thẳng thắn", mai một luôn cả tình yêu với cái
đẹp của ông. Đến khi gặp Huấn Cao, ông lại càng băn khoăn hơn giữa lý trí là
nhiệm vụ của triều đình và tiếng gọi của thiên lương trong con tim ông. Huấn
Cao tới, con người với cái tài, cái đẹp mà ông kính trọng tới, "ngục quan băn
khoăn ngồi bóp thái dương", ông không biết nên hành xử thế nào, nên lo liệu
thế nào? Bởi một bên, ông không hề muốn vi phạm nội quy công vụ của triều
đình, một bên ông muốn khoản đãi một kẻ tử tù phản nghịch mà ông yêu kính.
Tình thế khiến quản ngục phải đau đầu chọn lựa. Có người sẽ vì công vụ mà
quên đi cái tâm của mình, quên đi cái đẹp mà mình vốn yêu vốn quý, thế nhưng,
quản ngục thì không. Sau một đêm ngồi suy ngẫm, "những đường nhăn nheo
của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước
ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ", ông đã chọn nghe theo tiếng nói của
trái tim, cất bước theo tiếng gọi của cái đẹp, cái thiện lương.
Tiếp nhận Huấn Cao, chứng kiến cái hành động "dỗ gông" ngông cuồng, thế
nhưng quản ngục lại chẳng hề băn khoăn, động tâm mà trực tiếp bộc lộ tấm
chân tình của mình khiến cho tất cả những tên lính lệ phải ngạc nhiên đến độ "nhắc nhở".
Đến cuối cùng, khi Huấn Cao đồng ý cho chữ rồi cất lời khuyên can quản ngục
"thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã,
rồi hãy nghĩ đến việc chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và
rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi", nghe đến đây, quản ngục
không khỏi cảm động, cúi đầu, nhìn "bức châm", "vái người tù một vái, chắp
tay nói một câu mà nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê
muội này xin bái lĩnh"". Cuối cùng, cái thiên lương của một tên chúa ngục
cũng đã được khai mở hoàn toàn nhờ cái đẹp.
Quản ngục đã bước qua cái giới hạn của thân phận để mà sống thật với bản
thân, với lương tri của mình, bất chấp rằng ông có thể hiểm nguy tới tính mạng.
Một con người đầy mâu thuẫn, ông là một kẻ tù nhân của chính mình, là một kẻ
lạc lõng giữa cái đề lao mà mình cai quản.
Quản ngục được Nguyễn Tuân dựng lên bằng cảm hứng lãng mạn, bằng cái
tâm yêu cái đẹp của mình. Qua nhân vật quản ngục, Nguyễn Tuân muốn khẳng
định quan điểm của mình về cái đẹp rằng nó sẽ là nguồn cơn để con người trở
về cái chân thiện mỹ của cuộc đời, hay một con người yêu cái đẹp, trọng cái tài
sẽ không bao giờ trở thành một kẻ ác được.
Tìm hiểu Chữ người tử tù mà không tìm hiểu cặn kẽ, không phân tích cho sâu
cái phân đoạn đắt giá nhất của tác phẩm "cảnh cho chữ" thì sẽ chẳng ai có thể
hiểu hết những ý nghĩa sâu xa mà Nguyễn Tuân muốn gửi gắm. Cảnh cho chữ
là một cảnh đắt giá nhất trong toàn bộ tác phẩm, là một cảnh "xưa nay chưa từng có".
Giữa một không gian chật hẹp ở buồng biệt giam, "một buồng tối chật hẹp, ẩm
ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián" lại là nơi cho
người ta thấy cái đẹp, cái tài hoa của một con người. Vào giữa đêm khuya "chỉ
còn vẳng lên tiếng mõ vọng canh", những con chữ được sáng tạo ra vào lúc
người ta không ngờ tới nhất, bởi xưa nay, người ta thường cho chữ vào lúc trời
còn sáng, lúc mặt trời còn đẹp giữa thế gian. Và người cho chữ cũng vậy, là
những người làm công việc sáng tạo này phải là người hay chữ, trong một tâm
thế thoải mái, vui tươi nhất, thế nhưng đối lập lại, người cho chữ ở đây lại là
một tên tử tù ngày mai sẽ bị dẫn ra pháp trường hành quyết. Có lẽ giờ đây là
khoảng thời gian cuối cùng mà người anh hùng có thể để lại di huấn của mình
với "những hoài bão ước mơ tung hoành của cả một đời người".
Có lẽ chưa từng có trong lịch sử văn học Việt Nam, một cảnh cho chữ nào mà
vị thế của các nhân vật được đảo ngược đến thế. Những kẻ uy quyền như quản
ngục, thầy thơ lại là phải khúm núm, khép nép còn kẻ tử tù có tội lại hiên
ngang, bình thản, tĩnh lặng mà bay bổng trong từng nét chữ như thế! Và nếu
như chúa ngục là những kẻ phải buông lời khuyên răn dạy dỗ phạm nhân, thì ở
đây, phạm nhân lại là người lên tiếng dạy dỗ viên quản ngục. Thế nhưng,
không ai có thể không công nhận, cái khí phách, cái tài hoa của tên tử tù kia đã
khiến cho những kẻ uy quyền như quản ngục phải cúi đầu. Và cái cúi đầu ấy
không khiến cho quản ngục thấp hèn đi mà khiến ông trở lên cao đẹp hơn, bởi
lẽ những lời giáo huấn ấy đã đánh thức cái thiện trong ông, cúi đầu trước cái
đẹp, cái uy nghi để nhận những lời răn dạy thì không bao giờ thấp hèn cả.
Quản ngục cung kính với Huấn Cao, cái cung kính ấy không làm ông hèn nhát
mà nó còn làm sáng rực cái nhân cách đẹp đẽ, thánh thiện, sự sùng bái của
quản ngục với cái đẹp, cái tài và khí phách của người anh hùng.
Quản ngục chính là nhân vật được Nguyễn Tuân gửi gắm quan niệm nhân sinh
sâu sắc của mình. Đó là ẩn sau mỗi con người dù sống trong xấu xa, độc ác vẫn
luôn có một tâm hồn khao khát cái đẹp, khao khát cái thiện lương, chực chờ
thứ ánh sáng thiên lương chiếu tới để bừng dậy mạnh mẽ.
Bằng bút pháp lãng mạn, tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã dựng lên những
nhân vật trong sự hoàn thiện, hoàn mỹ tới mức lý tưởng hóa. Như Huấn Cao –
một con người xuất chúng, không chỉ tài hoa mà còn có khí phách hơn người
cùng một trái tim chứa đầy thiên lương. Còn quản ngục – một con người sống
giữa muôn vàn cái ác nhưng lại trở thành "một thanh âm trong trẻo chen giữa
một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ", biết yêu cái đẹp, biết trọng cái
tài, biết phục cái thiện. Ông cũng xây dựng những nhân vật đối lập trong Chữ
người tử tù như Huấn Cao với quản ngục (tử tù với chúa ngục), hay sự đối lập
trong chính thân phận và nội tâm của quản ngục.
Hơn thế, trong cảnh cho chữ, tác giả cũng xây dựng những hình ảnh đối lập từ
không gian, thời gian, cũng như cái đẹp đối lập với cái xấu. Ngôn ngữ trong
Chữ người tử tù vô cùng giàu hình ảnh, đa dạng các từ ngữ Hán Việt tạo nên
không khí cổ kính cho tác phẩm.
Chữ người tử tù là tác phẩm thành công nhất trong tập Vang bóng một thời của
Nguyễn Tuân. Nó đã cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của một người anh hùng
tài hoa, chí khí, đồng thời nó cũng cho ta thấy được quan điểm về cái đẹp của
Nguyễn Tuân trong cuộc sống.
Phân tích Chữ người tử tù mẫu 8
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam. Nghiệp sáng tác
của ông chia thành hai giai đoạn trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng
tháng Tám. Trước cách mạng, ngòi bút của ông thiên về phương châm “Vang
bóng một thời-trụy lạc-xê dịch”. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là tác phẩm
kiệt xuất trước cách mạng tháng Tám, đã khắc họa thành công hình ảnh Huấn
Cao, một kẻ sĩ tài hoa, có tấm lòng thẳng thắn.
Huấn Cao là một kẻ sĩ xả thân vì đại nghĩa, lên án và tố cáo sự trắng trợn của
triều đình, ông bất chấp tất cả để chống lại triều đình mục nát, thối rữa. Huấn
Cao trong mắt của bọn lính là một kẻ “ngạo ngược và nguy hiểm nhất”, nên đề
phòng. Đối với thầy thơ thì ông “văn võ đều có tài cả, chà chà” còn đối với
người quản ngục thì Huấn Cao là người “chọc trời khuấy nước”, coi thường
tiền bạc và bạo lực. Với những cách nhìn ấy, Huấn Cao là một người tài ba
trong mắt của mọi người, là một kẻ tù nhưng lại có tấm lòng kiên trung, toát
lên sự thanh cao giữa chốn xiềng xích nhơ bẩn.
Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã vẽ lên hình ảnh Huấn Cao
bộc trực, đầy hào khí, từng đường nét đều rất thoát phàm, rất độc đáo. Là một
kẻ tù nhưng Huấn Cao dường như chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, ông có thể thét
lên với bất cứ ai. Không cần hành động nhưng khí phách của ông lại khiến cho mọi người nể phục.
Huấn Cao giữa chốn lao tù này còn được biết đến là kẻ sĩ tài hoa, người đời
mến mộ bằng cái tên “cái người mà vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viết chữ rất
nhanh và rất đẹp..” Những kẻ sĩ có chữ đẹp luôn được sùng bái và ngưỡng mộ
như vậy. Chữ của ông như “một báu vật trên đời”, ai có diễm phúc sở hữu chữ
của ông chính là sở hữu một vật báu trong thiên hạ. Huấn Cao không biết ông
quản ngục luôn có một ước mong được sở hữu chữa Huấn Cao, được treo chữ
của ông viết ở trong nhà, chữ ông Huấn Cao đẹp và vuông lắm. Một con người
tài đức vẹn toàn, một con người không chỉ tài hoa mà còn có cái tâm rất trong
sáng và ngay thẳng. Kỳ thực ông viết chữ đẹp nhưng chưa bao giờ “ép mình
viết bao giờ” Đấy là cốt cách thực sự đáng quý. Ông chỉ viết cho những người
thực sự xứng đáng, những người có thể khiến ông ngưỡng mộ và khâm phục nhất.
Nguyễn Tuân thực sự rất tài, tài đến nối đọc từng câu từng chữ của ông người
ta cứ ngỡ như ông đang vẽ nên một bức họa thật sinh động giữa chốn nhân gian
về một kẻ sĩ đáng trọng như Huấn Cao.
Huấn Cao còn là một người trân trọng tình bạn, mến mộ những con người có
“chí nhớn” trong thiên hạ. Qua lời kể của viên thơ lại, ông đã biết được tấm
lòng của viên quản ngục và ngưỡng mộ trước tấm chân tình cũng như sự yêu
mến và khát khao có được chữ của ông. Ông xúc động nhận ra được con người
có thú vui thanh tao giữa chốn nhơ bẩn này “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn
liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy quản mà lại có
những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng
trong thiên hạ”. Chỉ một cụm từ “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”, Huấn Cao
đã khiến cho người đọc không thể nén được cảm xúc. Một con người biết trân
trọng cái đẹp, hướng về cái đẹp, đó là một lối sống hướng đến vẻ đẹp “Chân-Thiện-Mỹ”.
Hình ảnh cảnh cho chữ hiện lên ở cuối tác phẩm dường như là cảnh tượng khó
quên nhất trong tác phẩm. Một cảnh tượng khiến cho người đọc nhớ mãi. Cảnh
cho chữ diễn ra không phải ở một nơi thanh cao mà lại diễn ra giữa chốn ngục
tù, là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Hình ảnh ba con người hiện lên
trong cảnh tượng ấy thật đẹp, thật lung linh, họ không còn là người tù, viên
quản ngục nữa mà là những người yêu cái đẹp, tâm đắc với cái đẹp. Cảnh cho
chữ ấy thật thiêng liêng và xúc động, sự gặp gỡ quá muộn màng giữa những
con người yêu cái đẹp, yêu cái vẻ đẹp hoàn thiện nhất. Hình ảnh Huấn Cao
vướng xiềng xích, bút viết những chữ vuông vắn nhất thực sự là hình ảnh đẹp
nhất, đáng ngưỡng mộ và khâm phục nhất. Hình ảnh viên quản ngục “vái lạy”
Huấn Cao và Huấn Cao đỡ viên quản ngục dây thực sự là hình ảnh ám ảnh khi
gấp trang sách lại. Thời khắc mong manh giữa sự sống và cái chết khiến cho
người kẻ sĩ ấy thêm kì vĩ, lấp lánh hơn. Kẻ tử tù không thể có cốt cách như vậy,
chỉ có anh hùng mới xứng đáng với cốt cách ấy. Và Huấn Cao là một đấng anh hùng như vậy.
Huấn Cao hiện lên rõ nét, oai phong, đĩnh đạc qua từng nét bút của Nguyễn
Tuân thực sự khiến cho người đọc không thể rời mắt khỏi trang viết. Huấn Cao
là biểu tượng của cái đẹp vĩnh cửu, của những gì hoàn hảo và kiên trung nhất.
Một con người “khó kiếm” trong thiên hạ.
Thật vậy, gấp trang sách lại nhưng hình ảnh Huấn Cao vẫn hiện hiển trong trí
óc của người đọc. Ông là hình ảnh tiêu biểu cho những anh hùng hiên ngang
bất khuất giữa chốn nhơ bẩn, bất công của thời đại. Bài làm văn mẫu 9
Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái
đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước
cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập Vang bóng
một thời chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách
mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến Chữ người tử tù với niềm trân
trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.
Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời xuất bản năm 1940, tác
phẩm khi xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên Dòng chữ cuối cùng, sau in
thành sách đổi thành Chữ người tử tù. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần
của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của cái
đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại
diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa
đựng những mâu thuẫn gợi ra tình huống truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của
người đọc. Qua đó làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp,
cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc đời.
Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn
cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người
mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân
vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội
đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho
luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ
lại đảo ngược nhau hoàn toàn : Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người
sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người
sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ với nhau.
Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển logic, hợp lí
đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ
đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.
Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi
tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh
và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn
liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là
niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui,
niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình
thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.
Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong
sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở
đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị
của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như
một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ
ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy
quyền mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền
thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể
hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt
nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong
thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.
ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí,
khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối
mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông
vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao
không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh một
cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân
cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ
muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận
tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.
Và đẹp dẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được họi tụ và tỏa sáng.
Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói
lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm
đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác.
Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ta tấm lòng của quản ngục,
trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành
tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.
Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng,
biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường
chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống
tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm
đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm
hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của
Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều
đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản
thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn
Cao, chắc chắc sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không phỉa ai
cũng cho chữ. Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành
động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm
hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng,
ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có.
Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chum lại lại chứng kiến những nét chữ dần
dần hiện ra…, viên quản ngục khúm núm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô
chữ, với thái độ sung kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của
Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây
dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên
lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công
khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp
điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác
phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.
Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự
chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng
thời ông cũng thể hiện tấm lòng chân trọng những giá trị văn hóa truyền thống,
qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đắc
sặc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Bài làm văn mẫu 10
Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn
nhận như một nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng
bằng cách nhìn nhận như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo sáng tạo lên
một tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó là cảnh cho chữ trong nhà giam- là
phần đặc sắc nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm, ở vị trí này tình huống truyện được
đẩy lên đến đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử
tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý
nghĩa cởi nút,giải tỏa những băn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, từ đó toát lên
những giá trị lớn lao của tác phẩm.
Sau khi nhận được công văn, viên quản ngục đã rãi bày tâm sự của mình với
thầy thơ lại. Nghe xong truyện, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn
Cao để kể rõ nỗi lòng viên quản ngục. Và đêm hôm đó, trong một buồng tối
chật hẹp với ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một cảnh tượng xưa
nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để sáng tạo nghệ thuật người ta
thường tìm đến những nơi có không gian đẹp, thoáng đãng , yên tĩnh. Nhưng
trong một không gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn chốn ngục tù thì việc sáng
tạo nghệ thuật vẫn xảy ra. Thời gian ở đây cũng gợi cho ta tình cảnh của người
tử tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ và cũng chính là giờ
phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh ấy thì “một người tù cổ đeo
gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên tấm lụa
trăng tinh”. Trong khi ấy, viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm lúm chuyển
động.ở đây cho thấy dường như trật tự xã hội đang bị đảo lộn. Viên quản ngục
đáng nhẽ phải hô hào, răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì tù
nhân lại trở thành người răn dạy, ban phát cái đẹp.
Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao – người
có tài viết chữ nhanh, đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại – những người thích
chơi chữ. Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ phản
nghịch phải lĩnh án tử hình (Huấn Cao) và một bên là những người thực thi
pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên bình
diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Vì thế mà thật là chua xót vì
đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng ba con người ấy gặp nhau. Hơn
thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốnthật của mình. Trong đoạn
văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm câu
chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn,
xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và những nét chữ đẹp
đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng
thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái
ác. Vào lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng
cháy ở chốn ngục tù tối tăm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ
bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: cái đẹp chiến thắng
cái xấu xa, thiên lương chiến thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.
Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ
bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ
được thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể bền vững.
Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác( cho
chữ trong tù) nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến
thú chơi chữ là môn nghệ thuật đòi hỏi sự cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà
còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức chữ không mấy ai thấy,
cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực trong chữ hương vị của
thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.
Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản nguc xúc động “ vái người tù một
vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ
mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài
năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái
thiện. Và trên con đường đến với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho
những người lầm đường. Trong khung cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng
Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là thường, vượt lên trên những cái dung tục thấp
hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một niềm tin vững chắc của
con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân – thiện – mĩ.
Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông
quan tâm chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “ Chữ người tử
tù” mà đặc biệt là cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu
chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng
cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương con người. Quan điểm này
đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật trước cách mạng, Nguyễn Tuân là một nhà
văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh đó,
truyện còn ca ngời viên quản ngục và thầy thơ lại là những con người tuy sống
trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là những “thanh âm trong trẻo” biết
hướng tới cái thiện. Qua đó còn thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn
thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có “thiên lương”
trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.
“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân
cách cao cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dong chữ
cuối cung của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho kẻ tri
âm, tri kỉ hôm nay và mai sau. Nếu không có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai
một. Đó cũng là tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.
Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn
phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm
chất điện ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người
“ba cái đầu đang chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ
đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư
tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám nhơ bẩn đến cái
đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng tạo không khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ
sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã
“phục chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút pháp tả thực, phân tích
tâm lí nhân vật.( văn học cổ nói chung không tả thực và phân tích tâm lí nhân vật)
Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng, sáng tạo và tư
tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và
tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách
cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đáo bày tỏ cái đau xót chung cho
cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói
đầy tính nhân bản: dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.